Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

Quản trị chiến lược Thiết lập mô hình 5 lực lượng điều tiết cạnh tranh trong ngành của M. Porter vận dụng mô hình này anh, chị hãy phân tích và đánh giá cường độ cạnh tranh trong một ngành kinh doanh cụ thể mà anh chị biết

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 19 trang )

1|Quản trị chiến lược

TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠI
KHOA THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ

Họ và tên:
Mã SV:
Mã LHP:

Nguyễn Hoàng Hải
12D140014
1411SMGM0111

Đề bài: Thiết lập mơ hình 5 lực lượng điều tiết cạnh
tranh trong ngành của M. Porter. Vận dụng mơ hình
này anh, chị hãy phân tích và đánh giá cường độ
cạnh tranh trong một ngành kinh doanh cụ thể mà
anh/chị biết.

Hà Nội-2014


2|Quản trị chiến lược

Lời mở đầu
Ngành bán lẻ Việt Nam đang trên đà hội nhập với sự phát triển của nền kinh tế thế
giới. Các tập đoàn đa quốc tế thâm nhập vào thị trường đầy tiềm năng này như:
Carrefour, Tesco, Lotte... với các dự án đầu tư mơ hình bán lẻ hiện đại đã làm cho
ngành bán lẻ Việt Nam ngày càng sơi động. Chính phủ cũng đã đưa ra định hướng ưu
tiên phát triển và đầu tư cho các doanh nghiệp trong ngành bán lẻ trong nước có đủ tiềm
lực để cạnh tranh với các đối thủ nước ngoài.


Thật ra việc thâm nhập thị trường bán lẻ Việt Nam của các đại gia đã bắt đầu từ hơn
10 năm nay dưới các mơ hình khác nhau. Trong đó có mơ hình tồn tại, có mơ hình đã
chết ngay từ giai đoạn nghiên cứu luận chứng khả thi và xin giấy phép đầu tư. Các dự án
không triển khai được vì nhiều lý do, trong đó nổi bật hai nguyên nhân chính. Thứ nhất là
thị trường chưa sẵn sàng, đối tượng tiêu dùng cho mơ hình bán lẻ hiện đại chưa đủ lớn.
Thứ hai là chính sách hạn chế đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực bán lẻ.
Mặc dù vậy, các tập đồn bán lẻ vẫn khơng ngừng quan sát và nghiên cứu thị trường
đầy tiềm năng với dân số hơn 90 triệu người (tính đến tháng 2/2014 của Tổng cục thống
kê). Các công ty ngoại kiên nhẫn chờ thời điểm thích hợp để chính thức bước chân vào
sân chơi tiềm năng với những đặc điểm hấp dẫn như dân số đông, mức tăng trưởng kinh
tế ổn định. Trong năm 2013, GDP của Việt Nam nói chung đã tăng thêm 5,42%, cao hơn
mức tăng 5,25% đạt được trong năm 2012, đồng thời cũng cao hơn cả mức dự báo trung
bình của các nhà kinh tế học do Hãng Bloomberg khảo sát 5,3 %. Khi gia nhập WTO,
Việt Nam buộc phải mở cửa lĩnh vực bán lẻ và có các chính sách miễn giảm thuế, chính
sách dầu tư hợp lý cho nhà đầu tư nước ngoài cạnh tranh với các doanh nghệp trong lĩnh
vực bán lử trong nước. Chính vì vậy, với việc thiết lập mơ hình 5 lực lượng điều tiết cạnh
tranh trong ngành bán lẻ của M. Porter, ta có thể thấy được cường độ cạnh tranh của
ngành. Từ đó thấy được tính hấp dẫn của ngành bán lẻ tại thời điểm suy thối tồn cầu
này.
1. Đe dọa gia nhập mới
Khái niệm: Đối thủ cạnh tranh tiềm năng là những doanh nghiệp hiện không cạnh
tranh trong ngành nhưng có khả năng gia nhập thị trường.
Khơng chỉ có DN chuyên bán lẻ mở rộng hệ thống mà các DN nổi danh trong lĩnh
vực bất động sản, công nghiệp cũng đầu tư vào siêu thị. Tập đoàn Sơn Hà thành lập chuỗi
siêu thị Hiway. Tập đoàn Vingroup cũng tham gia thị trường bán lẻ bằng kế hoạch phát


3|Quản trị chiến lược

triển chuỗi VingKC trên toàn quốc. Tập đoàn Alphanam cũng sẽ tham gia thị trường vào

năm 2014 với chuỗi siêu thị 79 Mart.
Ocean Retail - thuộc Tập đoàn Đại Dương (Ocean Group) mới gia nhập thị trường
từ năm 2013, sau khi mở ra những đại siêu thị tại Royal và Times City, vừa công bố sẽ
khai trương thêm một trung tâm thương mại và một siêu thị tại hai quận của Hà Nội. Một
siêu thị mang thương hiệu này tại Hà Tĩnh cũng chuẩn bị đi vào hoạt động từ đầu năm
2014.
a, Chuyên biệt hoá sản phẩm.
Người tiêu dùng ngày nay không còn muốn lựa chọn những sản phẩm đại trà, mà
muốn những sản phẩm độc đáo, mang đậm dấu ấn phong cách cá nhân của người sử
dụng. Nắm bắt được tâm lý này, các công ty đang cho ra đời ngày càng nhiều những sản
phẩm mang dấu ấn cá nhân như việc chạm khắc tên lên sản phẩm hay lựa chọn những
kiểu dáng thiết kế ấn tượng… Hiện các thương hiệu như Nike, Coca-Cola và Motorola
đang thực hiện khá tốt xu hướng này. Dự kiến, đây sẽ xu hướng nở rộ trong năm 2014,
mang tới cơ hội lớn cho các doanh nghiệp vùa và nhỏ trong việc thâm nhập thị trường mà
những “đại gia” bán lẻ đang để trống.
Trong khi các hãng bán lẻ đang chạy đua trong việc tạo ra sự khác biệt cho cả các cửa
hàng trên phố lẫn các gian hàng trực tuyến, việc mang lại những trải nghiệm mua sắm thú
vị cho khách hàng cũng là một kế hoạch dài hơi quan trọng khơng kém. Có thể thấy, ranh
giới giữa mua sắm và giải trí của người tiêu dùng đang ngày càng mờ nhạt dần. Người
tiêu dùng đã khơng cịn thỏa mãn với mơ hình máy bán hàng của thập kỷ trước, mà họ
muốn được giải trí, được cung cấp thơng tin khi lướt web, được tiếp cận với những nhân
viên bán hàng năng động, nhiệt tình, vui tính và sau đó mới đưa ra quyết định mua. Việc
thỏa mãn được những nhu cầu giải trí này của người mua sẽ là chiếc chìa khóa mang đến
cho các hãng bán lẻ nhận rất nhiều khách hàng trung thành.
b, Rào cản kĩ thuật.
Sự bùng nổ của mạng xã hội những năm gần đây đã trở thành một nhân tố khá quan
trọng ảnh hưởng tới cả việc người ta mua gì và bán gì. Thông qua các trang mạng xã hội
như Pinterest, Facebook hay Tweeter các nhà bán lẻ có thể đánh giá cận cảnh sát thời
gian thực về sản phẩm nào đang được người tiêu dùng quan tâm. Đây là một khả năng mà
ngay cả các nghiên cứu thị trường truyền thống cũng khó có thể làm được. Từ việc đo

được độ nóng của các sản phẩm thông qua các cộng đồng mua sắm trực tuyến, các hãng
bán lẻ có thể cân nhắc và sử dụng những thơng tin này để có quyết định trữ hàng hợp lý.


4|Quản trị chiến lược

Ngoài ra, các nhà bán lẻ cũng có thể sử dụng các cơng nghệ mới nhằm tăng cường
khả năng tương tác với khách hàng như iBeacon của Apple - công nghệ theo dõi bán lẻ
mới cho người dùng. Cơng nghệ này có thể giúp người mua tìm một sản phẩm trên giá
hàng hoặc có thể nói cho họ khi nào yêu cầu của họ sẵn sàng để chọn sản phẩm hoặc
thông báo cho họ những sản phẩm mà họ bước tới xem.
Mức độ ứng dụng trong ngành công nghệ thông tin trong kinh doanh còn đơn giản:
Nhân viên chưa làm quen với hệ thống trao đổi dữ liệu cao cấp mà chủ yếu là điện thoại
và hệ thống máy tính phổ thơng.

1: Rất ít; 5: Rất nhiều – Theo báo cáo Bán lẻ hiện đại tại Việt Nam của Maruyama và
Lê Việt Trung
c, Chi phí.
Chi phí mở cửa hàng mới tại Việt Nam luôn được đánh giá là rất cao so với khả năng
của DN cũng như các khu vực khác. Chi phí thuê địa điểm, nội thất trang trí cũng được
xếp ở mức cao.


5|Quản trị chiến lược

Chi phí mở cửa hàng mới tại Việt Nam luôn được đánh giá là rất cao so với khả năng
của doanh nghiệp cũng như các khu vực khác. Chi phí ban đầu của việc mở cửa hàng bao
gồm: chi phí thuê địa điểm, chi phí mua sắm, trang bị nội thất, chi phí quảng cáo, chi phí
thuê nhân cơng, chi phí vận chuyển,… sẽ “ngốn” một khoản tiền rất lớn trong số ngân
sách chi ra cho một cửa hàng mỗi tháng. Đây là những khoản ngân sách cần thiết đối với

một cửa hàng bán lẻ và rất khó để cắt giảm được các khoản chi phí này vì nó sẽ ảnh
hưởng trực tiếp đến cơng việc kinh doanh của cửa hàng.
Trong những năm gần đây, lợi dụng sự thịnh hành của Internet và sự phát triển của
các mạng xã hội, rất nhiều người đã sử dụng phương thức kinh doanh online nhằm giảm
thiểu các chi phí mở cửa hàng ban đầu. Tuy nhiên, phương thức này chỉ giúp các chủ cửa
hàng trì hỗn khoản đầu tư ban đầu chứ khơng thể cắt giảm hồn tồn, vì khi quy mô của
cửa hàng bán lẻ online được mở rộng, chắc chắn cần phải có mặt bằng để cơng việc kinh
doanh tiến triển thuận lợi.
d, Chính sách của chính phủ.
Trong đó, dư nợ tín dụng và lãi suất giảm tạo điều kiện cho doanh nghiệp mạnh dạn
đầu tư sản xuất. Lãi suất tiền vay có thể giảm 1-2%, ngắn 9%, trung và dài hạn 10-11%.
Giải pháp điều hành tín dụng 12-14%, tiếp tục cho phép ngắn hạn bằng ngoại tệ đối với
các tổ chức thanh tốn nước ngồi (thay vì mua bán) nếu chứng minh được nguồn thu
ngoại tệ.


6|Quản trị chiến lược

Để kinh tế duy trì tăng trưởng ổn định, chỉ đạo chung của Chính phủ là Ngân hàng
Nhà nước Việt Nam tiếp tục tăng tín dụng, đưa thêm tiền ra nền kinh tế, nhưng phải trải
đều, không để dồn vào các tháng cuối năm, nhất là phải gắn với chất lượng tín dụng, giải
quyết nợ xấu. Trước mắt, trong quý II, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam tiếp tục điều hành
chủ động, linh hoạt chính sách tiền tệ, bảo đảm sự ổn định của thị trường tiền tệ, thị
trường ngoại hối và thị trường vàng, tiếp tục kiểm soát tốt lạm phát; triển khai các giải
pháp thúc đẩy tăng trưởng tín dụng phục vụ sản xuất, kinh doanh gắn với kiểm sốt, nâng
cao chất lượng tín dụng. Bên cạnh đó, nghiên cứu điều chỉnh giảm lãi suất các khoản vay
cũ để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Phát huy hiệu quả vai trị của Cơng ty Quản lý
tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam để xử lý nợ xấu, đồng thời tiếp tục thực hiện
tái cơ cấu tồn diện các tổ chức tín dụng.
Tính đến cuối năm 2013, Việt Nam đã có quan hệ thương mại trên 200 nước và vùng

lãnh thổ, trong đó đã kí kết hiệp định thương mại với 90 quốc gia và vùng lãnh thổ, 51
hiệp định bảo hộ đầu tư và 41 hiệp định tránh đánh thuế hai lần với nhiều nước và vùng
lãnh thổ trên thế giới. Tuy nhiên, đối với ngành dịch vụ phân phối, chúng ta mới chỉ có
cam kết cụ thể với Mỹ trong Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ (BTA), với Nhật Bản
trong Hiệp định Bảo hộ và Xúc tiến đầu tư Việt Nam – Nhật Bản, cùng một số dự án thí
điểm, thử nghiệm trong
e, Nhu cầu vốn đầu tư ban đầu.
Tài chính ln là vấn đề quan trọng đối với doanh nghiệp, đặc biệt là tỷ lệ vốn tự có.
Đây là chỉ tiêu đánh giá sức mạnh tài chính của doanh nghiệp, thể hiện sự phát triển của
doanh nghiệp trong sản xuất kinh doanh. Thực tế thì quy mơ vốn của các doanh nghiệp
bán lẻ Việt Nam còn rất nhỏ. Đây thực sự là một điểm yếu của các doanh nghiệp bán lẻ
nội địa. Nguồn vốn tự có của doanh nghiệp nhỏ dẫn tới năng lực phát triển thị trường và
kinh doanh gặp nhiều khó khăn.
Theo khảo sát của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương và Hiệp hội bán lẻ Việt
Nam, hầu hết các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam đều gặp khó khăn về nguồn tài chính, tín
dụng. Với nguồn vốn chủ sở hữu quá nhỏ bé, để hoạt động kinh doanh, các doanh nghiệp
buộc phải huy động vốn từ bên ngoài. Các kênh huy động vốn chủ yếu của doanh nghiệp
là các ngân hàng thương mại, quỹ hỗ trợ phát triển và các tổ chức tín dụng. Ngồi ra, một
số cịn vay từ người thân, bạn bè. Tuy nhiên nguồn vốn vay này thường nhỏ lẻ, không
nhiều. Trong điều kiện nền kinh tế thế giới ảnh hưởng mạnh mẽ đến hoạt động kinh
doanh của hầu hết các doanh nghiệp, để có đủ khả năng chống đỡ, tiếp tục kinh doanh,
cạnh tranh và phát triển, các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam cần phải huy động nguồn vốn
bên ngoài lớn, nhất là dựa vào các ngân hàng và kênh tín dụng từ chính phủ.


7|Quản trị chiến lược

Bước vào hội nhập, các doanh nghiệp bán lẻ Việt Nam phải đương đầu với những
doanh nghiệp bán lẻ nước ngồi sẵn có lợi thế về vốn và dễ dàng huy động vốn. Nguồn
lực tài chính yếu kém chính là một thách thức rất lớn, làm

Dân số đông cùng việc quy hoạch chưa phù hợp tại các thành phố lớn khiến các đại
gia từ nội đến ngoại đua nhau gia nhập thị trường bán lẻ. Trong số này, có những cái tên
từng thành cơng trong ngành bất động sản, ngân hàng, chứng khốn, điều này khiến
khơng ít người đặt ra câu hỏi, liệu bán lẻ có trở thành trào lưu như chứng khoán, bất động
sản những năm trước hay không?
Tuy nhiên, cũng giống như bất động sản hay chứng khốn, sẽ khơng có chuyện tất
cả đều thành cơng trên thị trường bán lẻ. “Chỉ có những người “nhanh chân” đi đầu với
những chiến lược hợp lý mới có thể thành cơng, cịn lại phải chấp nhận thất bại, đó là sự
đào thải”,ơng Hải nhận định.
Việc mở các chuỗi bán lẻ trong thời điểm này cũng mang nhiều rủi ro.Tác động của
khó khăn của nền kinh tế khiến sức của người dân năm nay rất thấp. Bên cạnh đó, làn
sóng của khối ngoại đang ào ạt tiến vào thị trường cũng khiến các DN gặp khó khăn. Để
tồn tại, liên doanh, liên kết dần trở thành giải pháp bắt buộc với DN nội.
 Điểm: 6
2. Đe dọa từ các SP/DV thay thế
a, Xu hướng sử dụng hàng thay thế của khách hàng
Thực tế cho thấy, bất chấp tình hình kinh tế suy thối, người tiêu dùng vẫn sẵn sàng
mở hầu bao cho các mặt hàng xa xỉ. Đơn cử như tại Ấn Độ, số liệu thống kê của Văn
phòng thương mại và công nghiệp Ấn Độ (ASSOCHAM) cho thấy, thị trường các mặt
hàng cao cấp tại quốc gia này trong năm 2013 đã đạt 8,5 tỷ USD với mức tăng trưởng 2530%. Trả lời phỏng vấn của báo giới, ông D S Rawat, Tổng Thư ký ASSOCHAM, nhấn
mạnh: “Đồ trang sức sang trọng, điện tử, xe hơi… đã có một năm khởi sắc ngồi mong
đợi. Xem ra, các mặt hàng xa xỉ không hề bị ảnh hưởng bởi tình hình suy thối kinh tế.
Dự kiến năm 2014 sẽ tiếp tục làm một năm “ăn nên làm ra” đối với phân khúc này”.
Trong khi đó, theo một khảo sát trực tuyến của hãng Niesel thì có tới 56% số người
Việt Nam được hỏi cho biết sẽ sẵn sàng chi bộn tiền cho hàng hiệu, chỉ sau Trung Quốc
đứng đầu với 74% và Ấn Độ đứng thứ hai với 59%. Niesel đánh giá điều này chịu ảnh
hưởng lớn từ do tâm lý thích sử dụng và chịu chi cho hàng hiệu của người Châu Á nói
chung đều nhằm thể hiện vị thế của mình trong mắt người đối diện và trong xã hội.



8|Quản trị chiến lược

b, Tương quan giữa giá cả và chất lượng của các mặt hàng thay thế

Giá cả tiếp tục là một trong những chuyển biến lớn nhất trong ngành bán lẻ. Tồn cầu
hóa, cạnh tranh gắt gao và sự bùng nổ của Internet cũng như hoạt động chia sẻ thông tin
đang làm thay đổi thị trường bán lẻ mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Những yếu tố này cũng
gây ra áp lực giảm giá. Tồn cầu hóa tạo nên dòng dịch chuyển các nhà máy sản xuất đến
với các nước có chi phí sản xuất thấp hơn, cũng như giúp các sản phẩm xuất khẩu trở nên
cạnh tranh hơn so với các thương hiệu nội địa. Cạnh tranh gắt gao khiến một khách hàng
giờ có thể trở thành “Thượng đế” của nhiều công ty khác nhau, gây ra áp lực giảm giá
khơng thể tránh khỏi. Cịn Internet và sự trao đổi thông tin mạnh mẽ giúp người tiêu dùng
có thể so sánh giá cả, chất lượng để từ đó lựa ra sản phẩm mình ưng ý nhất. Theo một
nghiên cứu gần đây của Google, 84% người tiêu dùng sử dụng điện thoại trong các cửa
hàng trước khi ra quyết định mua sắm, bao gồm cả việc so sánh giá cả, tìm kiếm khuyến
mãi và tìm kiếm thơng tin sản phẩm, 1/3 người mua hàng thích dùng điện thoại hơn là hỏi
nhân viên cửa hàng.
Đặc biệt trong bối cảnh suy thoái, khi người tiêu dùng buộc phải chú ý hơn đến giới
hạn ngân sách của mình, các tấm thẻ giá đang dần nhòa đi, và thay vào đó là những cuộc
mặc cả vô cùng gay cấn. Các công cụ theo dõi giá đầy ắp trên các thiết bị di động, các
trang web trực tuyến luôn rộng cửa chào khách, thông tin được cung cấp đầy đủ hơn,
người tiêu dùng trở nên táo bạo hơn. Thừa nhận thực tế mới này, các nhà bán lẻ đã phải
gấp rút thích ứng với tình hình mới, một mặt đẩy mạnh bộ phận chăm sóc khách hàng,


9|Quản trị chiến lược

mặt khác đào tạo nhân viên về nghệ thuật “mặc cả” - điều rất phổ biến ở khu vực kinh tế
vỉa hè, chợ búa song lại rất lạ lẫm đằng sau các tòa cao ốc hay siêu thị.
Hồi tháng 11/2013, Best Buy đã đặc biệt để ngỏ khả năng mặc cả cho khách hàng,

khi tuyên bố rằng giá của hãng sẽ được điều chỉnh xuống cho phù hợp với tình hình của
thị trường, nếu khách hàng cho thấy bằng chứng giá cả sản phẩm đang thấp hơn.
Theo New York Times, các nhà bán lẻ khác cũng đưa ra những hành động tương tự,
nhưng ít phơ trương hơn, thậm chí nhượng bộ nhiều hơn. Trang web thu thập thông tin,
so sánh giá cả và xếp hạng giao dịch trực tuyến DealScience đã nhận thấy rằng ít nhất
20% đại gia bán lẻ thực thi chính sách “giá trùng khớp” (matching prices), dù nhiều nơi
khơng thể hiện điều đó một cách rõ ràng. DealScience thậm chí cịn phát hiện ra rất nhiều
tên tuổi lớn trong ngành bán lẻ, như Best Buy, Home Depot hay Lowe, đều đang trong
cuộc cạnh tranh gắt gao về giá bán và thậm chí cung cấp mức giá thấp hơn 10% so với
đối thủ cạnh tranh. Nếu như trước kia, thường chỉ các mặt hàng tiêu dùng phổ thơng mới
hay xuất hiện cảnh mặc cả, thì nay, cả những nhà bán lẻ các mặt hàng sang trọng như
Nordstrom cũng đã bắt đầu thực thi chính sách “giá trùng khớp”, dù họ không công bố
một cách rầm rộ.
 Điểm: 7
3. Quyền lực thương lượng của nhà cung ứng và khách hàng
Hầu hết các thương hiệu bán lẻ thành cơng đều có quy mơ lớn với mạng lưới bán lẻ
rộng khắp. Hoạch định mạng lưới bán lẻ vì thế là công tác chiến lược của ngành kinh
doanh này.Việc hình thành mạng lưới khơng chỉ hữu ích trong cơng tác định vị và quảng
bá thương hiệu, mà còn giúp thương hiệu có sức mạnh quy mơ.
Thơng thường, nhà sản xuất hoạch định kênh phân phối, bán lẻ cho các sản phẩm. Họ
quyết định các thương hiệu của mình bán ở đâu, chính sách lợi nhuận bán lẻ như thế nào?
Tuy nhiên, một khi nhà bán lẻ đã đủ mạnh về quy mơ và mạng lưới, thì người bán lẻ lại là
người quyết định cuộc chơi. Bạn có thể hình dung như thế nào nếu Wal- Mart đưa ra yêu
sách cho một nhà sản xuất mà không được đáp ứng! Rất có thể họ sẽ ưu tiên kinh doanh
các sản phẩm của đối thủ cạnh tranh. Lúc đó nhà sản xuất này chắn chắn phải "xuống
nước" vì khơng thể đứng nhìn đối thủ của mình được nhà bán lẻ khổng lồ Wal-Mart với
mạng lưới toàn cầu ưu ái.
Các nhà kinh doanh bán lẻ vì thế rất hiểu lợi thế quy mơ. Nó giúp họ tạo áp lực lên
nhà cung ứng nhờ sản lượng bán lẻ khổng lồ, gia tăng lợi nhuận và lợi thế cạnh tranh.



10 | Q u ả n t r ị c h i ế n l ư ợ c

Trong khi đó, các nhà bán lẻ đơn độc chắc chắn sẽ tìm cách liên kết hoặc phá sản một khi
các đại gia tăng áp lực.
Một khi đã tạo dựng được thương hiệu đủ mạnh, nhà bán lẻ hồn tồn có thể dùng
chính thương hiệu của mình để mở rộng sang cung ứng các sản phẩm. Người tiêu dùng
khi đó sẽ hồn tồn yên tâm với các sản phẩm mang thương hiệu của trung tâm mua sắm
mà mình tin tưởng. Chẳng hạn Co.op Mart hồn tồn có thể hợp tác với các nhà cung ứng
để yêu cầu cung cấp sản phẩm cốt lõi với chất lượng đảm bảo để đóng gói bằng chính
bao bì mang thương hiệu Co.op Mart (trứng gà, gạo, thịt, nước tương...). Chắc chắn
những sản phẩm với thương hiệu bảo chứng này sẽ làm đau đầu các nhà sản xuất cạnh
tranh! Xu hướng nhãn hiệu riêng phát triển khá mạnh trên thế giới, đặc biệt là của các đại
gia bán lẻ châu Âu.
Hiện nay tại Việt Nam, thương hiệu Co.op Mart đã gần như đồng nghĩa với mơ hình
bán lẻ siêu thị (giống như Honda gần như đồng nghĩa với xe gắn máy trước đây!). Nếu
nhanh chóng phát triển, liên tục duy trì và nâng tầm thương hiệu thì dù cho có sự thâm
nhập của các đại gia bán lẻ nước ngồi, Co.op Mart hồn tồn có thể duy trì vị trí dẫn đầu
trong kinh doanh siêu thị trong nước kể cả khi Việt Nam đã gia nhập WTO.
Người tiêu dùng ngày càng hiểu rõ hơn về nhu cầu của họ. Sự bùng nổ của công nghệ
thông tin giúp họ dễ dàng tìm được đâu là nơi mang đến cho họ những giá trị tốt nhất mà
không cần quá quan trọng về vấn đề giá cả. Thay vào đó, thứ mà người tiêu dùng tìm
kiếm trong năm 2014 sẽ là chất lượng sản phẩm và dịch vụ khách hàng. Chính vì vậy, các
chuyên gia nghiên cứu của Insider Retail cho rằng năm 2014 sẽ là năm “giá trị của những
giá trị”.
Trong khi các hãng bán lẻ đang chạy đua trong việc tạo ra sự khác biệt cho cả các
cửa hàng trên phố lẫn các gian hàng trực tuyến, việc mang lại những trải nghiệm mua
sắm thú vị cho khách hàng cũng là một kế hoạch dài hơi quan trọng không kém. Có thể
thấy, ranh giới giữa mua sắm và giải trí của người tiêu dùng đang ngày càng mờ nhạt dần.
Người tiêu dùng đã khơng cịn thỏa mãn với mơ hình máy bán hàng của thập kỷ trước,

mà họ muốn được giải trí, được cung cấp thơng tin khi lướt web, được tiếp cận với những
nhân viên bán hàng năng động, nhiệt tình, vui tính và sau đó mới đưa ra quyết định mua.
Việc thỏa mãn được những nhu cầu giải trí này của người mua sẽ là chiếc chìa khóa
mang đến cho các hãng bán lẻ nhận rất nhiều khách hàng trung thành.
Về phía các doanh nghiệp sản xuất, thường họ phải trả chi phí khoảng 50 triệu đồng
cam kết làm ăn với siêu thị, đồng thời phải trả mức chiết khấu khoảng 30% giá thành sản
phẩm. Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ vấn đề quay vòng vốn để sản xuất là rất


11 | Q u ả n t r ị c h i ế n l ư ợ c

quan trọng. Nhưng khi đưa hàng vào siêu thị bán thì thường sau 2-3 tháng mới hoàn vốn.
Nhiều doanh nghiệp biết với mức chiết khấu ấy thì sẽ khó có thể có lãi nhưng họ vẫn
chấp nhận vì đây có thể coi là chiến lược phát triển lâu dài. Về phía các doanh nghiệp
phân phối bán lẻ, ơng Nguyễn Ngọc Hịa, phó Tổng giám đốc hệ thống Co-op mart khẳng
định, các siêu thị đề ra mức chiết khấu cao như vậy là do phải gánh quá nhiều chi phí mặt
bằng, máy lạnh, nhân viên để tạo nên cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh, đồng thời phải tính đến
biện pháp giảm giá, khuyến mãi sao cho mức giá bằng hoặc thấp hơn chợ để tăng tính
cạnh tranh. Ngồi ra, nhiều doanh nghiệp bị từ chối hoặc phải mất thời gian chờ câu trả
lời từ phía siêu thị, lỗi một phần cũng chính là do các doanh nghiệp vì khi gửi đơn chào
hàng chỉ đơn thuần là một bản fax giới thiệu sản phẩm, hãng sản xuất và giá cả. Trong
khi đó, cái mà siêu thị quan tâm là một kế hoạch bán hàng hoàn chỉnh, chi tiết bao gồm:
các dịch vụ hỗ trợ cho bán hàng, chiến lược cũng như thị phần của mình để siêu thị có thể
an tâm hơn khi nhận hàng. Mà thực tế, nhiều mặt hàng rất hay bị các lỗi về kỹ thuật như:
mã vạch với chất lượng in xấu, bao bì lẫn lộn ngày sản xuất và ngày hết hạn sử dụng,
trọng lượng khơng chính xác.
Điểm: 8
4. Cạnh tranh giữa các ĐTCT hiện tại
Mức độ cạnh tranh giữa các cty hiện tại trong ngành thể hiện ở:
a, Mức độ tập trung của ngành.

Đang có 27 siêu thị và trung tâm thương mại (TTTM) trên cả nước, Big C vẫn đang
chuẩn bị đưa vào hoạt động thêm siêu thị mới ở Quy Nhơn (Bình Định). Khơng những
thế, kế hoạch của nhà bán lẻ đến từ Pháp này là nâng số điểm kinh doanh tại thị trường
Việt Nam lên con số 30 vào cuối năm nay.

Khác với Big C, Lotte Mart của Hàn Quốc có mặt tại Việt Nam từ năm 2007 nhưng
hiện mới có bảy TTTM trên cả nước. Với tiềm lực tài chính mạnh, kế hoạch từ nay đến
cuối năm, tập đoàn này sẽ khai trương thêm ba TTTM cỡ lớn nữa. Ngoài việc tự xây
TTTM mới, Lotte Mart còn kết hợp với nhà bán lẻ Pico tận dụng hai điểm bán sẵn có của
Pico để khai thác kinh doanh, gồm TTTM Lotte Mart Đống Đa tại Hà Nội và TTTM Pico
Plaza tại quận Tân Bình, TPHCM. Dù đến Việt Nam chậm hơn một số thương hiệu bán
lẻ nước ngoài khác nhưng Lotte tỏ ra là đối thủ đáng gờm cùng với tham vọng đến năm
2020 mở được 60 điểm bán.


12 | Q u ả n t r ị c h i ế n l ư ợ c

Trong khi đó, Parkson thuộc tập đoàn Lion của Malaysia cũng vừa giới thiệu về trung
tâm mua sắm thứ 10 của Parkson tại Việt Nam nằm trong dự án Léman Luxury
Apartments tọa lạc tại quận 3, TPHCM do C.T Group làm chủ đầu tư. Ông Tham Tuck
Choy, Tổng giám đốc Parkson Việt Nam, cho biết với chiến lược làm ăn lâu dài, Parkson
tiếp tục đặt mục tiêu mỗi năm phát triển thêm hai TTTM.
Với Aeon đến từ Nhật Bản, sau khi đưa trung tâm mua sắm có vốn đầu tư trên 100
triệu đơ la Mỹ ở quận Tân Phú, TPHCM vào hoạt động, nhà bán lẻ này đang hướng tới
mục tiêu 20 TTTM tại Việt Nam. Các địa bàn đang được chú ý tiếp theo là Bình Dương
và Hà Nội.
Trước sự “bành trướng” của các nhà bán lẻ ngoại, một số nhà bán lẻ lớn trong nước
cũng đang tập trung mở rộng hệ thống kinh doanh của mình. Việc mở rộng các chuỗi bán
lẻ có tổ chức và với cường độ cao sẽ giúp các chủ sở hữu chuỗi gia tăng mức độ nhận biết
thương hiệu đối với người tiêu dùng. Quan trọng hơn, số lượng cửa hàng trong chuỗi

càng lớn càng giúp chính sách giá của nhà bán lẻ cạnh tranh hơn nhờ thương lượng được
giá tốt với các nhà cung cấp, tiết giảm chi phí vận chuyển, thuận lợi trong đầu tư kho bãi
cho toàn hệ thống... Chuỗi phân phối hàng hóa khép kín được hình thành sẽ góp phần
thúc đẩy tiêu thụ hàng hóa, tạo mối quan hệ kinh doanh ổn định giữa nhà sản xuất và nhà
kinh doanh.
b, Mức độ tăng trưởng của ngành
Theo số liệu của Bộ Công Thương, tổng mức bán lẻ hàng hoá và doanh thu dịch vụ
tiêu dùng 6 tháng đầu năm 2013 ước đạt 1.275.414 tỷ đồng, tăng 11,9%, nhưng thấp hơn
mức tăng 19,7% của cùng kỳ năm 2012.
Cụ thể, tại báo cáo về tình hình sản xuất cơng nghiệp và hoạt động thương mại 6
tháng năm 2013, Bộ Công Thương cho biết, nếu loại trừ yếu tố giá thì tốc độ tăng trưởng
tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng 6 tháng tăng 4,9% thấp hơn mức tăng 6,7
% của cùng kỳ năm 2012.
Như vậy, tốc độ tăng trưởng tổng mức bán lẻ 6 tháng đầu năm cũng như dự báo 6
tháng cuối năm đều thấp hơn so với cùng kỳ năm 2012.
c, Tính đa dạng của các đối thủ cạnh tranh
Dù bị rơi khỏi Top 30 thị trường bán lẻ hấp dẫn nhất thế giới từ hai năm trước, nhưng
Việt Nam với 90 triệu dân vẫn tỏ ra hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài. Những năm
gần đây, khối ngoại luôn là khu vực sôi động nhất trong ngành bán lẻ. Tại TP HCM,
Parkson vừa đầu tư 8 triệu USD để mở trung tâm mua sắm thứ 9 của mình tại Việt Nam


13 | Q u ả n t r ị c h i ế n l ư ợ c

với tên gọi Parkson Cantavil. Đây được xem là chuỗi trung tâm thương mại cao cấp với
số lượng lớn nhất hiện nay trên cả nước.
Các đại gia lâu đời tại Việt Nam như Big C, Metro... Big C tuyên bố “không hạn chế
điểm bán miễn là có mặt bằng”. Đại gia từ Pháp đang dần mở rộng ra thị trường nông
thôn, sau khi dự tính các thành phố lớn sắp trở nên bão hòa.


Thị trường Việt Nam với 90 triệu dân vẫn tỏ ra hấp dẫn với các nhà đầu tư nước ngồi
d,Tình trạng dư thừa công suất
Dù các nhà bán lẻ đều nhận định tình hình kinh doanh năm 2013 là rất khó khăn do
sức mua yếu, tuy vậy, nhiều tập đồn bán lẻ ngoại và nội đều đã lên kế hoạch mở rộng hệ
thống với hàng loạt các siêu thị và trung tâm thương mại mới.
Sự xuất hiện của siêu thị và trung tâm thương mại là xu hướng tất yếu, phù hợp với xu
hướng tiêu dùng của người dân Việt Nam. Hệ thống bán lẻ hiện đại này đang dần thay thế
cho các chợ truyền thống ở đô thị và nằm trong chiến lược của các nhà đầu tư ngoại quốc.
Cả nước hiện có 130 trung tâm thương mại, 700 siêu thị thì có tới đến 21 doanh nghiệp


14 | Q u ả n t r ị c h i ế n l ư ợ c

100% vốn nước ngoài. Nhiều “đại gia” nước ngoài đã xuất hiện từ năm 2000 và đã rất
thành công như Metro Cash & Cary (Đức) với thương hiệu Metro, Casino (Pháp) với hệ
thống siêu thị Big C, Lion Group (Malysia) là thương hiệu Parkson…
Không dừng lại với những địa điểm kinh doanh hiện có, các tập đồn này vẫn âm
thầm mở rộng hệ thống với tốc độ ít nhất thêm 2-3 trung tâm/năm. Hiện Big C đã có 18
siêu thị, Metro có 19 siêu rải khắp các tỉnh thành trên cả nước.
Mặc dù đến thời điểm hiện tại, Tập đoàn bán lẻ Nhật Bản Aeon vẫn chưa có một
trung tâm thương mại, siêu thị nào hoạt động chính thức tại Việt Nam. Tuy nhiên, tập
đoàn này cũng đã lên kế hoạch đầu tư 1,5 tỷ USD để mở 20 trung tâm thương mại mua
sắm đến năm 2020. Mở đầu cho chiến lược “bành trướng” là 2 trung tâm thương mại đầu
tiên sẽ chính thức đi vào hoạt động trong năm 2014, trong đó một trung tâm sẽ được đặt
tại quận Tân Phú (TP.HCM) với tổng vốn đầu tư 109 triệu USD.
Có mặt ở Việt Nam từ năm 2008 và đang sở hữu 4 siêu thị, trung tâm thương mại
nhưng Tập đoàn Lotte Mart (Hàn Quốc) vẫn tham vọng sẽ nâng tổng số đơn vị bán lẻ của
mình lên 60 đến năm 2020. Theo đó, 56 siêu thị nữa sẽ nhanh chóng được mở trong thời
gian khoảng 7 năm.
e, Tình trạng sàng lọc trong ngành.

Nhìn lại thị trường bán lẻ năm 2013 cho thấy, xét theo loại hình kinh tế, tổng mức bán
lẻ của loại hình kinh tế cá thể tăng cao (16,7%), chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng số
(50,3%), tăng so với cùng kỳ năm trước (48,5%). Tỷ trọng cao và tăng chứng tỏ phần lớn
người tiêu dùng vẫn giữ truyền thống mua bán ở các cửa hàng nhỏ lẻ với các loại hàng có
phẩm cấp, giá cả phù hợp với thu nhập.
Tỷ trọng trong tổng mức bán lẻ của khu vực FDI, nếu năm 2007 - năm đầu tiên Việt
Nam chính thức gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), với cam kết mở cửa
trong nhóm ngành dịch vụ sâu rộng hơn, chiếm 3,7%, thì năm 2008 giảm xuống cịn
3,4%, 11 tháng 2013, tỷ trọng đã tăng lên đạt 3,4%.
Tuy nhiên, thách thức mới cũng đặt ra trong năm 2014 là kênh bán lẻ hiện đại của
Việt Nam mới chỉ chiếm 15% trong tổng hệ thống bán lẻ cả nước, trong khi các nước
trong khu vực tỷ lệ này xấp xỉ 50%. Trong tương lai gần phân khúc này đang tăng lên khi
thu nhập của giới trung lưu đang tăng dần. Và các doanh nghiệp nước ngoài đã nhắm đến
phân khúc thị trường này. Theo số liệu của Công ty khảo sát, đánh giá thị trường Niesel,
tại thành phố Hồ Chí Minh có trên 500 cửa hàng tiện lợi, trong đó 60% do các tập đồn
nước ngồi đầu tư, có sự khác biệt so với các cửa hàng tiện lợi trong nước, đó là hầu hết


15 | Q u ả n t r ị c h i ế n l ư ợ c

mở cửa 24 giờ mỗi ngày và xuyên suốt cả tuần. Cửa hàng tiện lợi có cả khơng gian ăn
uống và nghỉ trưa, có nghiên cứu sâu về tập quán tiêu dùng nội địa, dịch vụ tốt, đã “hút ”
được người tiêu dùng. Doanh nghiệp bán lẻ có vốn đầu tư trực tiếp nước ngồi có nhiều
lợi thế về vốn, thương hiệu, mạng lưới, kỹ năng bán hàng, tuyên truyền quảng cáo, niêm
yết giá và bán theo giá niêm yết, phương tiện cân đo đong đếm, vệ sinh an toàn thực
phẩm.
Việc mở rộng đầu tư trong năm 2014 và những năm tiếp theo của các nhà đầu tư trong
và ngoài nước đang trở thành minh chứng rõ nét cho sức hấp dẫn của thị trường bán lẻ
Việt Nam. Cạnh tranh trên thị trường bán lẻ càng gay gắt, sẽ là sự thử thách, sàng lọc loại
bỏ các doanh nghiệp có tư duy “ăn xổi” và người tiêu dùng sẽ được hưởng lợi từ q

trình cạnh tranh này. Để có thể trụ vững, phát triển, bài học kinh nghiệm của các doanh
nghiệp thành công cho thấy cần phải có sự nghiên cứu xu hướng tiêu dùng trong nước và
trên thế giới nhằm định hướng phát triển cho ngành bán lẻ trong bối cảnh tình hình kinh
tế thế giới cũng như nhu cầu thay đổi của người tiêu dùng.
 Điểm: 9
5. Quyền lực tương ứng của các bên liên quan khác
a, Dân chúng.
Nhiều ý kiến cho rằng, lao động là một lợi thế cạnh tranh của Việt Nam bởi chi phí
lao động rẻ, tỷ lệ lao động trẻ cao, có truyền thống lao động cần cù, ham học hỏi, khéo
tay nhanh trí... Tuy nhiên, thực tế thì đội ngũ lao động trong các doanh nghiệp bán lẻ Việt
Nam thừa mà thiếu, thừa lao động tay chấn, thiếu người thông thạo kỹ năng mềm như
làm việc nhóm, kỹ năng sáng tạo, kỹ năng am hiểu thị trường, ứng dụng cơng nghệ.
Ngồi ra, tác phong kỷ luật cơng nghiệp cịn kém, khả năng chịu áp lực cơng việc thấp là
hiện tượng phổ biến trong các doanh nghiệp bán lẻ nội địa. Vì thế, so sánh với các nước
trong khu vực thì nguồn lao động ở Việt Nam không hẳn là một lợi thế giúp doanh
nghiệp cạnh tranh tốt. Mặt khác, nguồn nhân lực bán hàng trong kênh phân phối hiện đại
có u cầu khá cao. Họ khơng những phải có kiến thức về kinh tế mà cịn phải hiểu biết
về chuyên ngành để thực hiện tốt các dịch vụ đi kèm như hậu mãi, chăm sóc khách
hàng... Có yêu cầu như vậy là bởi họ là người trực tiếp quan hệ với khách hàng, tạo nên
khách hàng quen thuộc, đối tượng góp tới 60% doanh thu của doanh nghiệp bán lẻ. Chính
những u cầu về chun mơn như trên đã khiến việc tuyển dụng nhân viên bán hàng trở
nên khó hơn.
b, Hiệp định thương mại


16 | Q u ả n t r ị c h i ế n l ư ợ c

Năm 2014 được dự báo là năm mà các Hiệp định thương mại sẽ mang lại nhiều cơ hội
cho doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam. Dự kiến đầu năm nay, các nước thành viên
tiếp tục thúc đẩy hướng tới kết thúc đàm phán Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương

(TPP) trong thời gian sớm nhất. Với 12 nước tham gia, chiếm hơn 30% xuất nhập khẩu
toàn cầu, Hiệp định sẽ mở ra cơ hội lớn cho doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam, nhất
là với những ngành hàng có thế mạnh như nông nghiệp, dệt may, da giày… sang những
thị trường lớn.
Ơng Nguyễn Tiến Trường, Phó Tổng Giám đốc Tập đồn Dệt may Việt Nam nói:
“Nếu thỏa thuận được vấn đề quy tắc xuất xứ, có thể hy vọng thuế quan hàng hóa đi từ
Việt Nam sang các nước TPP giảm dần về 0%. Tận dụng được hiệp định thì cơ hội mở
rộng thị phần tại các thị trường chính như Mỹ, Nhật Bản…hết sức lớn đồng thời đem lại
cả lợi ích cho cả người sản xuất. Hiệu quả cho sản xuất kinh doanh nếu chúng ta tận dụng
được cơ hội này là rất lớn.”
Với khối doanh nghiệp bán lẻ, năm 2014 còn khơng ít thách thức, khi sức mua thường
có độ trễ so với nền kinh tế. Trong khi đó, nhiều tập đồn bán lẻ nước ngồi tấn cơng ồ ạt
vào thị trường Việt Nam, tạo nên sự cạnh tranh khốc liệt.
Ơng Nguyễn Tiến Vượng, Phó Tổng Giám đốc Tổng Công ty Thương mại Hà Nội
(Hapro), cho rằng: “Năm 2014 sẽ có những cạnh tranh khốc liệt. Chỉ có doanh nghiệp
nào có sức cạnh tranh cao mới trụ vững. Các doanh nghiệp cần biết tận dụng tối đa chính
sách của chính phủ. Có nhiều chính sách, nhưng với chính sách về tiền tệ linh hoạt, lãi
suất ngân hàng đã tốt hơn. Chúng tôi tiếp cận vốn đã dễ hơn. Những doanh nghiệp đã trụ
được năm 2013 thì năm 2014 sẽ trụ vững và phát triển nữa, nếu doanh nghiệp tìm được
phương án kinh doanh tốt, đây sẽ là thời cơ tốt để phát triển.”
Các chuyên gia dự báo năm 2014, nhiều cơ chế, chính sách của Chính phủ từ những
năm trước như: cải thiện môi trường sản xuất, kinh doanh, tăng cường thu hút đầu tư; Hỗ
trợ thị trường, giải quyết hàng tồn kho; tăng cường khả năng tiếp cận tín dụng và xử lý nợ
xấu…sẽ đồng thời phát huy hiệu quả.
Bà Mai Thị Thu – Giám đốc Trung tâm Dự báo kinh tế - xã hội quốc gia (Bộ Kế
hoạch và Đầu tư) nhận định, nhiều doanh nghiệp đã vượt qua thời kỳ khó khăn nhất và
tiếp tục hoạt động đã chứng minh được nguồn lực và tính khả thi trong sản xuất kinh
doanh. Vì vậy, khi Chính phủ kiên định thực hiện các chính sách hỗ trợ trong năm 2014,
sẽ là cơ hội lớn cho doanh nghiệp tăng trưởng trở lại.
Với nhận định bức tranh doanh nghiệp 2014 phục hồi, nhưng để bền vững hơn cho

giai đoạn phát triển mới, theo bà Thu, cần có giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ


17 | Q u ả n t r ị c h i ế n l ư ợ c

phục hồi sản xuất; giải quyết tồn kho phải tích cực hơn, nhất là bất động sản. Với doanh
nghiệp thì tìm kiếm thị trường là quan trọng, nên cần phát triểm thị trường trong nước,
tìm kiếm cơ hội xuất khẩu và khơi thơng tín dụng cho doanh nghiệp, đẩy mạnh tái cấu
trúc doanh nghiệp.
c, Chính phủ.

Mục tiêu của Việt Nam là đến năm 2015 đưa ngành bán bn, bán lẻ phát triển, đóng
góp từ 18-20% vào GDP (hiện nay mới đạt 13-14% GDP). Tuy nhiên, với những chính
sách phát triển ngành phân phối, bán lẻ khơng sát thực tế thì mục tiêu này dường như còn
xa vời. Mặc dù đã có khơng ít chính sách phát triển ngành phân phối, bán lẻ được ban
hành, nhưng các văn bản thiếu tính thống nhất, rời rạc và chưa có những quy định cụ thể
cho các vấn đề liên quan đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đã khiến cho
doanh nghiệp gặp khó khăn trong mở rộng phát triển.
Cụ thể, những quy định về tiêu chí của các loại hình phân phối hiện đại như: Trung
tâm thương mại, siêu thị, đại siêu thị, cửa hàng tiện lợi... vẫn chưa có, khiến cho nhiều
doanh nghiệp bán lẻ “vừa đi vừa dò đường”, còn người tiêu dùng cũng khó nhận dạng
đâu là chợ, đâu là siêu thị.
 Điểm: 5


18 | Q u ả n t r ị c h i ế n l ư ợ c

Mơ hình trắc diện cạnh tranh

Theo số liệu thống kê, mặc dù bị ảnh hưởng chung của suy thoái kinh tế nhưng trong

năm 2013, ước tính cả nước có hơn 11.000 doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, trong đó
chiếm khoảng 30% là các doanh nghiệp bán lẻ. Con số này phần nào cho thấy doanh
nghiệp bán lẻ đang lạc quan hơn vào thị trường.
Ví như con số tăng trưởng của hệ thống Co.opmart đã tăng hơn 20% so với năm 2012.
Mục tiêu hướng tới là con số 100 siêu thị, cửa hàng tiện lợi vào năm 2015 và dự kiến, đến
năm 2020 sẽ có khoảng 20 đại siêu thị phục vụ nhu cầu mua sắm của người dân.
Đơn vị này cho rằng những khó khăn hiện tại như sức mua thấp, hàng tồn kho cao chỉ
mang tính tạm thời. Ngành hàng bán lẻ vẫn đang có nhiều cơ hội phát triển, nhất là khi
người tiêu dùng có khuynh hướng chuyển sang mua sắm tại các siêu thị lớn và cửa hàng
hiện đại.
Nhận định này lý giải phần nào hiện tượng các Trung tâm thương mại của Vingroup
rộng hàng trăm ngàn mét vuông đã được lấp đầy trong năm 2013 hay các siêu thị tổng


19 | Q u ả n t r ị c h i ế n l ư ợ c

hợp Ocean Mart, Big C hoặc điện máy Trần Anh, Thế giới di động (điện thoại, máy tính
xách tay)... liên tục được mở mới trên nhiều địa bàn tại Hà Nội.
Khảo sát mới nhất của Nielsen tại 6 thành phố lớn của Việt Nam cho thấy, niềm tin
người tiêu dùng Việt Nam đã được cải thiện khá nhiều so với thời điểm cuối năm 2012
với việc tăng từ 87 điểm lên 97 điểm.
Số liệu thống kê của CBRE Việt Nam cũng cho biết, nhu cầu thuê mặt bằng bán lẻ
năm 2013 cho thấy, 48,7% nhu cầu thuê mặt bằng bán lẻ thuộc về các dịch vụ ăn uống,
giải trí. Dù chưa có những cái tên lớn như Wall Mart, nhưng thị trường bán lẻ Việt Nam
đã chứng kiến sự vào cuộc của nhiều nhà đầu tư nước ngoài như Casino (Pháp), Metro
Cash & Cary (Đức), Lotte của Hàn Quốc, Aeon của Nhật Bản…
Việc 2 trong nhiều ông lớn của thế giới về lĩnh vực thức ăn, đồ uống nhanh là
Starbucks và McDonald’s đặt chân vào Việt Nam khẳng định còn nhiều dư địa tại thị
trường mới nổi này.


THE END!



×