Tải bản đầy đủ (.doc) (132 trang)

Vận dụng phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy môn những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa mác leenin (phần thứ nhất) ở trường cao đảng giao thông vận tải miền trung

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.31 KB, 132 trang )

1

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
---------- ----------

LÊ THỊ HỒI GIANG

VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG
GIẢNG DẠY MÔN NHỮNG NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ
NGHĨA MÁC - LÊNIN (PHẦN THỨ NHẤT) Ở TRƯỜNG CAO
ĐẲNG GIAO THÔNG VẬN TẢI MIỀN TRUNG
Chuyên ngành: Lý luận và PPDH Bộ mơn Giáo dục Chính trị
Mã số: 60. 14. 10

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC GIÁO DỤC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN LƯƠNG BẰNG

Nghệ An, 2012


2

LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành nhất, tơi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới các
thầy giáo, cơ giáo khoa Giáo dục Chính trị, Trường Đại học Vinh đã tận tình
truyền đạt những tri thức quý báu, đã dìu dắt giúp đỡ tơi hồn thành tốt nhiệm
vụ của khố học.
Đặc biệt, tơi xin bày tỏ lịng cảm ơn sâu sắc tới PGS.TS. Nguyễn Lương
Bằng đã tận tình giúp đỡ tơi trong q trình học tập, nghiên cứu và hướng dẫn,
đóng góp ý kiến q báu cho tơi hồn thành luận văn thạc sĩ này.


Tơi xin chân thành cảm ơn Khoa Đào tạo Sau đại học Trường Đại học
Vinh, bạn bè, đồng nghiệp, sinh viên, gia đình và người thân đã động viên, giúp
đỡ và tạo điều kiện thuận lợi để tơi hồn thành khố học và hồn thành tốt luận
văn thạc sĩ của mình.
Vinh, tháng 09 năm 2012
Tác giả
Lê Thị Hoài Giang


3

MỤC LỤC
TT
A
B

NỘI DUNG
MỞ ĐẦU
NỘI DUNG

TRANG
1
9

Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN
DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG GIẢNG
DẠY MƠN NHỮNG NGUN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC
- LÊNIN PHẦN THỨ NHẤT Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG GIAO
THÔNG VẬN TẢI MIỀN TRUNG


9

1.1. Cơ sở lý luận của việc vận dụng phương pháp dạy học tích
cực trong giảng dạy môn “Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin” (phần thứ nhất) ở trường Cao đẳng Giao
thông vận tải Miền Trung

9

1.2. Cơ sở thực tiễn của việc vận dụng phương pháp dạy học
tích cực trong giảng dạy môn “Những nguyên lý cơ bản của
chủ nghĩa Mác - Lênin” (phần thứ nhất) ở trường Cao đẳng
Giao thông vận tải Miền Trung

43

Chương 2: THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM VẬN DỤNG PHƯƠNG
PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG GIẢNG DẠY MÔN NHỮNG
NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN PHẦN
THỨ NHẤT Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG GIAO THÔNG VẬN TẢI
MIỀN TRUNG

59

2.1. Kế hoạch thực nghiệm vận dụng phương pháp dạy học
tích cực trong giảng dạy mơn “Những ngun lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin” (phần thứ nhất) ở trường Cao đẳng Giao
thông vận tải Miền Trung
2.2. Tiến hành thực nghiệm vận dụng phương pháp dạy học
tích cực trong giảng dạy môn “Những nguyên lý cơ bản của

chủ nghĩa Mác - Lênin” (phần thứ nhất) ở trường Cao đẳng

59


4
Giao thông vận tải Miền Trung

61

Chương 3: ĐIỀU KIỆN VÀ GIẢI PHÁP VẬN DỤNG PHƯƠNG
PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG GIẢNG DẠY MÔN NHỮNG
NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN PHẦN
THỨ NHẤT Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG GIAO THÔNG VẬN TẢI
MIỀN TRUNG

86

3.1. Điều kiện thực hiện vận dụng phương pháp dạy học tích
cực trong giảng dạy mơn “Những nguyên lý cơ bản của chủ

86

nghĩa Mác - Lênin” (phần thứ nhất)
3.2. Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy hiệu quả vận
dụng phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy môn
“Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin” (phần
C
D
E


thứ nhất) ở trường Cao đẳng Giao thông vận tải Miền Trung
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

A. MỞ ĐẦU

90
105
107
110


5

1. Tính cấp thiết
Trong giai đoạn đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội
nhập quốc tế, nguồn lực con người Việt Nam càng trở nên có ý nghĩa quan
trọng, quyết định sự thành công của công cuộc phát triển đất nước. Giáo dục
ngày càng có vai trò và nhiệm vụ quan trọng trong việc đào tạo một thế hệ
người Việt Nam mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Ngày nay, giáo dục và đào tạo có vai trị góp phần tạo nên một thế hệ
người lao động có tri thức, có đạo đức, có bản lĩnh trung thực, có tư duy phê
phán, sáng tạo, có kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết vấn đề và kỹ năng nghề
nghiệp để làm việc hiệu quả trong mơi trường tồn cầu hóa vừa hợp tác vừa
cạnh tranh. Điều này địi hỏi phải có những thay đổi căn bản về giáo dục từ nội
dung, phương pháp dạy học đến việc xây dựng những môi trường giáo dục
lành mạnh và thuận lợi, giúp người học có thể chủ động, tích cực, kiến tạo kiến
thức, phát triển kỹ năng và vận dụng những điều đã học vào cuộc sống.

Một trong những nội dung trọng tâm của cải cách giáo dục nước ta là đổi
mới phương pháp dạy học, theo hướng vận dụng những phương pháp dạy học
tích cực vào giảng dạy. Phương pháp dạy học phải lấy học sinh làm trung tâm.
Vấn đề đổi mới phương pháp dạy học đã được cụ thể hóa trong các Nghị Quyết
của Đảng và trong Luật Giáo dục của nước ta. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: “Thực hiện đồng bộ các giải pháp phát
triển và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo. Đổi mới chương trình, nội
dung, phương pháp dạy và học, phương pháp thi kiểm tra theo hướng hiện đại;
… nâng cao năng lực sáng tạo, kỹ năng thực hành, tác phong công nghiệp, ý
thức trách nhiệm xã hội” [10; 216].
Thực hiện chiến lược đổi mới phương pháp dạy học, cùng với các cấp
học và ngành học trong cả nước. Trường Cao đẳng Giao thông vận tải Miền
Trung đang từng bước thực hiện đổi mới phương pháp dạy học theo hướng áp


6
dụng những phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy ở tất cả các chuyên
ngành. Tuy nhiên, một trong những nguyên nhân cản trở việc đổi mới phương
pháp dạy học đó là do các phương pháp dạy học truyền thống đã ăn sâu vào
tiềm thức của mỗi giảng viên nên rất khó thay đổi. Do năng lực vận dụng các
phương pháp dạy học tích cực của giảng viên cịn nhiều hạn chế. Do sinh viên
khơng có thói quen tự học, tự nghiên cứu tài liệu, sức ỳ và sự thụ động quá lớn.
Vì vậy, nhận thức được tầm quan trọng của việc đổi mới phương pháp dạy học
theo hướng vận dụng các phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy, để
nâng cao được chất lượng dạy học, nên chúng tôi chọn vấn đề “Vận
dụng phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy mơn Những ngun lý
cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin (phần thứ nhất) ở trường Cao đẳng Giao
Thông Vận Tải Miền Trung” làm đề tài nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu
Nhu cầu của sự phát triển xã hội đã đặt ra yêu cầu đối với ngành giáo

dục - đào tạo các nước phải thay đổi mạnh mẽ về phương pháp dạy học. Do đó,
phương pháp dạy học tích cực đã hình thành và phát triển ở nhiều quốc gia.
Vào những năm cuối thập kỉ 70 của thế kỉ XX phương pháp dạy học tích cực
đã được vận dụng vào giảng dạy ở nhiều nước trên thế giới. Liên Xô (cũ) là
một trong những nước khởi xướng về dạy học tích cực với lí thuyết nhận thức
và phương pháp dạy học nêu vấn đề (còn gọi là dạy học giải quyết vấn) đã
được xem là cuộc cách mạng về đổi mới phương pháp dạy học trong các loại
hình nhà trường. Sau đó, ở các nước Phương Tây, dạy học tích cực đã được
nghiên cứu và đưa vào giảng dạy, như phương pháp trải nghiệm, dạy học động
não, dạy học giải quyết vấn đề, dạy học tự phát hiện, dạy học dự án, thảo luận
nhóm.... Phương pháp dạy học tích cực cũng được các nước trong khu vực
Đông Nam Á tiếp cận khá sớm như Malaysia Singapore, Thailand, Indonesia
đã vận dụng phương pháp dạy học khám phá vào dạy trong các trường học.


7
Từ những năm 1960 ở Việt Nam vấn đề phát huy tính tích cực học tập
của học sinh đã được ngành giáo dục đặc biệt quan tâm. Trong cuộc cải cách
giáo dục lần thứ hai năm 1980 vấn đề phát huy tính tích cực được xem là một
trong các phương hướng cải cách giáo dục nước nhà, nhằm đào tạo những
người lao động sáng tạo, làm chủ đất nước. Tuy vậy, phương pháp dạy học ở
trường phổ thông và phương pháp đào tạo giáo viên ở trường sư phạm phổ biến
vẫn là cách dạy thông báo kiến thức “đọc - chép” hay còn được gọi là truyền thụ
một chiều. Phương pháp dạy học này dẫn đến sự thụ động của người học, nặng về
ghi nhớ lý thuyết, thiếu kỹ năng thực hành áp dụng. Như vậy, việc áp dụng
phương pháp dạy học tích cực ở các cấp học tại Việt Nam là rất cần thiết để
đáp ứng yêu cầu đổi mới đất nước hiện nay.
Liên quan đến vấn đề đổi mới phương pháp dạy học nói chung và
phương pháp dạy học các môn khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng
đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu, các bài báo, bài viết về vấn đề này. Có

những cơng trình nghiên cứu đã được xuất bản thành sách. Tác giả Đặng Vũ
Hoạt “Lý luận dạy học hiện đại”; PGS. TS. Đặng Thành Hưng “Dạy học hiện
đại”; tác giả Lê Đức Ngọc “Giáo dục đại học, phương pháp dạy và học”; tác
giả Phan Trọng Ngọ “Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường”; tác
giả Nguyễn Hữu Châu “Phương tiện, phương pháp và hình thức tổ chức dạy
học trong nhà trường” Nhà xuất bản Đại học Sư phạm Hà nội; tác giả Thái
Duy Tuyên “Những vấn đề cơ bản của giáo dục hiện đại” Nhà xuất bản giáo
dục, Hà nội năm 1998; tác giả Lê Nguyên Long “Thử đi tìm những phương
pháp dạy học hiệu quả”, Nhà xuất bản Hà nội năm 1999; Tiến sỹ Hà Thị Đức
(4/1995), Về vấn đề đổi mới phương pháp dạy học ở Đại học, Tạp chí nghiên cứu
giáo dục; tác giả Lương Gia Ban (chủ biên) “Góp phần nâng cao chất lượng
giảng dạy và đổi mới nội dung chương trình các mơn học Mác –Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh”, NXB Chính trị Quốc gia, Hà nội, 2002; tác giả Lê Hữu Ái
(2000), Giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy các môn học Mác - Lênin ở


8
các trường Đại học, Tạp chí nghiên cứu lý luận số 1; TS. Trần Đăng Sinh “Đổi
mới phương pháp dạy học triết học Mác – Lênin ở các trường Đại học và Cao
đẳng trong điều kiện hiện nay”, Tạp chí giáo dục số 185 năm 2008. Các cơng
trình khoa học nói trên đã nghiên cứu về vấn đề đổi mới phương pháp dạy học
nói chung và phương pháp dạy học các mơn lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
nói riêng. Các tác giả đã chỉ ra sự cần thiết phải đổi mới phương pháp dạy học
và nêu ra các phương pháp dạy học hiện đại được áp dụng vào giảng dạy để
nâng cao chất lượng dạy và học trong giai đoạn hiện nay.
Nghiên cứu về vấn đề đổi mới phương pháp dạy học theo hướng tích cực
có một số cơng trình tiêu biểu của các tác giả sau: tác giả Trần Bá Hoành
“Những đặc trưng của phương pháp dạy học tích cực”, Tạp chí Giáo dục số 32
tháng 6 năm 2002; tác giả Trần Bá Hồnh “Phương pháp tích cực” Tạp chí
giáo dục số 3 năm 1996; Thạc sỹ Lê Thị Nhung Tuyết “Vận dụng phương pháp

dạy học tích cực vào giảng dạy phần triết học trong chương trình chính trị ở
trường Cao đẳng Nghề Việt Đức Hà Tĩnh” luận văn thạc sỹ; Thạc sỹ Lê Thị
Huệ “Vấn đề vận dụng các phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy môn
giáo dục công dân ở trung học phổ thông” luận văn thạc sỹ; Thạc sỹ Phạm Thị
Thùy Dương “Đổi mới phương pháp dạy học triết học Mác – Lênin theo hướng
tích cực bồi dưỡng thế giới quan duy vật biện chứng cho sinh viên trường Cao
đẳng kinh tế - kế hoạch Đà nẵng hiện nay” luận văn thạc sỹ; Thạc sỹ Nguyễn
Thị Hồng Thư “Vận dụng phương pháp dạy học tích cực để dạy tốt phần
“Cơng dân với các vấn đề chính trị - xã hội” ở chương trình giáo dục cơng dân
lớp 11 THPT” (qua thực tế ở một số trường THPT ở Quỳnh Lưu – Nghệ An),
luận văn thạc sỹ; Thạc sỹ Phan Thị Tuyết Mai “Vận dụng phương pháp tổ
chức hoạt động tự học vào giảng dạy môn những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác – Lênin (phần thứ nhất) nhằm phát huy tính tích cực, sáng tạo của
sinh viên sư phạm ở trường Cao đẳng văn hóa nghệ thuật Nghệ An”, luận văn
thạc sỹ; Thạc sỹ Đào Thị Thúy “Vận dụng phương pháp thảo luận nhóm trong


9
giảng dạy môn học Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin (phần
một) nhằm phát huy tính tích cực của sinh viên ở trường Đại học Hà Tĩnh”, luận
văn thạc sỹ.
Như vậy, những bài viết và luận văn thạc sỹ nói trên đã đề cập đến vấn
đề vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực vào giảng dạy với nhiều
cách tiếp cận khác nhau. Từ đó đã cung cấp những vấn đề lý luận cơ bản trong
việc vận dụng một số phương pháp dạy học tích cực để nâng cao chất lượng
dạy và học. Việc chúng tôi lựa chọn vấn đề “vận dụng phương pháp dạy học
tích cực trong giảng dạy mơn những ngun lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin (phần thứ nhất) ở trường Cao đẳng Giao thông vận tải Miền Trung” làm
đề tài nghiên cứu nhằm bổ sung thêm về mặt lý luận dạy học theo hướng tích
cực vào giảng dạy mơn học này. Đồng thời góp phần nâng cao chất lượng dạy

và học đáp ứng yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học nói chung và đổi mới
phương pháp dạy học các môn lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn của việc vận dụng phương
pháp dạy học tích cực ở trường Cao đẳng Giao thơng vận tải Miền Trung. Từ
đó, đề xuất những điều kiện và giải pháp vận dụng phương pháp dạy học tích
cực trong giảng dạy môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin
(phần thứ nhất) ở trường Cao đẳng Giao thông vận tải Miền Trung nhằm nâng
cao chất lượng dạy học.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của việc vận dụng phương pháp dạy
học tích cực trong giảng dạy mơn “Những ngun lý cơ bản của chủ nghĩa Mác
– Lênin” (phần thứ nhất) ở trường Cao đẳng Giao thông vận tải Miền Trung.
- Khảo sát thực trạng dạy học và tiến hành thực nghiệm vận dụng
phương pháp dạy học tích cực trong giảng dạy môn “Những nguyên lý cơ bản


10
của chủ nghĩa Mác – Lênin” (phần thứ nhất) ở trường Cao đẳng Giao thông
vận tải Miền Trung.
- Đề xuất những điều kiện và giải pháp vận dụng phương pháp dạy học
tích cực trong giảng dạy mơn “Những ngun lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin” (phần thứ nhất) ở trường Cao đẳng Giao thông vận tải Miền Trung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vận dụng phương pháp dạy học tích cực
trong giảng dạy mơn “Những ngun lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin”
(phần thứ nhất) cho sinh viên ở trường Cao đẳng Giao thông vận tải Miền
Trung.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu vận dụng phương pháp dạy học tích cực vào
giảng dạy một số bài ở phần thứ nhất môn “Những nguyên lý cơ bản của chủ
nghĩa Mác - Lênin” qua khảo sát trực tiếp ở trường Cao đẳng Giao thông Vận
Tải Miền Trung.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở thế giới quan, phương pháp luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục; những quan
điểm của Đảng và Nhà nước về đổi mới Giáo dục và Đào tạo; tài liệu về lý
luận dạy học các bộ môn của chủ nghĩa Mác - Lênin; tài liệu về đổi mới
phương pháp dạy học nói chung và phương pháp dạy học tích cực nói riêng; tài
liệu hướng dẫn bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị và dựa trên kết quả của
những tác giả có cơng trình nghiên cứu liên quan đến đề tài thực hiện. Đồng
thời, đề tài được thực hiện trên cơ sở nội dung, chương trình mơn học “Những
ngun lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin” và giáo trình bộ mơn.


11
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp chủ yếu: phân tích - tổng hợp, lịch
sử - lôgic, so sánh - đối chiếu, thống kê, điều tra xã hội học.
6. Giả thuyết khoa học
Nếu có hệ thống các giải pháp phù hợp vận dụng phương pháp dạy học
tích cực trong giảng dạy thì sẽ nâng cao được chất lượng dạy học phần thứ nhất
môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin ở trường Cao đẳng
Giao Thông Vận Tải Miền Trung. Đồng thời, sẽ phát huy tính tích cực, chủ
động, tự giác, sáng tạo của sinh viên trong học tập, góp phần nâng cao được
chất lượng dạy học.
7. Đóng góp mới của đề tài

- Luận văn góp phần giải quyết những khó khăn trong việc đổi mới
phương pháp dạy học bộ môn lý luận chính trị trong các trường Cao đẳng, Đại
học hiện nay. Đồng thời, góp phần phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng
tạo của sinh viên trong học tập và nâng cao được chất lượng dạy và học bộ
môn lý luận chính trị ở các trường Cao đẳng, Đại học nói chung và mơn
“Những ngun lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin” nói riêng.
- Luận văn được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và
dạy học môn “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin” phần thứ
nhất ở trường Cao đẳng Giao Thơng Vận Tải Miền trung nói riêng và ở các
trường Cao đẳng, Đại học nói chung.
8. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc vận dụng phương pháp
dạy học tích cực trong giảng dạy môn “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin” (phần thứ nhất) ở trường Cao đẳng Giao Thông Vận Tải Miền
Trung.


12
Chương 2. Thực nghiệm sư phạm vận dụng phương pháp dạy học tích
cực trong giảng dạy mơn “Những ngun lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin” (phần thứ nhất) ở trường Cao đẳng Giao Thông Vận Tải Miền Trung.
Chương 3. Điều kiện và giải pháp vận dụng phương pháp dạy học tích
cực trong giảng dạy mơn “Những ngun lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin” (phần thứ nhất) ở trường Cao đẳng Giao Thông Vận Tải Miền Trung.


13
B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG

PHÁP DẠY HỌC TÍCH CỰC TRONG GIẢNG DẠY MÔN NHỮNG
NGUYÊN LÝ CƠ BẢN CỦA CHỦ NGHĨA MÁC - LÊNIN PHẦN THỨ
NHẤT Ở TRƯỜNG CAO ĐẲNG GIAO THÔNG VẬN TẢI MIỀN TRUNG
1.1. Cơ sở lý luận của việc vận dụng phương pháp dạy học tích cực
trong giảng dạy môn “Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin” (phần thứ nhất) ở trường Cao đẳng Giao Thơng vận tải Miền
Trung
1.1.1. Phương pháp dạy học tích cực và những đặc trưng của
phương pháp dạy học tích cực
1.1.1.1. Khái niệm phương pháp và phương pháp dạy học
- Khái niệm phương pháp:
Để đạt được hiệu quả cao nhất, con người phải cần đến sự hỗ trợ của
phương pháp. Phương pháp gắn liền với hoạt động có ý thức, phản ánh hoạt
động nhận thức và cải tạo thực tiễn của con người. Thuật ngữ phương pháp bắt
nguồn từ tiếng Hy lạp (methodos) có nghĩa là con đường đi đến mục đích.
Theo V.I.Lênin: “Trong nhận thức đang tìm tịi, phương pháp cũng là
cơng cụ, là một thủ đoạn đứng về phía chủ quan, qua thủ đoạn đó nó có quan
hệ với khách thể” [20; 237].
Như vậy theo chúng tôi, phương pháp là con đường, là công cụ nhận
thức, là cách thức để đạt tới mục tiêu trong hoạt động nhận thức và hoạt động
thực tiễn.
- Khái niệm phương pháp dạy học:


14
Thuật ngữ phương pháp bắt nguồn từ tiếng Hy lạp (methodos) có nghĩa
là con đường đi đến mục đích. Theo đó, phương pháp dạy học là con đường
để đạt mục đích dạy học.
Cho đến nay, vẫn chưa có sự thống nhất về định nghĩa phương pháp dạy
học. Sau đây là một số định nghĩa rộng về phương pháp dạy học.

Tác giả Nguyễn Văn Cường “Phương pháp dạy học là những hình thức
và cách thức hoạt động của giáo viên và học sinh trong những điều kiện dạy
học xác định nhằm đạt mục đích dạy học” [6; 69].
GS.TS. Nguyễn Hữu Vui: “Phương pháp giảng dạy, theo nghĩa rộng bao
hàm trong đó có cách thức hoạt động tác động của người dạy (chủ thể dạy –
người thầy) trực tiếp hoặc gián tiếp (qua các phương tiện như sách, nghe, nhìn,
… ) với người học (vừa là đối tượng của sự dạy, vừa là chủ thể học, tự học)
cùng nhằm thực hiện mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung dạy học” [4; 11].
Hay tác giả Nguyễn Thúy Hường thì cho rằng: “Phương pháp dạy học là
hệ thống những cách thức hoạt động (bao gồm các hành động và thao tác) của
giảng viên và sinh viên nhằm thực hiện tốt mục đích và nhiệm vụ dạy học xác
định” [18; 76].
Nhìn chung các tác giả đều thừa nhận phương pháp dạy học là cách thức
hành động của giáo viên và học sinh trong quá trình dạy học. Cách thức hành
động bao giờ cũng diễn ra trong những hình thức cụ thể. Cách thức và hình
thức khơng tách rời nhau một cách độc lập. Khái quát các quan niệm trên đây
ta có thể hiểu phương pháp dạy học bao gồm phương pháp giảng dạy (gọi tắt là
phương pháp dạy) và phương pháp học tập (gọi tắt là phương pháp học).
- Phương pháp dạy: là phương pháp tổ chức hoạt động nhận thức cho
người học, phương pháp điều khiển các hoạt động trí tuệ và thực hành như dạy
tự học (self – study based), dạy học kiểu tìm hiểu (enquiry based), dạy học giải
quyết vấn đề (problem solving based), phương pháp giáo dục ý thức và thái độ
đúng đắn cho sinh viên.


15
- Phương pháp học: là phương pháp tự điều khiển hoạt động nhận thức
và rèn luyện khả năng thu thập thơng tin để hình thành hệ thống tri thức và kỹ
năng thực hành, hình thành nhân cách của người học và đạt được mục tiêu học
tập.

Hai phương pháp này không tồn tại độc lập, không tách rời nhau mà liên
quan và phụ thuộc nhau, vừa là mục đích vừa là nguyên nhân tồn tại của nhau.
Từ sự thừa nhận phương pháp dạy học là cách thức hoạt động của giảng
viên, được thực hiện trong quá trình dạy học để tác động đến người học và việc
học của họ nhằm hướng dẫn họ học tập và giúp họ đạt mục tiêu học tập, đương
nhiên phải thừa nhận phương pháp dạy học tồn tại hiện thực trên lớp học, trong
quá trình dạy học thực tế, chứ không phải trên giấy, trên sách báo và bài giảng
ở trường sư phạm. Các phương pháp dạy học xuất hiện ở mỗi bài học, trong sự
tương tác giữa người dạy và người học, giữa họ và các yếu tố của mơi trường
dạy học lúc đó. Điều đó có nghĩa giảng viên cùng người học của mình tạo ra và
tiến hành phương pháp dạy học trên lớp, trong tiến trình bài học, trên cơ sở
thiết kế của mình hoặc thiết kế mượn của người khác. Cái có sẵn không phải là
phương pháp dạy học, mà là sự mơ tả, lí thuyết, mơ hình và cùng lắm là thiết
kế phương pháp dạy học.
Theo PGS.TS Đặng Thành Hưng thì mỗi phương pháp dạy học luôn cấu
thành từ 3 thành phần:
“Phần thứ nhất là Phương pháp luận dạy học - tức là lí thuyết phương
pháp dạy học, mơ hình lí thuyết của phương pháp dạy học, triết lí hay nguyên
tắc lí luận nào đó, được mơ tả, giải thích trong sách báo khoa học, ví dụ: lí
thuyết về các mơ hình thảo luận, lí thuyết dạy học kiến tạo, lí thuyết dạy học
chương trình hóa,… Đây là mơ hình lí luận của phương pháp dạy học, nó xác
định bản chất của phương pháp dạy học, làm cho phương pháp dạy học này
khác phương pháp dạy học kia.


16
Phần thứ hai là, hệ thống kỹ năng phù hợp để thực hiện phương pháp
luận này trong bài học với nội dung học vấn đặc trưng của lĩnh vực học tập đó
(bài học Tốn, Khoa học, Thể dục,… khác nhau thì phương pháp luận đó địi
hỏi những kỹ năng khác nhau) – chúng xác định với khả năng hành động thế

nào và bằng cách nào giáo viên có thể biến phương pháp luận đã chọn thành
phương thức tác động thật sự đến người học và quá trình học tập. Đây là mơ
hình tâm lí của phương pháp dạy học.
Phần thứ ba là những kĩ thuật, công cụ, phương tiện,… được sử dụng để
thực hiện các kỹ năng (thiếu chúng thì các kỹ năng không được thực thi) và
được tổ chức theo phương pháp luận đã chọn – phương pháp dạy học có thực
sự là phương pháp dạy học hay khơng là do phần vật chất này quyết định, vì
chỉ có phần này của phương pháp dạy học mới tác động đến người học và quá
trình học tập. Đây là hình thức vật chất của phương pháp dạy học, chẳng hạn
lời nói, chữ viết, tranh, ảnh, dụng cụ thí nghiệm, tài liệu media, hành vi giao
tiếp,...” [16; 10].
Sự tổ chức thống nhất của 3 phần này trong tư duy và trong hoạt động
vật chất mới tạo nên một phương pháp dạy học cụ thể. Riêng phần 1 chỉ là
phương pháp luận, phần 2 chỉ là kỹ năng dạy học, còn phần 3 chỉ là phương
tiện và kĩ thuật dạy học. Gộp cả 3 lại một cách tùy tiện thì khơng thành phương
pháp dạy học nào rõ ràng, mà phải tổ chức chúng theo một logic nhất định,
trước hết là logic trình bày nội dung bài học, mơn học như Tốn, Văn, Đạo
đức,… Nguyên tắc này tương tự như thiết kế nhà. Nhà có những phần nào thì
phải thiết kế những phần ấy. Đó là thiết kế kiến trúc và kiểu dáng, thiết kế cơng
trình và kết cấu, thiết kế cảnh quan và nội thất, v.v…
Do đó, trong dạy học yêu cầu để thiết kế phương pháp dạy học theo
hướng tích cực hóa trên cơ sở vận dụng các phương pháp dạy học tích cực địi
hỏi người giảng viên phải phối hợp một cách nhuần nhuyễn và lôgic cả ba


17
thành phần trên thì mới có một phương pháp dạy học tối ưu nhất, đạt được mục
tiêu học tập.
1.1.1.2. Phương pháp dạy học tích cực
Mục tiêu của đổi mới phương pháp dạy học hiện nay ở nước ta là phát

huy tính tích cực của học sinh, sinh viên.
Vậy hiểu thế nào là tính tích cực, tích cực học tập và phương pháp dạy
học tích cực.
- Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người trong đời sống xã
hội. Khác với động vật, con người không chỉ tiêu thụ những gì sẵn có trong
thiên nhiên mà cịn chủ động, bằng lao động, sản xuất ra những của cải vật chất
cần cho sự tồn tại của xã hội, sáng tạo ra nền văn hóa ở mỗi thời đại. Hình
thành và phát triển tính tích cực xã hội đó là một trong các nhiệm vụ chủ yếu
của giáo dục nhằm đào tạo những con người năng động, thích ứng và góp phần
phát triển cộng đồng. Có thể xem tính tích cực như là một điều kiện, đồng thời
là một kết quả của sự phát triển nhân cách trong qúa trình giáo dục.
- Tích cực trong học tập
Theo tác giả Đậu Thị Hịa: "Tích cực trong học tập có nghĩa là hồn
thành một cách chủ động, tự giác, có nghị lực, có hướng đích rõ rệt, có sáng
kiến và đầy hào hứng, những hành động trí óc và tay chân nhằm nắm vững
kiến thức, kĩ năng, kĩ xảo, vận dụng chúng vào học tập và thực tiễn." [11; 102103].
Tính tích cực học tập về thực chất là tính tích cực nhận thức, đặc trưng ở
khát vọng hiểu biết, cố gắng trí lực và có nghị lực cao trong qúa trình chiếm
lĩnh tri thức. Tính tích cực nhận thức trong hoạt động học tập liên quan trước
hết với động cơ học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của
tự giác. Hứng thú và tự giác là hai yếu tố tạo nên tính tích cực. Tính tích cực
sản sinh nếp tư duy độc lập. Suy nghĩ độc lập là mầm mống của sáng tạo.
Ngược lại, phong cách học tập tích cực, độc lập sáng tạo sẽ phát triển tự giác,


18
hứng thú, bồi dưỡng động cơ học tập. Tính tích cực học tập biểu hiện ở những
dấu hiệu như: hăng hái trả lời các câu hỏi của giáo viên, bổ sung các câu trả lời
của bạn, thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra; hay nêu thắc
mắc, địi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ; chủ động vận dụng

kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới; tập trung chú ý vào vấn đề
đang học; kiên trì hồn thành các bài tập, khơng nản trước những tình huống
khó khăn…
Tính tích cực học tập thể hiện qua các cấp độ từ thấp đến cao như:
Bắt chước: gắng sức làm theo mẫu hành động của thầy, của bạn…
Tìm tịi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm cách giải quyết khác
nhau về một số vấn đề…
Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.
- Phương pháp dạy học tích cực
Các nhà khoa học, nhà giáo dục trong và ngoài nước đã đưa ra rất nhiều
quan niệm khác nhau về phương pháp dạy học tích cực, nhằm phát huy tính
tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.
Trong Bách khoa toàn thư mở Wikipedia tiếng Việt (phương pháp dạy
học) có viết: “Phương pháp giáo dục tích cực: Học viên tự tìm ra kiến thức
bằng hành động thao tác... giáo viên đối thoại với học viên, giáo viên hợp tác
và trao đổi với học viên và giáo viên khẳng định kiến thức do học viên tìm ra.
Học sinh học cách học, cách đặt vấn đề và giải quyết vấn đề, cách sống và
trưởng thành. Học sinh tự đánh giá và điều chỉnh làm cơ sở cho giáo viên cho
điểm cơ động” [3; 1].
Theo PGS - TS. Vũ Hồng Tiến: “Phương pháp dạy học tích cực là một
thuật ngữ rút gọn, được dùng ở nhiều nước để chỉ những phương pháp giáo
dục, dạy học theo hướng phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người
học. Phương pháp dạy học tích cực hướng vào việc hoạt động hóa, tích cực hóa
hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích


19
cực của người học chứ không phải tập trung vào phát huy tính tích cực của
người dạy. Tuy nhiên, để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải
nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động” [32; 1].

Tác giả Nguyễn Kỳ trong cuốn: “Thiết kế bài học theo phương pháp tích
cực” đã viết: “Thầy tự nguyện từ bỏ vai trị chủ thể… Thầy giáo khơng cịn là
người truyền đạt tri thức có sẵn, cung cấp chân lý có sẵn mà là người định
hướng, đạo diễn cho học sinh tự mình khám phá ra kiến thức cùng với cách tìm
ra kiến thức” [19; 14-15].
Cịn tác giả Đỗ Ngọc Đạt cho rằng: “trong phương pháp tích cực người
được giáo dục trở thành người tự giáo dục, là nhân vật tự nguyện có ý thức về sự
giáo dục của bản thân” [8; 80].
Tác giả Đậu Thị Hòa cho rằng: “Phương pháp dạy học tích cực là những
phương pháp dạy học theo hướng phát huy tính chủ động, độc lập và sáng tạo,
hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người
học…” [11; 102].
Trong sổ tay phương pháp giảng dạy và đánh giá của trường Đại học
Nha Trang có nêu phương pháp giảng dạy được gọi là tích cực nếu hội tụ được
các yếu tố sau: Thể hiện rõ vai trị của nguồn thơng tin và các nguồn lực sẵn có.
Thể hiện rõ được động cơ học tập của người học khi bắt đầu môn học. Thể hiện
rõ được bản chất và mức độ kiến thức cần huy động. Thể hiện rõ được vai trò
của người học, người dạy, vai trò của các mối tương tác trong quá trình học.
Thể hiện được kết quả mong đợi của người học [29; 7].
Như vậy, các quan điểm trên đây đều cho rằng phương pháp dạy học tích
cực là phương pháp hướng vào phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của
người học.
Cịn theo chúng tơi, phương pháp dạy học tích cực là sự kết hợp những
yếu tố tích cực của các phương pháp dạy học cụ thể, nhằm phát huy tính tích


20
cực, chủ động, sáng tạo của người học trong quá trình học tập và chiếm lĩnh tri
thức dưới sự hướng dẫn, chỉ đạo của giáo viên.
Vậy, phương pháp dạy học tích cực khác gì so với phương pháp dạy học

thụ động.
"Tích cực" trong phương pháp dạy học - tích cực được dùng với nghĩa là
hoạt động, chủ động, trái nghĩa với không hoạt động, thụ động chứ không dùng
theo nghĩa trái với tiêu cực.
Phương pháp dạy học tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực
hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính
tích cực của người học chứ khơng phải là tập trung vào phát huy tính tích cực
của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên
phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.
Muốn đổi mới cách học phải đổi mới cách dạy. Cách dạy chỉ đạo cách
học, nhưng ngược lại thói quen học tập của trị cũng ảnh hưởng tới cách dạy
của thầy. Chẳng hạn, có trường hợp học sinh địi hỏi cách dạy tích cực hoạt
động nhưng giáo viên chưa đáp ứng được, hoặc có trường hợp giáo viên hăng
hái áp dụng phương pháp dạy học tích cực nhưng khơng thành cơng vì học
sinh chưa thích ứng, vẫn quen với lối học tập thụ động. Vì vậy, giáo viên phải
kiên trì dùng cách dạy hoạt động để dần dần xây dựng cho học sinh phương
pháp học tập chủ động một cách vừa sức, từ thấp lên cao. Trong đổi mới
phương pháp dạy học phải có sự hợp tác cả của thầy và trò, sự phối hợp nhịp
nhàng hoạt động dạy với hoạt động học thì mới thành cơng. Như vậy, việc
dùng thuật ngữ "Dạy và học tích cực" để phân biệt với "Dạy và học thụ động".
Ngoài những khái niêm chúng tôi dẫn ra ở trên, hiên cũng đang có nhiề u
̣
̣
nhà khoa học, nhà giáo dục, nhiề u luâ ̣n án, luâ ̣n văn, khóa luâ ̣n các ngành khoa
học, các chuyên ngành giáo dục khác tập trung làm rõ. Mỗi khái niêm tuy có
̣
những cách tiế p câ ̣n và có sự khác nhau về cách diễn đa ̣t, song tựu chung la ̣i đề u


21

khẳ ng đinh, phương pháp dạy học tích cực là nhằ m phát huy tinh tích cực, chủ
̣
́
đơ ̣ng, sáng tạo của người học.
- Mối quan hệ giữa dạy và học, tích cực với dạy học lấy học sinh làm
trung tâm.
Từ thập kỉ cuối cùng của thế kỷ XX, các tài liệu giáo dục ở nước ngoài
và trong nước, một số văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo thường nói tới việc
cần thiết phải chuyển dạy học lấy giáo viên làm trung tâm sang dạy học lấy học
sinh làm trung tâm. Dạy học lấy học sinh làm trung tâm cịn có một số thuật
ngữ tương đương như: dạy học tập trung vào người học, dạy học căn cứ vào
người học, dạy học hướng vào người học… Các thuật ngữ này có chung một
nội hàm là nhấn mạnh hoạt động học và vai trò của học sinh trong qúa trình
dạy học, khác với cách tiếp cận truyền thống lâu nay là nhấn mạnh hoạt động
dạy và vai trò của giáo viên. Tác giả Trầ n Hồ ng Quân cho rằng: Muố n đào ta ̣o
đươ ̣c con người khi vào đời là con người tự chủ, năng đô ̣ng, sáng tạo thì
phương pháp giảng dạy cũng phải hướng vào viê ̣c khơi dâ ̣y, rèn luyê ̣n và phát
triển khả năng nghi ̃ và làm mô ̣t cách tự chủ, năng đô ̣ng, sáng tạo ngay trong lao
động, học tập ở nhà trường. Phương pháp nói trên trong khoa học giáo dục
thuô ̣c về hê ̣ thố ng các phương pháp giảng dạy tích cực lấ y người học làm trung
tâm. Hay, tác giả Nguyễn Kỳ khẳng định: “… Phương pháp lấy học sinh làm
trung tâm, người học giữ vai trị chủ động, tích cực trong q trình học tập và
khơng cịn ở thể thụ động như khi dùng phương pháp sư phạm cổ truyền…”
[19; 3].
Lịch sử phát triển giáo dục cho thấy, trong nhà trường một thầy dạy cho
một lớp đơng học trị, cùng lứa tuổi và trình độ tương đối đồng đều thì giáo
viên khó có điều kiện chăm lo cho từng học sinh nên đã hình thành kiểu dạy
"thông báo - đồng loạt". Giáo viên quan tâm trước hết đến việc hồn thành
trách nhiệm của mình là truyền đạt cho hết nội dung quy định trong chương
trình và sách giáo khoa, cố gắng làm cho mọi học sinh hiểu và nhớ những điều



22
giáo viên giảng. Cách dạy này đẻ ra cách học tập thụ động, thiên về ghi nhớ, ít
chịu suy nghĩ, cho nên đã hạn chế chất lượng, hiệu quả dạy và học, không đáp
ứng yêu cầu phát triển năng động của xã hội hiện đại. Để khắc phục tình trạng
này, các nhà sư phạm kêu gọi phải phát huy tính tích cực chủ động của học
sinh, thực hiện "dạy học phân hóa" quan tâm đến nhu cầu, khả năng của mỗi cá
nhân học sinh trong tập thể lớp. Phương pháp dạy học tích cực, dạy học lấy học
sinh làm trung tâm ra đời từ bối cảnh đó.
Trên thực tế, trong qúa trình dạy học người học vừa là đối tượng của
hoạt động dạy, lại vừa là chủ thể của hoạt động học. Thông qua hoạt động học,
dưới sự chỉ đạo của thầy, người học phải tích cực chủ động cải biến chính mình
về kiến thức, kĩ năng, thái độ, hồn thiện nhân cách, khơng ai làm thay cho
mình được. Vì vậy, nếu người học không tự giác chủ động, không chịu học,
khơng có phương pháp học tốt thì hiệu quả của việc dạy sẽ rất hạn chế.
Như vậy, khi đã coi trọng vị trí hoạt động và vai trị của người học thì
đương nhiên phải phát huy tính tích cực chủ động của người học. Tuy nhiên,
dạy học lấy học sinh làm trung tâm không phải là một phương pháp dạy học cụ
thể. Đó là một tư tưởng, quan điểm giáo dục, một cách tiếp cận quá trình dạy
học chi phối tất cả qúa trình dạy học về mục tiêu, nội dung, phương pháp,
phương tiện, tổ chức, đánh giá… chứ không phải chỉ liên quan đến phương
pháp dạy và học.
- Đặc trưng của các phương pháp dạy học tích cực.
+ Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động học tập của học sinh.
Trong phương pháp dạy học tích cực, người học - đối tượng của hoạt
động "dạy", đồng thời là chủ thể của hoạt động "học" - được cuốn hút vào các
hoạt động học tập do giáo viên tổ chức và chỉ đạo, thơng qua đó tự lực khám
phá những điều mình chưa rõ chứ khơng phải thụ động tiếp thu những tri thức
đã được giáo viên sắp đặt. Được đặt vào những tình huống của đời sống thực

tế, người học trực tiếp quan sát, thảo luận, làm thí nghiệm, giải quyết vấn đề


23
đặt ra theo cách suy nghĩ của mình, từ đó nắm được kiến thức kĩ năng mới, vừa
nắm được phương pháp "làm ra" kiến thức, kĩ năng đó, khơng rập theo những
khn mâu sẵn có, được bộc lộ và phát huy tiềm năng sáng tạo. Dạy theo cách
này thì giáo viên không chỉ giản đơn truyền đạt tri thức mà cịn hướng dẫn
hành động. Chương trình dạy học phải giúp cho từng học sinh biết hành động
và tích cực tham gia các chương trình hành động của cộng đồng.
+ Dạy và học chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
Phương pháp tích cực xem việc rèn luyện phương pháp học tập cho học
sinh không chỉ là một biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục
tiêu dạy học.
Trong xã hội hiện đại đang biến đổi nhanh - với sự bùng nổ thông tin,
khoa học, kĩ thuật, cơng nghệ phát triển như vũ bão - thì khơng thể nhồi nhét
vào đầu óc học sinh khối lượng kiến thức ngày càng nhiều. Phải quan tâm dạy
cho học sinh phương pháp học ngay từ bậc Tiểu học và càng lên bậc học cao
hơn càng phải được chú trọng.
Trong các phương pháp học thì cốt lõi là phương pháp tự học. Nếu rèn
luyện cho người học có được phương pháp, kĩ năng, thói quen, ý chí tự học thì
sẽ tạo cho họ lòng ham học, khơi dậy nội lực vốn có trong mỗi con người, kết
quả học tập sẽ được nhân lên gấp bội. Vì vậy, ngày nay người ta nhấn mạnh
mặt hoạt động học trong qúa trình dạy học, nỗ lực tạo ra sự chuyển biến từ học
tập thụ động sang tự học chủ động, đặt vấn đề phát triển tự học ngay trong
trường phổ thông, không chỉ tự học ở nhà sau bài lên lớp mà tự học cả trong
tiết học có sự hướng dẫn của giáo viên.
+ Tăng cường học tập cá thể, phối hợp với học tập hợp tác.
Trong một lớp học mà trình độ kiến thức, tư duy của học sinh không thể
đồng đều tuyệt đối thì khi áp dụng phương pháp tích cực buộc phải chấp nhận

sự phân hóa về cường độ, tiến độ hoàn thành nhiệm vụ học tập, nhất là khi bài
học được thiết kế thành một chuỗi công tác độc lập. Áp dụng phương pháp tích


24
cực ở trình độ càng cao thì sự phân hóa này càng lớn. Việc sử dụng các phương
tiện công nghệ thông tin trong nhà trường sẽ đáp ứng yêu cầu cá thể hóa hoạt
động học tập theo nhu cầu và khả năng của mỗi học sinh.
Tuy nhiên, trong học tập, không phải mọi tri thức, kĩ năng, thái độ đều
được hình thành bằng những hoạt động độc lập cá nhân. Lớp học là mơi trường
giao tiếp thầy - trị, trị - trò, tạo nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá nhân trên
con đường chiếm lĩnh nội dung học tập. Thông qua thảo luận, tranh luận trong
tập thể, ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định hay bác bỏ, qua đó người
học nâng mình lên một trình độ mới. Bài học vận dụng được vốn hiểu biết và
kinh nghiệm sống của người thầy giáo.
Trong nhà trường, phương pháp học tập hợp tác được tổ chức ở cấp
nhóm, tổ, lớp hoặc trường. Được sử dụng phổ biến trong dạy học là hoạt động
hợp tác trong nhóm nhỏ 4 đến 6 người. Học tập hợp tác làm tăng hiệu quả học
tập, nhất là lúc phải giải quyết những vấn đề gay cấn, lúc xuất hiện thực sự nhu
cầu phối hợp giữa các cá nhân để hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong hoạt động
theo nhóm nhỏ sẽ khơng thể có hiện tượng ỷ lại; tính cách năng lực của mỗi
thành viên được bộc lộ, uốn nắn, phát triển tình bạn, ý thức tổ chức, tinh thần
tương trợ. Mơ hình hợp tác trong xã hội đưa vào đời sống học đường sẽ làm
cho các thành viên quen dần với sự phân công hợp tác trong lao động xã hội.
Trong nền kinh tế thị trường đã xuất hiện nhu cầu hợp tác xuyên quốc
gia, liên quốc gia; năng lực hợp tác phải trở thành một mục tiêu giáo dục mà
nhà trường phải chuẩn bị cho học sinh.
+ Kết hợp đánh giá của thầy với tự đánh giá của trò.
Trong dạy học, việc đánh giá học sinh khơng chỉ nhằm mục đích nhận
định thực trạng và điều chỉnh hoạt động học của trò mà còn đồng thời tạo điều

kiện nhận định thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của thầy.
Trước đây, giáo viên giữ độc quyền đánh giá học sinh. Trong phương
pháp tích cực, giáo viên phải hướng dẫn học sinh phát triển kĩ năng tự đánh giá


25
để tự điều chỉnh cách học. Liên quan với điều này, giáo viên cần tạo điều kiện
thuận lợi để học sinh được tham gia đánh giá lẫn nhau. Tự đánh giá đúng và
điều chỉnh hoạt động kịp thời là năng lực rất cần cho sự thành đạt trong cuộc
sống mà nhà trường phải trang bị cho học sinh.
Theo hướng phát triển các phương pháp tích cực để đào tạo những con
người năng động, sớm thích nghi với đời sống xã hội, thì việc kiểm tra, đánh
giá khơng thể dừng lại ở yêu cầu tái hiện các kiến thức, lặp lại các kĩ năng đã
học mà phải khuyến khích trí thơng minh, óc sáng tạo trong việc giải quyết
những tình huống thực tế.
Với sự trợ giúp của các thiết bị kĩ thuật, kiểm tra đánh giá sẽ khơng cịn
là một cơng việc nặng nhọc đối với giáo viên, mà lại cho nhiều thông tin kịp
thời hơn để linh hoạt điều chỉnh hoạt động dạy, chỉ đạo hoạt động học.
Từ dạy và học thụ động sang dạy và học tích cực, giáo viên khơng cịn
đóng vai trị đơn thuần là người truyền đạt kiến thức, giáo viên trở thành người
thiết kế, tổ chức, hướng dẫn các hoạt động độc lập hoặc theo nhóm nhỏ để học
sinh tự lực chiếm lĩnh nội dung học tập, chủ động đạt các mục tiêu kiến thức,
kĩ năng, thái độ theo yêu cầu của chương trình. Trên lớp, học sinh hoạt động là
chính, giáo viên có vẻ nhàn nhã hơn nhưng trước đó, khi soạn giáo án, giáo
viên đã phải đầu tư công sức, thời gian rất nhiều so với kiểu dạy và học thụ
động mới có thể thực hiện bài lên lớp với vai trò là người gợi mở, xúc tác, động
viên, cố vấn, trọng tài trong các hoạt động tìm tịi hào hứng, tranh luận sơi nổi
của học sinh. Giáo viên phải có trình độ chun mơn sâu rộng, có trình độ sư
phạm lành nghề mới có thể tổ chức, hướng dẫn các hoạt động của học sinh mà
nhiều khi diễn biến ngoài tầm dự kiến của giáo viên.

Có thể so sánh đặc trưng của phương pháp dạy học truyền thống và
phương pháp dạy học tích cực như sau:


×