Tải bản đầy đủ (.doc) (69 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) dạy đọc hiểu truyện ngắn chí phèo trong chương trình ngữ văn 11 theo hướng tích hợp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (561.91 KB, 69 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Chi tiết nghệ thuật là một trong những yếu tố quan trọng của tác phẩm tự
sự. Tài năng của nhà văn thường bộc lộ qua việc sử dụng chi tiết. Nhà văn có thể
“bịa” ra cốt truyện nhưng chi tiết phải có từ đời sống, ở khả năng ghi nhận, từng
trải của bản thân. Những tác phẩm văn xuôi tự sự được đưa vào giảng dạy trong
chương trình THPT là những sáng tạo tinh thần độc đáo của người nghệ sĩ. Mỗi
tác phẩm mang sắc thái riêng như một kho báu vừa lộ thiên, vừa bí mật. Nhiệm
vụ của người giáo viên là giúp học sinh biết cách mở và khám phá kho báu đó,
nhất là phần chìm. “Một tác phẩm được ví như bóng đèn điện thì những chi tiết
hay như những sợi dây tóc phát sáng” (Nguyễn Thanh Tú). Phải làm sao để dây
tóc nghệ thuật ấy bật sáng. Nhưng bắt đầu từ đâu, như thế nào? thì địi hỏi sự
khéo léo tìm tịi, sáng tạo của người giáo viên.
Trước đây, khi đọc hiểu văn bản văn học, chúng ta chỉ tìm hiểu khái quát
đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Vì vậy, những lớp trầm tích ý
nghĩa và nhiều phương diện nghệ thuật của tác phẩm chưa được phát lộ. Cùng
với bước tiến của lý luận, khi phân tích tác phẩm tự sự hiện đại theo đặc trưng
thể loại, chúng ta đã đi sâu tìm hiểu nhân vật, tình huống truyện, kết cấu, giọng
điệu trần thuật, ngôn ngữ… mà chưa chú ý đúng mức đến chi tiết nghệ thuật. Vì
vậy, bài giảng nhiều khi rơi vào khô khan, thiếu sinh động, hấp dẫn. Đối với
giáo viên, việc giảng dạy tác phẩm tự sự chưa thực sự có nhiều cải tiến, đổi mới
phương pháp. Khi khai thác tác phẩm còn lúng túng, bởi phải chạy đua với
lượng thời gian quy định. Mặt khác, theo thói quen của nhiều người, trong tác
phẩm tự sự chỉ quan tâm đến cốt truyện, nhân vật, tình huống và những đề kiểm
tra của học sinh cũng thường xoay quanh các vấn đề trên, đó cũng là nguyên
nhân làm cho bài viết của học sinh trở nên ít mới mẻ và sâu sắc. Trong khi đó
các chi tiết trong mỗi tác phẩm mới thực sự là tế bào, là mạch máu tạo nên sức
sống và vẻ đẹp của từng thiên truyện. Vậy làm sao để giáo viên và học sinh cùng
khai thác được hết vẻ đẹp của thiên truyện?
1




Từ những trăn trở đó, người viết lựa chọn hướng nghiên cứu vấn đề khai
thác chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự. Tuy nhiên, tác phẩm tự sự trong
chương trình phổ thơng khá nhiều, lượng chi tiết nghệ thuật khá lớn. Mặt khác
hai năm trở lại đây, Bộ GD & ĐT đã định hướng thi THPT Quốc gia tập trung ở
lớp 12. Vì vậy, trong phạm vi sáng kiến này, người viết chỉ giới hạn Khai thác
chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự Ngữ văn 12.
2. Tên sáng kiến:
Khai thác chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự Ngữ văn 12
3. Tác giả sáng kiến:
- Họ và tên: Trần Thị Diễm Hằng
- Địa chỉ: Trường THPT Hai Bà Trưng, P. Hùng Vương, TP Phúc Yên, tỉnh Vĩnh
Phúc.
- Email:
4. Chủ đầu tư sáng tạo ra sáng kiến
- Tác giả: Trần Thị Diễm HằngTrTrtRẦN ThỊ Diễm Hằngần Thị Diễm Hằng
.- Chức vụ: Giáo viên trường THPT Hai Bà Trưng.
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến
- Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Môn ngữ văn THPT(trọng tâm: Ngữ văn
12)
- Vấn đề mà sáng kiến giải quyết là Khai thác chi tiết nghệ thuật trong
tác phẩm tự sự Ngữ văn 12
- Xác lập các hoạt động, các bước dạy và làm kiểu bài nghị luận về chi tiết
trong tác phẩm tự sự.
- Giúp học sinh có nền tảng lí luận văn học, có năng lực phân tích, để hiểu
sâu sắc giá trị tác phẩm văn học nói chung và khai thác chi tiết nghệ thuật trong
tác phẩm văn xi tự sự nói riêng.
- Giúp các em có kĩ năng làm bài văn cảm thụ chi tiết, đáp ứng được yêu
cầu của kì thi THPT quốc gia theo tinh thần đổi mới.

6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử
- Năm học 2018 - 2019
2


7. Mô tả bản chất của sáng kiến
7.1. Cơ sở lí luận, cơ sở thực tiễn của vấn đề nghiên cứu
7.1.1. Cơ sở lí luận
Xuất phát từ đường lối, quan điểm của Đảng về giáo dục và đào tạo: “Đổi
mới căn bản toàn diện giáo dục và đào tạo, đáp ứng u cầu cơng nghiệp hóa ,
hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và
hội nhập quốc tế”. Để thực hiện thắng lợi quan điểm đó, Bộ GD & ĐT đã có
nhiều chủ trương, biện pháp, chỉ đạo các Sở, ban, ngành, các nhà trường tích
cực, chủ động nghiên cứu, đổi mới nội dung, hình thức và phương pháp giảng
dạy để: “Mỗi học sinh không phải là cái hũ để chúng ta đổ đầy nước, mà mỗi
học sinh là một bó đuốc mà ta phải thắp cho sáng rực”.
Dạy văn cũng không nằm ngồi qui luật của việc dạy học nói chung đó. Nó
nhất thiết phải đổi mới theo hướng phát huy được tính chủ động, tự giác, sáng
tạo, đem lại niềm say mê với môn học của học sinh. Mặt khác, với đặc trưng của
bộ môn, tiếp nhận và cảm thụ văn bản văn học là điều vô cùng quan trọng với
người học văn cũng như người dạy văn. Bởi lẽ tác phẩm văn chương giống như
“tảng băng trôi”, phần nổi thì ít mà phần chìm thì nhiều. Mỗi người học văn
như một người thợ mỏ, đào từng lớp quặng ẩn sâu dưới từng vỉa đá cứng và thơ
nhám để tìm ra “hợp chất Radium” cho riêng mình. Trong đó, việc khai thác chi
tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự là một thao tác vơ cùng cần thiết.
Ai đó đã ví mỗi chi tiết nghệ thuật như một viên gạch nhỏ góp xây nên tịa
thành vĩ đại, lộng lẫy của ngơn từ – những tác phẩm văn học. Phân tích, cảm
nhận về chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự, vì thế, đã trở thành một việc
làm cần thiết, thậm chí là một thử thách với nhiều giáo viên và học sinh. Chính ở
đây người viết, người nói có thể chứng minh khả năng phát hiện, cảm thụ văn

chương, bộc lộ tư duy sáng tạo. Khi con đường dạy, học văn đang có nguy cơ
đứng trước lối mịn, sự khn sáo thì việc đào sâu vào những chi tiết nghệ thuật
trong tác phẩm tự sự là một thoa tác cần thực hiện trong mỗi giờ giảng văn. Ở
đó, mỗi khám phá lại giúp ta mở thêm ra thế giới văn chương đa hình mn sắc.
Xuất phát từ sự trăn trở ấy, sáng kiến kinh nghiệm hướng tới giải quyết thực
3


trạng việc học văn thụ động của học sinh hiện nay. Đây là một hướng tiếp nhận
tác phẩm xuất phát từ đặc trưng thể loại vì vậy sẽ cung cấp kĩ năng để học sinh
tiếp cận nhiều tác phẩm khác cùng thể loại trong chương trình Ngữ văn ở trường
phổ thơng.
7.1.2. Cơ sử thực tiễn
Nhà văn M.Gorki từng nói: "Văn học là nhân học". Vậy mà một thực
trạng đáng lo ngại là học sinh bây giờ khơng cịn hứng thú với môn văn. Qua
công tác giảng dạy cũng như chấm, trả các bài kiểm tra của học sinh, tôi nhận
thấy có rất nhiều những biểu hiện của tâm lý chán học văn. Vì khơng có hứng
thú học văn nên hầu hết học sinh không đọc trước tác phẩm ở nhà, hoặc chỉ đọc
qua loa, dẫn đến việc không nhớ các chi tiết nghệ thuật nên chưa nắm được cái
“cốt”, cái “thần” của tác phẩm. Đồng thời, học sinh cũng không biết cách khai
thác chi tiết nghệ tuật trong tác phẩm tự sự khi tiếp cận kiểu bài này. Cụ thể, học
sinh thường rơi vào cảm nhận chung chung, xa rời văn bản và những chi tiết cụ
thể, đặc sắc của tác phẩm. Hay vẫn cịn có em thuật lại hoặc tóm tắt tác phẩm,
thậm chí có trường hợp hiểu sai lệch ý đồ của nhà văn. Có lẽ nguyên nhân là do
học sinh chưa được trang bị đầy đủ kiến thức lí thuyết cơ bản về chi tiết nghệ
thuật từ các bài học lí luận văn học.
Về phía giáo viên, hầu hết ai cũng thấy thời lượng dành cho tác phẩm tự sự
ít, trong khi đó các tác phẩm tự sự thường có dung lượng khá dài, khơng có thời
gian đọc hết ở trên lớp, không thể nhớ hết chi tiết đặc sắc trong tác phẩm. Mặt
khác, trong quá trình phân tích tác phẩm, giáo viên cịn phân tích chung chung

chưa đi sâu và chi tiết, hoặc chỉ phân tích ý nghĩa của chi tiết, chưa đưa ra trình
tự khai thác chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự. Vì vây, khi giáo viên ra đề
về khai thác chi tiết trong tác phẩm tự sự, học sinh thường lúng lúng.
Về kì thi THPT quốc gia, trong năm học 2018- 2019, sau khi Bộ Giáo dục
và Đào tạo ban hành đề minh họa môn Ngữ văn, chúng ta đều nhận thấy ở phần
câu hỏi làm văn (câu 5,0 điểm) đã có sự thay đổi so với những năm trước. Kiến
thức đã đi vào chiều sâu khi yêu cầu học sinh khai thác, cảm nhận được vẻ đẹp,
ý nghĩa của những chi tiết nghệ thuật đặc sắc từ đó để làm nổi bật những khía
4


cạnh nội dung của tác phẩm. Năm học 2019-2020, theo thơng tin mới nhất của
Bộ GD & ĐT chưa có đề minh họa, mà vẫn dựa trên tinh thần đề minh họa và đề
thi năm học 2018-2019. Vì vậy, việc hướng dẫn cho học sinh phát hiện và phân
tích các chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự có ý nghĩa vơ cùng quan trọng,
nó khơng chỉ giúp học sinh tìm được một con đường đi hiệu quả, để khám phá
thế giới nghệ thuật phong phú trong tác phẩm mà còn làm tốt bài thi THPT quốc
gia đang đến gần.
Chọn đề tài khai thác chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự Ngữ văn
12 là một hướng đi mới trong nỗ lực đổi mới căn bản và toàn diện theo yêu cầu
của hội nghị Trung ương 8 khóa IX và cũng là của nền giáo dục nước nhà. Đồng
thời, người thực hiện sáng kiến kinh nghiệm còn muốn hướng tới việc hình
thành, rèn luyện cho học sinh những kĩ năng cần thiết trong học văn nói riêng và
trong cuộc sống nói chung. Đó là kĩ năng tiếp cận vấn đề trên nền tảng kiến thức
lí luận, hình thành thói quen tư duy sáng tạo, tích cực, chủ động trong học tập
tạo tiền đề kiến thức để học sinh giải quyết các vấn đề trong học tập và thực
tiễn. Từ đó, hướng học sinh tới những giá trị sâu rộng hơn, phục vụ thiết thực,
hữu ích đối với việc hình thành năng lực, phẩm chất người học trong yêu cầu về
công dân thời đại mới.
7.2. Các biện pháp giải quyết vấn đề

7.2.1. Khái niệm chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự
Chi tiết là một từ ngữ quen thuộc trong giao tiếp hàng ngày. Theo Từ
điển Tiếng Việt (NXB Khoa học xã hội Hà Nội,1988) thì chi tiết là: Phần rất nhỏ,
điểm nhỏ trong nội dung sự việc hoặc hiện tượng (Ví dụ: Kể rành rọt từng chi
tiết). Như vậy trong đời sống hàng ngày từ “chi tiết” được hiểu và dùng như là
một thành tố, một bộ phận nhỏ của một sự việc, tổng thể.
Trong văn học, thì “Chi tiết là những biểu hiện cụ thể, lắm khi nhỏ nhặt,
nhưng lại cho thấy tính cách nhân vật và diễn biến quan hệ của chúng, đồng
thời cũng thể hiện sự quan sát và nghệ thuật kể chuyện của tác giả. Do đó, chi
tiết rất quan trọng đối với nhân vật, vừa tạo ra sức hấp dẫn, thú vị vừa bộc lộ ý
nghĩa của chúng” (Ngữ văn 11 Nâng cao – Nxb Giáo dục, 2011, tr.197).
Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” (nhóm tác giả Lê Bá Hán, Trần Đình
5


Sử, Nguyễn Khắc Phi, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội, 2000) thì chi tiết nghệ
thuật được hiểu là: “Các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc
và tư tưởng”. Ở đây cần phân biệt hai thuật ngữ: Chi tiết thuộc về nghệ
thuật và chi tiết có tính nghệ thuật:
Chi tiết thuộc về nghệ thuật: Những chi tiết có mặt trong tác phẩm nghệ
thuật song chỉ đóng vai trị vật liệu xây dựng làm tiền đề cho cốt truyện phát
triển thuận lợi và hợp lý, chẳng hạn như các chi tiết về kinh tế, vật giá trong tiểu
thuyết Của Banzac.
Chi tiết có tính nghệ thuật: Tính nghệ thuật ở khả năng nói được nhiều
điều, ở sức chứa lớn, ở khả năng tác động và khơi gợi ở độc giả những suy
ngẫm, những xúc cảm đầy tính nghệ thuật như chiết tiết bát cháo hành trong
truyện ngắn “Chí phèo” của Nam Cao, chi tiết nồi chè khốn trong truyện ngắn
“Vợ nhặt” của Kim Lân, hay chi tiết tiếng sáo đêm xuân trong “Vợ chồng A
Phủ” của Tô Hồi… Chi tiết có tính nghệ thuật thể hiện tập trung cho cấu tứ của
tác giả, thường được tác giả nhấn mạnh, tô đậm lại bằng nhiều biện pháp khác

nhau… Hiển nhiên khi đến với tác phẩm tự sự chúng ta dành sự quan tâm đặc
biệt cho chi tiết có tính nghệ thuật.
Như vậy, chi tiết nghệ thuật gắn với quan niệm nghệ thuật và quan niệm
nhân sinh của nhà văn. Đối với người đọc khi nhận biết được các chi tiết đắt giá
trong tác phẩm, chúng ta có thể làm sáng tỏ được ý nghĩa của hình tượng nghệ
thuật, tư tưởng chủ đề của tác phẩm và hiểu rõ ý đồ sáng tạo của nhà văn.
7.2.2. Vai trò của chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự
7.2.2.1. Chi tiết nghệ thuật góp phần tạo dựng và thúc đẩy sự phát triển của
cốt truyện
Tác phẩm nghệ thuật là một chỉnh thể thống nhất và chi tiết chính là một
yếu tố gần như nhỏ nhất trong các yếu tố cấu thành tác phẩm. Heghen gọi các
chi tiết trong tác phẩm là những “con mắt” bởi qua nó, ta khơng chỉ thấy được
thế giới tinh thần, mà còn thấy được “một tâm hồn tự do trong cái vơ hạn của
nó” ở tác giả. Đối với nhà văn, việc tạo nên cốt truyện là yếu tố đầu tiên của quá
trình sáng tạo. Làm nên cốt truyện là các sự kiện. Làm nên sự kiện là các chi
tiết. Chi tiết nghệ thuật “đóng vai trò vật liệu xây dựng làm tiền đề cho cốt
truyện phát triển thuận lợi và hợp lí”.
6


Bằng việc sắp xếp các chi tiết theo trình tự như đã có, các chi tiết giúp nhà
văn tạo dựng, triển khai cốt truyện, dẫn dắt câu chuyện từ bắt đầu đến kết thúc
mà khơng có một chỗ nào cong vênh, không một chi tiết rườm rà hay một chi
tiết thừa, chi tiết ở vị trí nào sẽ vào vị trí đó khơng thể thay thế. Giá trị của chi
tiết nghệ thuật sẽ luôn luôn tỷ lệ thuận với giá trị tác phẩm. Một truyện ngắn,
một tiểu thuyết… càng có nhiều chi tiết đắt càng neo đậu vững chắc trong lịng
độc giả.
Ví dụ: Trong “Vợ chồng A Phủ” của Tơ Hoài, để tạo dựng và thúc đẩy sự
phát triển của cốt truyện tác giả đã lựa chọn rất nhiều những chi tiết nghệ thuật
đặc sắc, như chi tiết Mị cắt dây trói giải thốt cho A Phủ, rồi cùng APhủ trốn

khỏi Hồng Ngài. Nếu Mị không chạy theo APhủ chắc chắn Mị phải chết và như
vậy câu chuyện sẽ kết thúc. Điều này đồng nghĩa với ý đồ tư tưởng là ca ngợi
công lao trời biển của Đảng mà Tô Hồi muốn gửi gắm vào tác phẩm sẽ khơng
thành. Như vậy chi tiết có vai trị quan trọng cho sự phát triển của cốt truyện.
7.2.2.2. Chi tiết nghệ thuật góp phần xây dựng, khắc họa hình tượng nhân
vật
Nhân vật là yếu tố quan trọng hàng đầu trong tác phẩm tự sự, là phương
tiện cơ bản để nhà văn khái quát hiện thực và “gửi gắm tư tưởng tình cảm, quan
niệm của mình về cuộc đời”. Nhân vật là “con đẻ tinh thần của nhà văn”. Hình
tượng nhân vật trở nên sinh động, gợi cảm nhờ chi tiết. Heghen xem chi tiết như
“những con mắt mở những cửa sổ” để người ta nhìn vào “linh hồn” của tác
phẩm – nhân vật. Những đường nét dần hình thành một bức họa, những chi tiết
dần dựng dậy sống động một hoặc một vài bức chân dung. “Chi tiết cho thấy
tính cách nhân vật và diễn biến quan hệ của chúng. Do đó chi tiết rất quan
trọng đối với nhân vật, vừa tạo ra sức hấp dẫn, thú vị, vừa bộc lộ ý nghĩa.”
Nhờ các chi tiết mà hình tượng nhân vật hiện lên cụ thể, rõ nét như những
con người thật ngoài đời từ ngoại hình, dáng vẻ đến số phận, tính cách, tâm hồn.
Có chi tiết diễn tả một nỗi đau tinh thần rõ nét như hình ảnh “một viên đạn bắn
vào người đàn ông và bây giờ đang xuyên qua tâm hồn người đàn bà, làm rỏ
xuống những dòng nước mắt” (“Chiếc thuyền ngoài xa” – Nguyễn Minh Châu).
7


Có chi tiết gợi lên số phận đầy bất hạnh, cuộc sống tối tăm, khổ cực, sống mà
như đã chết “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, chỉ có một chiếc cửa sổ lỗ vuông
bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương
hay là nắng” (“Vợ chồng A Phủ” - Tơ Hồi)…
Đọc truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân, người đọc đặc biệt ấn tượng về
nhân vật người “Vợ nhặt” mà tác giả dồn bao nhiêu tinh hoa và tinh huyết để
xây dựng nên. Thị là nạn nhân khốn khổ nhất của nạn đói. Thân phận bất hạnh

đó được gợi lên từ một loạt các chi tiết nghệ thuật đặc sắc. Chi tiết về tên gọi,
người đàn bà này thậm chí cái tên riêng cũng khơng có, nhà văn gọi thị là “thị”
hoặc “người đàn bà”. Không phải nhà văn không thể đặt cho nhân vật một cái
tên, mà dụng ý rằng: đằng sau cuộc đời của chị cịn thấp thống bóng dáng của
bao người phụ nữ khốn cùng khác. Thương cảm hơn cả là chi tiết về ngoại hình.
Cái đói đã tàn phá dung nhan của thị, có mấy ngày khơng gặp mà Tràng thấy thị
gầy guộc “trên cái gương mặt lưỡi cày xám xịt chỉ có hai con mắt”, xấu xí, rách
rưới “quần áo tả tơi như tổ đỉa”. Nạn đói giống như một cơn lũ lớn đã cuốn
phăng đi tất cả, không chỉ đe dọa, cướp đi cuộc sống về mặt sinh học, mà nó cịn
làm cho tính cách của thị cũng thay đổi. Cái nữ tính, tính người, nhân phẩm của
thị có nguy cơ bị mai một. Biết bao trăn trở, xót xa của nhà văn được dồn tụ
trong những chi tiết miêu tả về lời nói và hành động của thị lúc này. Thị trở nên
trơ tráo ăn nói “chao chát, chỏng lỏn”, mất hết ý tứ và lịng tự trọng. Tiếng nói
khẩn thiết nhất của cơ vợ nhặt lúc này là phải duy trì được sự sống. Cơ như
người sắp chết đuối đang nguy khốn giữa dịng nước xốy khủng khiếp, cơ đang
cố gắng túm lấy bất cứ cái gì có thể bấu víu để tồn tại. Câu hò trở thành cái cớ
để thị bám vào Tràng. Rồi “thị cong cớn … Thị vùng đứng dậy, ton ton chạy lại
đẩy xe cho Tràng”. “Thị” khơng cịn biêt xấu hổ khi trách móc một người khơng
quen biết : “Thị sầm sập chạy đến … sưng sỉa nói … Điêu … Hôm ấy leo lẻo cái
mồm hẹn xuống thế mà mắt mặt”. Rồi Thị còn trắng trợn “gạ ăn”: “Có ăn gì thì
ăn, chả ăn giầu”. Khi Tràng tỏ ra ga lăng “đấy muốn ăn gì thì ăn”, thì lập tức
“hai con mắt trũng hốy của thị tức thì sáng lên… Thị cắm đầu ăn một chặp

8


bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trị gì”. Cái đói đã làm cho con người trở
nên thảm hại, đáng thương và cũng đáng được cảm thông và cha sẻ.
Những điều đáng quý đã làm nên chất thơ cho hiện thực cay đắng này đó
là, sau khi nguy cơ chết đói đã qua, cơ gái đã trở lại với con người thật của

mình, và nữ tính cũng hồi sinh, cơ chợt e lệ và xấu hổ. Chi tiết cô ăn xong thị
“cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở: hà, ngon !” là chi tiết thể hiện nữ tính
của người vợ nhặt. Đó là cách cơ gái đánh trống lảng về ngượng và che giấu sự
xấu hổ bên trong. Đặc biệt trên đường về nhà chồng người vợ đã thay đổi hẳn,
trở thành một cô dâu rất đáng yêu, không cịn chao chát, chỏng lỏn nữa. Điều đó
được thể hiện rõ nét qua những chi tiết về dáng vẻ, lời nói của thị: vì xấu hổ nên
nói chuyện trống khơng với chồng, bước chân “rón rén”, “e thẹn”, “ngượng
nghịu, chân nọ bước díu và cả chân kia”, “đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng
nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt”, đúng là dáng vẻ của một cô dâu đầy nữ
tính. Tấm lịng nhân đạo của Kim Lân thể hiện qua cách ông đã miêu tả rất tỉ mỉ,
chi tiết dáng vẻ của người đàn bà trên đường về nhà chồng, từ dáng đi e thẹn cho
đến nỗi hờn tủi cho thân phận mình. Khi về đến nhà, thị “ngượng nghịu” ,
“ngồi mớm ở mép giường, hai tay ôm khư khư cái thúng, mặt bần thần”. Sáng
hôm sau, thị dậy sớm quét tước nhà cửa,. Người đàn bà đã thực sự trở thành một
người vợ “hiền hậu đúng mực” đảm đang, tảo tần, chịu khó. “Thị” đã đem đến
cho ngơi nhà của Tràng một sinh khí mới, một nhịp sống mới. Trong bữa cơm
đầu tiên, thị đã “điềm nhiên và vào miệng càm đắng chát và nghẹn bứ trong
cổ”. Đây là chi tiết thể hiện sự ý tứ và thái độ đồng cảm, chia sẻ với gia đình
nhà chồng của người vợ nhặt. Thông qua một loạt các chi tiết biết nói, nhà văn
muốn nhắn gửi tới chúng ta một điều : Hóa ra chính cái đói đã đẻ ra sự liều lĩnh,
táo bạo, thơ thiển, trắng trợn, nhưng nó không thể làm mất đi bản chất hiền hậu,
tốt đẹp trong tâm hồn con người. Nạn đói đã làm mất đi phần nào tư cách ấy,
biến dạng một phần tâm hồn cô, nhưng cuối cùng cô vẫn vươn lên giữ vững tư
cách con người. Dù bị đẩy đến đường cùng, “thị” vẫn khao khát được sống,
khao khát hạnh phúc. Hành động theo Tràng về làm vợ của người đàn bà, chứng
tỏ “thị” ln tìm mọi cách để vượt lên cái đói, tìm đến sự sống, kể cả phải hành
9


động liều lĩnh. Nhà Văn đã mở ra con đường sống cho những kiếp đời khổ cực.

Nhân vật vợ Tràng để thể hiện niềm tin bền vững của Kim Lân vào bản chất tốt
đẹp của người lao động.
Như vậy, chi tiết nghệ thuật khơng bao giờ đứng ngồi, đứng độc lập với
tính cách, tâm hồn của nhân vật. Nhân vật này phân biệt với nhân vật khác cũng
là bởi những chi tiết. Khi phân tích một nhân vật, chúng ta phải tuân thủ tính hệ
thống của các chi tiết nghệ thuật làm nên hình tượng đó. Nhưng mặt khác, giáo
viên cũng cần định hướng cho học sinh phát hiện và xoáy sâu vào những chi tiết
độc đáo, là điểm sáng mà nhà văn đã dụng cơng khi xây dựng hình tượng. Có
thể khẳng định khơng thể có nhân vật nếu khơng có những chi tiết nghệ thuật.
Mặt khác, lựa chọn những chi tiết đắt giá sẽ quyết định thành công của tác
phẩm, bởi chúng được chưng cất lên từ tấm lòng và tài năng của người cầm bút.
7.2.2.3. Chi tiết nghệ thuật góp phần thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm
Chủ đề tư tưởng, những thông điệp trong tác phẩm thường là khoảng
trống, điểm trắng mà nhà văn để chi tiết nghệ thuật tự nói. Chi tiết là điểm sáng
nhất trong tác phẩm tự sự, nó giúp nhà văn thể hiện ý đồ nghệ thuật mà mình
muốn biểu đạt. Chi tiết cũng là là cơ sở để từ đó độc giả tiếp nhận, giải mã được
thế giới nghệ thuật, ý đồ sáng tạo của tác giả. Nhà văn muốn tạo được sức sống
cho tác phẩm của mình phải chọn chi tiết cô đọng, ngắn gọn nhưng lại chứa
đựng tầng sâu khôn cùng mà dường như khơi mãi cũng không hết ý nghĩa. Qua
chi tiết chúng ta lắng nghe được điều nhà văn nhắn nhủ… Lẽ đương nhiên chi
tiết trong một tác phẩm dù phong phú, đa dạng đến mấy đi chăng nữa cũng phải
tập trung làm sáng lên chủ đề tư tưởng. Chi tiết dù hay đến cỡ nào đi chăng nữa
mà không phục vụ chủ đề cũng trở nên vơ ích. Bởi nói như giáo sư Nguyễn
Đăng Mạnh “ở truyện ngắn, mỗi chi tiết có vị trí quan trọng như một chữ trong
bài thơ tứ tuyệt, trong đó có những chi tiết đóng vai trị đặc biệt như những
nhãn tự trong thơ vậy”.
Trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân, chi tiết anh cu Tràng mua hai
hào dầu cũng là chi tiết chứa đầy sức nặng. Nếu trong hồn cảnh bình thường thì

10



khơng có gì đáng nói, nhưng trong thời buổi đói khát, người chết như ngả rạ,
một bữa ăn no chỉ tính bằng xu, mà anh dám bỏ hai hào để mua dầu, đủ để thấy
sự thấu hiểu, trân trọng của Kim Lân với những người dân nghèo lớn đến chừng
nào. Hay chi tiết bát bánh đúc cũng là một chi tiết đặc sắc qua đó người đọc
thấy được số phận thảm thương, tội nghiệp của người được ăn - thị và vẻ đẹp
của tình người hào hiệp ở người cho ăn - Tràng. Chi tiết nhỏ nhưng lại có vai trò
lớn để soi sáng chủ đề của tác phẩm: phản ánh số phận của người nơng dân
trong nạn đói khủng khiếp năm 1945, đồng thời còn làm sáng lên vẻ đẹp trong
tâm hồn của người lao động trước Cách mạng.
Kết thúc truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh
Châu là chi tiết về tấm ảnh của nghệ sĩ Phùng được chọn trong bộ lịch năm ấy.
Đó là một bức ảnh đen trắng nhưng mỗi lần ngắm kĩ, Phùng vẫn thấy hiện lên
cái “màu hồng hồng của ánh sương mai”, nhìn lâu hơn là hình ảnh “người đàn
bà đang bước ra khỏi tấm ảnh với những bước chậm rãi, bàn chân giẫm trên
mặt đất chắc chắn, hòa lẫn trong đám đơng”… Khơng khó khăn mấy, người
đọc cũng nhận thấy ở đây dường như có hai bức ảnh trong một khuân hình. Một
bức ảnh thuần nghệ thuật dành cho những nhà sành nghệ thuật: Một bức ảnh
mang vẻ đẹp toàn mĩ, vốn là một cảnh đắt trời cho, kết tinh công phu và sự may
mắn của người nghệ sĩ sau hàng tuần mai phục, Phùng đã chộp được. Đằng sau
bức ảnh nghệ thuật đó là một bức ảnh cuộc sống hiện thực trần trụi, lam lũ mà
trung tâm là hình ảnh người đàn bà vùng biển cao lớn với dáng người thô
kệch…bước những bước chậm rãi, bàn chân đặt trên mặt đất chắc chắn, hịa
lẫn trong đám đơng. Một hình ảnh khơng cịn thơ nữa mà rất đời. Nhưng khơng
phải ai cũng nhìn thấy. Phải nhìn bằng trải nghiệm, khơng chỉ nhìn mà cịn phải
sống trong cuộc đời, đau đáu nỗi đau của người đàn bà hàng chài, lắng nghe câu
chuyện của chị như nghệ sĩ Phùng. Dùng nghệ thuật tương phản kết hợp với một
chút phi lí(bức ảnh đen trắng lại nhìn ra màu hồng) Nguyễn Minh Châu đã
truyền tải nhiều thông điệp thể hiện chủ đề của tác phẩm mà nhà văn muốn gửi

tới người đọc. Thứ nhất: Nghệ thuật phải cất lên từ cuộc sống nhưng giữa cái
đẹp của nghệ thuật và cuộc sống ln có khoảng cách. Đôi khi đằng sau cái đẹp
11


mơ màng và tư tưởng như hồn bích kia lại chứa đựng trong đó những hiện thực
cuộc sống cịn đầy khiếm khuyết, nhức nhối. Không cẩn thận cái đẹp thuần túy
nghệ thuật lại trở thành cái đẹp giả dối…Thứ hai, cần phải nhìn thẳng vào cuộc
đời dù nó khơng thơ mộng như chúng ta nghĩ. Thứ ba, cần kéo khoảng cách giữa
nghệ thuật và cuộc sống, muốn phản ánh trung thực cuộc sống người nghệ sĩ
phải đi đến cuộc đời, cúi xuống thật gần những số phận cá nhân vốn nhiều bi
kịch, lắng nghe câu chuyện của họ…
Như vậy, chính những chi tiết nghệ thuật có dung lượng lớn về ý nghĩa đã
tạo cho tác phẩm “những điều chưa nói hết”. Cái tài của người viết truyện ngắn
là phải tạo được những chi tiết đắt giá để kí thác những tâm niệm của mình đối
với cuộc đời và con người. Đó đều là những chi tiết có sức chứa lớn về nội
dung, tư tưởng của tác phẩm.
7.2.2.4. Chi tiết nghệ thuật góp phần thể hiện phong cách nghệ thuật của nhà
văn.
Chi tiết được tạo thành phải qua quá trình thai nghén của nhà văn. Để làm
nên một chi tiết nhỏ địi hỏi nhà văn phải có sự thăng hoa về cảm xúc và tài năng
nghệ thuật chân chính. Thực tế đã chứng minh những bậc thầy về truyện ngắn
bao giờ cũng là những bậc thầy về chi tiết và nói như Macxim Gorki “chi tiết
nhỏ làm nên nhà văn lớn”. Nhà văn có khả năng tạo ra những chi tiết nhỏ có giá
trị góp phần đắc lực trong việc thể hiện tư tưởng, chủ đề tác phẩm. Do vậy, để
tạo nên những chi tiết đắc địa đòi hỏi nhà văn phải có đủ ba yếu tố: tài, tâm và
tầm. Một chi tiết hay không phải chỉ hay ở xác chữ mà là cái “đẹp” trong hồn
văn. Đó phải là sự trăn trở không ngừng của nhà văn trước cuộc đời, là tư tưởng,
tình cảm của tác giả, là vốn sống, vốn văn hóa… Có thể thấy, chi tiết nghệ thuật
khơng chỉ thể hiện tư tưởng mà còn in dấu ấn cá tính sáng tạo của nhà văn,

khẳng định tầm nhìn của mình. Xây dựng chi tiết nghệ thuật khơng phải là điều
dễ dàng, để chi tiết tồn tại theo thời gian cịn là điều rất khó. Bởi mỗi chi tiết
nghệ thuật là một sáng tạo riêng của nhà văn nhưng đồng thời cũng kết tinh từ
những gì thu lượm được trong đời sống sâu và rộng của người viết. Như giọt
nước kết tinh cái mặn mòi của biển, chi tiết đồng thời cho thấy vốn sống của
12


người cầm bút: liệu anh đã thực sự sống hết mình, sống sâu sắc “mở hồn ra đón
lấy những vang động của đời”? Do đó, nhà văn chắc chăn phải dụng công, dụng
tâm lắm nhà văn mới làm nên một đứa con tinh thần trường cửu với thời gian.
Rõ ràng, chi tiết nghệ thuật không chỉ thể hiện tư tưởng của tác phẩm mà
cịn góp phần làm nên phong cách nhà văn, in đậm dấu ấn tài năng sáng tạo của
người nghệ sĩ. Xây dựng chi tiết nhỏ không phải là điều dễ dàng, để chi tiết tồn
tại theo thời gian cịn là điều rất khó. Chi tiết nhỏ nhưng làm nên nhà văn lớn là
vì thế. Khi nghiên cứu chi tiết người đọc sẽ hiểu đúng và hay hơn về tác phẩm,
đồng thời nhận ra phong cách nghệ thuật, thấy được tài năng của nhà văn: tài
quan sát, tưởng tượng, hư cấu, tài sáng tạo hình ảnh, tài miêu tả, kiến tạo câu
văn…
Tóm lại, chi tiết nghệ thuật làm nên sự sống cho tác phẩm. Đối với chủ thể
sáng tạo chi tiết nghệ thuật giúp nhà văn nói điều muốn nói, bộc lộ những tình
cảm ấp ủ trong lịng… Chi tiết nghệ thuật ghi nhận sáng tạo của người cầm bút.
Còn đối với chủ thể tiếp nhận chi tiết nghệ thuật giúp soi đường chỉ lối…
7.2.3. Phát hiện và khai thác chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự
7.2.3.1. Các bước phát hiện các chi tiết nghệ thuật
Bước 1: Đọc kĩ văn bản để nắm cốt truyện, ý đồ sáng tạo của nhà văn cùng
với tư tưởng chủ đề của tác phẩm.
Bước 2: Phát hiện những chi tiết nghệ thuật quan trọng có vai trị: thúc đẩy
cốt truyện; thể hiện phẩm chất, số phận của nhân vật; thể hiện tư tưởng, chủ đề
của tác phẩm…. Mỗi nhà văn đều có cách xây dựng chi tiết trong tác phẩm tự sự

của mình khác nhau, song có thể nhận thấy một vài biểu hiện cơ bản thường
được sử dụng trong tác phẩm, như sau:
+ Tần số xuất hiện nhiều lần, liên tục hoặc ngắt quãng: ví dụ như chi tiết
“tiếng sáo” trong đêm tình mùa xuân (“Vợ chồng A Phủ” – Tơ Hồi), chi tiết
“cuốn sổ gia đình” (“Những đứa con trong gia đình” – Nguyễn Thi)…
+ Lặp đi lặp lại ở những vị trí đặc biệt, đáng chú ý (mở, kết): rừng xà nu bị
tàn phá song vẫn sinh sôi nảy nở ở phần mở đầu và kết thúc truyện “Rừng xà
nu” (Nguyễn Trung Thành)…
13


+ Xuất hiện trong những thời điểm, thời gian đặc biệt trong cuộc đời của
nhân vật hoặc trong diễn biến cốt truyện. Như chi tiết “Mị cắt dây trói cứu A
Phủ” (“Vợ chồng A Phủ” – Tơ Hồi), hay chi tiết hai chị em Chiến và Việt
khiêng bàn thờ má sang gửi chú Năm trong buổi sáng trước hôm đi tòng quân,
sau khi đã làm cơm cúng má (“Những đứa con trong gia đình”– Nguyễn Thi)…
Loại chi tiết này xuất hiện nhiều trong các tác phẩm tự sự.
+ Có thể khơng xuất hiện nhiều lần, nhưng có mối liên hệ gắn kết với nhân
vật trong nhiều thời điểm khác nhau trong cuộc đời của nhân vật, như chi tiết
bàn tay Tnú trong “Rừng xà nu” (Nguyễn Trung Thành), chi tiết “dòng nước
mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ (“Vợ chồng A
Phủ” - Tơ Hồi)…
+ Có những chi tiết nhỏ, nhiều khi khơng mang những dấu hiệu cụ thể trên,
song vẫn có thể là những chi tiết nghệ thuật có ý nghĩa quan trọng, tuy không dễ
nhận biết, nhưng cần được phát hiện nhờ sự nhạy cảm, tinh tế của từng người
đọc. Ví dụ lời nói của bà cụ Tứ: “Ừ thơi các con phải duyên phải kiếp với nhau,
u cũng mừng lòng” khi đón nàng dâu mới trong “Vợ nhặt” (Kim Lân), hay lời
độc thoại trong tâm tưởng của Việt khi cùng chị khiêng bàn thờ má sang gửi chú
Năm: “…chừng nào độc lập chúng con lại đưa má về” (“Những đứa con trong
gia đình” – Nguyễn Thi)…

7.2.3.2. Khai thác chi tiết trong tác phẩm tự sự
Khi khai thác chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự giáo viên cần lưu ý
học sinh tìm hiểu theo các bước sau :
Bước 1: Tìm hiểu từ ngữ : Có những từ khó đã có chú thích, giáo viên có
thể đặt câu hỏi cho HS nhắc lại. Khai thác nghĩa tường minh (nghĩa đen), nghĩa
hàm ẩn (nghĩa bóng). Đồng thời ta cần khai thác thủ pháp nghệ thuật mà tác giả
sử dụng.
Ví dụ: Khi khai thác chi tiết cây xà nu (“Rừng xà nu” của Nguyễn Trung
Thành) ở đầu tác phẩm, trước hết chúng ta hướng dẫn học sinh tìm hiểu nghĩa tả
thực. Cây xà nu là một cây họ thông, lá xanh ngắt, nhựa thơm mọc rất nhiều ở
Tây Nguyên. Sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu nghĩa tả thực, giáo viên đi
14


sâu vào khai thác các chi tiết để làm nổi bật nghĩa tượng trưng. Nguyễn Trung
Thành rất tài tình khi sử dụng thủ pháp nhân hóa trong suốt trang văn để đặc tả
cây xà nu. Đó là các chi tiết “Cả rừng xà nu hàng vạn cây không cây nào là
không bị thương”, “Ở chỗ vết thương, nhựa ứa ra, tràn trề, thơm ngào ngạt,
long lanh nắng hè gay gắt, rồi dần dần bầm lại, đen và đặc quyện thành từng
cục máu lớn” đã thể hiện sự cùng chung gian khổ, cùng chung số phận với con
người Tây Nguyên bất khuất. Những chi tiết “Trong rừng ít có loại cây sinh sơi
nảy nở khoẻ như vậy”, “Cũng có ít lồi cây ham ánh sáng mặt trời đến thế” đã
tượng trưng cho niềm khao khát tự do, lòng tin vào lý tưởng cách mạng của
người dân Tây Nguyên, của đồng bào miền Nam trong cuộc kháng chống Mỹ
xâm lược. Chi tiết “Có những cây vượt lên được cao hơn đầu người, cành lá
sum suê như những con chim đã đủ lông mao, lông vũ. Đạn đại bác không giết
nổi chúng, những vết thương của chúng chóng lành như trên một thân thể
cường tráng. Chúng vượt lên rất nhanh thay thế những cây đã ngã” đã thể hiện
sự tồn tại kì diệu của rừng xà nu qua những hành động huỷ diệt của kẻ thù, cũng
đồng thời là biểu trưng cho sức sống bất diệt, sự bất khuất, kiên cường và sự

vươn lên mạnh mẽ của con người Tây Nguyên trong cuộc chiến một, mất một
còn với bè lũ cướp nước và bán nước.
Bước 2: Tìm hiểu mối liên hệ về ý nghĩa của chi tiết với chủ đề của tác
phẩm:
Ví dụ: Chi tiết lá cờ đỏ bay phấp phới trong đầu Tràng ở cuối truyện “Vợ
nhặt” (Kim Lân) gắn với ý nghĩa sự chiến thắng của ánh sáng - bóng tối, của
sự sống - cái chết. Nó là biểu tượng của cách mạng, của con đường tương lai
tươi sáng mà nhà văn bằng tấm lòng nhân đạo cao cả đã soi đường chỉ lối cho
nhân vật của mình. Những con người như bà cụ Tứ, đặc biệt là đôi vợ chồng trẻ
với tình yêu thương đùm bọc, với sức sống mãnh liệt và niềm tin vào ngày mai
tốt đẹp sẽ rất dễ dàng bắt gặp ánh sáng cách mạng của Đảng. Với ý nghĩa đó,
“Vợ nhặt” có thể coi là bài ca - ca ngợi sự sống, đã thể hiện niềm tin bất diệt của
Kim Lân vào con người, đặc biệt là người lao động.
Bước 3: Mở rộng ý nghĩa của chi tiết trong tương quan với chi tiết khác:
15


Chi tiết về giọt nước mắt và nụ cười của người đàn bà làng chài trong
truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của nhà văn Nguyễn Minh Châu, mặc dù
bị chồng đánh dã man chị không hề chạy trốn, kêu van, khóc lóc, nhưng khi đứa
con chứng kiến được tồn bộ tấn bi kịch gia đình, chị đã khơng cầm nổi những
giọt nước mắt đau đớn. Bên cạnh chi tiết buồn về thân phận của người đàn bà,
trong cả thiên truyện chỉ duy nhất một lần nhà văn miêu tả nụ cười của chị:
“Lần đầu tiên trên khn mặt xấu xí của mụ chợt ửng sáng lên như một nụ cười”
khi chị kể về những giây phút vợ chồng con cái được hịa thuận vui vẻ, là “lúc
ngồi nhìn đàn con… được ăn no”. Đó là niềm vui, niềm hạnh phúc rất đời
thường, bình dị mà đáng thương, đáng trân trọng. Chị đã phải đánh đổi hạnh
phúc ấy bằng bao nỗi đau khổ. Sự yên lành no ấm của đàn con chính là mục đích
sống, là nguồn sống của chị – người đàn bà ln sống cho con. Đó chính là sức
mạnh tinh thần kì diệu đã giúp chị vượt qua bao đắng cay của cuộc đời, để giữ

lửa cho gia đình bé nhỏ của mình. Trong con người chị, có sự kết tinh vẻ đẹp
truyền thống của người phụ nữ Việt Nam với trái tim chứa chan tình cảm vị tha,
thánh thiện, lấy niềm vui, hạnh phúc của chồng con làm hạnh phúc của chính
mình. Chỉ có tác giả là người thấu hiểu, người đàn bà làng chài mới là vẻ đẹp
đích thực của “Chiếc thuyền ngồi xa”, đẹp trong đau khổ, nhọc nhằn và nhục
nhằn – một vẻ đẹp hình như chưa từng thấy trong văn học Việt Nam giai đoạn
1945 – 1975.
Bước 4: Tìm hiểu chi tiết xuất hiện trong những hoàn cảnh khác nhau để
thấy được sự chuyển biến, thay đổi trong tính cách của nhân vật:
Trong truyện ngắn “Vợ nhặt”, nhà văn Kim Lân hai lần miêu tả cung cách
ăn uống của người vợ nhặt. Chiều hôm trước, khi được Tràng đồng ý đãi bánh
đúc ở ngoài chợ: “Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp
bốn bát bánh đúc liền chẳng chuyện trị gì” và sáng hơm sau, khi nhận bát “chè
khốn” từ mẹ chồng: “Người con dâu đón lấy cái bát, đưa lên mắt nhìn, hai con
mắt thị tối lại. Thị điềm nhiên và vào miệng.” Như vậy, từ chỗ thô thiển, trơ
trẽn, khao khát được sống, được tồn tại nên thị đã bất chấp tất cả. Chính cái đói
đã che lấp phần tốt đẹp vốn có của “thị”. Để rồi, khi được Tràng và bà cụ Tứ cưu
16


mang, người vợ nhặt đã thay đổi về tâm lý, suy nghĩ tích cực, có cái nhìn và ứng
xử nhân văn hướng đến cuộc sống tốt đẹp. Qua hai chi tiết, Kim Lân đã bộc lộ
sự đồng cảm sâu sắc với số phận và vẻ đẹp của tình người trong nạn đói.
Chi tiết nghệ thuật khơng tách rời các yếu tố nghệ thuật khác, vì vậy khi
tìm hiểu chi tiết, vẫn cần phải đặt chi tiết trong chỉnh thể, trong sự liên kết cả về
mặt nội dung và hình thức với các yếu tố đó. Dựa vào nội dung diễn biến của sự
việc, hành động trong chi tiết, dựa vào cách miêu tả, khắc họa, ngôn ngữ tái hiện
của tác giả, tìm ra ý nghĩa của chi tiết, đặt trong mối liên hệ với các yếu tố liên
quan trực tiếp hoặc gián tiếp với chi tiết. Chú ý không chỉ phát hiện ý nghĩa của
chi tiết về mặt nội dung mà cịn cả về mặt nghệ thuật của nó trong việc thể hiện

nhân vật, tư tưởng, chủ đề… của tác phẩm.
Trên đây là những bước cơ bản khi khai thác chi tiết trong văn xuôi tự sự.
Song thực tế giảng dạy không nên câu nệ theo đầy đủ các các bước, thao tác trên
vì nó cịn phụ thuộc vào thời gian cho một bài giảng, phụ thuộc vào mức độ đậm
nhạt trong từng chi tiết. Phải biến phương pháp thành sự thuần thục nghề
nghiệp. Trước một tác phẩm nên chọn chi tiết nào để khai thác có hiệu quả.
7.2.4. Cách làm các dạng đề thi về chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự
Ngữ văn 12
7.2.4.1. Dạng đề cảm nhận về chi tiết nghệ thuật trong một tác phẩm tự sự, từ
đó nhận xét về một vấn đề nào đó.
a) Phương pháp làm bài
Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.
- Giới thiệu chi tiết nghệ thuật đặc sắc cần phân tích. Từ đó nêu nhận xét
theo yêu cầu của đề.
Thân bài:
* Khái quát về chi tiết và vai trò của chi tiết trong tác phẩm tự sự.
* Phân tích ý nghĩa của chi tiết nghệ thuật
- Hoàn cảnh dẫn đến sự xuất hiện của chi tiết và vị trí của chi tiết trong tác
phẩm.
17


- Đặc điểm và tần số xuất hiện của chi tiết.
- Ý nghĩa của chi tiết.
+ Về nội dung:
. Thể hiện số phận, tính cách, phẩm chất nhân vật, thể hiện chủ đề, tư tưởng
của nhà văn.
. Giá trị tư tưởng: giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo trong tác phẩm
+ Về nghệ thuật: ngôn ngữ, giọng điệu khi kể về chi tiết, chi tiết góp phần

thúc đẩy cốt truyện, thể hiện tính cách nhân vật và tiếng nói nghệ thuật độc đáo
của nhà văn…
- Đánh giá chung về vai trò, ý nghĩa của chi tiết nghệ thuật.
* Nhận xét: theo yêu cầu của từng đề cụ thể
Kết bài:
- Khẳng định vai trò của chi tiết trong tác phẩm.
- Khẳng định sức sống của chi tiết nghệ thuật.
b. Đề minh họa
Trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài (Ngữ Văn 12, Tập hai, NXB
Giáo dục Việt Nam, 2018), giữa đêm mùa đơng, nhân vật Mị đã nhìn thấy “dòng
nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen lại” của A Phủ.
Hãy phân tích ý nghĩa hình ảnh dịng nước mắt trên của A Phủ. Từ đó nhận
xét về tư tưởng của nhà văn.
Hướng dẫn làm bài:
Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Tơ Hồi và tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”
- Giới thiệu chi tiết nghệ thuật “dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm
má đã xám đen lại”. Từ đó nhận xét, tư tưởng của Tơ Hồi được thể hiện rõ nét
trong chi tiết này.
Thân bài:
* Khái quát về chi tiết và vai trò của chi tiết trong tác phẩm tự sự.
- Chi tiết là các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư
tưởng.
18


- Chi tiết có vai trị vơ cùng quan trọng trong tác phẩm tự sự, đặc biệt góp
phần xây dựng, khắc họa hình tượng nhân vật.
* Phân tích ý nghĩa của chi tiết dịng nước mắt của A Phủ
- Hồn cảnh xuất hiện chi tiết dòng nước mắt của A Phủ:

+ Do sơ ý để hổ bắt mất bò, A Phủ bị thống lí Pá Tra trói đứng, bỏ mặc cho
đói rét suốt mấy đêm liền giữa kì sương muối khắc nghiệt ở Hồng Ngài, còn Mị
sau bao năm bị đọa đày cùng cực cũng đã trở nên chai lì. Những đêm trước, tuy
vẫn trở dậy thổi lửa, hơ tay, nhìn thấy A Phủ bị trói nhưng Mị chỉ dửng dưng, vô
cảm.
+ Đêm ấy, trong nỗi bất lực, bế tắc và hồn tồn tuyệt vọng, A Phủ đã
khóc, đúng lúc đó, Mị nhìn sang và bắt gặp dịng nước mắt của A Phủ.
- Đặc điểm và tần số xuất hiện của chi tiết: dòng nước mắt của A Phủ xuất
hiện một lần, là giọt nước mắt của sự bất lực vì A Phủ nghĩ mình sẽ chết. Chi tiết
này khiến cuộc đời Mị vốn là một đường thẳng, giờ rẽ ngang.
- Ý nghĩa của chi tiết
- Về nội dung, chi tiết dịng nước mắt của A Phủ có ý nghĩa:
+ Trực tiếp bộc lộ những cảm xúc: đau đớn, tuyệt vọng… trong hồn cảnh
cùng đường của A Phủ. Đó cũng là một dạng “biểu hiện lộn trái” của lòng yêu
đời, sức sống tiềm tàng mãnh liệt của nhân vật. Chàng trai trẻ, khỏe, phơi phới
sức xuân lại sắp phải chịu cái chết bi thảm (chết trong tư thế bị trói đứng). Đây
cũng là bằng chứng tố cáo sự tàn ác của giai cấp thống trị miền núi.
+ Tạo ra bước ngoặt quan trọng trong tâm lí nhân vật Mị:


Mị nhớ lại lần cũng bị hành hạ như thế, mà xót thương mình, từ đó đồng

cảm với nỗi đơn độc và tuyệt vọng của A Phủ. (HS đưa dẫn chứng)


Từ mối đồng cảm ấy, Mị càng hiểu sâu sắc hơn sự độc ác của cha con

thống lí Pá Tra, sự bất công vô lý của xã hội, thấy rõ sự nguy khốn đang ập
xuống A Phủ, lòng trắc ẩn của người phụ nữ bỗng chốc thức dậy đã đem lại sức
mạnh cho Mị, khiến Mị dám liều mình cứu A Phủ.(HS đưa dẫn chứng)



Khi tình thương người được giải tỏa thì lịng thương mình trỗi dậy, Mị vụt

chạy theo A Phủ, tự cắt những sợi dây trói vơ hình để giải phóng chính mình.
19


+ Giá trị tư tưởng: Vừa thể hiện giá trị hiện thực(tố cáo sự tàn ác của giai
cấp thống trị) vừa thể hiện giá trị nhân đạo(thôi thúc Mị cứu người và cứu chính
mình)
- Về nghệ thuật, chi tiết dịng nước mắt của A Phủ đã thúc đẩy xung đột
truyện lên đến cao trào, là đầu mối của một loạt những hành động bất ngờ làm
thay đổi cuộc đời các nhân vật, vừa tạo sự vận động, phát triển của tính cách
nhân vật vừa tạo sự vận động cho cốt truyện. Qua chi tiết này, người đọc cũng
thấy được cách miêu tả chi tiết tài tình của Tơ Hồi.
* Nhận xét về tư tưởng của nhà văn được thể hiện qua chi tiết đó.
- Chi tiết góp phần thể hiện giá trị hiện thực, nhân đạo của tác phẩm (phản
ánh hiện thực cuộc sống đau khổ của người lao động, phát hiện, ngợi ca vẻ đẹp
tâm hồn các nhân vật như khát vọng sống, tình yêu thương…)
- Chi tiết nghệ thuật độc đáo thể hiện biệt tài phân tích tâm lí nhân vật của
Tơ Hồi (trực tiếp bộc lộ tâm trạng, cảm xúc nhân vật A Phủ, tạo cơ sở cho
chuyển biến tâm lí nhân vật Mị một cách tự nhiên, hợp lí), bộc lộ cảm quan nhân
đạo cách mạng của nhà văn.
- Qua chi tiết này, người đọc cũng thấy được nghệ thuật kể chuyện, sắp xếp
chi tiết trong truyện tạo mạch truyện phát triển lô gic của Tô Hồi.
* Đánh giá chung về vai trị, ý nghĩa của chi tiết dòng nước mắt của A Phủ
Kết bài:
- Khẳng định ý nghĩa, vai trò của chi tiết dòng nước mắt của A Phủ trong
tác phẩm “Vợ chồng A phủ” trong việc thể hiện tư tưởng của nhà văn.

- Khẳng định sức sống của chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự nói
chung.
7.2.4.2 . Dạng đề cảm nhận về hai chi tiết nghệ thuật trong một tác phẩm tự
sự, từ đó nhận xét về một vấn đề nào đó.
(Dạng đề này thường yêu cầu học sinh cảm nhận 2 chi tiết nghệ thuật đặc
sắc để làm nổi bật lên chủ đề, tư tưởng của tác phẩm, nổi bật về cuộc đời số
phận của nhân vật…)
a. Phương pháp làm bài
20


Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về tác giả, tác phẩm.
- Giới thiệu hai chi tiết nghệ thuật đặc sắc cần phân tích. Từ đó nhận xét về
vấn đề theo yêu cầu của đề.
Thân bài:
* Khái quát về chi tiết và vai trò của chi tiết trong tác phẩm tự sự.
* Phân tích lần lượt ý nghĩa của từng chi tiết:
- Cảm nhận chi tiết một theo các bước:
+ Hoàn cảnh dẫn đến sự xuất hiện của chi tiết và vị trí của chi tiết trong tác
phẩm.
+ Ý nghĩa của chi tiết: . Về nội dung.
+ Về nghệ thuật.
+ Đặc điểm và tần số xuất hiện của chi tiết
+ Đánh giá
- Cảm nhận chi tiết hai theo các bước nêu trên.
* Nhận xét về sự thay đổi của nhân vật hay phong cách tác giả… qua hai
chi tiết (theo yêu cầu của từng đề cụ thể).
Kết bài:
- Khẳng định vai trò của hai chi tiết trong tác phẩm.

- Khẳng định sức sống của chi tiết trong TPTS
b. Đề minh họa
Trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, miêu tả không gian sống của Mị ở nhà
thống lí Pa Tra, nhà văn Tơ Hồi viết: “Mỗi ngày, Mị càng khơng nói, lùi lũi như
con rùa ni trong xó cửa. Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ
một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra chỉ thấy trăng trắng, không biết là
sương hay là nắng. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vng ấy mà
trơng ra, đến bao giờ chết thì thơi”.
Sau những chuỗi ngày sống chỉ mang ý nghĩa của sự tồn tại, tê liệt, thì cái
nồng nàn của lửa, của men rượu, cái tươi vui chộn rộn của mùa xuân Hồng Ngài

21


đã đánh thức tâm hồn Mị. “Tai Mị văng vẳng nghe tiếng sáo gọi bạn đầu làng…
Hơi rượu còn nồng nàn, Mị vẫn nghe tiếng sáo đưa Mị đi theo những
cuộc chơi, những đám chơi”.
Cảm nhận của anh /chị về chi tiết “cái buồng Mị nằm” và “tiếng sáo đêm
xuân” để thấy được tấm lòng của nhà văn dành cho người phụ nữ vùng núi cao
Tây Bắc
Hướng dẫn làm bài:
Mở bài:
- Giới thiệu tác giả Tơ Hồi và tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”
- Giới thiệu 2 chi tiết nghệ thuật “cái buồng Mị nằm” và “tiếng sáo đêm
xuân”. Qua đó, giúp nười đọc thấy được tấm lịng của nhà văn dành cho người
phụ nữ vùng núi cao Tây Bắc
Thân bài:
* Khái quát về chi tiết và vai trò của chi tiết trong tác phẩm tự sự.
- Chi tiết là các tiểu tiết của tác phẩm mang sức chứa lớn về cảm xúc và tư
tưởng.

- Chi tiết có vai trị vô cùng quan trọng trong tác phẩm tự sự, đặc biệt góp
phần xây dựng, khắc họa hình tượng nhân vật
* Phân tích lần lượt ý nghĩa của từng chi tiết:
- Cảm nhận chi tiết cái buồng Mị nằm :
+ Hoàn cảnh dẫn đến sự xuất hiện của chi tiết cái buồng Mị nằm và vị trí
của chi tiết trong tác phẩm:
++ Đây là chi tiết nằm ở phần giữa tác phẩm, miêu tả không gian sống của
Mị khi làm con dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra.
++ Sau ý định tìm lá ngón tự tự khơng thành vì thương cha, Mị dập tắt
ngọn lửa lòng về nhà thống lí và tiếp tục chơn vùi tuổi xn của mình trong địa
ngục trần gian đó.
+ Đặc điểm và tần số xuất hiện: Cái buồng Mị nằm là không gian sống của
Mị. Không gian này gắn liền với Mị khi cô buông xuôi chấp nhận làm con dâu

22


nhà thống lí Pá Tra. Mặc dù xuất hiện ít nhưng chi tiết này có sức ám ảnh đối
với người đọc.
+ Ý nghĩa của chi tiết:
++ Về nội dung:
+++ Căn buồng kín mít, có một ơ vng bằng bàn tay: khiến ta liên tưởng
đến nhà tù, một thứ ngục thất đang giam hãm đời Mị, nó khác hẳn với khơng
gian mênh mông rộng lớn của đất trời Tây Bắc
+++ Chân dung số phận khổ đau của Mị được khắc họa: như con rùa trong
xó cửa(bị đè nén, bị bỏ quên). Sống trong cái buồng ấy Mị mất hết ý niệm về
thời gian, không gian.(HS đưa dẫn chứng minh họa)
+++ Mị khơng cịn ý thức về sự sống đợi đến bao giờ chết thì thơi.
=> Cái buồng là ngục thất tinh thần, địa ngục trần gian giam cầm khát vọng
sống, khát vọng tự do của đời Mị.

++ Về nghệ thuật: chi tiết cái buồng Mị nằm đã góp phần thể hiện chủ đề
của tác phẩm và tư tưởng, thái độ của nhà văn: Tố cáo chế độ cai trị miền núi và
tấm lòng của nhà văn.
+ Đánh giá: Chi tiết nghệ thuật khơng chỉ góp phần khắc họa bi kịch của
nhân vật mà còn thể hiện chủ đề, tư tưởng, thái độ của nhà văn.
- Cảm nhận chi tiết tiếng sáo đêm xuân.
+ Hoàn cảnh dẫn đến sự xuất hiện của chi tiết tiếng sáo đêm xuân và vị trí
của chi tiết trong tác phẩm:
++Đây là chi tiết nằm ở phần giữa tác phẩm, thường xuất hiện vào những
cuộc chơi trong đêm xuân, khi trai trong bản đi tìm người yêu
++ Sau những ngày tháng sống tê liệt, chai lì, cái nồng nàn của lửa, rượu,
cái tươi vui chộn rộn của mùa xuân Hồng Ngài, tiếng sáo gọi bạn tình đã đánh
thức tâm hồn Mị.(HS đưa dẫn chứng minh họa)
+ Đặc điểm và tần số xuất hiện: tiếng sáo xuất hiện nhiều lần trong tác
phẩm
++ Tiếng sáo xuất hiện lần 1 ngồi đầu núi lấp ló
++ Tiếng sáo văng vẳng đầu làng..
23


++ Tiếng sáo gọi bạn yêu lửng lơ bay ngoài đường…
++ Khi Mị bị trói, tiếng sáo vẫn văng vẳng bên tai…
++ Tiếng sáo, tiếng chó sủa xa xa…
- Đánh giá: Tiếng sáo đánh thức khát vọng sống, khát vọng tự do của Mị.
+ Ý nghĩa của chi tiết:
++ Về nội dung:
+++ Trước hết, tiếng sáo là chi tiết tả thực một nét đẹp văn hóa miền núi
cao Tây Bắc, những chàng trai thổi sáo để trao gửi tâm tình, để mời gọi bạn yêu.
Nó xua tan mọi cực nhọc của con người nơi đây.(HS đưa dẫn chứng minh họa)
+++ Tiếng sáo góp phần diễn tả vẻ đẹp tâm hồn Mị trong đêm tình mùa

xuân: tiếng sáo lay thức tâm hồn Mị, làm bừng lên khát vọng sống, quyền hưởng
hạnh phúc.(HS đưa dẫn chứng minh họa)
=> Tiếng sáo là biểu tượng đẹp đẽ cho khát vọng tự do, khát vọng sống,
khát vọng tình yêu trong tâm hồn Mị
++ Về nghệ thuật: Tiếng sáo đêm xuân là chi tiết nghệ thuật đặc sắc, là biểu
tượng của tình yêu, hạnh phúc. Cách miêu tả chi tiết của Tơ Hồi giàu hình ảnh,
sức gợi, dùng chi tiết để miêu tả diễn biến lí nhân vật.
+ Đánh giá: Chi tiết nghệ thuật không chỉ góp phần khắc họa tâm hồn đẹp
đẽ của nhân vật mà còn thể hiện chủ đề, tư tưởng, thái độ của nhà văn.
- Nhận xét:
+ Nếu cái buồng Mị nằm là một chi tiết có sức ám ảnh ở truyện Vợ chồng
A Phủ, thì hình tượng tiếng sáo đêm tình mùa xn lại có sức quyến rũ lịng
người nhất.
+ Cả 2 chi tiết đều thể hiện được tấm lòng của nhà văn dành cho người phụ
nữ vùng núi cao Tây Bắc.
++Chi tiết cái buồng Mị nằm là lời tố cáo chế độ cai trị miền núi, đày đọa
làm tê liệt quyền sống, quyền hạnh phúc của con người. Qua đó, Tồ Hồi bày tỏ
tấm lịng xót thương cho số phận người phụ nữ vùng núi cao tây Bắn khi cánh
mạng chưa về.

24


++ Chi tiết tiếng sáo đêm xuân là tấm lòng nâng niu trân trọng của nhà văn
đối với nét đẹp văn hóa và vẻ đẹp tâm hồn con người Tây Bắc. Chi tiết giàu chất
thơ, lai láng dư vị trữ tình.
Kết bài:
- Khẳng định vai trị của chi tiết cái buồng Mị nằm và tiếng sáo đêm xuân
trong trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ
- Khẳng định sức sống của chi tiết nghệ thuật: Chi tiết nhỏ làm nên nhà văn

lớn
7.2.4.3. Dạng đề cảm nhận về hai chi tiết nghệ thuật trong tác phẩm tự sự.
a. Phương pháp làm bài
Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về hai tác giả, tác phẩm.
- Giới thiệu hai chi tiết nghệ thuật đặc sắc cần phân tích.
Thân bài:
* Khái quát về chi tiết và vai trò của chi tiết trong tác phẩm tự sự.
* Phân tích ý nghĩa của hai chi tiết
- Cảm nhận chi tiết một theo các bước:
+ Hoàn cảnh dẫn đến sự xuất hiện của chi tiết và vị trí của chi tiết trong tác
phẩm.
+ Đặc điểm và tần số xuất hiện của chi tiết.
+ Ý nghĩa của chi tiết: . Về nội dung.
. Về nghệ thuật.
- Cảm nhận chi tiết hai theo các bước nêu trên.
* So sánh hai chi tiết:
+ Điểm tương đồng -> Ý nghĩa: tính kế thừa
+ Điểm khác biệt -> Ý nghĩa: tạo sự phong phú độc đáo, sáng tạo của mỗi
nhà văn
* Lí giải nguyên nhân.
Kết bài:
- Khẳng định vai trò của hai chi tiết trong tác phẩm.
25


×