Tìm hiểu về thuế trong quá trình tái cơ cấu
doanh nghiệp
Tái cơ cấu doanh nghiệp là một giải pháp nhằm tăng cao hiệu quả quản lý,
kinh doanh của một tập đoàn, nhóm công ty có cùng sở hữu của một hoặc
một số nhà đầu tư.
Tái cơ cấu là việc sắp xếp lại cơ cấu các công ty con trong tập đoàn, bằng cách
xây dựng lại cấu trúc ngành nghề và vốn kinh doanh, thay đổi các chủ sở hữu,
chia, tách, sáp nhập, mua bán tài sản, vốn góp, cổ phần trong các công ty thành
viên trong cùng tập đoàn.
Quá trình tái cơ cấu doanh nghiệp càng cần thiết hơn khi nền kinh tế của một quốc
gia hay toàn cầu có những biến đổi mạnh mẽ. Một trong những yếu tố quan trọng
nhất mà các chủ sở hữu cần quan tâm khi thực hiện tái cơ cấu doanh nghiệp là
những ảnh hưởng của các loại thuế áp dụng cho các giao dịch phát sinh trong quá
trình này.
Chuyển nhượng vốn
Chủ sở hữu các công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần có thể là pháp nhân
hoặc thể nhân. Chủ sở hữu còn được gọi là thành viên trong công ty trách nhiệm
hữu hạn, hay cổ đông trong công ty cổ phần, người có quyền chuyển nhượng vốn,
cổ phần của mình trong công ty cho bất kỳ bên thứ ba nào, phù hợp với điều lệ
công ty, pháp luật hiện hành tại thời điểm chuyển nhượng.
Thu nhập từ chuyển nhượng vốn, cổ phần của chủ sở hữu công ty là pháp nhân sẽ
chịu thuế thu nhập doanh nghiệp với thuế suất 25%. Thu nhập chịu thuế được xác
định bằng cách lấy giá chuyển nhượng trừ đi giá mua của phần vốn, cổ phần
chuyển nhượng và các chi phí hợp lý phát sinh từ việc chuyển nhượng. Giá mua
của phần vốn, cổ đông chuyển nhượng là giá trị phần vốn tại thời điểm góp vốn
hoặc thời điểm mua. Chi phí chuyển nhượng là các khoản chi thực tế liên quan
trực tiếp đến việc chuyển nhượng, có chứng từ, hoá đơn hợp pháp.
Các chủ sở hữu công ty là cá nhân sẽ phải nộp thuế thu nhập cá nhân đối với thu
nhập phát sinh từ việc chuyển nhượng vốn, cổ phần trong công ty theo mức 20%
trên số lãi ròng. Thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán của các cá nhân sẽ phải
chịu thuế theo mức 20% lợi nhuận thu được hoặc 0,1% trên giá trị chuyển nhượng
từng lần, trong khi thu nhập từ chuyển nhượng chứng khoán của các doanh nghiệp
sẽ phải nộp thuế theo mức 25% lợi nhuận thu được. Tuy nhiên, theo quy định hiện
nay về các biện pháp hỗ trợ kinh tế của chính phủ, thu nhập của các cá nhân từ
việc chuyển nhượng vốn, cổ phần, chứng khoán sẽ được miễn nộp thuế thu nhập
cá nhân đến 31/12/2009.
Chủ sở hữu chuyển nhượng vốn, cổ phần cho người khác theo nguyên giá ban đầu,
không có thu nhập phát sinh thì không phải nộp thuế thu nhập.
Nếu một hoặc một số công ty đang được hưởng các ưu đãi về thuế nhập doanh
nghiệp, thuế nhập khẩu, thuế giá trị gia tăng, thuế tiêu thụ đặc biệt theo giấy đăng
ký kinh doanh hoặc giấy chứng nhận đầu tư thì các ưu đãi này sẽ không bị thay đổi
do việc chuyển nhượng vốn, cổ phần của các chủ sở hữu công ty.
Vốn góp, cổ phần không phải là hàng hóa, dịch vụ tiêu dùng nên giao dịch chuyển
nhượng vốn, cổ phần trong công ty không chịu điều chỉnh của luật thuế giá trị gia
tăng.
Tăng, giảm vốn điều lệ
Trong quá trình tái cơ cấu, các chủ sở hữu thường có nhu cầu tăng, giảm vốn điều
lệ của các công ty nhằm đáp ứng các giao dịch chuyển nhượng vốn, bù trừ công nợ
hoặc thu hẹp phạm vi hoạt động kinh doanh không có hiệu quả. Công ty hoạt động
dưới hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần đều có quyền tăng,
giảm vốn điều lệ, ngoại trừ công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên không
được phép giảm vốn điều lệ trong quá trình hoạt động.
Không có nghĩa vụ thuế nào phát sinh từ việc tăng, giảm vốn điều lệ công ty. Quá
trình tăng vốn dưới hình thức phát hành bổ sung cổ phiếu, công ty có thể bán cổ
phiếu cao hơn mệnh giá (ví dụ 10.000 đồng) cho các chủ sở hữu hiện hữu hoặc
nhà đầu tư mới thì phần chênh lệch giữa giá bán với mệnh giá sẽ không ghi là thu
nhập khác của công ty mà được ghi vào tài sản của chủ sở hữu, còn được gọi là
vốn thặng dư. Trong trường hợp này, phần vốn thặng dư phát sinh từ việc phát
hành cổ phiếu không được coi là thu nhập chịu thuế theo quy định của thuế thu
nhập doanh nghiệp.
Luật Doanh nghiệp 2005 và các văn bản hướng dẫn thi hành không quy định rõ
công ty cổ phần có quyền giảm vốn điều lệ hay không. Tuy nhiên, công ty cổ phần
có quyền ra quyết định mua lại cổ phiếu do mình đã phát hành từ các cổ đông hiện
hữu (còn gọi là cổ phiếu quỹ). Việc mua lại cổ phiếu có thể dẫn đến giảm vốn điều
lệ và công ty có quyền đăng ký giảm vốn điều lệ, nếu thấy cần thiết.
Trong trường hợp, công ty không quyết định giảm vốn điều lệ và sau một thời
gian, công ty bán các cổ phiếu quỹ này cho các cổ đông hiện hữu hoặc các cổ đông
khác với mức giá cao hơn giá mua lại thì phần chênh lệnh giữa giá bán và giá mua
lại cổ phiếu được ghi nhận là vốn thặng dư của doanh nghiệp theo quy tắc về
chuẩn mực kế toán. Trong khi đó, pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp chưa
có quy định nào đề cập đến phần vốn thặng dư tăng thêm này. Hầu hết các chuyên
gia về thuế cho rằng, phần vốn thặng dư phát sinh từ việc mua bán lại cổ phiếu của
chính công ty mình sẽ không được ghi nhận là thu nhập tính thuế thu nhập doanh
nghiệp.
Hoán đổi vốn góp, cổ phần
Các chủ sở hữu có thể thực hiện việc hoán đổi vốn góp, cổ phần giữa các công ty
thành viên hoặc giữa công ty thành viên với tổng công ty khi có nhu cầu sắp xếp
lại nhóm ngành nghề kinh doanh hoặc muốn tập trung quản lý, kinh doanh ở tổng
công ty, trong quá trình tái cơ cấu. Bản chất của quy trình hoán đổi vốn góp, cổ
phần là chuỗi các giao dịch chuyển nhượng vốn giữa các chủ sở hữu với nhau
hoặc giữa các chủ sở hữu với các công ty, tổng công ty liên quan.
Pháp luật về thuế của Việt nam chưa quy định rõ rằng việc thu nhập phát sinh từ
việc hoán đổi vốn góp, cổ phần sẽ phải chịu thuế thu nhập. Tuy nhiên, bản chất
của quá trình hoán đổi chứa đựng các giao dịch chuyển nhượng vốn góp, cổ phần
từ các chủ sở hữu, công ty. Do vậy, các chuyên gia về thuế cho rằng, thu nhập phát
sinh từ việc hoán đổi vốn góp, cổ phần sẽ phải nộp thuế theo quy định của pháp
luật về chuyển nhượng vốn.
Chia, tách, sáp nhập, hợp nhất
Tái cơ cấu doanh nghiệp dưới hình thức chia, tách, sáp nhập, hợp nhất các công ty
con trong cùng tập đoàn và chủ sở hữu các công ty con không có thu nhập phát
sinh từ việc chia, tách, sáp nhập, hợp nhất đó thì các chủ sở hữu không có nghĩa vụ
nộp thuế thu nhập.
Chênh lệch do đánh giá lại tài sản theo quy định của pháp luật để góp vốn, để điều
chuyển tài sản khi chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, chuyển đổi loại hình doanh
nghiệp được ghi nhận là khoản thu nhập khác của doanh nghiệp và phải nộp thuế.
Doanh nghiệp mới thành lập từ dự án đầu tư được hưởng một số ưu đãi như miễn
giảm về thuế thu nhập doanh nghiệp, tuy nhiên, các doanh nghiệp mới được thành
lập trong các trường hợp chia, tách, sáp nhập, hợp nhất sẽ không được hưởng ưu
đãi này. Trong khi đó, doanh nghiệp thành lập từ chia, tách, sáp nhập, hợp nhất
chịu trách nhiệm trả các khoản nợ tiền thuế, tiền phạt về thuế thu nhập doanh
nghiệp của doanh nghiệp bị chia, tách, sáp nhập, hợp nhất và được kế thừa các ưu
đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp cho thời gian còn lại nếu tiếp tục đáp ứng các
điều kiện ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp.