Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Tài liệu KINH NGHIỆM NUÔI CÁ TRA THỊT TRẮNG ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (253.75 KB, 7 trang )

KINH NGHIỆM NUÔI CÁ TRA THỊT TRẮNG
1. Tiềm năng nuôi cá tra
Cá tra (Pangasius hypophthalmus) là đối tượng nuôi thuỷ sản nước ngọt được
nuôi chủ lực của các tỉnh Ðồng bằng sông Cửu Long (ÐBSCL). Ðây là loài cá có tính
thích nghi rộng, chịu đựng được những điều kiện khắc nghiệt của môi trường. Nó có thể
nuôi trong môi trường nước chảy (lồng, bè, đăng, quầng ) với mật độ rất cao : 100 - 150
con/m3 nước; đồng thời có thể sống trong môi trường nước tĩnh (ao, hầm, mương vườn,
ruộng lúa,), năng suất nuôi có thể đạt tới 300 tấn/ha.
Ðồng Tháp có diện tích mặt nước có thể đạt trên 2.000 bè nuôi cá (ba sa, tra) và
đất bãi bồi 1.412 ha được phân bố ở 9 huyện, thị dọc theo sông Tiền và sông Hậu. Với
tiềm năng nuôi như trên, hiện nay Ðồng Tháp mới triển khai nuôi 200 bè và 300 ha diện
tích đất bãi bồi thì sản lượng cá thương phẩm khoảng 72.000 tấn.
Phần lớn đất đai của tỉnh Ðồng Tháp nằm giữa 2 con sông Tiền và sông Hậu với
nhiều bãi bồi, ao hầm, có nguồn nước ngọt dồi dào và được nước lũ bồi bổ, nuôi dưỡng,
làm sạch môi trường nên hoàn toàn có thể tin tưởng Ðồng Tháp là tỉnh có tiềm năng lớn
trong việc phát triển nuôi cá tra có chất lượng phục vụ cho tiêu thụ trong nước và xuất
khẩu.
Tuy nhiên, việc phát huy tiềm năng đó không chỉ nằm ở nuôi trồng, sản xuất mà
phần quyết định chính là ở khâu thị trường tiêu thụ và năng lực chế biến xuất khẩu.
Những năm qua, nghề nuôi cá tra có những bước thăng trầm, giá cả không ổn
định, việc lời lỗ không quyết định ở năng suất mà quyết định do giá cả, thị trường. Rồi vụ
kiện bán phá giá cá tra, cá ba sa, các đòi hỏi về kỹ thuật, về an toàn vệ sinh thực phẩm
ngày một khắt khe hơn. Ðặc biệt các thị trường lớn như Mỹ, Nhật, EU đòi hỏi rất nghiêm
ngặt về chất lượng sản phẩm. Do đó sản phẩm cá tra thịt trắng có nhu cầu ngày càng cao
và là vấn đề bức xúc đối với các nhà doanh nghiệp chế biến xuất khẩu thuỷ sản và người
nuôi.
2. Các yếu tố có thể ảnh hưởng đến màu thịt cá tra
Từ thực tiễn sản xuất cho thấy, có thể phân loại màu thịt cá tra từ cao đến thấp
như sau: trắng, vàng chanh, hồng, vàng.
Theo nhận định của một số nhà khoa học màu thịt cá có thể quyết định bởi 3 yếu
tố : di chuyển; chế độ dinh dưỡng (thức ăn); điều kiện sống (môi trường, thời tiết, ).


Trong đó, thành phần các loại thức ăn của cá có tác động rất lớn đến màu thịt của cá tra
nuôi. Dù nuôi cá bất cứ ở hình thức nào (bè, ao), bất cứ môi trường nào (nước chảy, nước
tĩnh) nếu sử dụng những loại thức ăn xanh (rau muống), chất kết dính (bột gòn) thì chắc
chắn thịt cá sẽ có màu vàng.
Một số hộ nuôi cá bè khác còn cho biết các loại thức ăn như bắp, bí đỏ, cua đồng,
cũng là nguyên nhân làm cho thịt cá tra không được trắng (vàng chanh, hồng).
Cùng một thành phần thức ăn (rau muống, cám tấm nấu, cá tạp xay nhuyễn) nếu
được ủ lên men bằng hèm rượu sau 24h mới cho cá ăn thì thịt cá sẽ trắng đẹp do quá trình
ủ lên men đã phân huỷ một số thành phần diệp lục tố trong rau muống. Còn ngược lại,
nếu cho cá ăn trực tiếp không qua ủ lên men thì thịt cá sẽ có màu vàng. Trong năm 2000,
cá thịt trắng bán cho các nhà máy chế biến xuất khẩu thuỷ sản với giá 14.000 đ/kg trong
khi cá thịt vàng bán tiêu thụ nội địa chỉ được 10.000 đ/kg. Qua đó cho thấy cá tra thịt
trắng là một trong những tiêu chuẩn đánh giá chất lượng sản phẩm, là yếu tố quyết định
đến hiệu quả kinh tế trong việc nuôi cá tra thương phẩm. Hộ anh Nguyễn Văn Hà ở xã
Mỹ An Hưng A - huyện Lấp Vò - Ðồng Tháp thả nuôi 120.000 con cá tra trên diện tích
2.000 m2, thu hoạch được trên 100 tấn cá thương phẩm có chất lượng thịt trắng (Ðây là
vụ nuôi thứ ba liên tiếp anh thu hoạch từ 100 - 120 tấn cá trong 01 vụ). Với thành phần
thức ăn 45% cám chuối, 45% cá biển xay, 15% bả hèm rượu, phối thêm một ít vitamin,
premix. Ngày trung bình thay nước 5 giờ (khoảng 15% nước ao). Tảo trong ao vẫn phát
triển rất mạnh, độ trong thấp (<15cm). Qua kinh nghiệm của anh Hà và một số hộ nuôi
khác, có thể sơ bộ kết luận : Bả hèm rượu với một lượng vừa phải từ 10 - 15% được bổ
sung liên tục vào thành phần thức ăn nuôi cá tra sẽ giúp cá có sức đề kháng tốt, ít bệnh và
quan trọng hơn hết là thịt cá có màu trắng (tỉ lệ cao) và một tỉ lệ thấp vàng chanh, hồng.
ảnh hưởng của các yếu tố môi trường, thời tiết
Tổng kết các mô hình nuôi cá tra hiện nay, chúng tôi nhận thấy mỗi mô hình nuôi
đều có những ưu và nhược điểm của nó, theo thứ tự như sau :
- Cá nuôi ao nước tĩnh ít thay nước, hệ số thức ăn thấp, tỉ lệ sống cao, cá ít bệnh,
thịt cá có màu vàng.
- Cá nuôi ao bãi bồi có chế độ thay nước thường xuyên, hệ số thức ăn cao hơn, tỉ
lệ sống thấp hơn, thịt cá màu trắng, vàng chanh đến hồng.

- Cá nuôi bè, đăng quầng nước chảy, hệ số thức ăn cao hơn hết, tỉ lệ sống thấp
nhất (chỉ đạt khoảng 70 - 75%), thịt cá trắng đẹp, tỉ lệ vàng chanh thấp. Mô hình này cá
thường bị bệnh do phải phụ thuộc thường xuyên vào môi trường nước bên ngoài thay đổi.
Như vậy là nếu giữ được môi trường nước trong sạch, không để tảo phát triển, có
chế độ thức ăn hợp lý (nên dùng thức ăn viên công nghiệp và định kỳ dùng các sản phẩm
xử lý đáy ao để giảm thiểu vấn đề thích tụ chất thải và giảm ô nhiễm nguồn nước, đáy
ao). Nếu làm tốt những yêu cầu trên thì chúng ta sẽ tạo ra được sản phẩm cá tra chất
lượng cao, thịt cá trắng đẹp, bán có giá hơn.
Ngoài ra, cũng cần chú ý vào thời điểm nước quay (đầu tháng 5 ÂL) là lúc nước
có màu đỏ son khiến cá tra nuôi bè hoặc đăng quầng bị ảnh hưởng thịt cá bị đổi màu, nếu
thu hoạch lúc này thì giá bán rất thấp.
Ðặc biệt trong những ngày nắng nóng kéo dài, nhiệt độ nước sông trên 29oC và
nhiệt độ nước ao nuôi trên 38oC cũng có thể làm cho màu thịt cá tra kém chất lượng.
Rút được kinh nghiệm trên, trong thời gian qua ngư dân Ðồng Tháp đã thực hiện
các biện pháp nuôi như sau :
Về mô hình nuôi : chuyển đổi từ nuôi trong ao sang nuôi đăng quầng và nuôi
trong ao ven sông để chủ động thay nước.
Về thức ăn : Chuyển từ sử dụng thức ăn tự chế biến sang sử dụng thức ăn công
nghiệp.
Về con giống : Chuyển từ việc sử dụng con giống tự nhiên sang con giống sinh
sản nhân tạo
Nuôi cá tra thịt trắng
Cá tra đánh bắt ngoài tự nhiên tại các vùng nước sạch đều có thịt màu trắng, trong
khi cá tra nuôi hầm bè thịt cá thường bị vàng, nên hiệu quả xuất khẩu không cao.
Nguyên nhân chính là do môi trường nước nuôi và nguồn thức ăn. Kinh nghiệm
của người nuôi cá tra ở Đồng Tháp cho thấy: nếu sử dụng các loại thức ăn xanh (rau
muống), bắp, bí đỏ, cua đồng...; chất kết dinh (bột gòn) chắc chắn thịt cá sẽ có màu vàng.
Khắc phục
Sử dụng thức ăn: Nhiều hộ nuôi cá tra cho biết, cùng với thành phần thức ăn như
rau muống, cám tấm nấu, cá tạp xay nhuyễn... nếu được ủ lên men bằng hèm rượu sau 24

giờ mới cho cá ăn thì thịt cá sẽ trắng đẹp do quá trình ủ lên men đã phân huỷ một số diệp
lục tố trong rau muống. Theo kinh nghiệm, với thành phần thức ăn 45% cám chuốt, 40%
cá biển, 15% bã hèm rượu, phối thêm ít vitamin, Premix. Ngày trung bình thay nước 5
giờ (khoảng 15% nước ao), dù tảo có phát triển nhưng chất lượng cá vẫn không bị vàng.
Điều này cho thấy, bã hèm rượu với một lượng vừa phải, khoảng 10-15% bổ sung
liên tục vào thành phần thức ăn của cá, sẽ giúp cá có sức đề kháng tốt, ít bệnh và cá đạt tỉ
lệ thịt trắng cao.
Môi trường nuôi
- Trên thực tế, cá tra nuôi ao nước tĩnh, ít thay nước, hệ số thức ăn thấp, tỉ lệ sống
cao, cá ít bị bệnh nhưng thịt hay bị vàng.
- Cá tra nuôi ao bãi bồi có chế độ thay nước thường xuyên, hệ số thức ăn cao, tỉ lệ
sống thấp hơn, thịt cá thường có màu trắng.
- Với cá nuôi bè, đăng quầng nước chảy, hệ số thức ăn cao, tỉ lệ sống đạt 70-75%,
nhưng thịt cá trắng đẹp. Song mô hình này phải theo dõi chăm sóc tốt vì cá thường bị
bệnh do phụ thuộc thường xuyên vào môi trường nước.
Như vậy, nếu giữ được môi trường nước nuôi trong sạch, không để tảo phát triển
bằng các mô hình nuôi chủ động thay nước như nuôi đăng quầng, nuôi trong ao ven sông,
có chế độ ăn thích hợp và định kỳ xử lý đáy ao nhằm giảm thiểu chất thải gây ô nhiễm,
kết hợp với kinh nghiệm cho thêm hèm rượu trong thức ăn, sử dụng con giống nhân tạo,
cá tra thương phẩm sẽ đáp ứng được tiêu chuẩn xuất khẩu.
Ngoài ra, nuôi cá tra thương phẩm cần phải chú ý đến thời điểm nước xoay (vào
khoảng đầu tháng 5 âm lịch). Lúc này, nước sông có màu đỏ son, cá tra nuôi bè, đăng
quầng sẽ bị ảnh hưởng đến màu thịt. Vì vậy người nuôi hạn chế thu hoạch vào thời điểm
này.
Trong những ngày nắng nóng kéo dài (nhiệt độ nước sông trên 29oC và nhiệt độ
nước ao nuôi trên 38oC) cũng có thể làm cho màu và thịt cá tra kém chất lượng.
NTNN, 28/3/2004

ĐỂ NUÔI CÁ TRA THỊT TRẮNG
Có một cản ngại là cá tra (Pangasius hypophthalmus) trong quá trình nuôi, da, thịt

cá có thể có màu vàng.
Vấn đề liên quan đến thịt vàng trên cá tra rất được các nhà khoa học, các người
nuôi cá quan tâm bởi vì cá tra thịt vàng không được các nhà máy chế biến ưa chuộng, do
đó khó tiêu thụ. Giá giảm từ 10 - 20% so với cá tra thịt trắng. Về nguyên nhân làm cho cá
tra nuôi có thịt vàng, có rất nhiều yếu tố chủ quan và khách quan tác động trong suốt quá
trình nuôi. Nhìn chung chúng tôi thấy có các nguyên nhân sau:
1. Về di truyền và giống:
Có một loại cá da trơn có da màu vàng mà người dân gọi là cá tra nghệ (tên khoa
học là Pangasius kunyit). Đây là một loại cá có đặc trưng da thịt đều vàng như nghệ
nhưng thịt có mùi vị thơm ngon rất đặc trưng. Sản lượng của cá không nhiều, chủ yếu
khai thác từ tự nhiên. Thỉnh thoảng mới thấy xuất hiện ở chợ cá, giá bán từ 40.000 -
50.000đ/kg, người bán hàng thường gọi là Bông lau nghệ. Loại cá này Trung tâm Nghiên
cứu Sản xuất giống Thuỷ sản An Giang đã cho sinh sản nhân tạo trong năm 2001.
2. Do bệnh.
Về bệnh thì có liên quan đến gan và mật.

×