Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) tổ chức hướng dẫn cho học sinh làm bài tập trong tập làm văn lớp 3 bài tập làm văn tuần 14

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (117.23 KB, 25 trang )

A- Đặt vấn đề
Phần mở đầu
I- Lý do chọn đề tài:
Đất nớc ta đang trong thời kỳ đổi mới phát triển theo hớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập với các nớc
trong khu vực và trên thế giới. Để đáp ứng đợc yêu cầu này
chúng ta phải coi trọng nhân tố con ngời, lấy việc phát
triển nguồn lực con ngời làm yếu tố cơ bản cho sự phát
triển nhanh và bền vững. Nói đến con ngời là nói đến
giáo dục. Giáo dục rất quan tâm đến yêu cầu giải phóng và
khả năng sáng tạo của thế hệ trẻ. Chính vì vậy theo Nghị
quyết trung ơng IV BCH Trung ơng Đảng khoá VIII đà khảng
định: Phải coi trọng và đầu t giáo dục, giáo dục là quốc
sách hàng đầu là động lực thúc đẩy, là điều kiện cơ bản
cho sù thùc mơc tiªu kinh tÕ x· héi. Thùc hiƯn chủ trơng
đúng đắn đó Bộ Giáo dục và Đào tạo ®· vµ ®ang triĨn
khai ®ỉi míi toµn diƯn, ®ång bé. Trong đó có đổi mới chơng trình dạy học các cấp nói chung và tiểu học nói riêng.
Chính vì vậy việc soạn thảo chơng trình tiểu học mới
gặp phần chuẩn bị lớp ngời phục vụ sự nghiệp công nghiệp
hoá hiện đại hoá và hội nhập với quốc tế đầu thế kỷ 21 là
hết sức cần thiết.
Do yêu cầu xà hội đặt ra cho giáo dục và đoà tạo ngày
càng cao nh vậy, nhằm khắc phục những hạn chế của chơng trình cũ và đáp ứng đợc những yêu cầu xà hội. Bộ
Giáo dục Đào tạo đà có chủ trơng soạn thảo và đa vào nhà
trờng bộ sách mới sách giáo khoa chơng trình 2000.
Chơng trình tiểu học 2000 nhằm kế thừa và phát huy
những thành tựu, khắc phục những tồn tại của chơng
trình cũ đây là chơng trình sẽ đợc áp dụng thống nhất
trong cả nớc để góp phần thực hiện bình đẳng trong giáo

1



dục. Chơng trình tiểu học mới có đổi mới về nội dung và
trọng tâm là đổi mới phơng pháp dạy học dạy nói cách khác
nội dung đổi mới đòi hỏi phơng pháp cũng đổi mới nhằm:
Phát huy tính tích cực chủ động, sáng tạo của học sinh
trên cơ sở khai thác triệt để các đặc điểm tâm sinh lý
của học sinh tiểu học đồng thời là sách giáo khoa ra ®êi
trong ®ã cã m«n TiÕng ViƯt.
M«n TiÕng viƯt ë tiĨu học đợc dạy và học không qua
nhiều phân môn khác nhau: Học vần, tập đọc, tập viết,
luyện từ và câu, kể chuyện, tập làm văn. Trong các phân
môn đó phân môn Tập làm văn chiếm một vị trí đặc
biệt quan trọng trong dạy - học Tiếng việt vì:
- Phân môn Tập làm văn tận dụng các hiểu biết và kỹ
năng về Tiếng việt do các Phân môn khác rèn luyện và
cung cấp đồng thời góp phần hoàn thiện chúng. Để làm đợc bài văn nói hoặc viết ngời làm phải hoàn thiện cả 4 kỹ
năng nghe, nói, đọc, viết, phải biết vận dụng các kiến thức
về Tiếng Việt.
- Phân môn Tập làm văn rèn luyện cho học sinh kỹ năng
sản sinh văn bản. Nhờ vậy, Tiếng việt không chỉ là một hệ
thống cấu trúc đợc xem xét từng phần, từng mặt qua từng
phân môn mà trở thành công cụ sinh động trong quá trình
giao tiếp t duy học tập. Nói cách khác phân môn tập làm
văn đà góp phần thực hiện hoá mục tiêu quan trọng bậc
nhất của việc dạy và học Tiếng việt là dạy học sinh sử dụng
Tiếng việt trong đời sống sinh hoạt, trong quá trình lĩnh
hội các tri thức khoa học Tập làm văn là thớc đo đánh giá
kết quả học tập và giảng dạy phân môn khác.



tiểu học phân môn tập làm văn có nhiệm vụ rèn

luyện kỹ năng nói và viết qua các kiểu bài miêu tả, kể
chuyện, tờng thuật, viết th, viết đơn từ. Đồng thời phân
môn tập làm văn góp phần cùng các môn học khác rèn luyện

2


t duy phát triển ngôn ngữ và hình thành nhân cách cho
học sinh.
Môn tập làm văn lớp 3 chơng trình 2000 đà chú trọng
nhiều đến yêu cầu rèn luyện kỹ năng nói cho học sinh.
Các em đợc luyện nói theo chủ đề, luyện nói theo
truyện kể theo tranh ảnh Các giờ tập làm văn nói có
nhiệm vụ cho học sinh khả năng độc thoại để trình bày
các bài nói thuộc thể loại khác nhau. Trong thực tế ít bài tập
làm văn nói thành công, thờng học sinh không chịu nói
hoặc bắt buộc phải nói thì học sinh đọc lại, đọc bài đÃ
chuẩn bị, có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên:
Học sinh nói cả bài các em không thể nói đợc, cách bố trí
lớp học, cách tiến hành giờ học không tạo hứng thú nhu cầu
nói của học sinh
Muốn học sinh làm đợc một bài văn hay theo đúng
nghĩa là một văn bản sản sinh, một nhân cách có sáng tạo
thì trớc hết giáo viên phải dạy tốt. Trên cơ sở nắm vững nội
dung chơng trình, ngời giáo viên truyền đạt nội dung tri
thức đến học sinh và bằng sự truyền đạt đó mà tốt chức
cho học sinh tiến hành hoạt động học để chiếm lĩnh tri
thức. Nh vậy giáo viên cần dạy thế nào để học sinh làm bài

tốt, biến quá trình dạy học của giáo viên thành quá trình
học của học sinh. Điều này đòi hỏi giáo viên phải có trình
độ s phạm lành nghề, luôn tìm tòi sáng tạo và đổi mới phơng pháp dạy học một cách tích cực.
Việc dạy học theo tinh thần đổi mới phơng pháp, tích
cực hoá hoạt động của học sinh đòi hỏi giáo viên phải quan
tâm đến vấn đề giúp học sinh thực hiện các nhiệm vụ
học tập tức là giáo viên phải quan tâm đến vấn đề quá
trình làm ra sản phẩm chứ không chỉ là quan tâm đến
sản phẩm (đáp án) nghĩa là giáo viên phải hớng dẫn, gợi mở
dẫn dắt để học sinh tự làm bài tập, tù t×m ra kiÕn thùc

3


mới.
Hiện nay bản thân tôi còn rất bỡ ngỡ và khó khăn khi dạy
phân môn Tập làm văn lớp 3 sách giáo khoa mới đặc biệt là
việc dạy học theo tinh thần quan tâm đến việc tổ chức hớng dẫn cho các con làm bài tập.
Để đạt đợc mục tiêu giáo dục mà Đảng đề ra và xuất
phát từ các lý do trên. Tôi đà Quyết định chọn đề tài: “Tỉ
chøc híng dÉn cho häc sinh lµm bµi tËp trong Tập làm văn
lớp 3: bài Tập làm văn tuần 14 làm đề tài nghiên cứu của
mình.
II- Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
1) Mục đích nghiên cứi:
Việc nghiên cứu đề tài “Tỉ chøc híng dÉn cho häc sinh
lµm bµi tËp trong giờ làm văn lớp 3, bài Tập làm văn tuần
14 chơng trình 2000 nhằm giúp học sinh có khả năng
phân biệt nhận biết các kiểu bài Tập làm văn trong tuần.
Từ đó nhằm nâng cao chất lợng, hiệu quả dạy và học giờ

Tập làm văn ở trờng tiểu học thực hiện mục tiêu giáo dục
đề ra:
Đào tạo cong ngời phát triển toàn diện.
2) Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt đợc mục tiêu trên thì đề tài đặt ra cho ngời
giáo viên những nhiệm vụ chủ yếu sau đây:
2.1 Tìm hiểu mục đích, phân loại các bài Tập làm văn
của bài Tập làm văn tuần 14.
2.2 Tìm hiểu mối liên quan giữa bài Tập làm văn với các
bài học khác trong tuần.
2.3 Tìm hiểu những khó khăn của học sinh khi tìm
hiểu bài tập.
2.4 Đa ra đáp án cho từng bài
2.5 Trình bày quy trình, từng thao tác học sinh thực
hiện để hoµn thµnh bµi tËp.

4


III- Đối tợng nghiên cứu:
3.1 Đối tợng học sinh lớp 3- chơng trình và sách giáo khoa
cho môn Tập làm văn lớp 3 trọng tâm là hệ thống bài tập.
3.2 Việc học và dạy thực nghiệm phân môn Tập làm văn
B- Giải quyết vấn đề
Chơng I: Những cơ sở thực hiện đề tài này
I- Vấn đề đổi mới phơng pháp dạy học Tiếng việt
Sự biến đổi của nền kinh tế và xà hội nớc ta trong giai
đoạn công nghiệp hoá hiện đại hoá theo đờng lối Đại hội
Đảng lần thứ VIII và IX vừa tạo điều kiện vừa đòi hỏi nhà trờng phải nâng cao chất lợng giáo dục và đổi mới phơng
pháp dạy học, trong đó có môn Tiếng việt.

Phơng pháp dạy học là cách thức, là con đờng của tổ hợp
hoạt động dạy của giáo viên, hoạt động häc cđa häc sinh
nh»m thùc hiƯn mơc ®Ých ®Ị ra đó là hệ thống tri thức,
kỹ năng, kỹ xảo và hoạt động sáng tạo học sinh cần chiếm
lĩnh.
Phơng pháp dạy học phụ thuộc vào nội dung dạy học. Nội
dung dạy học thay đổi kéo theo phơng pháp dạy học cũng
thay đổi chính vì vậy khi dạy học ngời giáo viên phải sử
dụng nhiều phơng pháp phù hợp với nội dung bài học. Nội
dung bài học phải đảm bảo tính cơ bản và tính vừa sức
trong đó tính cơ bản là cơ sở Ban đầu là nền móng cho
quá trình lĩnh hội tri thức, hình thành kỹ năng, kỹ xảo ở
học sinh tiểu học, phơng pháp dạy học còn phụ thuộc vào
đặc điểm tâm sinh lý của ngời học.
Vậy đổi mới phơng pháp dạy học thực chất là tìm cách
chuyển hoá những thành tựu nhất của khoa học kỹ thuật và
khoa học giáo dục và thực tiễn dạy học. Một vấn ®Ị nh vËy
®ßi hái sù ®ỉi míi ®ång bé tõ nội dung, phơng pháp dạy
học đến phơng tiện, hình thức tổ chức dạy học.
Tinh thần cơ bản của dạy học theo t tởng công nghệ giáo

5


dục là hớng tới xác lập một quy trình (công nghệ) dạy học
để tổ chức, điều khiển, kiểm soát nó về phơng pháp, đó
là tổ chức làm trong giờ học chuyển cách dạy học thầy
giảng, trò nghi nhớ thành thầy tổ chức việc làm, trò thực
hiện. Giờ học lúc này sẽ đợc cấu thành từ một tổ hợp nhiệm
vụ và bài tập.

Giáo viên phải nắm chắc mục đích của các nhiệm vụ
và bài tập này, biết cách giải quyết chúng một cách chính
xác, nắm đợc trật tự các thao tác cần tiến hành để hớng
dẫn học sinh. Công việc của thầy lúc này là ra nhiệm vụ, hớng dẫn học sinh thực hiện các nhiệm vụ và kiểm tra đánh
giá viƯc thùc hiƯn c¸c nhiƯm vơ cđa häc sinh. NhiƯm vụ đợc giáo viên trình bày ngắn gọn, rõ ràng, chính xác. Nhiệm
vụ phải đợc xây dựng sao cho trật tự. Thực hiện phải đợc
trải dài theo trình tự thời gian, chia ra từng thao tác. Giáo
viên phải dành thời gian thích hợp để kiểm tra, đánh giá
kết quả cuối cùng. Đây là khâu rất quan trọng vì nó vừa cã
t¸c dơng kÝch thÝch høng thó häc tËp cđa häc sinh, vừa đa
ra mẫu lời giải đúng.
Để tổ chức hệ thống việc làm cần phải trải qua quá
trình học tập theo tính tuyết và biết chia cắt, nhóm gộp
đúng lúc.
Nhiều giáo viên tiểu học khi giao nhiệm vụ cho học sinh
đà bỏ qua quá trình. Họ không biết đặc mình vào vị trí
đứa trẻ 6-11 tuổi để thấy đợc những khó khăn của học
sinh. Họ không lý giải đợc mình ®· lµm nh thÕ nµo dêng
nh “LËp tøc” cã kÕt quả, không có quá trình lên lớp giao
nhiệm vụ, chờ kết quả, không hớng dẫn, không kiểm soát,
kiểm tra, sửa chữa, đây là cách dạy cần phải phê phán.
Để đạt đợc kết quả tốt trong dạy học chúng ta cần nắm
vững nội dung bài dạy, đổi mới phơng pháp dạy học một
cách tích cực Lấy học sinh làm trung tâm ph¶i tỉ chøc

6


vận dụng linh hoạt các phơng pháp dạy khác nhau để giờ
học đỡ nhàm chán, khô cứng thuộc về khả năng s phạm của

các giáo viên. Chúng ta cần phản đối quan niệm sai lầm:
Một giáo viên có thể dạy hay trong khi năng lực chuyên môn
lại yếu. Song có những giáo viên năng lực chuyên môn tốt
nhng cha chắc đà dạy hay. Nói nh nhà giáo dục vĩ đại ngời
SeeJA. ComenxKi Dạy học là một nghệ vấn đề là ở chỗ
sự vận dụng, chuyển hoá các phơng pháp của mỗi giáo viên
đem tới giỏi gaign một hiệu quả và năng suất cao. Không có
hệ thống phơng pháp dạy học mẫu nào mà tối u mà điều
cần thiết là tính sáng tạo của ngời giáo viên.
II- Mục đích của sách giáo khoa Tiếng việt tiểu học mới:
Đất nớc đi lên cùng với sự phát triển loài ngời về mọi mặt
trong ®ã cã gi¸o dơc (ChiÕm u thÕ) ®· ®ãng gãp một phần
không nhỏ. Vì vậy Đại hội lần thứ VIII và IX đà Quyết định
đổi mới nội dung phơng pháp dạy học, trong đó có môn
tiếng viện mà chơng trình Tiếng việt gồm nhiều phân
môn, trong đó có phân môn Tập làm văn

chiếm u thế

lĩnh hội mọi kiến thức trong các môn để tạo ra yếu tố đầy
đủ trong giao tiếp vì thế, đánh giá chất lợng môn Tập làm
văn thông qua bài làm văn. Để làm đợc một bài văn nói
hoặc viết ngời làm phải sử dụng cả 4 kỹ năng: Nghe, nói,
đọc, viết và phải vận dụng các kiến thức tiếng việc. Trong
quá trình vận dụng thì các kỹ năng và kiến thức đợc từng
bớc nâng cao lên. Nh vậy phân môn Tập làm văn đà góp
phần hoàn thiện mục tiêu quan trọng của việc dạy học nhất
là trong giao tiếp.
Theo điều lệ 23- 1998 giáo dục tiểu học nhằm giúp học
sinh hình thành những cơ sở Ban đầu cho sự phát triển

đúng đắn và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, thể chất thẩm
mỹ và các kỹ năng cơ bản góp phần hình thành nhân cách
con ngời Việt Nam xà hội chủ nghĩa bớc đầu xây dựng t

7


cách và trách nhiệm công dân chuẩn bị cho học sinh tiếp
tục trung học cơ sở hoặc đi vào cuộc sống lao động góp
phần làm cho dân giàu nớc mạnh xẫ hội công bằng và văn
minh. Nh vậy, giáo dục trong nhà trờng hiện nay là phải Đào
tạo con ngời Đa năng tức là con ngời chủ động, tích cực,
sáng tạo, tìm kiếm phát huy cái mới.
Từ những việc xác định mục tiêu giáo dục tiểu học Bộ
Giáo dục Đào tạo đà vạch ra kế hoạch giáo dục đối với môn
học và hoạt động giáo dục: Đảm bảo dạy đủ số môn học và
hoạt động bắt buộc chủ động lựa chọn, cập nhật nội dung
dạy học, đa nội dung giáo dục địa phơng vào phân bố
thời lợng dạy các môn học bắt buộc và nội dung dạy học.
Qua đó xây dựng chơng trình theo cấu trúc hai giai đoạn
học tập. Giai đoạn lớp 1,2,3 và giai đoạn lớp 4-5. Trong các
giai đoạn thì môn tiếng việc là môn bắt buộc không thể
thiếu đợc đối với học sinh và đối với mục tiêu môn học cụ
thể là môn Tiếng việt nói chung.
Hình thành và phát triển ở học sinh kỹ năng sử dụng
Tiếng việt (đọc, viết, nghe, nói) và cung cấp những hiểu
biết về Tiếng việt nhằm từng bớc giúp các em làm chủ công
cụ ngôn ngữ để học tập trong nhà trờng- Rèn luyện kỹ
năng giao tiếp một cách đúng đắn mạch lạc, tự nhiên, tự
tin trong các môi trờng xà hội thuộc phạm vi hoạt động của

lứa tuổi và để tiếp tục học lên cấp học cao hơn.
Thông qua việc dạy Tiếng việt và sử dụng Tiếng việt rèn
luyện các thao tác t suy cơ bản (phân tích, tổng hợp, phán
đoán) cho học sinh.
Cung cấp những hiểu biết đơn giản về xà hội, tự nhiên
và con ngời, về văn hoá, văn học Việt Nam và nớc ngoài.
Bồi dỡng tình yêu cái đẹp, cái thiện lẽ phải và sự công
bằng trong xà hội, tình yêu và thói quen giữ gìn sự giàu
đẹp của Tiếng việt.

8


- Góp phần hình thành nhân cách con ngời Việt Nam
hiện đại có tri thức, thấm nhuần truyền thống tốt đẹp của
dân tộc a chuộng lối sống lành mạnh, ham thích làm việc
và biết rèn luyện khả năng thích ứng với cuộc sống xà hội
sau này.
III- Các dạng bài Tập làm văn ở tiểu học:
Môn Tiếng việt ở

tiểu học đợc coi là môn học chính

thức cơ bản và quan trọng nhất. Dạy Tiếng việt là dạy cho
trẻ có khả năng sản sinh văn bản. Việc thực hiện quá trình
này đợc tạo bởi nhiều phân môn trong Tiếng việt, quan
trọng nhất là phân môn Tập làm văn vì Tập làm văn có
đợc là nhờ sản phẩm của quá trình sản sinh văn bản. Căn
cứ vào sản phẩm (Bài viết hay bài nói) và hình thức tạo ra
sản phẩm ngời ta chia các bài Tập làm văn làn 2 dạng: Tập

làm văn miệng và bài Tập làm văn viết.
4.1 Tập làm văn miệng:
Tập làm văn

miệng nhằm rèn luyện cho học sinh khả

năng trình bày bài nói theo đề tài đà cho: Tả lại một em
bé chập chững tập đi, kể lại một câu chuyện đà nghe
Hiện nay ở tiểu học, mỗi đề bài ở lớp 4 lớp 5 đều có một
tiết Tập làm văn miệng, tiết Tập làm văn miện góp phần
phát triển ở học sinh năng lực nói một bài theo hình thức
độc thoại và mang phong cách khẩu ngữ. Bài nói này có
những đặc điểm riêng về nhiều mặt so với bài viết: Từ
cách triển khai ý tới cách lựa chọn từ ngữ, lựa chọn kiểu
câu, từ cách sử dụng yếu tố phi ngôn ngữ để phụ trợ cho
các thủ thuật nhằm thu hút ngời nghe. Bài Tập làm văn nói
không phải là một bài Tập làm văn viết đợc nói lên, không
phân biệt danh giới giữa việc nói một bài nói với việc nói
một bài viết.
Tuy nhiên cũng không nên tuyệt đối hoá ranh giới giữa
bài nói và bài viết, việc làm hai bài văn này đều sử dụng

9


một hệ thống kỹ năng nh nhau trong giai đoạn chuẩn bị,
chỉ khác một số kỹ năng trong giai đoạn hiện thực hoá,
đặc biệt là sự khác nhau trong công việc lựa chọn từ ngữ,
kiểm câu do sự chi phối của hai loại phong cách ngôn ngữ
khác nhau.

Dạng Tập làm văn nói rất có ích cho ngời học khi học bớc
vào cuộc sống hoạc học lên cấp học trên khả năng độc thoại
theo một đề tài khả năng mỗi ngời thờng gặp trong cuộc
sống, trong học tập nếu có khả năng độc thoại tốt ngời
trình bày sẽ tự tin và mạnh dạn khi làm việc và học tập. ở
tiểu học, tiết Tập làm văn miệng bắt đầu từ lớp 3 với kiểu
bài quan sát tranh và trả lời câu hỏi lên lớp 4,5 các tiết
miệng đợc bố trí ở tất cả các kiểu bài Tập làm văn ở từng
đề trong năm học.
Điều cần quan tâm là hầu hết các bài Tập làm văn
miệng cha mang lại kết quả nh mong muốn. Do nhiều
nguyên nhân trong đó đáng chú ý nhất là chúng ta cha tạo
ra đợc hoàn cảnh nói năng kích thức nhu cầu nói của học
sinh, không có nhu cầu và động cơ thì hành động nói
năng của các em trở nên gợng gạo, không tự tin.
4.2 Tập làm văn viết;
Tập làm văn viết nhằm rèn luyện cho học sinh khả năng
viết theo đề tài đà cho và thuộc các phong cách khác nhau.
Trong hai dạng Tập làm văn , đây là dạng chúng ta có
nhiều kinh nghiệm và thành công hơn.
Bài Tập làm văn viết là kết tinh nhiều mặt của năng lực
sử dụng Tiếng việt của học sinh vì thế bài văn viết đợc
dùng để đánh giá năng lực này qua mỗi kỳ, mỗi năm học và
qua kì thi tốt nghiệp, cấp học. Ngay trong các kì thi học
sinh giỏi, bài văn viết vẫn là hình thức duy nhất để đánh
giá và định giải.
Trong thực tế giảng d¹y hiƯn nay, ngêi ta thêng cho r»ng

10



tiết Tập làm văn

miệng chuẩn bị cho tiết Tập làm văn

viết. Điều đó đúng không? nh trên đà trình bày mỗi một
dạng bài có một yêu cầu và một nội dung, một sản phẩm
khác nhau. Hai dạng bài này nhằm phát triển ở ngời học
năng lực sử dụng Tiếng việt theo phong cách khẩu ngữ
hoặc phong cách bút ngữ, xét về mặt ngôn ngữ học, hai
phong cách này có quan hệ với nhau những cũng có nhiều
điểm khác nhau đồng thời chúng hỗ trợ cho nhau bổ sung
cho nhau. Vì thế không thể quan niệm tiết Tập làm văn
miệng chuẩn bị cho việc làm bài trong tiết Tập làm văn
viết. Quan niệm nh vậy là cha hiểu đúng yêu cầu và
nhiệm vụ của tiết Tập làm văn miệng, ảnh hởng đến phơng hớng giảng dạy hạn chế kết quả tiết dạy.
IV- Tính chất của phân môn Tập làm văn
Phân môn Tập làm văn có 2 tính chất: Tính chất tổng
hợp và tính sáng tạo
5.1 Tính chất tổng hợp của phân môn Tập làm văn : Đợc
thể hiện trên các mặt:
Phân môn Tập làm văn sử dụng toàn bộ các kỹ năng đợc
hình thành và phát triển do nhiều phân môn khác của
Tiếng việt đảm nhiệm (Kỹ năng viết chữ, kỹ năng viết
chính tả, kỹ năng đọc, kỹ năng viết) khi sử dụng phân
môn Tập làm văn cũng góp phần phát triển và hoàn thiện
chúng.
Phân môn Tập làm văn

còn sử dụng kiến thức và kỹ


năng do nhiều môn học khác nhau trong nhà trờng cung cấp
(nh các hiểu biết do môn tự nhiên xà hội, môn đạo đức,
môn hát nhạc, môn tập vẽ cung cấp).
Ngoài ra phân môn Tập làm văn còn huy đông toàn bộ
vốn sống hoặc mảng vốn sống của học sinh có liên quan
đến đề tài. Tả một cây đang ra hoa, hoặc quả, tả một
con mèo đang bắt chuột học sinh không chỉ huy động

11


vốn kiến thức qua các bài học và còn phải huy động tất cả
tình cảm, ấn tợng, cảm xúc, những ký ức còn lu giữ về con
vật, về cây cối, có nh vậy bài văn mới trở nên sinh động và
có hồn. Bài văn, kết quả học tập của phân môn Tập làm
văn phản ánh trình độ sử dụng Tiếng việt những tri thức
và hiểu biết đời sống của học sinh.
5.2 Tính chất sáng tạo của phân môn Tập làm văn
Khi làm bài văn học sinh đà thực hiện một hoạt động
giao tiếp. Mỗi bài văn là sản phẩm không lặp lại của từng
học sinh trớc đề bài. Do đó có thể nói trong việc học làm
văn học sinh đợc chủ động tự do thể hiện cái Tôi của
mình một cách rõ ràng, bộc lộ cái riêng của mình một cách
chọn vẹn. Dạy Tập làm văn là dạy các em suy nghĩ riêng,
tập sáng tạo, tập thể hiện trung thực con ngời của mình.
V- Sử dụng những hiểu biết về các dạng lời nói vào Tập
làm văn ở tiểu học:
ở tiểu học ngời ta chia Tập làm văn thành 2 loại: bài làm
miệng và bài làm viết. Cơ sở của sự phân chia này là sự

phân chia lời nói thành dạng khẩu ngữ và bút ngữ điều
cần lu ý là cả hai dạng bài làm văn (bài làm miệng và bài
làm viết) chủ yếu thuộc dạng lời độc thoại. Đó là sự bày tỏ
tình cảm, nhận xét, là sự trình bày các hiểu biết về văn
hoá, về cuộc sống của từng học sinh theo một đầu bài.
Rõ ràng sự hiểu về đặc điểm và mối liên hệ giữa khâu
ngữ và bút ngữ, lời độc thoại giúp ích nhiều cho ngời giáo
viên tiểu học khi dạy làm văn.
Chơng II
Những khó khăn của giáo viên và học sinh khi thực hiện
dạy và học phân môn Tập làm văn theo sách giáo khoa mới.
I- Những khó khăn của giáo viên:
Chơng trình Tiếng việt năm 2000 nhằm giúp học sinh
hình thành cơ sở Ban đầu cho sự phát triển đúng đắn

12


và lâu dài về đạo đức, trí tuệ, phẩm chất, thẩm mỹ và
các kỹ năng cơ bản để giúp học sinh tiếp tục học lên phổ
thông cơ sở.
Phân môn Tập làm văn là phân môn vẫn tiếp tục học
một số kiểu bài chơng trình CCGD và thêm nhiều kiểu bài
chơng trình 2000 để phù hợp với mục tiêu đà đề ra và xu
hớng phát triển của học sinh. Khi tìm hiểu nội dung chơng
trình và tổ chức hớng dẫn học sinh làm bài tập trong giờ
Tập làm văn lớp 3. Chúng tôi thấy việc giáo viên tiếp cận với
chơng trình mới gặp một số khó khăn sau:
1. Nội dung kiến thức của cá kiểu bài Tập làm văn lớp 3
chơng trình mới đợc cung cấp thông qua hệ thống các bài

tập không nh một đề bài cụ thể của chơng trình CCGD.
Đặc biệt là kiểu bài văn kể chuyện đợc đa vào rất phong
phú và đa dạng thông qua nhiều câu chuyện hấp dẫn nh
truyện ngụ ngôn, truyện cời Để học sinh kể lại đợc câu
chuyện đúng với nội dung với tình tiết, lời nhân vật thì
rất khó vì trong mỗi giờ Tập làm văn

giáo viên cần nói

nhiều, hớng dẫn gợi mở nhiều, cha đặt ra đợc tình huống
để học sinh giải quyết mà giáo viên còn phụ thuộc sách hớng dẫn giảng dạy trong khi đấy sách hớng dẫn cho từng bài
dạy.
- Đi vào cụ thể các tiết dạy thì hầu nh phần hớng dẫn
chỉ có đáp án mà không có quy trình (cách tiến hành)
một bài cụ thể nh thế nào, đây là vấn đề gây không ít
khó khăn cho giáo viên, khi chuẩn bị thiết kế bài lên lớp.
Chính vì vậy giáo viên không biết cụ thể hoá các bài tậpkhông xác định rõ mục tiêu trọng tâm tiết học thì lên lớp
sẽ không cân đối đợc thời gian một cách hợp lý, vấn đề
này dẫn đến tình trạng thiếu giờ dạy mà không hoàn
thành lợng bài tập theo yêu cầu của đề ra.
2. Trong quy trình hớng dẫn giảng dạy của sách giáo viên

13


là có nhiều bài tậo chỉ nêu đáp án không hề chốt lại kiến
thức bài học, cũng không có mục hớng dẫn ở nhà phần hớng
dẫn mang tính chất chung chung dẫn đến nhiều giáo viên
khi soạn bài giảng dạy trên lớp còn ra vào phơng pháp cũ dẫn
đến kết quả giờ học cha cao.

3. Trong các bài Tập làm văn lớp 3 chơng trình mới hầu
hết có liên quan đến đồ dùng dạy học mà hiện nay đồ
dùng dạy học phục vụ cho phân môn Tập làm văn còn thiếu
nhiều ở tiểu học do đặc điểm tâm sinh lí của các em
rất hiếu động nhạy cảm. Nếu trong giờ học có đủ đồ dùng
dạy học có liên quan đến bài sẽ kích thích đợc hứng thú
học tập của học sinh. Giờ học sẽ trở nên sinh động.
4. Trong những tiết Tập làm văn nhất là văn kể chuyện
yêu cầu giáo viên kể mẫu. Nhng nhiều giáo viên khi kể
chuyện cha kể đúng lời nhân vật, cha có giọng kể truyền
cảm còn lúng túng vì vậy cha thu hút đợc sù chó ý, høng
thó häc tËp cđa häc sinh.
5. Do trình độ nghiệp vụ chuyên môn của giáo viên cha
đồng đều, còn hạn chế nên việc tiếp cận với chơng trình
mới nhiều giáo viên còn lúng túng, cha linh hoạt trong quá
trình giảng dạy.
II- Những khó khăn với học sinh:
Nội dung chơng trình phân môn Tập làm văn lớp 3 chơng trình 2000 đà nghiên cứu, chọn lọc và có thay đổi
nhiều các bài tập đa dáng trong một giờ học. Đây chính là
vấn đề gây khó khăn trong việc hiểu và nắm vững đặc
điểm các dạng bài Tập làm văn trong chơng trình cho học
sinh.
Chính vì thế vấn đề vẫn còn tình trạng một số học
sinh khi thực hành không hiểu lệnh bài tập mà nếu chăng
còn mơ màng dẫn đến việc trả lời câu hỏi hoặc kể lại
câu chuyện không đạt đợc mục tiêu đề ra.

14



ở lớp 3 phân môn Tập làm văn có một số bài tập ở mức
quá cao và không phù hợp víi häc sinh miỊn nói vïng s©u,
vïng xa. VÝ dơc: Tiết Tập làm văn tuần 21 nói viết về ngời
lao động trí óc, tiết Tập làm văn tuần 26 tin thể thao, báo
đài bởi vốn hiểu biết về cuộc sống vốn ngôn ngữ nói và
viết của các em còn hạn chế, gây không ít khó khăn trong
việc hoàn thành các bài Tập làm văn miệng trong tiết làm
văn ảnh hởng không nhỏ trong việc nâng cao chất lợng dạy
học theo yêu cầu đề ra của phân môn Tập làm văn .
- Thời gian dành cho tiết học không phù hợp. ở

trờng

chúng tôi dạy hầu hết các em là học sinh dân tộc thiểu số,
do các em ít đợc giao tiếp ít đợc va chạm với cuộc sống xÃ
hội nên trong khi làm bài tập nhiều em không mạnh dạn
ngôn ngữ các em còn hạn chế đôi khi nói cộc lốc sai ngữ
điệu. Nên trong vòng 35 phút yêu cầu các em vừa kể
chuyện vừa tổ chức trò chơi thì học sinh sẽ không hoàn
thành số lợng bài tập.
- Trong giờ học khi tổ chức trò chơi hầu hết các em khi
chơi còn lúng túng, rụt rè vì các em cha hiểu hết nội dung
trò chơi, cha đợc tham gia chơi trò chơi nhiều.
Chơng III
Đề xuất phơng án hớng dẫn học sinh thực hiện các bài
tập trong giờ Tập làm văn tuần 14
I- Các bài Tập làm văn tuần 14
ở học kỳ I phân môn Tập làm văn lớp 3 chơng trình
2000 mỗi tuần có một tiết nên trong tuần 14 có các bài Tập
làm văn nh sau:

Bài tập 1: Nghe và kể lại câu chuyện sau:
Giấu Cày
Có một ngời đang cày ruộng thì vợ gọi về ăn cơm, thấy
vợ gọi riết quá, bác ta hét to trả lời:
- Để tôi giấu cái cày vào bụi đÃ!.

15


Về nhà bác ta bị vợ trách:
- Ông dấu cày mà la to nh thế, kẻ gian biết chỗ, lấy cày
đi thì sao?.
- Lát sau cơm nớc xong bác ta ra ruộng, Quả nhiên, cày
mất rồi. Bác ta bèn chạy một mạch về nhà. Nhìn trớc, nhìn
sau chẳng thấy ai, bác ta mới ghé sát vào tai vợ thì thầm:
- Nã lÊy mÊt cµy råi.
Trun Cêi ViƯt Nam
Bµi tËp 2: Trò chơi:
Một học sinh đóng vai khách, một học sinh đóng vai dẫn
khách đi thăm trờng, giới thiệu với khách về trờng và các
hoạt động của trờng.
+ Mục đích, dạng bài tập và các biện pháp, quy trình hớng dẫn cho học sinh thực hiện từng bài tập
* Mục đích:
Rèn cho học sinh kỹ năng nghe, nói, phục vụ cho viƯc häc
tËp vµ giao tiÕp cơ thĨ.
Bµi tËp 1: Häc sinh nghe, nhớ những tình tiết câu
chuyện để kể lại nội dung câu chuyện, biết kể với giọng
tự nhiên dí dỏm của câu chuyện vui.
Bài tập 2: Nắm đợc một số kỹ năng phục vụ học tập giao
tiếp thông qua trò chơi đóng vai dẫn khách đi thăm trờng,

biết giao tiếp, nói năng một cách mạnh dạn, tự nhiên khi giới
thiệu với khách về trờng và các hoạt động của trờng.
-Biết ứng xử, nói năng lịch sự khi giao tiếp
+ Các dạng bài tập
Bài tập 1: Thuộc dạng nghe và kể lại câu chuyện, truyện
cời: Giấu Cày.
Bài tập 2: Thuộc dạng trò chơi đóng vai không qua giao
tiếp. Biện pháp hớng dẫn học sinh làm bài Tập làm văn
tuần 14.
- Giáo viên xác định đúng mục đích của các nhiệm vô

16


và bài tập trong giờ Tập làm văn từ đó giáo viên biết cách
giải quyết các bài tập chính xác, ngắn gọn đồng thời năm
đợc trật tự các thao tác cần tiến hành để hớng dẫn học sinh
thực hiện đúng nhiệm vụ bài tập.
- Giúp học sinh nắm vững mục đích yêu cầu của bài
tập bằng câu hỏi hoặc lời giải thích ví dụ nh:
Đề bài yêu cầu gì?
Tên truyện là gì?
- Khi kể mẫu giáo viên cần kể đúng nội dung câu
chuyện đúng lời nhân vật, xác định giọng điệu của lời
kể (vui, hài hớc) chuẩn bị về ngôn nữg có vậy mới gây đợc
sự chú ý, hứng thú häc tËp cđa häc sinh.
- Khi híng dÉn häc sinh làm bài tập giáo viên phải đặt
mình và vị vị trí của đứa trẻ 6-11 tuổi để hình dung
những khó khăn của các em khi kể, hoặc giao tiếp trớc lớp.
Học sinh không lý giải đợc làm thế nào để kể đúng nội

dung câu chuyện. Vì vậy giáo viên cần hớng dẫn bằng
những câu hỏi gợi mở, dẫn dắt để giúp học sinh kể đúng
với nội dung và trình tiết câu chuyện.
- Trong lớp học trình độ nhận thức của các em không
đồng đều. Chính vì vậy trong giờ Tập làm văn

kể

chuyện có những em kể rất tốt, có những em kể đợc hoặc
có kể đợc còn sai, thiếu tình tiết Vì vậy khi soạn bài với
học sinh yếu, TB giáo viên phải có câu hỏi gợi mở từ câu
đến đoạn với hoc sinh khá, giỏi giáo viên cần đa câu hỏi
nâng cao hơn. Tuỳ thuộc vào trình độ của mỗi học sinh
mà giáo viên thiết kế bài dạy phù hợp.
- Học sinh nghe hoặc viết lại những điều mình nghe,
mình kể ở trên liên kết thành các đoạn hoặc câu chuyện
đúng với nội dung cốt truyện.
Để phát huy tính tích cực, học tập của học sinh, giáo
viên có thể tỉ chøc cho häc sinh kĨ chun theo nhãm, c¸c

17


nhóm thảo luận đa ra cách kể phù hợp với nội dung câu
truyện tổ chức thi kể giữa các nhóm với nhau. Các nhóm kể
xong giáo viên kiểm tra đánh giá là khâu rất quan trọng vì
nó vừa có tác dơng kÝch thÝch, høng thó häc tËp cho häc
sinh võa đa ra lời kể (đáp án đúng).
Ngoài biện pháp trên giáo viên cần có thái độ s phạm
thích hợp. Giáo viên cần động viên, khích lệ tạo không khí

học tập thoải mái, sôi nổi, vui vẻ để cac em nhiệt tình
xây dựng bài và chú ý đến hoạt động học tập chung của
lớp. Một lời động viên của cô giáo, một ánh mắt trìu mến
của cô cùng với sự chú ý lắng nghe, nghiêm túc học tập của
bạn bè trong lớp sẽ là niềm động viên và khích lệ rất lớn giúp
các em bạo dạn, tự tin khi giao tiếp trớc cả lớp. Để tạo đợc
không khí học tập sôi nổi, giờ học đạt kết quả giáo viên
yêu cầu học sinh về nhà phải đọc bài trớc ở nhà khi lên lớp
các em sẽ tự tin hơn.
Từ các biện pháp trên đợc cụ thể hoá thành quy trình hớng dẫn học sinh thực hiện dạng bài tập tuần 14 nh sau:
II- Quy trình hớng dẫn học sinh làm bài tập
1) ổn định tổ chức (lớp hạt 1 bài)
2) Kiểm tra bài cũ
Giáo viên gọi 2 học sinh giới thiệu với các bạn trong lớp về
tổ em và các hoạt động của tổ trong tháng qua.
3) Bài mới:
1- Giới thiệu bài
2- Hớng dẫn học sinh làm bài tập
Hoạt động 1: Hớng dẫn nghe và kể chuyện
Bài tập 1: Nghe kể lại câu chuện sau: Giấu Cày
Yêu cầu 2 học sinh đọc đề
Đề bài yêu cầu gì?
Tên chuyện là gì?
Bớc 1: Giáo viên kể chuyện: Giáo viên kể 2 lần

18


Bớc 2: Hớng dẫn học sinh kể
Giáo viên nêu câu gợi mở giúp học sinh nhớ ý chính của

câu chuyện
+Truyện có tên là gì?.
+Câu chuyện có mấy nhân vật chính? đó là nhân vật
nào?.
+Bác nông dân đang làm gì?
+Khi vợ gọi về ăn cơm bác trả lời nh thế nào?.
+Vợ bác đà trách bác điều gì?
+Bác nông dân làm gì khi Cày đà mất?
+Câu chuyện trên buồn cời chỗ nào?
- 1 học sinh kể lại lần 3.
Bớc 3: Học sinh tập kể chuyện theo nhóm
- Giáo viên theo dõi hớng dẫn nhóm kể còn lúng túng
- Đại diện nhóm lên thi kể theo lối phân vai.
Giáo viên cùng học sinh nhËn xÐt.
Khun khÝch nhãm kĨ ®óng víi néi dung cèt truyện và
rút ra điều cần nhớ.
Hoạt động2: Trò chơi
Bài tập 2: Trò chơi học sinh đóng vai khác, một học sinh
đóng vai dẫn khác đi thăm trờng giới thiệu với khác về trờng và các hoạt động của trờng mình.
Yêu cầu 1-2 em đọc đề bài
- Đề bài yêu cầu gì?
- Cách chơi nh thế nào?
Bớc 1: Hớng dẫn cách chơi
-Giáo viên cho học sinh chơi theo nhóm.
-Giáo viên cho một nhóm chơi thử.
Bớc 2: Học sinh chơi
- Các nhóm lần lợt lên đóng vai trò chơi.
- Giáo viên và các nhóm quan sát theo dõi nhận xét khen
ngợi nhóm giới thiệu mạnh dạn, tự tin đúng yêu cầu đề bµi.


19


Hoạt động 3: Củng cố, dặn dò.
- 1 học sinh kể lại câu chuyện
- Nhận xét giờ học.
- Dặn dò: Về ôn bài và tập kể lại chuyên cho ông bà bố
mẹ nghe.
Chơng VI- Dạy thực nghiệm
Với các biện phát đề xuất trên tôi đà áp dụng và phổ
biến rộng rÃi với các đồng nghiệp của tôi và tôi thấy rất có
hiệu quả. Tuỳ theo từng dạng bài tập mà giáo viên áp dụng
các biện pháp trên một cách linh hoạt có hiệu quả.
1. Mục đích thực nghiệm:
Việc dạy thực nghiệm tiết tập làm van tuần 14 nhằm
mục đich kiểm tra hiệu quả của các biện pháp đề xuất
mà chúng tôi đa ra có phù hợp hay không? Đồng thời kiểm
nghiệm tính khả thi, hiệu quả của quá trình lên lớp theo hớng lấy học sinh làm trung tâm. Từ ®ã ®iỊu chØnh lý ln
®Ĩ phï hỵp víi thùc tiƠn tìm ra những u điểm và những
tồn tại của từng bài tập cụ thể từ đó rút ra kết luận về việc
thực hiện đổi mới phơng pháp dạy học
2. Đối tợng thực nghiệm:
Chúng tôi tiến hành dạy thực nghiệm lớp 3 đại trà tại trờng.
Lớp
Số học sinh làm bài
3A
20 em
3K
20 em
3. Nội dung dạy thực nghiệm

Thực nghiệm dạy bài Tập làm văn tuần 14
4. Quá trình thực nghiệm:
Thực nghiệm lần 1 víi häc sinh líp 3 A
Thùc nghiƯm lÇn 2 với ọc sinh 3 K.
Nhận xét: Đánh giá thực nghiệm lần 1
Sau khi dạy thực nghiệm lần thứ nhất ở líp 3 A t«i rót ra
20


mét sè nhËn xÐt sau:
Bµi tËp 1: Nghe vµ kĨ lại câu chuyện Giấu Cày
Qua tiết dạy tôi thấy hầu hết các em đều kể lại câu
chuyện đợc. Nhng trong khi kể nhiều em còn lúng túng cha
biết kể đúng lời nhân vật. Với những câu hỏi trong bài
soạn nhìn chung có rõ ràng, khi thực thi thì tôi thấy câu 3
Bác nông dân đang làm gì khi vợ gọi về ăn cơm? câu
hỏi này còn vắn tắt học sinh khó hiểu với những câu hỏi
này ta cần bổ sung thêm câu hỏi gợi mở: Bác nông dân
đang làm gì? Ai gọi Bác về ăn cơm? và câu hỏi theo em
câu chuyện này kể với giọng điệu nh thế nào? cần gợi mở
thêm: Câu kết lời bác nông dân nói với vợ kể với giọng nh
thế nào? đồng thời cho học sinh kể theo nhóm, thi kể giữa
các nhóm với nhau theo lối phần vai để gây sự hứng thú
học tập cho học sinh.
Bài tập 2: Khi tổ chức trò chơi đóng vai, các em chơi
còn lúng túng, cha bạo dạn còn mơ màng vì vậy với bài tập
này giáo viên nên cho các em chơi thật, cho các em dẫn
khác đi quanh trờng để các em giới thiệu về trờng của
mình với khách.
Khi các em tiếp xúc với cảnh vật thật thì lúc đấu các em

sẽ giới thiệu một cách bạo dạn, tự tin hơn. Vì vậy ta cần tổ
chức cho học sinh chơi thật.
Sau khi dạy thực nghiệm lần 1 với kết quả không đợc nh
mong muốn. Tôi đà tiến hành soạn lại bài và dạy thực
nghiệm lần 2 lớp 3 K (đại trà).
Nhận xét dạy thực nghiệm lần 2
Sau khi đà điều chỉnh giáo án tôi đà tiến hành dạy thực
nghiệm lần 2. Qua tiết dạy tôi thấy mình nh mạnh dạn tự
tin hơn đà nắm vững đợc phơng pháp dạy phân môn Tập
làm văn khi áp dụng quy trình này học sinh có đợc kết quả
sau:

21


Bài tập 1:
Câu hỏi trong bài soạn khá tỉ mỉ, rõ ràng, phù hợp với
học sinh. Hầu hết các em đà nghe và kể đúng tình hình
biết nội dung câu chuyện. Biết kể đúng giọng của từng
nhân vật, biết kể víi giäng vui, hãm hØnh, nhiỊu häc sinh
®· biÕt kĨ với cử chỉ điệu bộ của các em.
- Nhiều em đà mạnh dạn xung phong kể thi, cùng các bạn
Bài tập 2: Với phơng án cho học sinh chơi thật
Tôi thấy các em chơi hầu hết rất tích cực, các em đÃ
trực tiếp giới thiệu với khách (cô giáo và các bạn) về trờng và
cao hoạt động của trờng một cách tự nhiên bạo dạn. Nhiều
em là khách đà biết phỏng vấn lại bạn.
Với cách dạy theo quy trình trên làm cho giờ học, không
còn nặng nề, đơn điệu. Giờ học trở nên sôi động, hứng
thú từ đầu đến cuối, các em biết tự đánh giá khả năng

giao tiếp, học tập của mình làm cho các em hứng thú học
tập. Với các em học sinh yêu cầu các em đợc sự quan tâm
giúp đỡ nhiều hơn và các em sẽ tù tin h¬n trong häc tËp
cịng nh giao tiÕp.
C- KÕt luận
Chơng trình tiểu học 2000 nhằm giúp học sinh hình
thành những cơ sở Ban đầu cho sự phát triển đúng đắn,
lâu dài về đạo đức trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kỹ
năng cơ bản để học sinh tiếp tục học trung học cơ sở.
Môn Tiếng việt chiếm một vị trí rất quan trọng. Tiếng
việt tạo điều kiện và cơ sở cho học sinh học tốt các môn
học khác trong chơng trình. Trong đó đó phân môn Tập
làm văn có nhiệm vụ rèn cho học sinh kỹ năng nói và kỹ
năng viết qua các kiểu bài văn miêu tả, viết th, kể
chuyệnTrong chơng trình lớp 3 khi tổ chức hớng dẫn học
sinh làm một tiết Tập làm văn lớp 3 có những điểm rất
khoá vì nó đòi hỏi ngời giáo viên phải có năng lực dẫn và

22


ứng dụng linh hoạt các phơng pháp giảng dạy trên lớp. Bởi
vậy làm thế nào để chúng ta dạy tốt phân môn Tập làm
văn là một vấn đề chúng ta dạy tốt phân môn Tập làm văn
là một vấn đề hết sức cần thiết.
Để tháo gỡ những khó khăn trong thời gian qua tôi đÃ
tìm hiểu, nghiên cứu đề tài, cùng với sự hớng dẫn của
chuyên môn nhà trờng và sự góp ý của đồng nghiệp tôi
nhận thấy việc đa ra biện pháp dạy Tập làm văn lớp 3 nói
chung và Tập làm văn tuần 14 nói riêng là rất cần thiết. Vì

vậy khi tổ chức hớng dẫn học sinh làm bài Tập làm văn giáo
viên cần phải:
- Nắm vững mục đích yêu cầu bài tập: Mục đích rèn
cho học sinh nghe, nhớ, kể lại câu chuyện và rèn kỹ năng
giao tiếp.
- Nắm đợc các dạng bài tập, bài tập thuộc dạng nào? từ
đó giúp học sinh giải quyết bài tập chính xác, ngắn gọn.
- Với mục đích phân môn Tập làm văn lớp 3 khi soạn bài
phải soạn lời giải và quan trọng nhất là phải soạn những
câu hỏi gợi mở dẫn dắt cho học sinh thực hiện từng thao
tác khi làm bài tập. Có nh vậy học sinh mới chủ động, sáng
tạo.
- Khi học sinh làm bài xong giáo viên phải nhận xét rút
kinh nghiệm, khen ngợi, động viên kịp thời để kích thích
hứng thú học tập cho học sinh.
Để đạt đợc kết quả trong dạy học chúng ta phải nắm
vững nội dung bài dạy, phải đổi mới phơng pháp dạy học
một cáh tích cực Lấy học sinh làm trung tâm phải vận
dụng linh hoạt, nhuần nhuyễn các phơng pháp dạy học khác
nhau trong giờ học để đỡ nhàm chán, khô cứng.
Có thể khảng định đổi mới nội dung và phơng pháp
dạy học theo tinh thần tích cực hoá hoạt động của học sinh
là rất cần thiết, là hớng đi đúng đắn có tính khả thi cao,

23


đảm bảo sự thống nhất về mục tiêu, quan điểm nhận
thức, hành động thống nhất về trình độ chuẩn phù hợp với
đặc điểm, môi trờng giáo dục và phù hợp víi xu thÕ ph¸t

triĨn gi¸o dơc tiĨu häc ë khu vực và trên thế giới. Để đạt đợc kết quả nh mong muốn đòi hỏi mỗi giáo viên và học sinh
phải nỗ lực phấn đấu trong mọi điều kiện, hoàn cảnh. Kết
quả giáo dục phải đợc gây dựng liên tục, lâu dài và tranh
nôn nóng.
Mặc dù đà rất cố gắng nhng do thời gian nghiên cứu cha
nhiều, kinh nghiệm và năng lực của bản thân còn hạn chế
nên trong phạm vi đề tài này tôi mới xây dựng đợc Tổ
chức híng dÉn cho häc sinh lµm bµi tËp trong giê Tập làm
văn lớp 3 tuần 14 Nhằm góp phần đổi mới phơng pháp và
nâng cao hiệu quả giờ học dựa trên đặc điểm tâm sinh
lý lứa tuổi học sinh lớp 3, dựa vào nội dung chơng trình
cũng nh thực tế giảng dạy. Đây là một việc làm giúp cho tôi
tìm hiểu thêm về các biện pháp dạy học Tập làm văn lớp 3
và các lớp học khác trong chơng trình.
Trên đây là một số kinh nghiệm về :Tổ chức hớng dẫn
học sinh làm bài tập trong giờ Tập làm văn lớp 3 tuần 14
mà tôi đà trình bày ở trên. Khi sử dụng các phơng pháp
trên tôi thấy có kết quả cao trong học tập. Trong quá trình
nghiên cứu, tìm hiểu bản thân tôi chắc chắn không tránh
khỏi những thiếu sót. Mong các bạn đồng nghiệp tham
khảo và đóng góp ý kiến.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

24


25



×