Tải bản đầy đủ (.pdf) (313 trang)

Đặc trưng ngôn ngữ văn hóa của địa danh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.06 MB, 313 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THỊ THẮNG

ĐẶC TRƢNG NGÔN NGỮ - VĂN HÓA
CỦA ĐỊA DANH THANH HÓA

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

HÀ NỘI – 2014


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

VŨ THỊ THẮNG

ĐẶC TRƢNG NGÔN NGỮ - VĂN HĨA
CỦA ĐỊA DANH THANH HĨA

Chun ngành: Ngơn ngữ học
Mã số: 62 22 02 40

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS. TS. PHẠM TẤT THẮNG
2. TS. NGUYỄN ĐĂNG SỬU

HÀ NỘI – 2014




LI CAM OAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình
nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả
nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc
xuất xứ rõ rµng.

Tác giả luận án

Vũ Thị Thắng


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT VÀ QUY ƢỚC TRÌNH BÀY
I. QUY ƢỚC VIẾT TẮT
1. Quy ƣớc viết tắt địa danh các huyện, thị xã, thành phố và ví dụ
Chữ viết tắt

Đƣợc viết đầy đủ
Bá Thƣớc
Cẩm Thủy
Đơng Sơn
Hoằng Hóa
Hậu Lộc
Hà Trung
Lang Chánh
Mƣờng Lát
Nhƣ Thanh
Nhƣ Xuân

Quan Hóa
Quảng Xƣơng
Thành phố Thanh Hóa
Thọ Xn
Thiệu Hóa
Thị trấn
Vĩnh Lộc
n Định
Thanh Hóa
Ví dụ

B.T
C.T
Đ.S
H.H
H.L
H.Tr
L.C
M.L
N.T
N.X
Q.H
Q.X
T.P
T.X
Th.H
TT
V.L
Y.Đ.
T.H

VD

2. Quy ƣớc viết tắt về các loại hình địa danh
Chữ viết tắt

Đƣợc viết đầy đủ

ĐB

Đồng bằng

MN

Miền núi

ĐDĐH

Địa danh địa hình

ĐDĐVCT

Địa danh đơn vị cƣ trú

ĐVCTTN

Địa danh đơn vị cƣ trú tự nhiên

ĐVHC

Địa danh đơn vị hành chính


CTNT

Địa danh cơng trình nhân tạo

CTGT

Địa danh cơng trình giao thơng

CTTL

Địa danh cơng trình thủy lợi


CTVH

Địa danh cơng trình văn hóa

CTDS

Địa danh cơng trình dân sinh

VĐNPDC

Địa danh vùng đất nhỏ phi dân cƣ

3. Quy ƣớc viết tắt trong các bảng biểu về nguồn gốc địa danh
Chữ viết tắt

Đƣợc viết đầy đủ


HV

Hán - Việt

TTH

Tiếng Thanh Hóa

TVTD

Tiếng Việt toàn dân

TV+HV

Thuần Việt và Hán Việt

TV + TT

Thuần Việt và tiếng Thái

TV + TM

Thuần Việt và tiếng Mƣờng

TT + TM

Tiếng Thái và tiếng Mƣờng

KR


Không rõ

DTTS

Dân tộc thiểu số

II. QUY ƢỚC TRÌNH BÀY
1. Quy ƣớc về cách dùng kí hiệu phiên âm
- Những phụ âm khi xuất hiện ở vị trí đầu âm tiết sẽ đƣợc kí hiệu bằng một dấu nối
đặt sau kí hiệu phiên âm âm vị. Ví dụ: /b-/
- Những phụ âm và bán âm khi xuất hiện ở vị trí cuối âm tiết sẽ đƣợc kí hiệu bằng
một dấu nối đặt trƣớc kí hiệu phiên âm. Ví dụ: /-i /, /-n/
2. Quy ƣớc về kí hiệu Tài liệu tham khảo
- Kí hiệu Tài liệu tham khảo đƣợc để trong [ ], gồm: số thứ tự của tài liệu theo trật
tự ở phần Tài liệu tham khảo; trang. Nếu nhiều trang thì số trang đƣợc ngăn cách
bằng dấu gạch ngang hoặc dấu phẩy. Ví dụ: [1; 15] hoặc [3; 12-23] hoặc [56; 23 25, 34 - 35]


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
CHƢƠNG 1. CƠ SỞ LÍ THUYẾT VỀ ĐỊA DANH VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ .........14
VỀ ĐỊA BÀN THANH HĨA ...................................................................................14
1.1. DẪN NHẬP ...................................................................................................14
1.2. CƠ SỞ LÍ THUYẾT VỀ ĐỊA DANH ...........................................................15
1.2.1. Khái quát về địa danh ...........................................................................15
1.2.2. Phân loại địa danh .................................................................................19
1.2.3. Về mối quan hệ giữa địa danh và văn hóa .............................................21
1.2.4. Về định danh trong ngôn ngữ và trong địa danh ...................................27
1.2.5. Về vấn đề ý nghĩa của địa danh..............................................................31

1.3. MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ ĐỊA BÀN THANH HÓA ........................................34
1.3.1. Sơ lược về đặc điểm địa bàn Thanh Hóa ...............................................34
1.3.2. Sơ lược về đặc điểm phương ngữ Thanh Hóa ........................................42
1.3.3. Sơ lược về địa danh Thanh Hóa .............................................................43
1.4. TIỂU KẾT......................................................................................................46
CHƢƠNG 2. CẤU TẠO CỦA ĐỊA DANH THANH HÓA ....................................48
2.1. DẪN NHẬP ...................................................................................................48
2.2. KHÁI QUÁT VỀ CẤU TẠO ĐỊA DANH....................................................49
2.2.1. Mơ hình cấu tạo địa danh.......................................................................49
2.2.2. Về các thành tố trong cấu tạo địa danh .................................................51
2.3. ĐẶC ĐIỂM THÀNH TỐ CHUNG TRONG ĐỊA DANH THANH HÓA ...55
2.3.1. Đặc điểm chung ......................................................................................55
2.3.2. Đặc điểm nguồn gốc ngôn ngữ của thành tố chung ...............................56
2.3.3. Đặc điểm cấu tạo của thành tố chung ....................................................57
2.3.4. Về khả năng chuyển hóa và kết hợp của thành tố chung .......................58
2.4. ĐẶC ĐIỂM THÀNH TỐ RIÊNG TRONG ĐỊA DANH THANH HÓA .....66
2.4.1. Đặc điểm chung ......................................................................................66
2.4.2. Đặc điểm nguồn gốc ngôn ngữ của các yếu tố trong thành tố riêng .....66
2.4.3. Đặc điểm cấu tạo của thành tố riêng .....................................................70


2.4. TIỂU KẾT......................................................................................................78
CHƢƠNG 3. CÁC PHƢƠNG THỨC ĐỊNH DANH TRONG

ĐỊA DANH

THANH HÓA ...........................................................................................................80
3.1. DẪN NHẬP ...................................................................................................80
3.2. CÁC PHƢƠNG THỨC ĐỊNH DANH TRONG ĐỊA DANH THANH HÓA
...............................................................................................................................81

3.2.1. Đặc điểm chung ......................................................................................81
3.2.2. Định danh bằng phương thức tự tạo ......................................................82
3.2.3. Định danh bằng phương thức chuyển hóa ...........................................100
3.2.4. Định danh bằng phương thức vay mượn ..............................................102
3.2.5. Các địa danh chưa xác định được lí do................................................104
3.3. TIỂU KẾT....................................................................................................104
CHƢƠNG 4. CÁC ĐẶC TRƢNG NGƠN NGỮ - VĂN HÓA TRONG Ý NGHĨA
VÀ SỰ BIẾN ĐỔI CỦA ĐỊA DANH THANH HÓA ...........................................106
4.1. DẪN NHẬP .................................................................................................106
4.2. CÁC BÌNH DIỆN NGƠN NGỮ - VĂN HĨA TRONG Ý NGHĨA CỦA
ĐỊA DANH THANH HÓA ................................................................................107
4.2.1. Các yếu tố địa - văn hóa trong địa danh ..............................................107
4.2.2. Các yếu tố có mối liên hệ với lịch sử, văn hóa, xã hội trong địa danh 113
4.2.3. Các yếu tố liên quan đến đặc trưng phương ngữ trong địa danh ........124
4.3. SỰ BIẾN ĐỔI CỦA ĐỊA DANH THANH HÓA .......................................132
4.3.1. Sự biến đổi của địa danh tự nhiên ........................................................132
4.3.2. Sự biến đổi của địa danh nhân văn ......................................................137
4.4. TIỂU KẾT....................................................................................................143
KẾT LUẬN .............................................................................................................145
TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................150


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1.1: Bảng tổng hợp tần số xuất hiện của các nhóm địa danh .................45
Bảng 1.2a: Nguồn gốc ngữ nguyên của thành tố riêng trong địa danh đồng
bằng ..................................................................................................................46
Bảng 1.2b: Nguồn gốc ngữ nguyên của thành tố riêng trong địa danh miền núi
..........................................................................................................................46
Bảng 2.1: Mơ hình cấu tạo địa danh ...............................................................50
Bảng 2.2: Nguồn gốc ngữ nguyên của thành tố chung56 trong địa danh Thanh

Hóa ...................................................................................................................56
Bảng 2.3: Tổng hợp tần số xuất hiện các kiểu cấu tạo của thành tố chung ....57
Bảng 2.4: Tổng hợp tần số xuất hiện các kiểu cấu tạo của thành tố riêng ......66
Bảng 3.1: Tổng hợp tần số xuất hiện của các phương thức định danh ...........81

DANH MỤC SƠ ĐỒ
Sơ đồ 1.1: Phân loại địa danh Thanh Hóa theo tiêu chí tự nhiên/khơng tự
nhiên .................................................................................................................44
DANH MỤC BIỀU ĐỒ
Biểu đồ 1.1. Sự phân bố các nhóm địa danh Thanh Hóa trong địa danh đồng
bằng ..................................................................................................................45


MỞ ĐẦU
1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
1.1. Địa danh là một loại đơn vị từ vựng. Những lí thuyết về địa danh đã đƣợc
công bố trên thế giới trƣớc đây chủ yếu có đối tƣợng nghiên cứu là địa danh ở các
ngơn ngữ biến hình. Trong khi đó, sự tồn tại và vận động của địa danh trong mỗi
ngôn ngữ bị chi phối mạnh mẽ bởi những quy luật nội tại của chính ngơn ngữ đó. Vì
thế, khi vận dụng các lí thuyết trên vào nghiên cứu địa danh ở các ngơn ngữ phi
hình thái nhƣ tiếng Việt đã nảy sinh một số vấn đề không phù hợp về cấu tạo, các ý
nghĩa ngữ pháp về giống, số, cách trong địa danh, sự biến đổi của địa danh,... Do
đó, việc nghiên cứu địa danh của các địa phƣơng trong các ngơn ngữ cụ thể sẽ góp
phần làm sáng tỏ những vấn đề lí thuyết địa danh trong ngơn ngữ khơng biến hình
nói chung và trong tiếng Việt nói riêng. Đây là một việc làm rất cần thiết trong hiện
tại. Hơn nữa, nghiên cứu địa danh của từng địa phƣơng, từng vùng cịn có ý nghĩa
thiết thực góp phần bổ sung cho bức tranh toàn cảnh về địa danh Việt Nam.
1.2. Mối quan hệ giữa ngơn ngữ và văn hóa từ lâu đã đƣợc khẳng định. Đó là
mối quan hệ hữu cơ giữa một bên là những giá trị vật chất và tinh thần của một dân
tộc và bên kia là phƣơng tiện giao tiếp chung của dân tộc ấy. Kết quả nghiên cứu

của các nhà khoa học đã khẳng định: những đặc trƣng của văn hóa dân tộc có ảnh
hƣởng và đƣợc thể hiện khá rõ trong ngôn ngữ. Ngôn ngữ, vì thế, khơng chỉ là
phƣơng tiện giao tiếp của cộng đồng mà còn là phƣơng tiện bảo lƣu những đặc
trƣng về lịch sử - văn hóa và tƣ duy dân tộc. Địa danh là một trong những đơn vị
ngôn ngữ thể hiện mối quan hệ ấy một cách rõ nét. Nghiên cứu địa danh ở một địa
phƣơng, một vùng miền chính là góp phần làm rõ bức tranh ngơn ngữ - văn hóa,
lịch sử - tộc ngƣời của địa phƣơng ấy.
1.3. Thanh Hóa là vùng chuyển tiếp giữa Bắc Bộ và Trung Bộ. Những đặc
trƣng về địa lí tự nhiên, lịch sử, văn hóa, xã hội, ngơn ngữ, tộc ngƣời,... đã tạo nên
một xứ Thanh với những sắc thái văn hóa riêng biệt. Những đặc trƣng đó chắc chắn
cịn đƣợc lƣu giữ trong địa danh. Vì thế, việc nghiên cứu những đặc trƣng ngơn ngữ
- văn hóa trong địa danh Thanh Hóa thực sự hứa hẹn nhiều điều thú vị.

1


1.4. Là tỉnh lớn cả về diện tích và dân số, việc nghiên cứu địa danh Thanh Hóa
là vấn đề phức tạp và địi hỏi phải rất dày cơng. Trong khuôn khổ của một luận án,
việc làm này sẽ trở nên không tƣởng nếu không chia vùng, xé lẻ để thực hiện. Lê
Trung Hoa đã nhận định: “Đối với những địa bàn đa ngữ, việc phân vùng địa danh
để khảo sát riêng từng loại là rất quan trọng” [57; 8]. Lấy sông Mã làm trung tâm
về địa bàn khảo sát, luận án tập trung nghiên cứu địa danh ở một số huyện vùng
đồng bằng sông Mã và một số huyện miền núi ở Thanh Hóa. Vùng đồng bằng sơng
Mã là vùng trung tâm kinh tế, văn hóa, chính trị của tỉnh Thanh Hóa từ xƣa đến nay.
Nghiên cứu ngơn ngữ - văn hóa của địa danh ở địa bàn này cũng chính là khai phá
vào vùng đất trung tâm của địa danh ngƣời Việt ở Thanh Hóa. Vùng miền núi là địa
bàn cƣ trú của các DTTS. Tính đa sắc tộc về văn hóa sẽ đƣợc phản ánh trong địa
danh ở đây. Những đặc điểm rất riêng ấy chắc chắn đƣợc phản ánh cụ thể trong địa
danh Thanh Hóa.
2. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

2.1. Vấn đề nghiên cứu địa danh trên thế giới
Việc nghiên cứu địa danh trên thế giới xuất hiện muộn hơn sự định danh
nhƣng so với các khoa học khác lại rất sớm.
Từ thời cổ đại, trên thế giới đã có những ghi chép về địa danh. Thậm chí có
một số sách cịn ghi rõ hoặc thuyết minh về nguồn gốc và quá trình diễn biến của
địa danh, trình bày cách đọc và lí giải lí do gọi tên các vị trí địa lí, nhƣ sự ghi chép
của Ban Cố trong Hán Thư (32 - 92 sau Công nguyên), của Lệ Đạo Nguyên (466? 527) trong Thuỷ Kinh Chú [155; 12]. Ở phƣơng Tây, trong Thánh kinh của Thiên
Chúa giáo cũng đã thu thập rất nhiều địa danh với các nguồn khác nhau. Sự thu thập
đó chủ yếu nhằm mục đích truyền giáo cho cƣ dân trên các châu lục, các quốc gia,
các vùng miền khác nhau. Những ghi chép đó nhƣ là những cơng trình đầu tiên,
khởi nguyên cho hƣớng nghiên cứu địa danh ở góc độ địa lí học lịch sử.
Đến thế kỷ XIX, địa danh học mới trở thành một khoa học ở Tây Âu với các
tên tuổi cùng các cơng trình: T.A. Gibson (1835) có Địa lí học từ ngun: hướng
đến một danh sách phân loại về các từ ngữ thường gặp, như tiền tố hoặc hậu tố,
trong các phức thể của tên địa lí; Issac Taylor (1864) có Từ và các địa điểm hay sự

2


minh hoạ có tính ngun lai về lịch sử, dân tộc học và địa lí học; J. J. Eghi (1872)
có Địa danh học; J.W. Nagh (1903) có Địa danh học,... Những cơng trình này ban
đầu đã đƣa ra các hƣớng nghiên cứu lí thuyết làm tiền đề cho khoa học địa danh
phát triển trong thế kỷ XX. Cũng ở giai đoạn này, nhiều cuộc hội thảo có tính chất
khu vực và quốc tế đã đƣợc tổ chức ở Mỹ, Australia, Anh. Nhiều tổ chức nghiên
cứu về địa danh đƣợc thành lập. Năm 1890, Uỷ ban địa danh Mỹ đƣợc thành lập.
Uỷ ban địa danh Thụy Điển cũng đƣợc thành lập năm 1902. Năm 1925, ở Đức đã
có tạp chí chun ngành Nghiên cứu địa danh [155,12].
Sang thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu đã đƣa địa danh học lên một bƣớc phát
triển mới: vừa nghiên cứu theo hƣớng lí thuyết vừa nghiên cứu theo hƣớng ứng
dụng. Tiêu biểu là các cơng trình: Các tên gọi, một khảo sát về việc đặt tên địa điểm

của George R. Stewart (1958), Thực hành địa danh học của P. E. Raper, Địa danh
học, kho tri thức, các quy tắc và ngôn ngữ của Naftali Kadmon,… Đi đầu trong
nghiên cứu hệ thống lí thuyết về địa danh là các học giả Xô viết. Từ những năm 60
của thế kỷ trƣớc, hàng loạt các cơng trình địa danh học ra đời. Đó là các tác giả: E.
M. Murzaev với Những khuynh hướng nghiên cứu địa danh học, Iu. A. Kapenko
với Bàn về địa danh học đồng đại (1964), A. I. Popov với Những nguyên tắc cơ
bản của công tác nghiên cứu địa danh, N. I. Nikonov với Các khuynh hướng nghiên
cứu địa danh .v.v [92], [155].
Tiêu biểu cho những nghiên cứu về địa danh học Xô viết là các cơng trình
Những ngun lí của địa danh học và Địa danh là gì của học giả ngƣời Nga A. V.
Superanskaja. Trong hai tác phẩm này, Superanskaja đã xem xét địa danh hồn tồn
từ góc độ ngơn ngữ học và trên các phƣơng diện của nó. Đặc biệt, trong Địa danh
là gì (1985), tác giả đã đƣa ra gần nhƣ tồn bộ các vấn đề lí thuyết về địa danh ở
Nga ngữ. Hàng loạt các thuật ngữ (sơn danh, thuỷ danh, phố danh,...) cùng với sự
phân loại địa danh, vấn đề định nghĩa địa danh, địa danh học, chức năng, cấu tạo
của địa danh, tính liên tục của địa danh, cách viết tên gọi địa lí,... đã đƣợc tác giả
nghiên cứu khá sâu. Superanskaja nêu rõ: “Chỉ có bằng các phương pháp ngơn ngữ
mới có thể kiểm tra những giả thuyết có liên quan đến xuất xứ của hàng loạt địa
danh” [115; 3].

3


Cùng với những vấn đề lí thuyết, V.A. Superanskaja đã đƣa ra sự phân tích
vừa cụ thể, tỉ mỉ lại vừa có tính khái qt cao về địa danh. Có thể xem những vấn đề
lí thuyết mà Superanskaja đƣa ra đều là những vấn đề quen thuộc trong địa danh
học ở Nga ngữ nói riêng và trên thế giới nói chung. Cũng vì thế, lí thuyết này đƣợc
nhiều nhà địa danh học Việt Nam vận dụng.
2.2. Vấn đề nghiên cứu ngơn ngữ - văn hóa của địa danh ở Việt Nam
Ở Việt Nam, khoa học về địa danh thƣờng đƣợc nghiên cứu theo ba hƣớng:

địa lí học lịch sử, địa danh học ứng dụng và ngôn ngữ học.
Những nghiên cứu về địa danh theo hƣớng địa lí học lịch sử ở Việt Nam xuất
hiện muộn hơn so với thế giới. Mãi đến thế kỷ XIV mới có những tác phẩm: Dư địa
chí của Nguyễn Trãi (1435), Dư địa chí trong Lịch triều hiến chương loại chí của
Phan Huy Chú (1821). Chi tiết hơn một chút có Vũ trung tuỳ bút của Phạm Đình
Hổ, Phương đình dư chí của Nguyễn Siêu (1900), Sử học bị khảo (mục Địa lí khảo
thượng, hạ) của Đặng Xuân Bảng, Ô Châu cận lục của Dƣơng Văn An, Đại Nam
nhất thống chí,... Theo hƣớng này, thời kì hiện đại có cơng trình Đất nước Việt Nam
qua các đời của Đào Duy Anh (1964).
Đến cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, việc nghiên cứu địa danh chuyển sang
dạng khảo sát, tập hợp các hệ thống địa danh Việt Nam theo hƣớng ứng dụng.
Những cơng trình khảo sát công phu phải kể đến là: Tên làng xã Việt Nam đầu thế
kỷ XIX (thuộc các tỉnh từ Nghệ An trở ra) do Dƣơng Thị The và Phạm Thị Thoa
dịch và biên soạn, Danh mục các làng xã Bắc Kỳ (Nomenclature des communues du
Tonkin) của Ngô Vi Liễn (1928),... Những cơng trình này là những tập hợp đơn
giản, thuần tuý các địa danh hành chính, rất thuận tiện cho việc tra cứu. Từ đó cho
đến nay, hàng loạt các tài liệu về địa danh đƣợc tập hợp dƣới dạng sổ tay địa danh.
Có thể xem đây là nguồn tƣ liệu quý giá về địa danh Việt Nam theo hƣớng nghiên
cứu của địa danh học ứng dụng.
Đến những năm 50 - 60 của thế kỷ XX, địa danh Việt Nam mới đƣợc xem xét,
nghiên cứu từ góc độ ngơn ngữ học. Năm 1966, Hoàng Thị Châu với bài viết Mối
liên hệ về ngôn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á qua một vài tên sông đã là ngƣời đƣa
“nhát cuốc” đầu tiên khai phá vùng đất hứa hẹn nhiều tài nguyên của địa danh Việt

4


Nam dƣới góc độ ngơn ngữ học. Bằng phƣơng pháp nghiên cứu so sánh - lịch sử,
với những dẫn liệu xác đáng, tác giả đã đƣa ra những luận điểm thuyết phục về việc
lí giải nguồn gốc các địa danh sơng Việt Nam. Theo đó, các yếu tố có mặt trong một

số địa danh sông ở Việt Nam và Đông Nam Á đều có nghĩa liên quan đến nước [46;
130]. Từ đó có thể suy rộng ra, khơng chỉ có những địa danh khảo sát trong bài viết
mà cả hệ thống địa danh sơng ở Việt Nam nói chung đều có nghĩa liên quan đến
nước dù nguồn gốc ngữ nguyên của chúng khác nhau. Điều đó có nghĩa là những
địa danh sơng ngày nay có thể đều đƣợc chuyển hóa từ những danh từ chung (thành
tố chung) có nghĩa là nước mà thành.
Năm 1976, Trần Thanh Tâm với bài Thử bàn về địa danh Việt Nam [116] đã
sơ lƣợc hình dung về bức tranh địa danh ở Việt Nam từ góc độ địa - văn hóa. Từ
góc nhìn này, tác giả đề cập đến các vấn đề nhƣ là những gợi ý ban đầu cho một
hƣớng nghiên cứu về địa danh: sơ lƣợc nghiên cứu địa danh ở Việt Nam, quy luật
phát triển của địa danh, các loại hình địa danh và mấy đặc điểm về địa danh Việt
Nam. Đáng chú ý là ở nội dung về quy luật phát triển của địa danh, tác giả đã nêu ra
một số nguyên nhân ảnh hƣởng đến sự hình thành và phát triển của địa danh. Tuy
nhiên, ở nội dung phân loại, do khơng xây dựng tiêu chí rõ ràng nên sự phân chia
thành các loại hình địa danh chƣa thống nhất và phù hợp.
Tiếp tục hƣớng nghiên cứu này, đến những năm của thập niên cuối cùng của
thế kỷ trƣớc, các luận án nghiên cứu địa danh ở các địa phƣơng của Lê Trung Hoa
(1990), Nguyễn Kiên Trƣờng (1996) mới thực sự trở thành dấu mốc mới cho nghiên
cứu địa danh ở Việt Nam với tƣ cách là một bộ môn của khoa học ngơn ngữ. Trong
cơng trình Địa danh ở thành phố Hồ Chí Minh (1991), Lê Trung Hoa đã đƣa ra một
số vấn đề lí thuyết làm cơ sở cho việc nghiên cứu và phân tích địa danh ở Thành
phố Hồ Chí Minh. Qua đó, những đặc điểm của địa danh vùng đồng bằng Nam Bộ
đƣợc làm sáng rõ. Năm 1996, Nguyễn Kiên Trƣờng đi vào nghiên cứu địa danh Hải
Phịng. Ở đây, một số vấn đề lí thuyết nhƣ khái niệm và chức năng của địa danh
đƣợc bổ sung. Một hệ phƣơng pháp nghiên cứu địa danh đƣợc xác định gồm hai
nhóm: nhóm phƣơng pháp thu thập và xử lí địa danh và nhóm các phƣơng pháp

5



nghiên cứu. Vì thế, đặc điểm địa danh vùng biển Hải Phòng đã đƣợc tác giả chỉ ra
trong mối liên hệ và so sánh với địa danh của các địa phƣơng khác [155].
Năm 2000, không đi sâu vào nghiên cứu tỉ mỉ địa danh của từng địa phƣơng,
Nguyễn Văn Âu trong “Một số vấn đề về địa danh học Việt Nam” sơ lƣợc đƣa ra
những vấn đề của địa danh học. Đó là: xác định đối tƣợng nghiên cứu của địa danh
học, các phƣơng pháp và ý nghĩa của việc nghiên cứu địa danh,... Trong mục Đặc
điểm của địa danh Việt Nam, tác giả đã chỉ ra một số những đặc điểm về nguyên tắc
đặt tên, sự biến đổi của địa danh, phân loại và phân vùng địa danh nhƣ là những
phác hoạ ban đầu cho bức tranh địa danh Việt Nam. Tuy nhiên, ở mục phân vùng
địa danh Việt Nam, tác giả lại sử dụng phƣơng pháp của địa lí học khi nghiên cứu
một số địa danh cụ thể.
Sang thế kỷ XXI, từ năm 2004 đến nay, nhiều luận án đã nghiên cứu về địa
danh của các địa phƣơng. Từ Thu Mai (2004) nghiên cứu đặc điểm của địa danh
Quảng Trị. Trần Văn Dũng (2005) sử dụng phƣơng pháp so sánh - lịch sử khi
nghiên cứu các địa danh có nguồn gốc dân tộc thiểu số ở Dak Lăk. Phan Xuân Đạm
(2006) khảo sát đƣợc một số lƣợng lớn các địa danh ở Nghệ An và chỉ ra đƣợc đặc
điểm và giá trị nghệ thuật của địa danh trong ca dao Nghệ Tĩnh. Nguyễn Văn Loan
(2012) khảo sát và mô tả địa danh Hà Tĩnh trên cơ sở kế thừa những vấn đề lí luận
của các cơng trình đi trƣớc. Trần Văn Sáng (2013) lần đầu tiên nghiên cứu “địa
danh có nguồn gốc DTTS ở Tây Thừa Thiên Huế”.
Ngồi những cơng trình trên, một số đề tài các cấp của một số tác giả đã tiến
hành nghiên cứu địa danh ở các địa phƣơng khác nhƣ Nghiên cứu địa danh Quảng
Nam. Trong cơng trình này, trên cơ sở những lí thuyết của các học giả đi trƣớc, tác
giả đã làm rõ thêm một số vấn đề cho địa danh học Việt Nam: đặc điểm ngữ âm,
đặc điểm ngữ nghĩa, đặc điểm ngữ pháp trong địa danh, vấn đề chuẩn hóa địa
danh,... Hƣớng nghiên cứu này đã hồn tồn sử dụng các phƣơng pháp mơ tả của từ
vựng học. Ngồi ra, tác giả đã bổ sung thêm một số vấn đề lí thuyết mà ở các cơng
trình của các tác giả khác chƣa có. Đó là các vấn đề về địa danh trong ngôn ngữ học
đại cƣơng nhƣ: địa danh trong các quốc gia đa ngôn ngữ, địa danh trong các ngơn
ngữ chƣa có chữ viết,...[92].


6


Đáng chú ý trong các nghiên cứu về địa danh ở Việt Nam là một hệ thống các
cơng trình của tác giả Lê Trung Hoa. Năm 2006, Lê Trung Hoa đã đƣa ra Nguyên
tắc và phương pháp nghiên cứu địa danh (Địa danh thành phố Hồ Chí Minh) và
Địa danh học Việt Nam. Đây có thể xem là cơng trình tổng hợp những kết quả của
quá trình nghiên cứu dài lâu của Lê Trung Hoa về địa danh Việt Nam. Các cơng
trình trên đã nghiên cứu những vấn đề cơ bản của địa danh Việt Nam, từ khái niệm
về địa danh học, phân loại địa danh, vị trí của địa danh trong ngôn ngữ học cho đến
các vấn đề nguyên nhân của sự ra đời và mất đi của địa danh,...
Gần đây, khi những lí thuyết của ngơn ngữ học hiện đại thế giới có những
bƣớc tiến đáng kể, các nhà ngơn ngữ học đã có sự quan tâm thích đáng đến mối
quan hệ giữa ngơn ngữ và văn hóa. Nhiều học giả Việt Nam trên cơ sở kế thừa, vận
dụng và phát triển các lí thuyết đó đã cho ra mắt một số cơng trình nghiên cứu về
tiếng Việt từ góc độ nghiên cứu ngơn ngữ - văn hóa. Các tác giả đã đi theo ba
hƣớng tiếp cận: một là cách tiếp cận của từ nguyên học (Nguyễn Kim Thản,
Nguyễn Tài Cẩn, Hồng Thị Châu, Trần Trí Dõi, Phạm Đức Dƣơng, ...); hai là cách
tiếp cận của dân tộc - ngôn ngữ học (Nguyễn Đức Tồn, Nguyễn Thúy Khanh,...); và
ba là cách tiếp cận của ngôn ngữ học tri nhận (Lý Toàn Thắng,...) [46].
Theo hƣớng nghiên cứu thứ nhất, Hồng Thị Châu (1964) có Mối liên hệ về
ngơn ngữ cổ đại ở Đông Nam Á qua một vài tên sông, Vài nét về tổ chức xã hội Văn
Lang qua tài liệu ngôn ngữ học,... Nguyễn Kim Thản (1993) với Sự phản ánh một
nét văn hóa vật chất của người Việt vào ngơn ngữ, Nguyễn Tài Cẩn (2001) có bài
Về tên gọi con Rồng của người Việt [59], …
Theo hƣớng nghiên cứu thứ hai có thể kể đến các cơng trình về ngơn ngữ - văn
hóa, trong đó có Đặc trưng văn hóa - dân tộc của ngơn ngữ và tư duy của tác giả
Nguyễn Đức Tồn. Trong cơng trình này, những tiền đề lí thuyết cho việc nghiên
cứu đặc trƣng ngơn ngữ - văn hóa đã đƣợc tác giả trình bày một cách hệ thống và

thấu đáo. Tiếp theo, những đặc trƣng ngơn ngữ - văn hóa của tiếng Việt trên cơ sở
so sánh với tiếng Nga và một số ngôn ngữ khác đã đƣợc nghiên cứu một cách sâu
sắc. Những đặc trƣng văn hóa của ngơn ngữ dân tộc đƣợc thể hiện cụ thể trong các
lớp từ cơ bản tiêu biểu của tiếng Việt. Chúng tôi coi cách tiếp cận này cũng là

7


hƣớng nghiên cứu cơ bản và vận dụng các lí thuyết đó để khai thác “đặc trƣng ngơn
ngữ - văn hóa của địa danh Thanh Hóa”, đặc biệt là trong việc mô tả những đặc
điểm định danh của địa danh.
Theo hƣớng nghiên cứu thứ ba có thể kể đến cơng trình Ngơn ngữ học tri nhận
- từ lí thuyết đại cương đến thực tiễn tiếng Việt (2005) của tác giả Lý Tồn Thắng
nghiên cứu ngơn ngữ từ góc độ ngơn ngữ học - tri nhận. Cơng trình này dù khơng
trực tiếp nghiên cứu ngơn ngữ - văn hóa nhƣng những gì mà tác giả đƣa ra chính là
những đặc trƣng của tƣ duy dân tộc. Điều đó đã làm sáng rõ một vấn đề: chính tƣ
duy là cội nguồn làm nên những nét khác biệt về văn hóa hay là những đặc trƣng
văn hóa dân tộc.
Ngồi ra, các bài viết khác đáng đƣợc lƣu tâm là: Về một vài địa danh tên
riêng gốc Nam Đảo trong vùng Hà Nội xưa và Tên gọi sơng Hồng: dấu tích biểu
hiện nét văn hóa đa dạng trong lịch sử người Việt của Trần Trí Dõi (2001), Một số
nhận xét về tên phố Hà Nội có chữ “Hàng” (nhìn từ góc độ ngơn ngữ - văn hóa)
của Hà Quang Năng (2001) [59],... Những bài viết này thực sự là những định hƣớng
quý báu cho chúng tôi về phƣơng pháp và thao tác nghiên cứu cũng nhƣ hƣớng tiếp
cận địa danh từ góc độ ngơn ngữ - văn hóa.
Nhƣ vậy, ngồi những thành cơng của hƣớng nghiên cứu địa lí học lịch sử về
địa danh, từ góc độ ngơn ngữ học, những vấn đề về địa danh và ngơn ngữ - văn hóa
của địa danh vẫn còn đƣợc tiếp tục nghiên cứu cả ở Việt Nam và trên thế giới. Địa
danh luôn gắn với địa phƣơng. Các vấn đề lí thuyết về địa danh phải đƣợc soi sáng
bằng việc nghiên cứu địa danh ở các địa bàn cụ thể. Do đó, nghiên cứu địa danh ở

các địa phƣơng cụ thể đang trở nên rất cần thiết để hồn thiện bức tranh ngơn ngữ văn hóa về địa danh Việt Nam và hoàn thiện hệ thống lí thuyết địa danh học trong
ngơn ngữ đơn lập nói riêng và địa danh học nói chung.
2.3. Nghiên cứu ngơn ngữ - văn hóa trong địa danh Thanh Hóa
Là một vùng đất cổ với bề dày về truyền thống lịch sử - văn hóa, Thanh Hóa
là một trong những địa phƣơng đƣợc nhiều học giả thuộc các lĩnh vực khoa học
khác nhau của trong và ngoài nƣớc quan tâm. Nhiều hội thảo quốc gia và quốc tế về

8


các vấn đề lịch sử - văn hóa, về vùng đất và con ngƣời xứ Thanh đã đƣợc tổ chức.
Địa danh ở Thanh Hóa vì thế cũng đƣợc xem xét, nghiên cứu ở những góc độ này.
Từ góc độ địa lí học lịch sử, địa danh Thanh Hóa một mặt đƣợc nghiên cứu
trong các địa dƣ, địa chí nhƣ Lịch triều hiến chương loại chí, Hồng Việt dư địa chí
của Phan Huy Chú, Hồng Việt nhất thống dư địa chí của Lê Quang Định, Đại Việt
địa dư toàn biên của Phƣơng đình Nguyễn Văn Siêu, Đại Nam nhất thống chí do Á
Nam Trần Tuấn Khải phiên dịch,... và trong các địa bạ, địa dƣ, địa chí của các làng,
xã, huyện và tỉnh. Mặt khác, địa danh Thanh Hóa cũng đƣợc đề cập trong các tài
liệu, các truyền thuyết về các sự kiện và nhân vật lịch sử của các triều đại: Lê Đại
Hành và thời Tiền Lê, về Lê Lợi và cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, về Hồ Quý Ly và
thành Nhà Hồ, về chúa Trịnh và kinh đô kháng chiến Vạn Lại - Yên Trƣờng trong
thời kì Lê Trung hƣng, về chúa Nguyễn, vƣơng triều Nguyễn và Gia Miêu trang và
về nhiều sự kiện và nhân vật lịch sử khác. Ngồi ra, địa danh Thanh Hóa cịn đƣợc
nhắc đến trong các huyền thoại về các vị cơng thần có cơng lập làng mở ấp ở Thanh
Hóa , trong những nghiên cứu về các làng nghề truyền thống của xứ Thanh. Trong
đó, loại hình đƣợc nghiên cứu nhiều nhất là địa danh làng.
Năm 1990, hội thảo về Văn hóa làng Thanh Hóa đƣợc tổ chức. Trong cuộc
hội thảo này, tác giả Nguyễn Kim Lữ đã đƣa ra con số thống kê là 24% của 1792
làng trong tên gọi có yếu tố “kẻ” [158; 73-74]. Cũng trong thời gian này, các tác giả
Hoàng Anh Nhân và Lê Huy Trâm lần đầu tiên ra mắt cơng trình Khảo sát văn hóa

làng ở Thanh Hóa. Trong cơng trình này, tác giả đã đƣa ra con số thống kê về các
làng nghề, làng văn hóa tiêu biểu của xứ Thanh nhƣ là những dữ liệu quan trọng để
phục vụ kế hoạch xây dựng làng văn hóa trong thời kì hiện đại [101].
Năm 2000, cơng trình Tên làng xã Thanh Hóa (2 tập) của Ban nghiên cứu và
biên soạn lịch sử Thanh Hóa đƣợc xuất bản. Mục đích của cuốn sách là “bước đầu
hệ thống, giới thiệu tên các làng, xã trên đất Thanh Hóa cùng một số diên cách và
dấu vết lịch sử” [9] tiện cho việc tra cứu. Và đúng nhƣ mục đích, các tác giả chỉ
làm thao tác thống kê tên các làng xã Thanh Hóa hiện nay với những thơng tin về
vị trí, về diện tích, dân số và sự thay đổi tên gọi,... của các làng xã Thanh Hóa từ
trƣớc đến năm 2000.

9


Địa danh Thanh Hóa cũng đƣợc nghiên cứu trong các địa chí của các huyện
nhƣ: Địa chí huyện Hậu Lộc, Địa chí huyện Hoằng Hóa, Địa chí huyện Vĩnh Lộc,
Địa chí huyện Thọ Xuân,... Năm 2000, địa danh ở Thanh Hóa cũng đƣợc xem xét
trong Địa chí Thanh Hóa. Tuy nhiên, trong cơng trình này, các tác giả tìm hiểu địa
danh trong một giới hạn nhất định để giới thiệu về đất và ngƣời xứ Thanh thông qua
các địa danh của các địa phƣơng cụ thể.
Từ góc độ ngơn ngữ - văn hóa, địa danh ở Thanh Hóa đƣợc nghiên cứu lần
đầu tiên ở bài viết “Có một làng quê là Kẻ Rỵ” của Nguyễn Quang Hồng [60].
Trong bài viết, tác giả đã dẫn cách giải thích nghĩa của yếu tố “kẻ” trong “Từ điển
Việt - Bồ - La” của A. De Rhodes làm cơ sở để nghiên cứu từ góc độ ngơn ngữ văn hóa địa danh Kẻ Rỵ. Theo đó, Nguyễn Quang Hồng, bằng những trực giác về
ngơn ngữ, đã lí giải: Kẻ Rỵ là tên gọi có liên quan đến nghề làm thừng truyền thống
của địa phƣơng.
Năm 2009, đề tài cấp liên ngành Từ điển địa danh Thanh Hóa đã thống kê
đƣợc hơn 7000 mục địa danh Thanh Hóa . Mục đích của đề tài là khảo sát đƣợc hệ
thống các địa danh ở Thanh Hóa để biên tập thành từ điển. Với mục đích đó, địa
danh ở đây một mặt đƣợc xem xét nhƣ là những chỉ dẫn về các thơng tin vị trí địa lí,

dân số, đặc điểm lịch sử - văn hóa nổi bật; mặt khác từ góc độ ngơn ngữ - văn hóa,
một số thơng tin khác cũng đƣợc điểm qua và có thể coi là những tìm hiểu bƣớc đầu
nhƣ: miêu tả cấu tạo địa danh, nghĩa của địa danh theo phƣơng diện từ nguyên học
dân gian,... [93]. Vì phạm vi khảo sát rộng lại là một địa bàn có số lƣợng địa danh
khổng lồ nên đề tài mới chỉ dừng lại ở cấp độ khảo sát một cách tƣơng đối các địa
danh ở Thanh Hóa.
Tóm lại, cho đến thời điểm hiện tại, địa danh Thanh Hóa vẫn cần có một sự
nghiên cứu sâu hơn, khái quát hơn từ phƣơng diện ngôn ngữ - văn hóa.
3. MỤC ĐÍCH VÀ NHIỆM VỤ NGHIÊN CỨU
3.1. Mục đích nghiên cứu
- Thơng qua việc thu thập, phân loại, miêu tả và phân tích ngữ liệu, luận án
nghiên cứu đặc trƣng ngơn ngữ - văn hóa của địa danh Thanh Hóa trên các phƣơng
diện: cấu tạo, phƣơng thức định danh, ý nghĩa, nguồn gốc và sự biến đổi của địa

10


danh. Trên cơ sở đó phân tích vai trị của địa danh đối với văn hóa, sự chi phối, tác
động của các yếu tố văn hóa đối với sự ra đời và tồn tại của địa danh Thanh Hóa.
- Kết quả của luận án góp phần tìm hiểu thêm về truyền thống lịch sử và văn
hóa lâu đời của xứ Thanh. Từ đó, giáo dục tình u q hƣơng xứ sở cho ngƣời dân
địa phƣơng, hình thành ý thức bảo vệ và gìn giữ các giá trị truyền thống qua địa
danh. Bên cạnh đó, kết quả nghiên cứu của luận án có thể sử dụng để phục vụ phát
triển du lịch, góp phần vào việc phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hóa.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu, luận án giải quyết các vấn đề sau:
- Nghiên cứu các vấn đề lí thuyết liên quan đến địa danh làm cơ sở cho việc
khai thác địa danh Thanh Hóa. Đó là các vấn đề định nghĩa và phân loại địa danh,
các phƣơng thức định danh, ý nghĩa của địa danh,... Xác định mối quan hệ giữa văn
hóa và địa danh trên phƣơng diện lí luận.

- Điền dã, khảo sát, thu thập thực tế hệ thống địa danh tiếng Việt ở Thanh Hóa
thuộc các loại hình đối tƣợng địa lí khác nhau đƣợc phân bố ở hai tiểu vùng địa
hình: vùng đồng bằng sơng Mã và vùng miền núi.
- Thống kê, phân loại, miêu tả và phân tích các cứ liệu đã thu thập đƣợc để xác
định các đặc trƣng ngôn ngữ - văn hóa thể hiện trong các phƣơng diện khác nhau
của địa danh Thanh Hóa, cố gắng trong khả năng có thể để tìm hiểu các tầng địa
danh ẩn sâu bên dƣới lớp địa danh bề mặt.
4. ĐỐI TƢỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là tên gọi của các đối tƣợng địa lí tự nhiên
nhƣ sơng, suối, hồ, đầm, núi, đồi,... và của các đối tƣợng địa lí nhân văn nhƣ cầu,
cống, làng, bản, thơn, xóm,... ở Thanh Hóa (đến năm 2010).
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi khảo sát: Địa bàn khảo sát chủ yếu là vùng đồng bằng sông Mã ở
Thanh Hóa, gồm các huyện, thành phố: Vĩnh Lộc, Thọ Xn, n Định, Thiệu Hóa,
Đơng Sơn, Hà Trung, Hoằng Hóa, Hậu Lộc, thành phố Thanh Hóa và các huyện
miền núi: Cẩm Thủy, Bá Thƣớc, Lang Chánh, Nhƣ Thanh, Nhƣ Xuân,... Số lƣợng

11


địa danh trong kết quả khảo sát không phải tƣơng đƣơng theo tỉ lệ 1:1 với các đối
tƣợng địa lí tồn tại ở thực tế khách quan.
5. ĐÓNG GÓP CỦA ĐỀ TÀI
5.1. Lần đầu tiên địa danh Thanh Hóa đƣợc nghiên cứu một cách quy mô theo
hƣớng tiếp cận của ngơn ngữ - văn hóa. Luận án một mặt sẽ mơ tả tồn diện bức
tranh về địa danh Thanh Hóa trên các phƣơng diện: cấu tạo, phƣơng thức định danh,
ý nghĩa, đặc trƣng phƣơng ngữ, nguồn gốc và sự biến đổi của địa danh. Mặt khác,
từ việc mô tả và phân tích trên, luận án chỉ rõ các đặc trƣng văn hóa và biểu hiện
của nó trong địa danh Thanh Hóa.

5.2. Từ những tƣ liệu thực tế về địa danh Thanh Hóa và kết quả đạt đƣợc hi
vọng đây sẽ là nguồn ngữ liệu cần thiết, giúp ích cho các cơng trình nghiên cứu sau
này về lịch sử - văn hóa, về phƣơng ngữ Thanh Hóa và về sự phát triển của tiếng
Việt. Bởi “muốn nghiên cứu lịch sử tiếng Việt thì cần tìm các di tích hóa thạch
trong các phương ngữ” [36; 259] trong đó có địa danh.
6. PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
6.1. Phƣơng pháp miêu tả ngôn ngữ học
“Phương pháp miêu tả là hệ thống những thủ pháp nghiên cứu được vận dụng
để thể hiện đặc tính của các hiện tượng ngôn ngữ trong một giai đoạn phát triển
nào đó của nó.” [50; 422]. Phƣơng pháp miêu tả đƣợc chia thành hai thủ pháp: thủ
pháp giải thích bên ngồi và thủ pháp giải thích bên trong. Thủ pháp giải thích bên
trong sử dụng các thao tác phân loại, hệ thống hóa, định lượng thống kê và các thủ
pháp phân tích, tổng hợp khi nghiên cứu các thành tố trong cấu tạo địa danh, xác
định các phƣơng thức định danh, ý nghĩa các thành tố và sự biến đổi của địa danh.
Bên cạnh đó, sự ra đời và tồn tại của địa danh chịu sự tác động mạnh mẽ của điều
kiện tự nhiên, lịch sử, văn hóa, xã hội. Do vậy, thủ pháp giải thích bên ngồi cũng
đƣợc vận dụng khi đặt địa danh trong mối quan hệ với các yếu tố địa lí tự nhiên,
lịch sử, xã hội, văn hóa tộc ngƣời,... và thao tác so sánh địa danh Thanh Hóa với địa
danh của các địa phƣơng khác. Các phƣơng diện của địa danh đƣợc xem xét, phân
tích, miêu tả một cách thấu đáo và chính xác hơn khi vận dụng theo thủ pháp này.

12


6.2. Phƣơng pháp điền dã ngôn ngữ học
Phƣơng pháp điền dã ngôn ngữ học đƣợc vận dụng khi thu thập ngữ liệu.
Khảo sát, thu thập ngữ liệu về địa danh Thanh Hóa đƣợc tiến hành theo nguyên tắc
“thu hẹp đào sâu để chọn mẫu điển hình và mở rộng phổ tra để tìm hệ thống” [152;
8]. Để có nguồn tƣ liệu, chúng tôi tiến hành thu thập từ hai nguồn chính: điều tra
điền dã thực tế và điều tra khảo sát qua các tài liệu về địa phƣơng.

- Điền dã là thủ pháp điều tra trực tiếp các địa danh có trên địa bàn trong thời
điểm hiện tại (tính đến 2010). Trình tự đƣợc tiến hành theo các bƣớc: xây dựng mẫu
phiếu, xác định các điểm khảo sát, thực địa, thu thập thông tin theo mẫu phiếu bằng
cách gặp gỡ phỏng vấn trực tiếp ngƣời dân, trƣởng thôn, cán bộ văn hóa của các địa
phƣơng, ngƣời cao tuổi,...
- Bên cạnh nguồn tƣ liệu điền dã, chúng tơi cịn thu thập tƣ liệu qua các tài liệu
về địa phƣơng. Đối với việc thu thập ngữ liệu qua các tài liệu, chúng tôi tập trung
khai thác các tài liệu về địa phƣơng Thanh Hóa, đặc biệt là những tài liệu liên quan
đến địa bàn của các huyện vùng đồng bằng. Đó là các tài liệu địa chí, địa dƣ, các
thƣ tịch cổ, hƣơng ƣớc, lịch sử làng, bản đồ qua các thời kì. Đối chiếu để tìm ra các
tên gọi chính xác qua các thời kì trƣớc và sau của một đối tƣợng.
Ngoài ra, luận án sử dụng các phƣơng pháp, thủ pháp khoa học khác nhƣ
thống kê, so sánh, mơ hình hóa,... để làm rõ đặc điểm, đặc trƣng ngơn ngữ - văn hóa
của địa danh Thanh Hóa.
7. BỐ CỤC CỦA LUẬN ÁN
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, nội dung chính
của luận án có 4 chƣơng:
Chƣơng 1: Cơ sở lí thuyết về địa danh và một số vấn đề về địa bàn Thanh Hóa
Chƣơng 2: Cấu tạo của địa danh Thanh Hóa
Chƣơng 3: Phƣơng thức định danh trong địa danh Thanh Hóa
Chƣơng 4: Các bình diện ngơn ngữ - văn hóa thể hiện trong ý nghĩa và sự biến
đổi của địa danh Thanh Hóa

13


CHƢƠNG 1.
CƠ SỞ LÍ THUYẾT VỀ ĐỊA DANH VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ
VỀ ĐỊA BÀN THANH HÓA
1.1. DẪN NHẬP

“Tên gọi là gì? Đó là kí hiệu khu biệt, là một đặc tính đập vào mắt ta mà ta
coi đó là đại diện của sự vật, để tưởng tượng lại sự vật trong tổng thể của nó” [dẫn
theo 49; 82]. Trong các lớp từ vựng của một ngơn ngữ, ngồi những những tên gọi
chung cho một lớp sự vật cịn có các đơn vị dùng để gọi tên cho một sự vật cụ thể,
cá thể. Đó là các lớp tên riêng. Các lớp tên riêng bao gồm tên ngƣời, tên thần thánh,
tên các hành tinh, tên các đối tƣợng địa lí, tên các tổ chức cơ quan,... Tất cả các đơn
vị ngơn ngữ thuộc các lớp tên riêng đó là đối tƣợng nghiên cứu của bộ môn Danh
xưng học (onomastics).
Địa danh hay tên gọi các đối tƣợng địa lí là một loại tên riêng và là một trong
những đối tƣợng nghiên cứu của danh xƣng học. Là một đơn vị từ vựng, địa danh,
một mặt, chịu sự chi phối của những quy luật ngôn ngữ về các phƣơng diện ngữ âm,
từ vựng, ngữ pháp. Mặt khác, do tồn tại trong những điều kiện địa lí, lịch sử, xã hội
cụ thể nên sự ra đời và tồn tại của địa danh bị tác động mạnh mẽ bởi các yếu tố đó.
Địa danh vừa là kết quả, vừa là “nhân chứng” của sự tƣơng tác các yếu tố trong và
ngồi ngơn ngữ vào ngơn ngữ. Trên cơ sở các vấn đề lí thuyết liên quan, nghiên cứu
địa danh của một địa phƣơng chính là nghiên cứu các đặc trƣng ngôn ngữ - văn hóa
trong địa danh địa phƣơng đó.
Thanh Hóa là một Việt Nam thu nhỏ. Những đặc điểm về điều kiện tự nhiên,
lịch sử, văn hóa, xã hội và con ngƣời Thanh Hóa hội đủ những nét ƣu việt rất riêng
để tạo nên sắc thái văn hóa của một xứ. Xứ Thanh chính là cảnh huống (ngữ cảnh)
của địa danh Thanh Hóa. Những hiểu biết sâu sắc về “cảnh huống” sẽ giúp ngƣời
nghiên cứu có cái nhìn thấu đáo hơn, chân xác hơn về các phƣơng diện của địa
danh, từ đó có thể có những nhận xét chính xác hơn về những đặc trƣng ngơn ngữ văn hóa trong địa danh.

14


1.2. CƠ SỞ LÍ THUYẾT VỀ ĐỊA DANH
1.2.1. Khái quát về địa danh
Việc xác định khái niệm địa danh luôn luôn là nội dung thứ nhất trong địa

danh học. Theo hiển tự, địa danh là tên đất. Tuy nhiên, trong thực tế, các đối tƣợng
địa lí đƣợc con ngƣời đặt tên lớn hơn rất nhiều. Hầu hết những sự vật xung quanh,
vì nhu cầu nhận thức và chinh phục mơi trƣờng tự nhiên và xã hội, đều đƣợc nhận
diện, đặt tên để phân biệt chúng với nhau, trừ “những vật khơng thể tách riêng ra
khỏi những hình thức phong phú vốn thay đổi liên tục, vì thế khơng gây được sự chú
ý tới bản thân chúng, đối với chúng rất khó hoặc khơng thể chọn được tên gọi bằng
từ ngữ, thì mới khơng có tên mà thơi” [115; 13]. Sơng, núi, ao, hồ, cầu, đƣờng sá,
phố, làng, xóm,... đều là những “sự vật” đƣợc đặt tên với mục đích nhƣ vậy.
Có rất nhiều định nghĩa về địa danh. Superanskaja cho rằng: “Cuộc sống con
người gắn liền với các địa điểm khác nhau và được biểu thị bằng những từ riêng đó là các tên gọi địa lí, địa danh hay toponym” [115; 1]. Tên gọi của những địa
điểm mà tác giả này nói tới chính là đối tƣợng nghiên cứu của địa danh học. Tất cả
các đối tƣợng thuộc về “những địa điểm, mục tiêu địa lí” hay chính là “những “vật
thể” tự nhiên hay nhân tạo với sự định vị xác định trên bề mặt trái đất, từ những vật
thể lớn nhất (các lục địa và đại dương) cho đến những vật thể nhỏ nhất (những ngôi
nhà, vườn cây, giếng nước đứng riêng rẽ) đều có tên gọi” [115; 13]. Phạm vi đối
tƣợng của địa danh mà Superanskaja đƣa ra tƣơng đối rõ ràng, nhất quán và phù
hợp. Tên gọi của những đối tƣợng có vị trí khơng cố định trên bề mặt trái đất không
phải là đối tƣợng của địa danh học.
S.A. Gardinar coi địa danh là “một từ hoặc cụm từ được nhận ra thông qua sự
biểu thị hoặc nhắm tới sự biểu thị một vật hay các sự vật mà nó chỉ ra bởi âm thanh
phân biệt với nó, mà khơng hề quan tâm đến bất kì ý nghĩa nào mà nó gắn với hình
thức âm thanh ban đầu, hoặc nhận biết nó thơng qua sự liên kết hay các vật đã nói”
[Dẫn theo 111; 17]. Cách hiểu này nhấn mạnh chức năng đánh dấu của địa danh,
xem địa danh đơn giản chỉ là những cái nhãn bằng âm thanh dán lên một đối tƣợng
để đánh dấu nó. Theo đó, những cái nhãn ấy hồn tồn khơng có một ý nghĩa nào và
chức năng chuyển tải văn hóa của địa danh bị triệt tiêu. Việc phủ nhận các giá trị

15



văn hóa của địa danh là đồng thời đang phủ nhận những giá trị giao tiếp của nó.
Chúng tơi cho rằng, tên riêng nói chung và địa danh nói riêng, nếu chỉ là những cái
nhãn vơ hồn thì lập tức sẽ bị lãng quên ngay sau khi vừa sử dụng. Nhƣ thế, sự “giao
tiếp” giữa các thế hệ trong lịch sử sẽ không thể thực hiện, quá khứ ngủ im trong bức
tƣờng thành đóng kín và các thế hệ tƣơng lai thì chẳng biết gì về tổ tiên của họ.
Nhóm học giả Jerome Donald Fellmann, Arthur Getis và Judith Getis quan
niệm: “Toponyms là địa danh, tức là ngôn ngữ đặt trên đất, cũng là bản ghi của các
cư dân trong q khứ, những người duy trì các tên gọi đó, có lúc thay đổi hay làm
sai đi, như là các nhắc nhở về sự tồn tại và qua đi của họ” [45]. Theo tinh thần trên,
địa danh một mặt là “ngôn ngữ đặt trên đất”, hay là những dấu hiệu để phân biệt đối
tƣợng địa lí này với đối tƣợng địa lí khác. Mặt khác, địa danh cịn là tín hiệu ghi lại,
lƣu giữ lại những dấu tích của các chủ nhân sáng tạo hoặc duy trì các tên gọi đó.
Hƣớng quan niệm này đã thực sự coi địa danh là những đơn vị ngôn ngữ, đồng thời
là phƣơng tiện bảo lƣu các giá trị văn hóa tộc ngƣời.
Trong khi đó, Naftali Kadmon (2000) lại thu hẹp nội hàm của khái niệm địa
danh khi phát biểu: “địa danh, gọi là tên địa hình (geographic name), là tên riêng
được dùng để chỉ nét đặc trưng về mặt địa hình, hoặc là trên trái đất (on Earth)
hoặc là trên các thiên thể (heavenly body) như mặt trăng, các hành tinh khác hay
một trong những vệ tinh của nó” [165; 13]. Từ phát biểu của ơng, có thể nhận thấy:
đối tƣợng mà địa danh gọi tên chỉ là các dạng địa hình, tức là các địa danh tự nhiên.
Tên gọi những sự vật do con ngƣời xây dựng, các cơng trình nhân tạo không thuộc
vào đối tƣợng nghiên cứu của địa danh học. Ngƣợc lại, ngoại diên của khái niệm địa
danh đƣợc mở rộng đến các đối tƣợng các thiên thể ngoài trái đất. Lúc này địa danh
bao gồm cả vũ trụ danh.
Ở Việt Nam, trong giao tiếp hàng ngày, thuật ngữ “địa danh” đƣợc sử dụng
khá phổ biến và rộng rãi để quy chiếu cho hầu hết các đối tƣợng, các địa điểm có
tên gọi và đƣợc xác định ở một vị trí nhất định nào đó. Thậm chí, ngay cả những
hiệu danh hay vũ trụ danh cũng tiềm ẩn khả năng trở thành địa danh trong những
ngữ cảnh giao tiếp nhất định. Chẳng hạn: khu vực trường Đại học Tự nhiên, khu vực
trường Đào Duy Từ,... Trong nghiên cứu, địa danh đƣợc hiểu theo nghĩa hẹp.


16


Không đặt ra nhiệm vụ nghiên cứu về địa danh, các tác giả Dƣơng Thị The,
Phạm Thị Hoa khi tập hợp tên gọi làng xã Việt Nam với những chỉ dẫn địa lí về các
đơn vị hành chính đã xem: “Địa danh của một vùng hay một nước là tổng thể các
tên riêng đặt ra để gọi các đơn vị địa lí tự nhiên hay nhân văn của một vùng hay
nước ấy” [159; 11]. Trong định nghĩa trên, dù nghiên cứu địa danh không phải là
nhiệm vụ trọng tâm, tác giả cũng đã chỉ ra đƣợc đối tƣợng đƣợc gọi tên trong địa
danh gồm cả đối tƣợng địa lí tự nhiên và nhân văn.
Nguyễn Văn Âu (2000) trong “Một số vấn đề về địa danh học Việt Nam” đã
xem “các quan niệm cho rằng địa danh là tên sông núi, làng mạc... hay tên các địa
phương, các dân tộc... là chưa thật hoàn chỉnh” bởi “địa danh học thật phức tạp”.
Vì vậy, theo ơng khái niệm địa danh học đƣợc hiểu trên cơ sở thuật ngữ từ tiếng Hy
Lạp: “địa danh học (Toponymie) là môn khoa học chuyên nghiên cứu về tên địa lí
các địa phương” [3; 5]. Cách hiểu chung chung này không dẫn tới một nội hàm cụ
thể của khái niệm. Tên gọi địa lí đƣợc giới hạn đến đâu, có đặc trƣng cụ thể là gì
khơng đƣợc tác giả này chỉ ra.
Từ cách tiếp cận theo hƣớng nghiên cứu ngơn ngữ - văn hóa, Lê Trung Hoa cho
rằng: “Địa danh là những từ hoặc ngữ, được dùng làm tên riêng của các địa hình
thiên nhiên, các đơn vị hành chánh, các vùng lãnh thổ và các công trình xây dựng
thiên về khơng gian hai chiều. Trước địa danh, ta có thể đặt một danh từ chung chỉ
tiểu loại địa danh đó” [57; 18]. Đây có thể xem là định nghĩa đầu tiên ở Việt Nam
tiếp cận địa danh từ hƣớng nghiên cứu của ngôn ngữ học. Trong các nghiên cứu của
mình, ngồi việc xác định khái niệm địa danh, tác giả đã làm nổi bật các đặc điểm
về cấu tạo, về chức năng và phạm vi đối tƣợng của địa danh. Xét về cấu tạo, tác giả
cho rằng địa danh có thể đƣợc cấu tạo bởi một từ (ví dụ: Hồng trong sơng Hồng,
Vọng trong làng Vọng,...) hoặc một ngữ (chẳng hạn, khu Ngã Bảy, cầu Đen 1,...).
Xét về chức năng, địa danh có chức năng gọi tên đối tƣợng cụ thể. Xét về phạm vi

đối tƣợng, địa danh là tên gọi của những đối tƣợng địa lí địa hình tự nhiên lẫn các
đối tƣợng nhân văn, giới hạn đối tƣợng là đặc trƣng “không gian hai chiều”. Tuy
nhiên, tác giả Lê Trung Hoa chƣa nói tới chức năng quan trọng nhất cũng là lí do để
có các tên riêng là chức năng phân biệt, đánh dấu đối tƣợng của địa danh.

17


×