Tải bản đầy đủ (.pdf) (211 trang)

Luận án tiến sĩ chính sách đối với nghệ nhân thực hành di sản văn hóa phi vật thể ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.22 MB, 211 trang )

BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Phạm Cao Quý

CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGHỆ NHÂN THỰC HÀNH
DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ Ở VIỆT NAM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA

Hà Nội - 2019


BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
VIỆN VĂN HÓA NGHỆ THUẬT QUỐC GIA VIỆT NAM

Phạm Cao Quý

CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGHỆ NHÂN THỰC HÀNH
DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ Ở VIỆT NAM
Chuyên ngành: Quản lý Văn hóa
Mã số: 9319042

LUẬN ÁN TIẾN SĨ QUẢN LÝ VĂN HÓA
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. ĐẶNG VĂN BÀI

Hà Nội - 2019



i

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng, bản luận án tiến sĩ Chính sách đối với nghệ nhân
thực hành di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam là do tơi viết và chưa cơng
bố. Trong q trình thực hiện luận án, tôi đã kế thừa những nguồn tài liệu của
các nhà nghiên cứu đi trước và có trích dẫn đầy đủ. Kết quả nêu trong
luận án là trung thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.
Hà Nội, ngày tháng 10 năm 2019
Nghiên cứu sinh

Phạm Cao Quý


ii

MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN…………………………………………………….
DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT……………………………………...
DANH MỤC SƠ ĐỒ…………………………………………………
DANH MỤC BIỂU, MƠ HÌNH……………………………………..
MỞ ĐẦU……………………………………………………………...
Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ
LÝ LUẬN VÀ KHÁI QUÁT VỀ NGHỆ NHÂN THỰC HÀNH
DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ Ở VIỆT NAM….….…………
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu………………………..
1.1.1. Những nghiên cứu về đặc điểm, vai trò của nghệ nhân…
1.1.2. Những nghiên cứu về chính sách đối với nghệ nhân…….

1.2. Cơ sở lý luận……………………………………………..
1.2.1. Di sản văn hóa và chính sách……………………………
1.2.2. Di sản văn hóa phi vật thể……….………………………
1.2.3. Lý thuyết về động lực của con người
1.3. Khái quát về nghệ nhân thực hành di sản văn hóa
phi vật thể ở Việt Nam……………….………………………………
1.3.1. Khái niệm……………………………….………………
1.3.2. Đặc điểm…………………………….….………………
1.3.3. Vai trò…………………………………..………………
1.3.4. Nghệ nhân và sự sáng tạo…………….…………………
Chương 2. THỰC TRẠNG CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI NGHỆ NHÂN
THỰC HÀNH DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ Ở VIỆT NAM
2.1. Quá trình xây dựng, ban hành chính sách…………….
2.1.1. Các Nghị quyết của Đảng………………………………
2.1.2. Diễn trình ban hành văn bản về chính sách đối với nghệ nhân
2.1.3. Các văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội, Chính phủ
2.1.4. Các văn bản của địa phương, hội nghề nghiệp………….
2.1.5. Đề xuất chính sách của một số tỉnh, thành phố………….
2.2. Thực hiện các chính sách đối với nghệ nhân thực hành
di sản văn hóa phi vật thể thơng qua một số chương trình, dự án…
2.2.1. Chương trình tơn vinh Nghệ nhân dân gian của Hội Văn
nghệ dân gian Việt Nam………………….……………………………
2.2.2. Xây dựng danh sách Nghệ nhân Quan họ........................

Trang
i
ii
ii
iv
1


9
9
9
13
22
22
28
29
40
40
42
46
59
57
57
57
59
61
69
73
78
78
80


iii

2.2.3. Đề án bảo vệ và phát huy giá trị di sản Hát Xoan Phú Thọ
2.2.4. Dự án Mê Công: Dịng sơng kết nối các nền văn hóa……

2.2.5. Dự án Thiết lập Hệ thống Báu vật nhân văn sống ở Việt Nam
2.2.6. Chương trình Mục tiêu quốc gia về văn hóa……………..
2.3. Một số hạn chế của chính sách đối với nghệ nhân thực
hành di sản văn hóa phi vật thể…………………..…………………..
2.3.1. Nhận thức…………………………….…………………
2.3.2. Sự thiếu đồng bộ, thống nhất và toàn diện của các văn bản
2.3.3. Sự tham gia của các tổ chức xã hội………………………
Chương 3. GĨP PHẦN HỒN THIỆN CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI
NGHỆ NHÂN THỰC HÀNH DI SẢN VĂN HÓA PHI VẬT THỂ
Ở VIỆT NAM………………………………………………………...
3.1. Kinh nghiệm của UNESCO, Nhật Bản và Hàn Quốc …
3.1.1. Kinh nghiệm của UNESCO…………..…………………
3.1.2. Kinh nghiệm của Nhật Bản………..……………………
3.1.3. Kinh nghiệm của Hàn Quốc………….…………………
3.2. Quan điểm, mục tiêu, khung và các nhóm chính sách đối
với nghệ nhân thực hành di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam……
3.2.1. Quan điểm, mục tiêu……………………………………
3.2.2. Khung chính sách……………….………………………
3.2.3. Các nhóm chính sách……………………………………
3.3. Các văn bản quy phạm pháp luật cần điều chỉnh và ban
hành mới………………………………………………………………..
3.3.1. Sửa đổi, bổ sung Luật Di sản văn hóa…………..………
3.3.2. Sửa đổi, bổ sung Luật Thi đua, Khen thưởng……………
3.3.3. Ban hành mới văn bản quy phạm pháp luật dưới luật….
KẾT LUẬN…………………………………………………..
DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CƠNG BỐ
TÀI LIỆU THAM KHẢO…………………………………...
PHỤ LỤC…………………………….……………………….

81

83
85
86
90
90
103
108

110
110
110
114
117
124
124
128
132
141
141
146
147
149
155
156
168


iv

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


1. DSVH PVT : Di sản văn hóa phi vật thể
2. DSVH

: Di sản văn hóa

3. NNND

: Nghệ nhân nhân dân

4. NNƯT

: Nghệ nhân ưu tú

5. Nxb

: Nhà xuất bản

6. PL

: Phụ lục

7. PKSCB

: Phiếu khảo sát cán bộ

8. PKSNN

: Phiếu khảo sát nghệ nhân


9. Stt

: Số thứ tự

10. TL

: Tài liệu

11. Tr.

: Trang

12. UBND

: Ủy ban nhân dân

13. UNESCO

: Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc

14. VBQPPL

: Văn bản quy phạm pháp luật

15. VHTTDL

: Văn hóa, Thể thao và Du lịch


v


DANH MỤC SƠ ĐỒ
Trang
Sơ đồ 1.1. Mối tương quan giữa các loại hình DSVH PVT……………

32

Sơ đồ 1.2. Mối quan hệ giữa Cộng đồng, Nghệ nhân và DSVH PVT

37

Sơ đồ 1.3. Mối tương quan giữa nghệ nhân-người thực hành và cộng đồng

44

Sơ đồ 1.4. Mối tương quan giữa các hoạt động chính của nghệ nhân

47

Sơ đồ 2.1. Hệ thống xét tặng danh hiệu “NNND”, “NNƯT” theo các
cơ quan……..………………………....…………………..

93

Sơ đồ 2.2. Hệ thống xét tặng danh hiệu “NNND”, “NNƯT” theo các
cấp hội đồng.........................................................................

94

Sơ đồ 3.1. Các hình thức truyền dạy di sản văn hóa phi vật thể….......


137

Sơ đồ 3.2. Sự tác động của chính sách đối với nghệ nhân tới Xã hội,
Nhà nước và doanh nghiệp…………………….…………..

138


vi

DANH MỤC BIỂU, MƠ HÌNH
Trang
Biểu 2.1. Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa nguồn vốn
ngân sách nhà nước và đầu tư phát triển năm 2006-2010

88

Biểu 2.2: Chương trình mục tiêu quốc gia về văn hóa nguồn vốn
ngân sách nhà nước và đầu tư phát triển năm 2011-2013

88

Mơ hình 3.1. Tháp nhu cầu ứng dụng với nghệ nhân thực hành di
sản văn hóa phi vật thể …………………………….….

129

Mơ hình 3.2. Mơ hình hợp tác giữa Nhà nước - Cộng đồng - Nghệ
nhân và Xã hội trong hoạt động bảo vệ di sản văn hóa

phi vật thể......................................................................

132


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Năm 2001, Luật Di sản văn hóa, bộ luật hồn chỉnh đầu tiên về di sản
văn hóa Việt Nam, đã được Quốc hội thơng qua tạo cơ sở pháp lý quan trọng
cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa nói chung, bảo vệ và
phát huy giá trị DSVH PVT nói riêng. Theo sau đó là hệ thống VBQPPL hướng
dẫn thực hiện Luật Di sản văn hóa được ban hành tạo hành lang pháp lý thuận
lợi cho các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Hệ thống pháp
luật này đã kế thừa giá trị của các văn bản pháp luật trước đó, cập nhật những
vấn đề thực tiễn cuộc sống đang đặt ra đố i với viê ̣c bảo vệ và phát huy giá trị
di sản văn hóa, bảo đảm hài hịa lợi ích giữa các chủ thể sáng tạo và các đối
tượng sử dụng, hưởng thụ; có sự tích hợp và tương thích với luật pháp và cơng
ước quốc tế; thể hiện sự minh bạch, khả thi; tạo điều kiện cho các hoạt động bảo
vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa ở nước ta ngày càng thu hút được sự tham
gia tích cực của tồn xã hội, đồng thời tranh thủ được sự ủng hộ có hiệu quả của
cộng đồng quốc tế. Trong đó ghi nhận sự thành cơng của lĩnh vực quản lý DSVH
PVT và cho thấy DSVH PVT ngày càng có vị trí, vai trị quan trọng trong đời
sống văn hóa của cộng đồng chủ thể thực hành và tồn xã hội, phục vụ mục đích
gìn giữ bản sắc văn hóa và hội nhập quốc tế. Cùng với đó, lần đầu tiên chính
sách đối với nghệ nhân cũng được quy định trong Luật Di sản văn hóa.
Trong hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị DSVH PVT, người nắm giữ,
thực hành di sản được đánh giá là nhân tố quan trọng nhất. DSVH PVT khơng
nằm ngồi con người, nó được chính bản thân con người dưới góc độ là cá

nhân, nhóm, cộng đồng nắm giữ và thực hành. Họ là những người đóng vai trị
chủ chốt trong quá trình tiếp nhận, sáng tạo và chuyển giao cho thế hệ kế tiếp;
là những người “kiến tạo xã hội mang mầu sắc truyền thống”. Nói như vậy có
nghĩa là, DSVH PVT luôn sống cùng đời sống của con người; nó chịu những


2

tác động, đe dọa và có nguy cơ mai một, thất truyền, “đóng băng ở quá khứ”.
Do đó việc bảo vệ, truyền dạy, thực hành và tái sáng tạo DSVH PVT sẽ giúp
gìn giữ di sản phi vật thể sống, thay đổi và thích ứng với đời sống.
Đă ̣c thù của di sản văn hóa phi vật thể là phầ n lớn đươ ̣c gìn giữ, trao
truyề n bằ ng truyề n miê ̣ng, truyền nghề vì vâ ̣y, nghệ nhân thực hành có vị trí
quan trọng hàng đầu. Họ là người được kế thừa, nắ m giữ di sản của cha ông
truyề n la ̣i qua bao đời, tiế p tu ̣c thực hành, gìn giữ và trao truyền lại cho thế hệ
mai sau. Nghệ nhân thực hành được ví như những “báu vật nhân văn sống”,
“bảo tàng sống”, “kho tàng di sản văn hóa sống” mà khơng thể có một hình
thức vật chất nào thay thế được. Bất cứ nghệ nhân nào mất đi họ sẽ mang theo
toàn bộ “kho tàng” đó. Bởi vâ ̣y, sự tờ n ta ̣i của DSVH PVT phụ thuộc rấ t nhiề u
vào nghệ nhân thực hành cùng với ý thức gìn giữ, bảo vê ̣ của ho ̣. Hoạt động
bảo vệ và phát huy giá trị DSVH PVT trên mọi phương diện từ ban hành chính
sách, thực hiện cơng tác quản lý,… đều hướng tới mục tiêu bảo vệ, hỗ trợ,
khuyế n khích nghệ nhân thực hành và cộng đồng không ngừng gìn giữ, thực
hành và trao truyền các giá tri di
̣ sản văn hóa phi vâ ̣t thể ho ̣ đang năm giữ. Tuy
nhiên, cho đến nay, việc ban hành các VBQPPL về chính sách đối với các nghệ
nhân hoạt động trong lĩnh vực di sản văn hoá phi vật thể cịn nhiều thiếu sót,
bất cập, chưa đáp ứng được những vấn đề thực tiễn đặt ra cùng với đó là sự
chưa đồng bộ của hệ thống VBQPPL cũng như các chính sách liên quan. Khiếm
khuyết này ảnh hưởng cả trực tiếp và gián tiếp tới mục tiêu bảo vệ và phát huy

giá trị di sản văn hóa nói chung, DSVH PVT nói riêng. Thời gian qua đã có rấ t
nhiều nghệ nhân tiêu biểu qua đời mà chưa nhận được sự tơn vinh, chính sách
đãi ngộ xứng đáng. Bên cạnh đó, có nhiều nghệ nhân đang gặp nhiều khó khăn
không chỉ trong hoạt động thực hành DSVH PVT mà cịn ngay trong chính
cuộc sống, bởi họ là những người khơng thuộc các cơ quan nhà nước, khơng
có lương, ít được hưởng chính sách xã hội. Nhiều người trong số họ sinh sống


3

ở các vùng dân tộc thiểu số, khó khăn. DSVH PVT do họ đang nắm giữ chưa
thể được phát huy đúng mức.
Công tác xét phong tặng danh hiệu cao quý của Nhà nước cho những
người có công nắm giữ, thực hành và truyền dạy DSVH PVT cũng như những
chính sách đãi ngộ cho những đối tượng này trong những năm qua đã được Đảng,
Nhà nước và toàn xã hội quan tâm: Nhà nước đã từng bước ban hành và hoàn
thiện hệ thống quy định pháp luật có liên quan. Tính đến nay, đã có 02 Luật, 03
Nghị định liên quan trực tiếp tới nghệ nhân thực hành DSVH PVT gồm: Luật Di
sản văn hóa, Luật Thi đua, Khen thưởng, Nghị định số 62/2014 /NĐ-CP, Nghị
định 123/2014/NĐ-CP và Nghị định 109/2015/NĐ-CP. Qua hai đợt xét phong
tặng danh hiệu năm 2015 và 2019 theo Nghị định số 62/2014/NĐ-CP, đã có
1.253 cá nhân được phong tặng, trong đó có 66 NNND và 1.187 NNƯT. Và, Hội
đồng thuộc lĩnh vực nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống cũng đã có 17 NNND,
120 NNƯT. Ở cấp độ các tổ chức chính trị, xã hội, một số tổ chức đã tôn vinh
nghệ nhân bằ ng mô ̣t số danh hiệu khác nhau như Hô ̣i Văn nghê ̣ dân gian Viê ̣t
Nam, đế n nay đã phong tă ̣ng danh hiêụ Nghê ̣ nhân dân gian cho khoảng 600
nghê ̣ nhân. Ở một số địa phương như Thành phố Hà Nội, Bắc Giang, Bắc Ninh,
Phú Thọ,… cũng đã và đang xây dựng quy chế để xét phong tặng và có chính
sách đãi ngộ cho những nghệ nhân, người thực hành có công đóng góp vào viê ̣c
gìn giữ và phát huy giá tri di

̣ sản văn hóa phi vâ ̣t thể ở địa phương.
Mặc dù đã có những VBQPPL về di sản văn hóa liên quan tới nghệ nhân
thực hành DSVH PVT, tuy nhiên ở mức độ nào đó, chính sách đối với nghệ nhân
vẫn cịn nhiều nội dung khác mà hệ thống văn bản này chưa đề cập đến hoặc có
đề cập nhưng cịn nhiều vướng mắc trong thực hiện. Hay nói cách khác, hệ thống
VBQPPL về chính sách đối với nghệ nhân thực hành DSVH PVT chưa đáp ứng
được yêu cầu thực tiễn trên cơ sở mục tiêu bảo vệ và phát huy giá trị DSVH PVT


4

trong đời sống đương đại, thúc đẩy sự sáng tạo giá trị văn hóa mới, góp phần vào
phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của cộng đồng, đất nước.
Từ những nhận định đó, tác giả chọn đề tài nghiên cứu là Chính sách đối
với nghệ nhân thực hành di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Dựa trên hệ thống chính sách hiện có đối với nghệ nhân và thực tiễn thực
hành DSVH PVT, luận án tập trung vào nghiên cứu về nghệ nhân thực hành
DSVH PVT, hệ thống chính sách hiện có đối với nghệ nhân và thực tiễn thi
hành chính sách để từ đó đưa ra đề xuất, khuyến nghị xây dựng hệ thống chính
sách đối với nghệ nhân thực hành DSVH PVT một cách toàn diện, tổng thể,
tiệm cận tới “đúng và đủ” trong việc ban hành và thực hiện các chính sách đối
với nghệ nhân thực hành DSVH PVT nhằm góp phần vào thực tiễn quản lý
DSVH PVT ở Việt Nam.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu lý luận về DSVH PVT, về nghệ nhân, cộng đồng trong mối
quan hệ của DSVH PVT.
- Nghiên cứu các nội dung về lý luận, phương pháp luận về nhu cầu, động
lực của sáng tạo của con người với vai trò là người nắm giữ những kỹ năng, kỹ

thuật và hiểu biết về DSVH PVT.
- Nghiên cứu quá trình xây dựng, ban hành và thực hiện các chính sách
đối với nghệ nhân thực hành DSVH PVT.
- Đánh giá thực trạng chính sách đối với nghệ nhân thực hành DSVH
PVT ở Việt Nam từ đó tìm ra những ưu điểm, bất cập và thiếu sót của chính
sách để từ đó đưa ra những đề xuất nội dung chính sách cho phù hợp.
- Xây dựng khung chính sách và đề xuất các nội dung bổ sung, chỉnh sửa
các chính sách hiện có góp phần hồn thiện hệ thống chính sách đối với nghệ


5

nhân thực hành DSVH PVT ở Việt Nam. Cụ thể là góp phần chỉnh sửa Luật Di
sản văn hóa và Luật Thi đua, Khen thưởng và các VBQPPL liên quan.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là DSVH PVT, nghệ nhân thực hành
các loại hình DSVH PVT ở Việt Nam, chính sách đối với nghệ nhân qua hệ
thống các VBQPPL của Việt Nam từ trung ương tới địa phương, một số chương
trình, dự án, đề án liên quan, một số quy chế, quy định của các địa phương và
kinh nghiệm của UNESCO, Nhật Bản và Hàn Quốc.
Thời gian nghiên cứu của luận án là từ năm 2001 (năm ban hành Luật Di
sản văn hóa) tới nay.
4. Phương pháp luận
Nghệ nhân giữ vai trị then chốt trong việc thực hành, bảo vệ và phát huy
giá trị DSVH PVT. Bảo vệ và phát huy giá trị DSVH PVT là bảo vệ con người,
tạo ra các cơ sở giúp con người (nghệ nhân, người thực hành) có điều kiện tốt,
phù hợp nhất để thực hành DSVH PVT đang nắm giữ. Khi nghiên cứu về chính
sách thơng qua hệ thống các VBQPPL đối với nghệ nhân thực hành DSVH
PVT, tác giả chọn các phương pháp luận chính của Quản lý di sản văn hóa,
Khoa học chính sách, Tâm lý học.

Từ góc độ Tâm lý học và Khoa học chính sách, tác giả nghiên cứu chính
sách đối với nghệ nhân thực hành DSVH PVT như là một tập hợp các biện pháp
ứng xử có chọn lọc đối với họ nhằm kích thích vào động cơ thực hành, truyền
dạy, sáng tạo/tái sáng tạo DSVH PVT của họ hướng theo việc thực hiện các
chủ trương, quan điểm, mục tiêu của cơ quan quản lý.
Tác giả sử dụng Lý thuyết về động lực của con người trong Tâm lý học
của tác giả Abraham Maslow. Trong đó, tác giả tập trung vào vận dụng Tháp
nhu cầu được Ông đưa ra vào năm 1943 trong bài viết “Lý thuyết về động lực
của con người”.


6

5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tiếp cận liên ngành/đa ngành: di sản văn hóa, quản lý di
sản văn hóa, khoa học chính sách, tâm lý học được áp dụng.
- Phân tích tổng hợp: Phương pháp này được dùng để tập hợp các thông
tin tài liệu đã thu thập được, xây dựng các nội dung, vấn đề có liên quan đến lý
luận và thực tiễn về nghệ nhân, cộng đồng, DSVH PVT, chính sách; phân tích
các tài liệu, văn bản là các VBQPPL, các nghiên cứu đã có liên quan tới nghệ
nhân, chính sách đối với nghệ nhân, DSVH PVT.
- Phương pháp quan sát tham dự: dựa trên điều kiện được tham gia, tiếp
cận với nhiều hoạt động liên quan tới nghiên cứu, xây dựng và thực thi chính
sách đối với nghệ nhân thực hành DSVH PVT từ năm 2001 tới nay, tác giả sử
dụng sự tham gia, quan sát, trải nghiệm và tổng hợp của bản thân để thu thập,
phân tích thơng tin và đưa ra nhận định phục vụ cho luận án.
- Phương pháp khảo sát, phỏng vấn sâu: tác giả triển khai khảo sát, phỏng
vấn nghệ nhân với vai trị là người thụ hưởng chính sách, nhà quản lý liên quan
tới DSVH PVT ở các địa phương về sự tác động của chính sách đối với nghệ
nhân, về việc triển khai, thực thi chính sách trong thực tiễn.

- Phương pháp mơ hình hóa: tác giả dùng phương pháp mơ hình hóa
nhằm diễn tả, kết nối các nội dung được nghiên cứu.
6. Câu hỏi và giả thuyết nghiên cứu
6.1. Câu hỏi nghiên cứu
- Hiện trạng chính sách đối với nghệ nhân thực hành DSVH PVT ở
Việt Nam hiện nay là như thế nào?
- Nếu chỉ dừng lại ở việc ban hành các chính sách liên quan tới “tơn vinh”
hoặc chính sách “đãi ngộ” ở góc độ là chính sách “an sinh xã hội” thì đó có
phải là cách tiếp cận “đúng và đủ” để phát huy hết vai trò của nghệ nhân thực
hành DSVH PVT trong hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị DSVH PVT?


7

- Đâu là chính sách phù hợp để “kích hoạt” vào hoạt động thực hành của
nghệ nhân để DSVH PVT được bảo vệ và phát huy hiệu quả trong bối cảnh
hiện nay, góp phần vào thúc đẩy sự phát triển văn hóa, kinh tế, xã hội?
6.2. Giả thuyết nghiên cứu
Tác giả cho rằng, việc ban hành chính sách đối với nghệ nhân thực hành
DSVH PVT chưa đạt được như mong muốn là do chưa xác định được khung
chính sách đối với đối tượng này bên cạnh những hạn chế trong kỹ thuật ban
hành VBQPPL thời gian qua.
7. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Trên phương diện lý luận:
- Tác giả áp dụng quan điểm, lý luận về DSVH PVT, về quản lý DSVH
PVT nhằm nhận diện rõ hơn về các loại hình DSVH PVT; về khái niệm, đặc
điểm, vai trò của nghệ nhân trong việc thực hành DSVH PVT; về vai trò của
nghệ nhân trong mối quan hệ giữa nghệ nhân, nhà nước và cộng đồng trong
hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị DSVH PVT. Kết quả nghiên cứu góp phần
vào việc bổ khuyết các lý luận về DSVH PVT như là một môn khoa học đang

hình thành.
- Kết quả nghiên cứu của luận án tạo cơ sở khoa học để đưa ra những
khuyến nghị, giải pháp nhằm phát huy tốt hơn vai trò, kỹ năng, kỹ thuật, am
hiểu, sự đóng góp cho cộng đồng và khả năng sáng tạo của nghệ nhân trong
việc bảo vệ và phát huy các giá trị DSVH PVT ở Việt Nam.
Trên phương diện thực tiễn: Luận án mong muốn góp phần vào việc hồn
thiện hệ thống chính sách đối với nghệ nhân nói riêng và DSVH PVT nói chung
ở Việt Nam. Cụ thể là, đóng góp các nội dung tổng quát và cụ thể vào việc sửa
đổi, bổ sung các VBQPPL như: Luật Di sản văn hóa, Luật Thi đua, Khen
thưởng và các văn bản liên quan.


8

8. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần Mở đầu (8 trang), Kết luận (6 trang), Tài liệu tham khảo (11
trang), Phụ lục (36 trang), Luận án gồm 3 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và khái quát
về nghệ nhân thực hành di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam (48 trang).
Chương 2. Thực trạng chính sách đối với nghệ nhân thực hành di sản văn
hóa phi vật thể ở Việt Nam (52 trang).
Chương 3. Góp phần hồn thiện chính sách đối với nghệ nhân thực hành
di sản văn hóa phi vật thể ở Việt Nam (41 trang).


9

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ
KHÁI QUÁT VỀ NGHỆ NHÂN THỰC HÀNH DI SẢN VĂN HĨA

PHI VẬT THỂ Ở VIỆT NAM
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1. Những nghiên cứu về đặc điểm, vai trò của nghệ nhân
Dựa trên các lĩnh vực quan tâm của mình về các DSVH PVT cụ thể như:
Ca Trù, Quan họ, Cồng chiêng, Sử thi, Đờn ca Tài tử, Hát Xoan, Tranh dân
gian và nhiều loại hình DSVH PVT khác. Nhóm các tác giả này chủ yếu miêu
tả về kỹ năng, kỹ thuật, hiểu biết và các đặc điểm của các nghệ nhân ở mỗi di
sản, mỗi loại hình.
Tác giả Nguyễn Xuân Kính, trong bài viết tham dự hội thảo khoa học
Vấn đề bảo vệ và phát huy di sản văn hóa với sự nghiệp đổi mới đất nước được
Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội
tổ chức vào năm 2003, đã chỉ ra ba đặc điểm cơ bản của nghệ nhân gồm: (1)
Họ là những người có năng khiếu, có khả năng hơn những người khác; (2) Ở
họ thường có sự tiếp nối giữa các thế hệ trong một gia đình, dịng họ; (3) Họ là
những người có lịng say mê nghề nghiệp, có lương tâm nghề nghiệp, có phẩm
chất tốt được cộng đồng mến phục, tin yêu [111, Tr. 69-89]. Đây có lẽ là những
đặc điểm chung nhất về nghệ nhân. Ba đặc điểm này đã bao quát được các đặc
tính cơ bản của nghệ nhân từ “năng khiếu”, “khả năng”, “sự trao truyền” cho
đến “say mê”, “có lương tâm”, “có phẩm chất” và “được cộng đồng mến phục,
tin yêu”.
Tác giả Nguyễn Quang Tuệ có một số nghiên cứu về nghệ nhân Cồng
chiêng, Sử Thi như: “Môi trường và nghệ nhân diễn xướng Sử thi Ba Na
(trường hợp huyện Kơng Chro, tỉnh Gia Lai)” đăng trên Tạp chí Văn hóa dân
gian số 2, năm 2008, “Tìm hiểu cách sáng tạo và lưu truyền Sử thi của người


10

Ba Na”, Tạp chí Văn hóa dân gian, số 3, năm 2017. Tác giả đã mô tả khá cụ
thể và chi tiết về đặc điểm thực hành, không gian, môi trường sáng tạo của các

nghệ nhân Sử thi Ba Na [102, Tr. 39-43].
Tác giả Tô Ngọc Thanh, trong bài viết “Nghệ nhân dân gian - tài sản vô
giá của nền văn hóa Việt Nam” đã nói rõ về vai trị của nghệ nhân, những người
đang nắm giữ “gia tài văn hóa”:
Cộng đồng tự hào về họ vì nhờ có hoạt động sáng tạo của họ mà bản
sắc văn hóa của cộng đồng được thể hiện tập trung, sắc nét. Đồng
thời, chính họ là người lưu giữ và truyền dạy cho thế hệ sau vốn liếng
văn hóa của cộng đồng,... Nghệ nhân đóng vai trị then chốt trong
việc giữ gìn, thực hành và lưu truyền các giá trị văn hóa dân tộc. Nếu
khơng có họ thì chắc chắn một khối lượng lớn các giá trị văn hóa sẽ
khơng được bảo lưu một cách tập trung nhất cũng như sẽ khơng có
“thầy” để dạy dỗ lớp trẻ,... [49, Tr. 15-20].
Đây là những nhận định, quan điểm khởi nguồn cho việc Hội Văn nghệ
dân gian Việt Nam đưa ra danh hiệu “Nghệ nhân dân gian”, một danh hiệu uy
tín, có phạm vi quốc gia, được thực hiện sớm và vẫn được duy trì đến ngày nay
trong lĩnh vực văn hóa dân gian cũng như DSVH PVT.
Tác giả Ngô Đức Thịnh viết trong Thông báo khoa học số 1-2000 của
Viện Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật, sau được in lại trong cuốn sách Bảo tồn
và phát huy DSVH PVT ở Việt Nam, khi nói về một số đặc trưng của DSVH
PVT nhấn mạnh đặc trưng là:
Văn hóa nói chung, đặc biệt là văn hóa phi vật thể đều là của cộng
đồng (gia tộc, làng xã, địa phương, tộc người), nhưng nó tiềm ẩn
trong trí nhớ và tâm thức của từng con người cụ thể, qua sự tiếp nhận
và thể hiện của từng con người cụ thể, nên nó mang dấu ấn cá nhân
và vai trò sáng tạo của cá nhân rất rõ rệt [76, Tr. 31-45].


11

Đồng quan điểm với tác giả Ngô Đức Thịnh, tác giả Lưu Trần Tiêu cũng

nêu trong bài viết vào năm 2000 “Bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa phi
vật thể”: “văn hóa phi vật thể là tồn bộ giá trị lịch sử - văn hóa thuộc mọi lĩnh
vực sáng tạo tinh thần, được lưu giữ bằng trí nhớ và được lưu truyền chủ yếu
bằng hình thức truyền miệng (đặc biệt đối với các dân tộc khơng có chữ viết),
bao gồm: luật tục, phong tục,...” [76, Tr. 46-56].
Tác giả Nguyễn Chí Bền đã viết vào tháng 7 năm 2002: “Điều quan trọng
hơn cả đối với việc phát huy những DSVH PVT là làm cho di sản ấy sống giữa
cuộc đời, như chính bản chất của nó. Làm sao để khơi dậy ý thức cộng đồng,
niềm tự hào của cộng đồng về DSVH PVT, để di sản ấy sống trong cộng đồng
như bản chất của nó.” [76, Tr. 77-95]. Đây có thể nói là một trong những quan
điểm rõ ràng, sâu xa về mục tiêu, mục đích của hoạt động bảo vệ và phát huy
giá trị DSVH PVT. Và đây cũng cho thấy vai trò quan trọng của nghệ nhân,
người thực hành, người nắm giữ di sản tại cộng đồng. Điều này cũng được tác
giả Nguyễn Chí Bền tiếp tục nói tới trong cùng bài viết trên:
Họ vừa là người sáng tạo, lưu truyền, lưu giữ, trao truyền các DSVH
PVT từ thế hệ này qua thế hệ khác. Việc sưu tầm, nghiên cứu, nhất
là việc ghi chép bằng các phương tiện kỹ thuật hiện đại khơng thể
khơng tính đến các nghệ nhân. Phát huy vai trò của nghệ nhân trong
cộng đồng là công việc cần thiết mà chúng ta chưa có các chính sách,
chủ trương hữu hiệu [76, Tr. 77-95].
Năm 2015, tác giả Bùi Quang Thanh có các bài viết “Quan họ và nghệ
nhân Quan họ với quan hệ làng xã và mơi sinh văn hóa” và bài viết “Từ môi
trường xuất thân của nghệ nhân Quan họ”. Các bài viết đã bước đầu lý giải
những nguyên nhân góp phần tạo thành những nghệ nhân, những người đã và
đang nắm giữ di sản và trao truyền di sản, nghệ nhân Quan họ với quan hệ làng
xã và môi sinh văn hóa trong mơi trường văn hóa đương đại.


12


Có thể nói, xuất phát từ lịch sử nhiều thập kỷ nghiên cứu văn hóa dân
gian ở nước ta, các tác giả nghiên cứu về DSVH PVT đã có nhiều cơng trình
nghiên cứu về đặc điểm của nghệ nhân từ cách tiếp cận của văn hóa dân gian
hoặc những khoa học liên quan. So với các nghiên cứu khác về nghệ nhân thì
nhóm các cơng trình nghiên cứu này có nhiều bài viết, sách với sự tham gia của
nhiều tác giả nhất.
Năm 2018, tác giả Nguyễn Đắc Toàn đã bảo vệ thành cơng Luận án Tiến
sĩ Văn hóa học tại Viện Văn hóa Nghệ thuật quốc gia Việt Nam với đề tài: Nghệ
nhân Quan họ Bắc Ninh trong đời sống văn hóa đương đại. Đây là một trong
số ít cơng trình dưới góc độ là một luận án tiến sĩ nghiên cứu cụ thể về nghệ
nhân. Bên cạnh việc tìm hiểu về sinh hoạt văn hóa Quan họ dưới góc nhìn tổng
thể là một DSVH PVT, tác giả đã đi sâu vào tìm hiểu, nhận diện nghệ nhân
Quan họ xưa và nay, vai trò của họ trong đời sống đương đại, trong việc duy
trì, thực hành DSVH PVT Dân ca Quan họ. Tác giả cũng đã bàn luận, vai trò
và xu thế biến đổi trong sinh hoạt văn hóa quan họ của nghệ nhân Quan họ Bắc
Ninh trên cơ sở nghiên cứu về xu hướng biến đổi của nghệ nhân Quan họ trong
bối cảnh ngày nay và vai trò của họ trong đời sống đương đại [98].
Hầu hết các nhà nghiên cứu, với nhiều cơng trình nghiên cứu cơng phu
về DSVH PVT, đều khẳng định vai trò của con người trong việc lưu giữ, thực
hành DSVH PVT; DSVH PVT không nằm ngoài con người, cộng đồng chủ
thể. Các hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị DSVH PVT cũng đều xoay quanh
con người, cộng đồng với vai trò là chủ thể, người nắm giữ DSVH PVT. Tác
giả Nguyễn Quang Tuệ đã viết trong bài tham luận và phát biểu tại Hội thảo do
Ủy ban Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng tổ chức tháng
12/2018 là: “khơng có nghệ nhân thì khơng có văn hóa dân gian” [112, Tr.163168]. Có thể nói, cho tới nay, các tác giả nghiên cứu về DSVH PVT đều có
chung nhận định là nghệ nhân có vai trị quan trọng trong việc bảo vệ và phát


13


huy giá trị DSVH PVT; muốn bảo vệ DSVH PVT thì trước hết là bảo vệ con
người đang nắm giữ, thực hành DSVH PVT.
1.1.2. Những nghiên cứu về chính sách đối với nghệ nhân
Nghiên cứu về chính sách đối với nghệ nhân thực hành DSVH PVT được
các nhà nghiên cứu, nhà quản lý đề cập hạn chế hơn so với các nội dung khác
của nghệ nhân như vai trò, đặc điểm của nghệ nhân. Thời gian qua, khi đề cập
tới chính sách, đa số tác giả đều cho thấy sự thiếu hụt, bất cập chính sách đối
với nghệ nhân thực hành DSVH PVT. Từ việc thiếu quan tâm đối với đội ngũ
này cho đến việc xây dựng và thực thi chính sách cịn nhiều bất cập. Năm 2002,
Tác giả Nguyễn Chí Bền đã nói rõ về nội dung này như sau:
Khơng thể khơng thừa nhận chúng ta chưa có chính sách thỏa đáng về
vấn đề này. Lâu nay, mối quan tâm của chúng ta mới chỉ dừng lại ở
các DSVH PVT mà chưa quan tâm tới chủ thể sáng tạo của nhân dân
mà chưa ý thức đầy đủ khởi thủy sáng tạo ấy là một cá thể,… Phát huy
vai trò của nghệ nhân trong cộng đồng là công việc cần thiết mà chúng
ta chưa có các chính sách, chủ trương hữu hiệu. [76, Tr. 77-95].
Năm 2015, tác giả Bùi Quang Thanh có một số cơng trình, bài viết về
nghệ nhân được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành như: Tạp chí Văn hóa
nghệ thuật, Tạp chí Văn hóa học, Tạp chí Di sản văn hóa, và cơng trình tiêu
biểu, công phu nhất là về nghệ nhân Quan họ. Bài “Nghệ nhân và chính sách
đối với nghệ nhân ở một số nước trên thế giới” viết chung với Nguyễn Thị
Nhàn (Tạp chí Di sản văn hóa số 2, 2015) đã nêu ra kinh nghiệm ứng xử đối
với nghệ nhân của một số nước trên thế giới như Hàn Quốc, Nhật Bản,… Năm
2016, tác giả Bùi Quang Thanh có cơng trình Nghiên cứu nghệ nhân Quan họ
trong quá trình bảo tồn và phát huy di sản Dân ca Quan họ ở hai tỉnh Bắc Ninh
và Bắc Giang với sự hỗ trợ của Quỹ phát triển Khoa học và Công nghệ quốc
gia. Cơng trình đã tập trung làm rõ một số vấn đề liên quan đến nghệ nhân Quan


14


họ như: phân tích làm rõ quan niệm, quan điểm của một số nước, UNESCO và
Việt Nam về nghệ nhân, nghệ nhân dân gian, khơng gian văn hóa và thực trạng
nghệ nhân Quan họ trong mối quan hệ làng xã, sinh hoạt văn hóa Quan họ. Trên
cơ sở nghiên cứu thực trạng sinh hoạt, đặc điểm thực hành của nghệ nhân Quan
họ, nhóm nghiên cứu đã đưa ra những nguy cơ tác động đến sinh hoạt văn hóa
Quan họ, để từ đó làm rõ hơn về vai trị của nghệ nhân Quan họ. Đề tài cũng
đã chỉ ra những biến đổi trong môi trường xuất thân của nghệ nhân Quan họ để
dẫn đến biến đổi môi trường sinh hoạt và sáng tạo.
Trong bài tham luận của Hội đồng Dân tộc của Quốc hội “Việc thực hiện
chính sách bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa các dân tộc thiểu số” tại Hội thảo
Bảo vệ và phát huy giá trị văn hóa dân gian của các dân tộc thiểu số do Ủy ban
Văn hóa, Giáo dục, Thanh niên, Thiếu niên và Nhi đồng của Quốc hội tổ chức
tháng 12/2018 nêu:
Xây dựng cơ chế chính sách đặc thù cho việc bảo tồn và nâng cao
đời sống văn hóa cho vùng các dân tộc thiểu số. Trong đó chú ý các
chính sách, chế độ khuyến khích các nghệ nhân trao truyền di sản
văn hóa, khuyết khích lớp trẻ tiếp thu các di sản văn hóa. Chính sách
này lồng ghép với chính sách ưu đãi đối với NNƯT và NNND ở các
dân tộc [112, Tr. 21-28].
Cũng tại Hội thảo này, Ủy ban Dân tộc cũng đã tham luận đề xuất cần
có chính sách và đầu tư đúng tầm tạo điều kiện phát huy vai trị của chủ thể văn
hóa - đồng bào các dân tộc trong bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa truyền thống
trong xây dựng và phát triển đất nước; xây dựng và phát huy vai trò xây dựng
con người vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Tác giả Trần Hữu Sơn viết trong bài “Bảo tồn di sản văn hóa các dân tộc
thiểu số”, cho rằng chính sách bảo tồn DSVH PVT là vấn đề quan trọng hàng
đầu trong các giải pháp bảo tồn. Hiện nay, các chính sách bảo tồn di sản văn



15

hóa cịn hạn chế về số lượng, vừa khơng phù hợp và thiếu tính khả thi. Ơng đề
nghị cần xây dựng chính sách trong đó tập trung vào những chính sách quan
trọng như: Chính sách về nghệ nhân: tạo điều kiện thuận lợi cho nghệ nhân
tham gia sáng tạo và trao truyền di sản văn hóa trong cộng đồng; chính sách về
khuyến khích cộng đồng sáng tạo di sản: mục tiêu là trao quyền chủ động cho
cộng đồng bảo tồn và truyền dạy di sản. Cộng đồng có tiếng nói quyết định
trong việc bảo tồn di sản nào đáp ứng nhu cầu cuộc sống hiện tại của họ và di
sản có giá trị cao. Chính sách về truyền dạy một số di sản nghẹ thuật trong môi
trường cộng đồng và trường học [112 Tr. 59-63].
Nhóm các tác giả Hồng Cầm, Nguyễn Thị Phương Châm và Nguyễn
Thị Hiền đã có những khảo cứu cơng phu về chính sách bảo vệ DSVH PVT
của Việt Nam sau khi được UNESCO vinh danh, bài viết “Công tác bảo vệ và
phát huy DSVH PVT được UNESCO vinh danh - Thành tựu, bất cập và các
khuyến nghị bảo vệ” của nhóm tác giả này đã chỉ ra những bất cập trong việc
truyền dạy và công tác nghệ nhân. Nhóm tác giả này nhận định rằng trong số
các hoạt động bảo vệ ở các di sản được UNESCO vinh danh, công tác truyền
dạy và vấn đề nghệ nhân là những hoạt động được thực hiện tích cực nhất và ở
một mức độ nào đó đã đạt được một số kết quả nhất định. Các mơ hình truyền
dạy và vấn đề công nhận, vinh danh nghệ nhân hiện nay còn tồn tại một số bất
cập, cần phải chỉnh sửa để cơng tác bảo vệ có chất lượng hơn. Việc triển khai
Nghị định số 62/2014/NĐ-CP còn chậm và việc áp dụng các điều khoản được
quy định đối với nghệ nhân ở trong Luật Di sản văn hóa cịn chưa cụ thể và
chưa thực hiện được trong thực tế. Từ nghiên cứu thực tiễn và lý luận, nhóm
tác giả đã đưa ra khuyến nghị và đề xuất liên quan tới việc bảo vệ di sản văn
hóa nói chung và chính sách đối với nghệ nhân nói riêng như: cần sớm chỉnh
sửa, bổ sung Luật Di sản văn hóa; cần có thêm nhiều các văn bản hướng dẫn
thực hiện Luật Di sản văn hóa để tăng cường nguồn lực và nâng cao vai trò chủ



16

động, tích cực của cộng đồng trong bảo vệ DSVH PVT; các chính sách cần
đảm bảo tính đa dạng văn hóa, đảm bảo tính chỉnh thể của di sản văn hóa; quan
tâm, hỗ trợ cộng đồng trong thực hành di sản văn hóa, tăng cường sự tham gia
của cộng đồng, cần có những cơ chế đảm bảo việc chia sẻ một cách hợp lý về
lợi ích, đặc biệt là lợi ích kinh tế, giữa chủ nhân của các di sản văn hóa với các
bên liên quan.
Đối với nghệ nhân, nhóm tác giả này cũng cho rằng nghệ nhân đóng vai
trị hết sức quan trọng, kể cả trong việc sưu tầm và tư liệu hóa lẫn truyền dạy.
Nên, việc cơng nhận, tơn vinh và đãi ngộ nghệ nhân để khích lệ họ tham gia một
cách tích cực và chủ động vào trong tất cả các hoạt động bảo tồn, là một việc hết
sức cần thiết, cần được thực hiện ngay. Nhóm tác giả cũng đánh giá nỗ lực của
Nhà nước trong việc ban hành các VBQPPL song do nhiều bất cập từ chính sách,
cơ chế và nhận thức của các ban ngành về cơng tác nghệ nhân nên cơng tác này
cịn chưa được triển khai hiệu quả, nhiều địa phương còn có q trình xét duyệt
lâu dài, chưa đúng với chế độ, chính sách theo quy định [112, Tr.73-94].
Khi nói tới chính sách đối với nghệ nhân, đặc biệt là về chính sách đối
với nghệ nhân Sử thi và Cồng chiêng tác giả Nguyễn Quang Tuệ đã phân tích
kỹ lưỡng chính sách đối với nghệ nhân ở từng điều, khoản, mục của Luật Di
sản văn hóa và đặc biệt là những quy định tại Nghị định số 109/2015/ NĐ-CP,
ngày 28/10/2015 của Chính phủ về việc hỗ trợ đối với NNND, NNƯT có thu
nhập thấp, hồn cảnh khó khăn. Tác giả đã khơng đồng tình với việc phân loại
NNƯT theo tiêu chí nghèo khổ và bệnh tật để xét trợ cấp: “Câu hỏi đặt ra là có
cần thiết phải phân loại NNƯT theo tiêu chí nghèo khổ và bệnh tật để xét trợ
cấp hay không? Tôi rất muốn được nhắc lại thêm một lần nữa rằng, đây là vấn
đề thuộc về tôn vinh tài năng, sự cống hiến chứ không phải nhân đạo, từ thiện.”
Kết luận bài tham luận, tác giả viết: “Chủ trương, đường lối đúng đắn, chính
sách tuy muộn và cịn có vẻ bất cập nhưng dù sao thì cũng đã có, cụ thể. Đáng



17

tiếc là nó khơng/ chưa được thực hiện một cách kịp thời, rộng khắp.” [112,
Tr.163-168].
Tháng 01 năm 2019, tác giả Bùi Hồi Sơn đã có bài “Chính sách bảo vệ
nhân văn sống tại một số quốc gia và kinh nghiệm đối với Việt Nam” đăng trên
Tạp chí Di sản văn hóa, số 1 (66), trong đó tác giả cũng đã đề cấp tới lịch sử
chương trình báu vật nhân văn sống của UNESCO, kinh nghiệm của một số quốc
gia trong việc bảo vệ báu vật nhân văn sống với ba biện pháp bảo vệ những cá
nhân tài năng trong lĩnh vực DSVH PVT của các nước gồm: thứ nhất, cấp các
chứng nhận quốc gia cho các nghệ nhân; thứ hai, có những trợ cấp cho các nghệ
nhân; thứ ba, thực hiện các chương trình đào tạo để các báu vật nhân văn sống
có thể trao truyền kỹ năng nghề của mình; thứ tư, chính sách bảo vệ bản quyền
và xây dựng thương hiệu cho các báu vật nhân văn sống. Từ những kinh nghiệm
quốc tế, tác giả bài viết đã gợi ý một số kinh nghiệm đối với Việt Nam:
Việc xét tặng danh hiệu nghệ nhân phải đi kèm với những chế độ,
chính sách đãi ngộ thỏa đáng, "vấn đề đáng bàn ở đây, là sau khi trở
thành những "NNƯT", "NNND", các nghệ nhân này phát huy vai trị
của mình như thế nào trong xã hội! Các nghệ nhân đa phần ở vùng
sâu, vùng xa, miền núi, ở các thôn quê và nghèo khó. Sau khi được
phong danh hiệu, các nghệ nhân hầu như khơng có chế độ đãi ngộ nào
để họ có thêm quyết tâm gắn bó hơn với nghề [88, Tr. 20-24].
Có thể nói đây là những đánh giá, nhận định và đề xuất hết sức xác đáng
về hiện trạng phong tặng danh hiệu cho các nghệ nhân thực hành DSVH PVT
ở Việt Nam. Bên cạnh đó, Tác giả Bùi Hoài Sơn cũng cho rằng:
Kinh nghiệm các nước cho chúng ta thấy, việc nhà nước tạo điều
kiện, môi trường, thương hiệu cho các nghệ nhân - báu vật nhân văn
sống - thực hành kỹ năng của họ. Các bảo tàng, viện nghiên cứu, nhà

hát dân gian, nghệ thuật truyền thống chính là địa điểm tót để các


×