Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một số giải pháp giúp học sinh làm tốt bài văn miêu tả

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (139.79 KB, 16 trang )

Một số giải pháp giúp học sinh làm tốt bài văn
miêu tả
* Cở sở lý luận:
Qua quá trình giảng dạy nhiều năm ở trường tiểu học,tôi nhận thấy việc rèn kĩ năng làm
bài
Tập
làm
văn
cho học sinh
trong giờ học chiếm một vị trí rấtquan trọng đặc biệt đối với học sinh lớp 5 .
Tìm hiểu về những thuận lợi và khó khăn trong việc rèn kĩ
năng
làm
bài của họ c sinh lớp 5 qua giờ Tập làm văn nói chung và lớp 5C trường Tiểu họ c Phú Xn
nói riêng.Tơi thấy học sinh có nhiều điều kiện tốt giú p cho việc
rèn kĩ
năng
làm
bài có kết quả. Những điều kiện đó là về chương trình,trình độ học sinh,sự quan tâm của gia đì
nh,thầy cơ và bạn bè. Mặc dù có thuận lợi như vậy,thực tế tôi thấy khả năng làm
bài của học sinh không đồng đều, một số em có khả năng làm
bài rất tố t chỉ là sau khi nghe giáo viên hướng dẫn lập dàn ý và hướng dẫn là các em có thể làm
khá được khá tốt bài văn yêu cầu .Song bên cạnh đó,có những em có khả năng làm bài
còn hạn chế mặc dù đã được
hướng dẫn tỉ mỉ. Ngun nhân tình trạng nàycó cả ngun chủ quan và khách quan.
Nguyên nhân khách quan là d o học sinh chủ yếu ở nông thôn nên điều kiện để các em
phát triển giao tiếp còn hạn chế, chưa nhạy bén trong va chạm, việc tìm kiếm tài liệu tham khảo cịn
gặp khó khăn, vốn từ chưa phong phú nên khả năng diễn đạt và dùng từ còn nhiều hạn
chế. Bên cạnh nguyên nhân
khách
quan, chính là nguyên nhân chủ quan,từ phía học sinh các em chưa tích cực



rèn luyện, chậm trong tiếp thu kiến thức.Từ sự chênh lệch như vậy,với mục tiêu chung đặt ra đ
ố i với giáo dục,là phát triển đồng bộ học sinh về các mặt.Trên cơ sở bồi dưỡng những học sinh
khá giỏi, khuyến khích quan tâm các học sinh yếu, giúp các em đạt trình độ chung.
Từ những suy nghĩ như trên tôi quyết định chọn đ ề
tài này đi vào“tôi quyết định chọn đề tài này đi vào tìm hiểu việc rèn kĩ năng làm bài
cho học sinh qua giờ tập làm
văn ở lớp 5”.Tìm ra phương pháp giảng dạy một cách tố t nhất trong quá trình hướng dẫn học si
nh làm
văn
miêu
tả
tốt. Đưa các em thâm nhập vào thế giới kì diệu của ngơn ngữ văn chương.Từ đó giáo dục cho
các em cái hay, cái đẹp, bồi dưỡng những tinh thần đúng đắn đối với thiên nhiên.
* Cở sở thực tiễn:
Đứng trước thực trạng dạy và học như trên yêu cầu đặt ra cấp thiết là phải
đổi mới phương pháp dạy học để học sinh đến với phân môn Tập làm văn thể
loại tả cảnh một cách say mê, hứng thú để từ đó có cảm xúc viết văn.
Để đạt được mục tiêu trên theo tôi cần phải tiến hành giải quyết các vấn đề
chính sau:


- Rèn cho học sinh kĩ năng quan sát và ghi chép.
- Làm giàu vốn từ cho học sinh.
- Luyện kĩ năng sử dụng từ ngữ, đặt câu, sử dụng biện pháp nghệ thuật trong
văn miêu tả.
- Cung cấp cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả nói chung và tả
cảnh
nói riêng.
Chất lượng khảo sát phân mơn Tập làm văn lớp 5C đầu năm như sau:

Lớp

Số bài

Đạt yêu cầu

Chưa đạt yêu cầu

5C

34

22 HS = 64,7%

12HS = 35,3 %

Xuất phát từ thực trạng và nguyên nhân trên, đồng thời thấy rõ vai trò, nhiệm vụ
của một giáo viên đang đứng trên bục giảng, tôi mạnh dạn đưa ra các giải pháp
sau đây, hy vọng sẽ nâng cao được chất lượng phân môn Tập làm văn cho lớp
tôi.
1.Giúp học sinh hiểu rõ đặc điểm cơ bản của văn tả cảnh:
Đối tượng của bài văn tả cảnh là những cảnh vật quen thuộc xung quanh các
em: một cơn mưa, một ngày nắng đẹp, một đêm trăng đẹp, một dịng sơng, một
cánh đồng, một góc phố,… Bài văn tả cảnh là thể loại văn bản mang tính nghệ
thuật cao, mang tính sáng tạo, tính cá thể của người viết. Ngơn ngữ trong văn tả
cảnh là thứ ngôn ngữ giàu sức gợi cảm và là ngôn ngữ đã được gọt giũa một
cách công phu.Tả là mơ phỏng, là vẽ lại, là so sánh ví von, nhân hóa đối tượng
có hình ảnh … chứ khơng thể là liệt kê các chi tiết. Văn tả cảnh mang tính chất
thơng báo thẩm mĩ, dù tả bất kì đối tượng nào, dù có bám sát thực tế đến đâu thì
văn tả cảnh khơng bao giờ là sự sao chép, chụp ảnh máy móc những sự vật hiện

tượng mà là kết quả của sự nhận xét, tưởng tượng, đánh giá hết sức tinh tế và
phong phú. Mỗi cảnh đều nằm trong một khung khơng gian và thời gian, đó là
cái nền cho cảnh vật được miêu tả. Các em cần nêu được khung cảnh chung này,
nhưng đặc biệt cần tập trung tả nét tiêu biểu của cảnh, làm cho nó khác với cảnh
khác.
Khi tả cảnh các em có thể lồng tả người, tả vật trong cảnh để cho bài văn
thêm sinh động.
2. Rèn luyện kĩ năng quan sát cho học sinh.
- Đối tượng của văn miêu tả là những sự vật, sự việc, là thế giới thiên nhiên, là
con người và cuộc sống con người. Đó là một thế giới hết sức đa dạng, phức tạp
và sống động diễn ra quanh ta, thay đổi từng giờ, từng ngày. Vậy không phải tự
nhiên mà học sinh hiểu và nắm được đặc điểm của từng sự vật, sự việc, từng


con người để miêu tả bản chất của nó vì vậy tôi yêu cầu học sinh phải thường
xuyên quan sát và ghi chép.
- Đối với các em học sinh, khi làm văn miêu tả thì kĩ năng quan sát và ghi chép
những điều đã quan sát được là một trong những việc làm rất cần thiết. Vì nếu
khơng được quan sát trực tiếp các sự vật, hiện tượng thì sẽ xảy ra tình trạng bịa
đặt hình ảnh trong bài, khiến cho những hình ảnh ấy thiếu tính chân thực hoặc
hết sức vơ lí. Nên tơi thường xun tổ chức cho các em quan sát đối tượng miêu
tả qua các tiết học ngoài trời, quan sát thực tế với những bài văn tả cảnh đẹp quê
hương, trường lớp,…
- Muốn quan sát có hiệu quả thì tơi hướng dẫn các em quan sát phải có tính mục
đích, khi các em quan sát phải có cách nghĩ, cách cảm nhận của riêng mình.
Quan sát để làm văn nhằm phản ánh một đối tượng cụ thể, vừa chi tiết, vừa có
tính khái qt. Qua việc quan sát chi tiết tỉ mỉ, học sinh sẽ thấy được bản chất
của sự việc. Nhưng quan sát phải có lựa chọn. Khi quan sát, tơi u cầu các em
tránh những chi tiết rời rạc, tản mạn, mang tính chất liệt kê. Miêu tả một cách
chi tiết nhưng mà phải chọn lọc, lựa chọn những điểm riêng biệt, nổi bật, gây ấn

tượng,… Đó là những chi tiết lột tả được cái thần của cảnh. Tôi cũng yêu cầu
học sinh quan sát kèm ghi chép lại những hình ảnh quan sát được một cách đầy
đủ.
- Ban đầu tôi hướng dẫn học sinh quan sát để tìm ra màu sắc, âm thanh, hình
ảnh tiêu biểu của sự vật và cảm xúc của mình đối với sự vật.
Khi quan sát, tơi khuyến khích các em cần sử dụng đồng thời nhiều giác quan
khác nhau:
+ Quan sát bằng mắt để nhìn ra hình khối sự vật.
+ Quan sát bằng tai để nhận ra âm thanh, nhịp điệu gợi cảm xúc.
+ Quan sát bằng mũi nhằm nhận ra những mùi vị tác động đến tình cảm.
+ Quan sát bằng vị giác, xúc giác để cảm nhận.
Nhờ cách quan sát này mà các em ghi nhận được nhiều ý, nhiều hình ảnh,
đoạn văn, bài văn đa dạng phong phú.
* Ví dụ: Đề bài “Em hãy tả một cơn mưa rào mùa hè.”
- Tôi hướng dẫn học sinh quan sát bằng các giác quan như sau:
+ Thị giác: Thấy những đám mây biến đổi trước cơn mưa, thấy hạt mưa rơi,
thấy cây cối, con người (trước, trong và sau cơn mưa)...
+ Xúc giác: Gió thổi làm xua tan cái nóng mà nhường chỗ cho luồng khí mát lạnh.
+ Thính giác: Nghe thấy tiếng gió thổi, tiếng mưa rơi, tiếng sấm, tiếng kêu của
ếch nhái...


- Bên cạnh đó, các em học sinh được tơi lưu ý: khi quan sát cần quan sát tỉ mỉ.
Muốn tìm ra ý hay cho đoạn văn, bài văn cần viết học sinh phải quan sát kĩ,
quan sát nhiều lần cảnh đó. Tránh quan sát qua loa sẽ khơng tìm ra ý hay cho bài
văn. Tôi nhấn mạnh cho các em các nội dung:
+ Cần xác định rõ vị trí, thời điểm, thời gian, trình tự quan sát.
+ Có thể quan sát từ cụ thể đến bao quát hoặc ngược lại.
+ Quan sát từ trong ra ngoài hoặc từ ngoài vào trong, từ trên xuống dưới…
+ Quan sát theo trình tự không gian (từ xa đến gần hay từ gần đến xa).

+ Quan sát theo trình tự thời gian (theo các thời điểm trong ngày, theo mùa
trong năm…).
Tôi minh họa cho học sinh các cách quan sát đó qua các bài tập đọc để các em
hiểu hơn và có thể vận dụng các cách quan sát đó khi viết văn:
* Ví dụ 1: Quan sát từ ngồi vào trong để miêu tả cảnh Đền Hùng.
“Đền Thượng nằm chót vót trên đỉnh núi Nghĩa Lĩnh. Trước đền, những khóm
hải đường đâm bông rực đỏ, những cánh bướm nhiều màu sắc bay dập dờn như
đang múa quạt xoè hoa. Trong đền dòng chữ vàng Nam Quốc Sơn Hà uy
nghiêm đề ở bức hồnh phi treo chính giữa.”
* Ví dụ 2: Quan sát từ dưới lên trên để miêu tả cây hồi.
“Cây hồi thẳng, cao, tròn xoe. Cành hồi giòn, dễ gãy hơn cành khế. Quả
hồi phơi mình xoè trên mặt lá đầu cành” (Rừng hồi xứ Lạng).
* Ví dụ 3: Quan sát theo trình tự thời gian để miêu tả cây thảo quả.
“Thảo quả trên rừng Đản Khao đã chín nục. Chẳng có thứ quả nào hương thơm lại
ngây ngất kì lạ đến như thế. Mới đầu xuân năm kia, những hạt thảo quả gieo
trên đất rừng qua một năm, đã lớn cao đến bụng người. Một năm sau nữa, từ
một thân lẻ, thảo quả đâm thêm hai nhánh mới. Sự sinh sơi sao mà mạnh mẽ
vậy.”
3. Giúp học sinh tích luỹ vốn từ miêu tả và làm giàu tưởng tượng của các em trong làm văn miêu tả:

Muốn lựa chọn từ ngữ để đặt câu, viết thành những câu văn có hình ảnh, học
sinh phải có vốn từ phong phú. Do vậy, giáo viên cần giúp học sinh tích luỹ vốn
từ miêu tả và làm giàu tưởng tượng của các em trong làm văn miêu tả:
* Tích luỹ vốn từ:
- Vốn từ được tích luỹ từ nhiều nguồn: giao tiếp hàng ngày; đọc sách, báo; xem,
nghe truyền hình truyền thanh; trao đổi với bạn bè; cô giáo cung cấp;..
- Ghi chép khi được nhận các từ ngữ dùng để miêu tả theo các chủ đề, cụ thể
như:



+ Các từ thường dùng trong miêu tả cây cối: xanh mướt, mơn mởn; khẳng khiu;
xum xuê; rực rỡ; đo đỏ;
+ Các từ thường dùng trong miêu tả đồ vật: tròn xoe, nhỏ nhắn,...
+ Các từ thường dùng trong miêu tả con vật: tinh nhanh, rón rén, oai vệ,...
- Các từ miêu tả đó thường là những từ láy, gợi lên hình ảnh, âm thanh,. . để
miêu tả cho sinh động.
* Giúp học sinh làm giàu thêm trí tưởng tượng:
Tưởng tượng trong miêu tả rất quan trọng.Có tưởng tượng mới có hình ảnh
hồn chỉnh về đối tượng miêu tả. Tưởng tượng như một sự hình dung về đối
tượng mà ta nhắm mắt lại thì đối tượng sẽ hiện ra rõ nét hơn, cụ thể hơn, gần
gũi hơn. Tưởng tượng giúp ta thấy được nét đặc sắc của đối tượng, thấy được
những điểm tương đồng với đối tượng khác, thấy được mối quan hệ của đối
tượng với sự vật hiện tượng xung quanh, với những kỉ niệm hay kí ức mang dấu
ấn sâu sắc trong lòng người viết. Từ tưởng tượng, học sinh sẽ cảm nhận được
đối tượng miêu tả bằng tình cảm, tình u của chính mình, thấy được tầm quan
trọng của đối tượng được tả đối với chính mình và cả với những người xung
quanh. Miêu tả gắn với tưởng tượng là một cách bộc lộ cảm xúc, tình cảm và
khả năng cảm thụ cái đẹp của người viết văn miêu tả. Tưởng tượng làm cho đối
tượng miêu tả hoàn thiện hơn, sống động và gần gũi hơn.
* Giáo viên có thể hướng dẫn học sinh tưởng tượng theo cách:
- Không trực tiếp quan sát, tập trung tất cả các giác quan vào đối tượng.
- Nhắm mắt, hình dung về đối tượng: hình ảnh, hoạt động của đối tượng, những
ảnh hưởng, tác động của đối tượng đến sự vật xung quanh.
- So sánh đối tượng được miêu tả với các đối tượng khác tương đồng.
- Phân tích, đánh giá cái hay, cái đẹp có ở đối tượng.
- Nhân hố hay tự nhiên hố một vài hình ảnh đặc sắc ở đối tượng.
- Dự đoán trựớc khả năng và những điều tốt đẹp mà đối tượng có thể vươn tới.
- Liên tưởng với những điều mình đã biết; đã nghe, đọc, cảm nhận được về đối
tượng từ trước tới nay.
- Ghi chép lại những gì mình đã tưởng tượng để lựa chọn, chắt lọc đưa vào bài

viết của mình.
4. Luyện kĩ năng sử dụng từ ngữ, đặt câu,sử dụng biện pháp nghệ thuật
trong văn miêu tả.
* Về cách dùng từ:


Sau khi học sinh đã có vốn từ nhất định, tôi giúp học sinh các cách sử dụng vốn
từ trong miêu tả.
- Dùng từ phải đảm bảo độ chính xác, đồng thời biểu hiện được tư tưởng, tình
cảm một cách rõ ràng.
- Phải tuân thủ các tiêu chuẩn chính tả.
- Dùng từ gợi cảm, gợi tả: Thường là các từ đơn, từ ghép, từ láy, động từ,
tính từ…
- Dùng từ giàu hình ảnh, âm thanh: Thường là các từ láy, từ tượng hình, từ
tượng thanh...
- Sử dụng từ gần nghĩa, từ trái nghĩa, từ đồng nghĩa, các biện pháp tu từ.
* Ví dụ:
+ Dùng từ chính xác: Mặt trăng trịn toả ánh sáng xuống vạn vật.
+ Dùng từ có hình ảnh: Mặt trăng trịn như vành nón lá toả ánh
sáng vằng vặc xuống vạn vật.
+ Dùng từ trái nghĩa: Vàomùa nước lũ, dịng sơng trở nên dữ dằn khơng hiền
hồ chút nào.
+ Dùng cụm từ so sánh, nhân hóa: Ánh trăng lồng qua kẽ lá như ngàn vạn con
đom đóm đang lập loè sáng.
+ Dùng âm thanh: Mưa rơi tí tách trên mái hiên, rơi lộp độp trên tàu lá
chuối….
* Về cách đặt câu:
- Trong khi làm văn, tôi nhắc nhở học sinh phải viết câu văn đúng ngữ pháp
nghĩa là khi viết câu phải xác định được đâu là chủ ngữ, đâu là vị ngữ, đâu là
các vế trong câu ghép, các thành phần khác của câu.

- Tôi dạy các em phải biết sử dụng các phép liên kết câu như: Phép lặp, phép
thế, phép nối, phép liên tưởng... biết sử dụng các biện pháp tu từ về câu (câu hỏi
tu từ, đảo ngữ, điệp ngữ, so sánh, nhân hố...).
* Ví dụ:
+ Phép liên kết câu:
Mưa xn lất phất bay. Cây cối thi nhau đâm chồi nảy lộc, đưa tay đón những
hạt mưa xn. Với chúng, mưa xn chính là liều thuốc tiên để sinh tồn và
phát triển.
+ Phép lặp:


Dịng sơng như dài lụa đào mềm mại. Nó cứ chảy mãi, chảy mãi để mang phù
sa màu mỡ cho đất đai.
+ Biện pháp tu từ (thường dùng):
Câu hỏi tu từ: Bạn có biết cảnh đẹp mà người dân quê em rất đỗi tự hào là
cảnh gì khơng? Đó chính là dịng sơng Hồng quanh năm đỏ nặng phù sa đấy!
So sánh: Mặt trời như quả bóng trịn, đỏ hồng treo lơ lửng trên bầu trời.
Nhân hoá: Nàng Xuân xinh đẹp mang những sắc màu lộng lẫy khoác lên cỏ
cây, hoa lá.
- Tôi giúp các em phân biệt được câu văn kể với câu văn tả để khi viết sẽ sử
dụng các câu văn miêu tả tránh dùng câu kể khiến người đọc có cảm giác như
người viết đang kể lể dài dịng về cảnh. Tơi ln nhấn mạnh với học sinh:
+ Câu văn kể: dùng để thông báo cho người đọc, người nghe biết về sự việc,
sự vật.
+ Câu văn tả: là câu văn phối hợp nhiều yếu tố (Các kiểu câu, các loại câu,
các biện pháp tu từ về câu, các từ gợi tả, gợi cảm) để người đọc, người nghe có
thể cảm thấy được hình ảnh, màu sắc, âm thanh, cảm xúc ... của cảnh đó.
* Ví dụ:
Câu văn kể


Câu văn tả

- Ông mặt trời vén màn mây trắng,
- Mặt trời chiếu ánh nắng xuống mặt
toả những tia nắng vàng óng như tơ
đất.
xuống mặt đất.
- Hết năm này đến năm khác, sông cứ
- Lúc nào sông cũng chảy để mang
cần mẫn chảy mang phù sa bồi đắp
phù sa cho đất.
cho đất đai màu mỡ, cây cối xanh tốt.
5. Cung cấp cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả.
Việc cung cấp cho học sinh phương pháp làm văn miêu tả giúp học sinh
có con đường đi đến bài văn đúng hướng, không bị sai lệch về cả nội dung và
hình thức.
a. Hướng dẫn học sinh nắm được các yêu cầu khi làm văn miêu tả:
- Cụ thể hóa sự vật (tả cái gì?).Ví dụ: Tả cánh đồng thì tập trung tả cánh
đồng, khơng miên man tả sâu cảnh xóm làng nằm bên cạnh cánh đồng, hay cảnh
trời mây vào thời điểm đó cho dù các sự vật đó cũng có liên quan.
- Cá thể hóa sự vật (tả như thế nào?): Tả cảnh nào thì người đọc hình dung
cảnh đó chứ khơng bị lẫn lộn với cảnh khác.


Ví dụ: Tả cảnh cánh đồng thì phải tả chủ yếu những yếu tố liên quan không thể
tách rời như: Lúa, ngô, rau màu, thửa ruộng, bờ mương, đàn trâu, con ngườilao
động...
- Mục đích hóa sự vật (tả với mục đích gì ?)
Ví dụ: Tả cánh đồng với mục đích đó là tả lại một cảnh đẹp rất đáng tự hào
của người dân quê hương, ích lợi mà cánh đồng mang lại….

- Cảm xúc hóa sự vật (tả với tư tưởng, tình cảm, thái độ ra sao?)
Ví dụ: Tả cánh đồng với niềm tự hào, với sự ngưỡng mộ về một vẻ đẹp
nên thơ...
b. Cung cấp cho học sinh các bước làm văn miêu tả:
- Bước 1: Tìm hiểu đề.
- Bước 2: Tìm ý - Lập dàn ý.
- Bước 3: Viết bài hoàn chỉnh.
- Bước 4: Kiểm tra lại bài.
Để rèn cho học sinh thói quen làm tuần tự theo các bước kể trên khi làm văn
thì mỗi bước làm tôi cũng hướng dẫn các em một cách tỉ mỉ về phương pháp
cũng như cách suy nghĩ, cách thực hiện từng bước.
Cụ thể:
* Bước 1: Tìm hiểu đề:
- Tác dụng: Giúp học sinh xác định được đúng trọng tâm yêu cầu đề bài,
tránh làm lạc đề. Nói cách khác tìm hiểu đề để định hướng học sinh nắm được
mình đang làm bài văn thuộc thể loại gì, tả cái gì, đối tượng đó có những yêu
cầu, giới hạn đến đâu...
- Cách thực hiện: Hướng dẫn học sinh làm những công việc sau:
+ Đọc kĩ đề.
+ Phân tích đề.
Phân tích đề bằng cách:
Gạch 1 gạch dưới các từ xác định thể loại bài văn.
Gạch 2 gạch dưới từ xác định đối tượng miêu tả.
Gạch 3 gạch dưới từ xác định thời gian miêu tả. (việc làm này tùy thuộc vào
yêu cầu của đề bài vì có đề bài cho thời gian miêu tả nhưng cũng có đề khơng
cho thời gian miêu tả.)
* Ví dụ: Đề bài: Hãy miêu tả cánh đồng lúa quê em vào buổi sáng.


Với đề bài trên tơi hướng dẫn học sinh tìm hiểu và phân tích đề bài qua việc trả

lời các câu hỏi:
- Đề bài thuộc thể loại văn nào? (Thể loại văn miêu tả).
- Đối tượng miêu tả là gì ? (cánh đồng lúa quê em).
- Cảnh đó được miêu tả vào thời gian nào? (vào buổi sáng).
Sau khi đọc đề bài và đã trả lời đúng các câu hỏi trên, học sinh thực hành gạch
chân trực tiếp trên đề bài.
Đề bài: Hãy miêu tả cánh đồng lúa quê em vào buổi sáng
* Bước 2:Tìm ý - Lập dàn ý:
- Sau khi tìm hiểu đề các em đã xác định chính xác đối tượng miêu tả nhưng
chắc chắn chưa thể định hình được hướng đi cho bài viết. Để giúp các em định
hình được bài viết văn tả cảnh, trước tiên tơi hướng dẫn cho học sinh tìm ý cho
bài văn tả cảnh. Việc tìm ý cho bài văn phải được tiến hành song song với việc
quan sát trực tiếp đối tượng miêu tả. Để làm được việc trên với mỗi một đề
bài tôi hướng cho học sinh quan sát trực tiếp đối tượng bằng một số câu hỏi gợi
ý để học sinh quan sát và ghi lại tỉ mỉ những nét tiêu biểu, đặc sắc của cảnh để
làm tư liệu cho việc lập dàn ý.
* Ví dụ: Để quan sát và tìm ý bài: "Tả cảnh nhộn nhịp của sân trường em trong
giờ ra chơi" tôi đưa ra hệ thống câu hỏi sau:
- Khung cảnh và khơng khí của sân trường trước giờ ra chơi như thế nào?
- Cảnh sân trường trong giờ ra chơi:
+ Âm thanh lúc đó?
+ Học sinh từ các lớp ra sân như thế nào?
+ Toàn sân trường lúc này ồn ào, náo nhiệt ra sao? (Tiếng cười? Tiếng nói? các
nhóm chơi diễn ra ở những chỗ nào trên sân trường?)
+ Nhóm hoạt động sơi nổi nhất là nhóm nào? Họ chơi những trị chơi gì? Các
bạn trong nhóm hoạt động thế nào?...
+ Tiếng hị reo, cổ vũ của các cổ động viên lúc trò chơi bắt đầu đến lúc kết thúc?
- Lúc có tiếng trống báo hoạt động giữa giờ:
+ Các bạn nhanh chóng xếp hàng tập thể dục như thế nào?
- Sau khi hoạt động giữa giờ xong:

+ Trên khuôn mặt một số bạn có biểu hiện gì?
+ Khơng khí trên sân trường lúc này ra sao?


- Cảm nghĩ của em về giờ ra chơi:
+ Những cảm xúc gì sau giờ ra chơi?
+ Những ấn tượng tốt đẹp gì về tuổi học trị?
- Sau khi tìm ý, trước khi lập dàn bài chi tiết, học sinh cần xác định trình
tự miêu tả để sắp xếp các ý một cách hợp lí. Trình tự miêu tả trong văn tả cảnh
có thể là trình tự khơng gian, có thể là trình tự thời gian tuỳ theo từng cảnh để
lựa chọn cho phù hợp.
* Ví dụ: Với bài tả khu vườn vào buổi sáng, ta nên chọn trình tự khơng gian.
+ Trước cửa vườn:… Giữa vườn:… Góc vườn bên trái:…. Góc vườn bên
phải:…  Cuối vườn:...
Tuy nhiên, ta vẫn có thể chọn trình tự thời gian:
+ Khoảng trời phía đông ửng hồng, khu vườn trông…. Mặt trời bắt đầu nhô
lên sau rặng tre là lúc vẻ đẹp của cây, hoa trong vườn…. Khi ánh nắng ban mai
bắt đầu toả xuống, khu vườn... Mặt trời lên cao…
* Ví dụ: Với bài tả dịng sơng chọn trình tự miêu tả là thời gian.
+ Buổi sáng, ông mặt trời từ từ nhô lên tỏa những tia sáng rực rỡ xuống mặt
sông làm mặt sơng như khốc trên mình chiếc áo lụa đào thướt tha…  Trưa về,
sông thay chiếc áo xanh lộng lẫy trông thật duyên dáng….  Chiều đến, là lúc
sông mặc áo ráng vàng quyến rũ…  Khi mặt trăng đã lên cao. Trên bầu trời xuất
hiện những vì sao thì sơng nhanh chóng thay chiếc áo hoa lấp lánh ánh sao….
Ta cũng có thể chọn trình tự khơng gian như:
+ Nhìn từ xa dịng sơng như dải lụa mềm mại uốn lượn quanh thơn
xóm….. Nước sơng trong veo in rõ từng mảng mây trời. Trên mặt sông một
vài đám bèo lục bình đang lững lờ trơi…. Bờ bên trái là hàng phi lao xanh
mướt đang in bóng xuống mặt sông như những nàng thiếu nữ yểu điệu soi
gương chải tóc…. Bên phải là con đường nhựa nhẵn bóng như đang sánh

dun cùng con dịng sơng… ……
- Khi đã xác định được trình tự miêu tả thì học sinh tiến hành lập dàn ý theo
khung dàn ý và hướng dẫn xây dựng đoạn văn mở bài, thân bài, kết bài và
xây dựng bố cục bài văn chung như sau:
* Bố cục bài văn gồm ba phần:
• Mở bài: Giới thiệu chung về cảnh vật (cảnh vật đó ở đâu? Em tả nó vào lúc nào? Nét nổi bật nhất của
cảnh vật đó là gì?).
• Thân bài: Dùng lời văn để tả, tái hiện, sao chụp chân dung của đối tượng miêu tả ở những góc nhìn nhất
định. Có thể sử dụng những biện pháp nghệ thuật để lột tả hình ảnh một cách sinh động.
• Kết bài: Nêu cảm nghĩ của người viết về cảnh vật (sự yêu thích, sự gắn bó).
* Hướng dẫn học sinh viết các đoạn văn.


• Đoạn mở bài: Mở bài cũng giống như lời chào, lời mời gọi người đọc
đến với bài viết của mình.Cũng như lời chào, lời mời gọi có thể viết rất giản dị,
chân thành, tự nhiên, ngắn gọn nhưng cũng có lúc cần dẫn dắt gợi mở khéo léo
gây ấn tượng, gây sự hấp dẫn cho người đọc.
Ví dụ cũng mở bài cho bài văn tả con đường có thể mở bài trực tiếp: “Từ nhà em đến trường có thể đi theo
nhiều ngã đường. Nhưng con đường mà em thích đi hơn cả là con đường Can Bi ”.
Nhưng cũng có thể vào bài gián tiếp: “Tuổi thơ em có biết bao kỉ niệm gắn bó với cảnh vật của q hương.
Đây là dịng sơng nhỏ đầy ắp tiếng cười của bọn trẻ chúng em mỗi buổi chiều hè.Kia là triền đê rộn rã
tiếng hát của thanh niên nam nữ những đêm trăng sáng. Nhưng gần gũi, thân thiết nhất với em vẫn là con
đường từ nhà đến trường ,con đường gắn bó suốt những năm tháng học trị của em.”
Như vậy, cũng là giới thiệu con đường từ nhà đến trường mỗi người lại có một cách giới thiệu riêng.Với
học sinh, sản phẩm này ít nhiều in dấu ấn riêng của từng em trong cách suy nghĩ, giới thiệu, diễn đạt. Tuy
nhiên chúng ta không nhất thiết phải gị bó học sinh làm mở bài theo một cách nào, mà chỉ dẫn cho học
sinh cách vào bài phải bám sát yêu cầu của đề, không lan man, xa đề, khơng rườm rà nhưng cũng khơng
khơ khan.
• Thân bài: Có thể gồm một số đoạn văn, là tồn bộ nội dung miêu tả được viết theo từng phần, từng ý đã
sắp xếp khi quan sát, khi chuẩn bị bài. Trong đó, thể hiệnđược hình ảnh về đối tượng miêu tả với ngôn từ

và các biện pháp nghệ thuật mà người viết vận dụng để tả. Khi liên kết câu văn, đoạn văn các em cần vận
dụng các cách liên kết đã học ở Luyện từ và câu như: liên kết bằng từ ngữ nối, thay thế từ ngữ, lặp từ,…
Tuy nhiên khi sử dụng những cách liên kết này các em cần lựa chọn từ tránh sử dụng không đúng gây
rườm rà.
• Đoạn kết bài: Tuy chỉ là một phần nhỏ trong bài nhưng rất quan trọng bởi đoạn kết bài thể hiện được rất
nhiều tình cảm của người viết với đối tượng miêu tả. Thực tế cho thấy học sinh thường hay liệt kê cảm xúc
của mình làm phần kết luận khơ cứng, gị bó, thiếu tính chân thực. Chủ yếu các em thường làm kết bài
không mở rộng.Kết bài như vậy không sai nhưng chưa hay, chưa hấp dẫn người đọc.Vì vậy giáo viên cần
phải gợi ý để học sinh biết cách làm phần kết bài mở rộng bằng cảm xúc tự nhiên của mình.

Bước 3: Viết bài hoàn chỉnh:
Đây là bước quan trọng nhất và cũng là khâu khó nhất.Trên cơ sở dàn bài vừa
lập, các em viết thành bài văn hoàn chỉnh gồm 3 phần (mở bài, thân bài, kết
bài).Để viết được bài văn sinh động, giàu hình ảnh cuốn hút người đọc tơi đã
định hướng cho học sinh làm tốt cả ba phần (mở bài, thân bài, kết bài).
Bước 4: Kiểm tra lại toàn bộ bài văn:
Đây là bước rất cần thiết, nó giúp các em sửa chữa những lỗi sai khi viết văn
như: lỗi chính tả, cách dùng từ, đặt câu, tạo đoạn, dấu câu, cách trình bày và đặc
biệt là nhận biết được mình đã làm đúng yêu cầu đề bài chưa và bổ sung nội
dung còn thiếu.
Như vậy từ thực tế quan sát và nắm vững các bước làm bài văn tả cảnh, tôi thấy
hầu hết các em học sinh đều lập được dàn ý và từ đó hồn chỉnh bài văn theo
đúng yêu cầu của đề bài.
6. Thực hiện nghiêm túc tiết chấm và trả bài Tập làm văn.
a. Chấm bài:


Đối với giáo viên việc chấm bài cho học sinh rất cần thiết bởi kết quả bài viết
của các em sẽ cho giáo viên biết được ưu điểm, hạn chế trong cách dạy để điều
chỉnh phương pháp dạy cho phù hợp.

Với mỗi bài tôi thường đọc qua một lượt để có cái nhìn chung về bố cục, về
diễn đạt của học sinh, xem học sinh đã làm bài đúng thể loại, nội dung và trọng
tâm bài viết chưa. Sau đó, tôi đọc kĩ từng phần trong bài viết của các em để phát
hiện và ghi lại câu văn hay, ý hay, đoạn văn giàu hình ảnh, dùng từ khéo léo…,
đồng thời cũng ghi lại những lỗi sai mà học sinh mắc phải (lỗi chính tả, lỗi dùng
từ, đặt câu...) vào sổ theo dõi chấm bài để làm dữ liệu cho tiết trả bài. Trong quá
trình chấm bài mà phát hiện ra lỗi các em mắc phải tôi thường dùng bút đỏ gạch
chân. Sau khi xem xét tồn bài tơi ghi những lời nhận xét cụ thể về những ưu
điểm cần phát huy, những nhược điểm cần khắc phục của bài viết.
Khi chấm xong cho cả lớp, tôi đánh giá chung kết quả bài làm của học sinh và
rút ra những tiến bộ cần phát huy, những thiếu sót cần sửa chữa, bổ sung để
chuẩn bị cho tiết trả bài sắp tới….
b. Trả bài viết:
Như chúng ta đã biết tiết trả bài viết là tiết sau cùng của một đề văn, nhưng lại
là tiết thiết thực nhất, cụ thể nhất để các em thấy được ưu, nhược điểm trong bài
viết của mình, của bạn để học hỏi, trao đổi lẫn nhau. Tìm cách và biết cách sửa
lỗi. Vì vậy theo tơi giáo viên cần nắm rõ nội dung, phương pháp lên lớp một tiết
trả bài Tập làm văn viết lớp 5, có ba hoạt động chính:
1. Nghe thầy (cơ) nhận xét chung về kết quả bài làm của lớp.
2. Chữa bài.
3. Đọc tham khảo các bài văn hay được thầy (cô) giáo khen để học tập và rút
kinh nghiệm.
Để tiết trả bài viết đạt hiệu quả, tôi đã lấy thông tin từ bài viết của học sinh (đã
chấm và ghi ở sổ theo dõi chấm bài) và thực hiện các hoạt động trả bài một
cách bài bản, có linh hoạt tuỳ theo tình hình chất lượng Tập làm văn của lớp.
* Hoạt động 1:Nhận xét chung về bài làm của lớp:
- Trước khi nhận xét bài viết của học sinh tôi thường ghi lại đề bài lên bảng.
Sau đó cho các em xác định lại yêu cầu của đề bài. Việc làm này giúp các em có
thể so sánh và hình dung ra bài viết của mình đúng như thế nào? Mình thiếu
những gì? Để từ đó các em dễ dàng nắm được ưu và nhược điểm trong bài viết

của mình.
- Khi nhận xét chung về bài viết của học sinh tôi thường nêu rõ những ưu
điểm cũng như một số hạn chế trong bài viết.
+ Ưu điểm:


Học sinh đã hiểu đề và xác định đúng yêu cầu của đề.
Bố cục đầy đủ, sắp xếp các ý hợp lí, lơgic.
Câu văn diễn đạt rõ ý, giàu hình ảnh.
Bài viết có sự sáng tạo khi miêu tả.
Viết đúng chính tả, bài viết trình bày sạch đẹp….
Với những bài viết có một số những ưu điểm trên hoặc những bài viết có sự
tiến bộ tơi thường tun dương các em trước lớp để khích lệ các em, tạo động
lực cho các em làm bài tốt hơn trong các bài tiếp theo.
+ Hạn chế:
Bài viết cịn sai lỗi chính tả, dùng từ chưa chính xác, lặp từ, câu văn diễn đạt
chưa rõ ý, trình bày bài chưa sạch đẹp,…
Để giúp các em khắc phục những hạn chế trên tôi thường sử dụng bảng phụ ghi
lại những lỗi phổ biến mà các em mắc phải. Yêu cầu học sinh thảo luận với bạn
phát hiện lỗi sai và tìm cách sửa lại.
* Hoạt động 2:Chữa bài
- Trả bài viết cho học sinh, yêu cầu học sinh đọc thầm lại toàn bộ bài làm của
mình, lời nhận xét chung và những chỗ lưu ý cụ thể của cơ giáo trong bài viết
(nếu có).
- Sau khi đọc bài và đã phát hiện ra lỗi sai thì tơi u cầu các em tự chữa bài
của mình rồi đổi bài cho bạn để kiểm tra, giúp nhau về việc chữa lỗi.
* Hoạt động 3: Cho học sinh đọc lại câu văn hay, ý hay, một số đoạn, hoặc vài
bài văn hay của mình cho cả lớp nghe.
Sau khi nghe bạn đọc tôi gợi ý cho các em nhận xét, nêu những ưu điểm trong
bài văn của bạn (về bố cục, sắp xếp ý, diễn đạt, dùng từ đặt câu, sử dụng

biện pháp nghệ thuật…) để học tập.
* Kết Quả:

Qua quá trình áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, tôi nhận thấy để dạy tốt thể
loại văn tả cảnh thì trước tiên giáo viên phải lưu ý một số vấn đề sau:
- Hiểu rõ miêu tả là gì? Đặc biệt để tả cảnh cần quan sát kĩ, dùng các giác quan
quan sát và nhận xét cẩn thận, bằng trí óc tìm các chi tiết đặc biệt để làm nổi bật
đề bài.
- Khảo sát chất lượng học sinh làm văn một số dạng bài trước đó để nắm tình
hình học làm văn của các em.


- Lựa chọn phương pháp, hình thức phù hợp với lớp và phù hợp tới từng nhóm
đối tượng học sinh.
- Nghiên cứu bài thật kỹ trước khi lên lớp. Đối với mỗi thể loại văn miêu tả
nói chung, tả cảnh nói riêng và mỗi bài văn giáo viên cần đặc biệt lưu ý
các điểm sau:
+ Giúp học sinh nắm chắc phương pháp cơ bản nhất của văn miêu tả và văn tả
cảnh.
+ Rèn cho học sinh một số kĩ năng: Kĩ năng quan sát, kĩ năng sử dụng từ ngữ
và các biện pháp nghệ thuật tu từ, kĩ năng đặt câu …
+ Cung cấp, khuyến khích học sinh tích lũy vốn từ ngữ khihọc các phân môn
khác của môn Tiếng Việt.
+ Tạo thói quen chăm chú nghe giảng, nắm vững kiểu bài, có kĩ năng quan
sát, tìm ý, tìm từ ngữ phù hợp, có bố cục rõ ràng,…
+ Nhận xét, đánh giá kịp thời thường xuyên, chuyển kết quả đánh giá của giáo
viên thành kĩ năng tự đánh giá của học sinh.
+ Tạo khơng khí sơi nổi, tơn trọng học sinh, khích lệ động viên khi các em có
sự cố gắng dù là đơi chút…
+ Tích cực ứng dụng cơng nghệ thông tin vào giảng dạy để cung cấp cho học

sinh những hình ảnh sinh động về cảnh vật và đặc biệt là những cảnh đẹp của
đất nước mà các em ít có điều kiện biết đến.
+ Thực hiện quan điểm tích hợp trong dạy học đặc biệt là giáo dục môi trường.
Sau một thời gian áp dụng sáng kiến kinh nghiệm này, thành công tuy nhỏ
nhưng tôi ý thức được rằng để giúp học sinh lớp 5 làm được bài văn tả cảnh
sinh động, đúng kiểu bài, đòi hỏi giáo viên phải dành nhiều thời gian, công sức
nghiên cứu soạn giảng, có lịng nhiệt tình với học sinh và tâm huyết với nghề
nghiệp. Thầy cô giáo đã miệt mài, tận tụy thì việc mong muốn có nhiều học sinh
giỏi văn sẽ khơng cịn là khó. Sau thời gian đầu tư nghiên cứu và áp dụng những
biện pháp dạy học như trên, học sinh lớp tơi đã có chuyển biến đi lên về chất
lượng phân mơn Tập làm văn nói riêng và mơn Tiếng Việt nói chung cụ thể là:
Lớp
5C

Số bài
34

Đạt yêu cầu
28 HS = 82,3%

Chưa đạt yêu cầu
6HS = 17,7 %

Tập làm văn đúng là phân mơn có tính chất tổng hợp và sáng tạo cao. Cho nên
mỗi bài văn của từng học sinh là một tác phẩm văn học của các em, chúng ta
phải tơn trọng nó, giúp đỡ để mỗi ngày có được nhiều học sinh giỏi văn. Biết
đâu sau này trong các em, sẽ có người trở thành nhà văn, nhà thơ...


Có thể nói, bước đầu thành cơng trong việc dạy Tập làm văn tả cảnh cho học sinh

lớp 5 là nguồn động viên rất lớn cho tôi. Tôi sẽ đem kinh nghiệm này tiếp tục áp
dụng để giảng dạy trong năm học này và các năm sau, với mong muốn lớn nhất
của tôi là giúp học sinh nâng cao chất lượng môn Tiếng Việt cấp Tiểu học.
Tuy nhiên những biện pháp mà tôi đã áp dụng trên, tuỳ đối tượng học sinh cũng
cần có sự vận dụng một cách khéo léo, sáng tạo của giáo viên. Tôi nghĩ rằng nội
dung đề tài này khơng có nhiều điểm mới, đó chỉ là nhiệm vụ hằng ngày của giáo
viên mà thôi. Nhưng đồng thời tôi cũng tin rằng nếu lâu nay ta làm chưa tốt thì
bây giờ ta dốc hết tâm huyết vào, tận tụy với học sinh, soạn giảng nghiêm túc thì
chắc chắn sẽ gặt hái được thành cơng.
7. Ngun nhân thành công và tồn tại:
*Thành công:
- Để đạt được thành cơng trong q trình thực hiện các giải pháp giúp HS làm
tốt bài văn miêu tả là do những nguyên nhân sau:
+ Bản thân tôi đã lựa chọn và vận dụng những tri thức
cách thức hoạt động đúng đắn với thực tế.

kinh

nghiệm và

+Nắm bắt được tâm lí,những suy nghĩ của các em để dẫn dắt các em đi vào thực
tế và thể hiện những gì các em cảm nhận được từ quan sát.
+ Sự đòi hỏi ngày một bức thiết của toàn xã hội về việc nâng cao chất lượng giáo
dục.
*Tồn tại:
- Bên cạnh những thành cơng cịn có những hạn chế cần khắc phục là:
+Cần giáo dục cho các em tính kiên trì khi đọc bài,quan sát thực tế để các e chọn
lọc từ hay hơn.
+Một số ít HS chưa có thái độ nghiêm túc và ý thức tự giác trong việc h ọ c .
+GV chưa có điều kiện nghiên cứu nhiều.


+ Về khả năng áp dụng của sáng kiến:
Sáng kiến đã được áp dụng tại nhà trường và đem lại hiệu quả rõ rệt. Đa số các
em trong một lớpdạy đã nắm bắt và hiểu vận dụng viết văn rất tốt.
- Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng giải pháp
trong đơn theo ý kiến của tác giả với các nội dung sau:
+ So sánh việc áp dụng sáng kiến trong đơn tôi viết và việc không áp dụng sáng
kiến thì kết quả chênh lệch nhau là rất lớn. Tôi nhận thấy học sinh lớp tôi hứng
thú học tập.Các em mạnh dạn phát biểu ý kiến xây dựng bài, làm văn tốt
hơn.Học sinh ham học, tự tin, chất lượng học tập được nâng lên một cách rõ rệt.


+ Số tiền làm lợi (nếu có thể tính được) và nêu cách tính cụ thể:
Số tiền làm lợi có thể lên đến hàng chục triệu đồng. Vì khi tơi sử dụng giải
pháp trên học sinh của tôi hiểu bài, làm được bài không cần cha mẹ các em phải
cho các em đến các trung tâm để học thêm.
Ví dụ: Mỗi tuần các em đi học 1 buổi x 9 tháng = 36 buổi x 20.000 đồng =
720.000 đồng . Cả lớp 34 em x 720.000 đồng = 24.480.000 đồng.
+ Mang lại lợi ích xã hội: nâng cao việc cảm nhận cái hay cái đẹp có trong các
tác phẩm văn, thơ.Giúp các em hiểu hết cái hay, cái đẹp ẩn chứa trong các tác
phẩm văn, thơ. Từ đó các em điều kiện để viết văn hay hơn, sinh động hơn.
- Các thơng tin cần được bảo mật (nếu có);
c. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến;
Nhà trường cần trang bị đầy đủ trang thiết bị dạy học để hỗ trợ cho giáo viên
giảng dạy, ngoài ra từng tiết học mà giáo viên chuẩn bị đồ dùng trực quan để
học sinh dễ nắm bắt được nội dung bài học. Học sinh có đầy đủ đồ dùng học
tập, sách giáo khoa.
d. Về khả năng áp dụng của sáng kiến cho những đối tượng, cơ quan, tổ chức
nào hoặc những người tham gia tổ chức áp dụng sáng kiến lần đầu (nếu có);
Sáng kiến có khả năng áp dụng cho tất cả các trường tiểu học trong huyện, trong

tỉnh Vĩnh Phúc. Đối tượng là các em học sinh lớp 4-5.
Tôi làm đơn nay trân trọng đề nghị Hội đồng sáng kiến xem xét và công nhận
sáng kiến. Tôi xin cam đoan mọi thông tin nêu trong đơn là trung thực, đúng sự
thật, khơng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ của người khác và hồn tồn chịu
trách nhiệm về thơng tin đã nêu trong đơn.



×