Tải bản đầy đủ (.pdf) (73 trang)

Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh an giang giai đoạn 2016 2019

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (550.49 KB, 73 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
------------

ĐẶNG THỊ KIM MINH

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH AN GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CƠNG

Hà Nội - 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
------------

ĐẶNG THỊ KIM MINH

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG
CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH AN GIANG
Ngành: Chính sách cơng
Mã số: 8 34 04 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. NGUYỄN ĐÌNH HỊA


Hà Nội - 2021


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chính quyền cấp xã, phường, thị trấn (hay cịn gọi là chính quyền cấp
xã) có vị trí hết sức quan trọng trong hệ thống chính trị - hành chính. Là cầu
nối trực tiếp của hệ thống chính quyền nhà nước với nhân dân, thực hiện hoạt
động quản lý nhà nước trên các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, xóa đói,
giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống tinh thần và vật chất, an ninh trật
tự, an toàn xã hội ở địa phương theo thẩm quyền được phân cấp, đảm bảo cho
các chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước,
được triển khai và thực hiện vào thực tiễn của cuộc sống.
Đảng và Nhà nước ta đã xác định công tác cán bộ là khâu quan trọng
nhất, có ý nghĩa quyết định tới chất lượng và hiệu quả công việc, là khâu then
chốt trong sự nghiệp cách mạng, là một trong những yếu tố quan trọng góp
phần vào những thành công trong sự nghiệp đổi mới đất nước, đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Lúc sinh thời Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
từng khẳng định Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của
mọi vấn đề, gốc có tốt thì ngọn mới tốt” [33, tr. 505];
Như vậy, đội ngũ cán bộ, cơng chức cấp xã có vai trị hết sức quan
trọng trong xây dựng và hoàn thiện bộ máy chính quyền cơ sở, trong hoạt
động thi hành cơng vụ. Hiệu lực, hiệu quả của bộ máy chính quyền cấp xã nói
riêng và hệ thơng chính trị nói chung, xét đến cùng được quyết định bởi phẩm
chất, năng lực và hiệu quả công tác của đội ngũ ngũ cán bộ, cơng chức cấp xã.
Vì vậy, trong giai đoạn đất nước đang đổi mới và phát triển chúng ta rất cần đội
ngũ ngũ cán bộ, cơng chức cấp xã có bản lĩnh chính trị vững vàng, có trình độ
văn hóa, chun mơn nghiệp vụ cao, có đạo đức lối sống trong sạch, có trí tuệ,
năng lực để thực thi chức năng, nhiệm hiệm vụ theo đúng pháp luật, bảo vệ lợi
ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức và phục vụ nhân dân... là một trong những

nhiệm vụ trọng tâm của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị.

1


Để thực hiện tốt mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã
theo theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trong thời gian qua, cơng tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh An Giang đã
tập trung phát triển kinh tế - xã hội của địa phương theo hướng đô thị hóa, tập
trung thực hiện các cơng trình, dự án trọng điểm gắm với thực hiện tốt
chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới để tạo điều kiện thu
hút khách du lịch trong và ngoài nước đến địa phương tham quan, nghĩ dưỡng
vì mục tiêu Nghị quyết đại hội Đảng bộ của tỉnh An Giang đề ra lấy lấy phát
triển du lịch làm ngành kinh tế mũi nhọn. Vì vậy, cơng tác kiện tồn củng cố,
kiện tồn bộ máy tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động của chính quyền
cấp xã nói chung và đội ngũ cán bộ, cơng chức cấp nói riêng là một nhiệm vụ
hết sức quan trọng.
Để thực hiện tốt các nhiệm vụ trọng tâm mà Nghị quyết của Tỉnh An
Giang đề ra trong những năm qua các Sở, ban, ngành, cấp huyện, cấp xã
thường xuyên củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, cơng
chức, viên chức nói chung và cán bộ, cơng chức cấp xã nói riêng như tham
mưu Ủy ban nhân dân tỉnh ban hành nhiều chính sách quan trọng như về
chính sách bổ nhiệm, chính sách tuyển dụng, chính sách nghỉ việc và chính
sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức, viên chức trong tồn tỉnh….
Việc Ủy ban nhân tỉnh trong những năm qua đã ban hành nhiều chính
sách ưu đãi cho cán bộ, cơng chức, viên chức trong tỉnh đã góp phần tạo động
lực thúc đẩy cho cán bộ, công chức, viên chức thực hiện tốt các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước, các nội quy, quy
chế của cơn quan đơn vị, thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, góp phần xây
dựng bộ máy chính quyền ở địa phương ngày càng trong sạch, vững mạnh.

Cụ thể như chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức trong
toàn tỉnh được ban hành, các Sở, ban, ngành tổ chức triển khai thực hiện đồng
bộ các giải pháp và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức

2


nói chung và cán bộ, cơng chức cấp xã của tỉnh nói riêng, đến nay trình độ
của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và cán bộ, công chức cấp xã đã có
những chuyển biến rõ nét. Chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ngày
càng được nâng lên, đáp ứng tốt hơn yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã còn bộc lộ một số hạn chế, yếu kém. Cụ thể là công tác đào
tạo, bồi dưỡng chưa gắn với yêu cầu, tiêu chuẩn và quy hoạch sử dụng cán bộ,
chất lượng và hiệu quả đào tạo, bồi dưỡng chưa cao; năng lực lãnh đạo của
các cấp ủy đảng, hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước không cao, trình độ
năng lực, tinh thần trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, công chức chưa đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ. Việc cử cán bộ, cơng chức đi học cịn nhiều bất cập,
học không đúng chuyên ngành do cơ chế hợp thức hóa bằng cấp. Đào tạo phụ
thuộc vào “cung” của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng trong hệ thống mà chưa
quan tâm đúng mức đến nhu cầu thực tế, cũng như sự cần thiết phải nâng cao
kỹ năng thực hiện công việc của cán bộ, công chức. Chương trình đào tạo, bồi
dưỡng chưa thực sự khoa học, hợp lý, thiếu sâu sát với nhu cầu của người học
và chưa phù hợp với tình hình thực tế địa phương; cơng tác quản lý đào tạo,
bồi dưỡng cịn nhiều bất cập. Công tác quản lý, kiểm tra, sát hạch trong cơng
tác đào tạo, bồi dưỡng cịn nhiều bất cập và khá hình thức; việc đánh giá, sử
dụng cán bộ sau đào tạo chưa tốt nên chưa phát huy được chuyên môn, ngành
nghề được đào tạo…
Để khắc phục những hạn chế trên, đòi hỏi Đảng bộ, Ủy ban nhân dân
các cấp của tỉnh An Giang cần tăng cường công tác đổi mới và nâng cao chất

lượng đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã thông qua làm tốt
việc thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức cấp xã; trên
cơ sở đó, xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức cấp xã vừa có đức, vừa có tài,
cơ cấu hợp lý, có tư duy nhanh nhạy, đủ khả năng nhận thức các quy luật
khách quan và vận dụng sáng tạo để xử lý hiệu quả các tình huống thực tiễn

3


trên địa bàn. Góp phần giải quyết vấn đề đó, tơi chọn đề tài “Thực hiện chính
sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh An Giang
giai đoạn 2016 - 2019” làm nội dung nghiên cứu trong luận văn thạc sĩ chính
sách cơng của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm qua, Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản có liên
quan đến cơng tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức, viên chức nói chung
và cán bộ, cơng chức cấp xã nói riêng như Luật số: 22/2008/QH12 của Quốc
hội ngày 13/11/2008 về Cán bộ, công chức; Nghị định số 18/2010/NĐ-CP
ngày 05/3/ 2010 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức; Quyết định
số 03/2004/QĐ-TTg ngày 7/1/2004 phê duyệt định hướng quy hoạch đào tạo,
bồi dưỡng CBCC cấp xã, phường, thị trấn đến năm 2010; Nghị định số
92/2009/NĐ-CP ngày 22/10/2009 của chính phủ về chức danh, số lượng, một
số chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức xã, thị trấn, và những người
hoạt động không chuyên trách ở cấp xã, Hà Nội; Nghị định số 112/2011/NĐCP ngày 05/12/ 2011 của Chính phủ về cơng chức xã, phường, thị trấn; Nghị
định số 36/2013/NĐ-CP ngày 22/4/2013 của Chính phủ quy định về vị trí việc
làm và cơ cấu ngạch công chức; Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày
01/09/2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên
chức; Nghị định số 34/2019/NĐ-CP, sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị
định 92/2009/NĐ-CP ngày 22/1/2009 của Chính phủ về chức danh, số lượng,
một số chế độ, chính sách đối với CB,CC ở xã, phường, thị trấn và những

người hoạt động không chuyên trách ở cấp xã; sửa đổi, bổ sung một số điều
của Nghị định 112/2011/NĐ-CP ngày 5/12/2011 của Chính phủ về Cơng chức
cấp xã, phường, thị trấn…..Từ những chính sách trên các nhà khoa học trong
và ngồi nước, đến nay đã có nhiều cơng trình, đề tài nghiên cứu về thực hiện
chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC nhằm xây dựng bộ máy chính quyền
văn minh hiện đại trong giai đoạn hiện nay cụ thể như:

4


Đề tài KH-BD (2008) Xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
người Khmer ở xã, phường, thị trấn khu vực Tây Nam Bộ, do tác giả Nguyễn
Thái Hồ, Phó vụ trưởng Vụ địa phương III, Ban Tổ chức Trung ương làm
chủ nhiệm; Đề tài khoa học cấp nhà nước thuộc nhóm KX.04.09 của Bộ Nội
vụ Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức đáp ứng yêu cầu của Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa do Thang Văn Phúc làm chủ nhiệm (2009). Nhìn
chung, các cơng trình trên đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn
liên quan đến việc xây dựng đội ngũ cán bộ, cơng chức trong bối cảnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Bên cạnh đó, có thể kể đến các cơng trình: Hỏi đáp về quản lý cán bộ
cơng chức cấp xã, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013 do Nguyễn Thị
Hồng Hải chủ biên; cuốn Đào tạo, bồi dưỡng phát triển nguồn nhân lực trong
khu vực công, Nxb Lao động, Hà Nội, 2014 do Ngô Thanh Can chủ biên.
Trong cuốn Nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã
(Qua khảo sát ở đồng bằng sơng Hồng), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
2007, tác giả Nguyễn Thị Tuyết Mai đã phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến
năng lực tổ chức thực tiễn của cán bộ chủ chốt cấp xã và khảo sát, đánh giá
thực trạng năng lực của cán bộ chủ chốt cấp xã khu vực đồng bằng sông Hồng;
trên cơ sở đó, đề xuất các giải pháp nâng cao năng lực tổ chức thực tiễn của cán
bộ cấp xã [52 ]. Đề tài cấp Bộ - Bộ Nội vụ với tiêu đề Nghiên cứu xây dựng

quy hoạch đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn
khu vực đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2007 - 2015” (2009), do Vũ
Văn Khoan làm chủ nhiệm, đã làm rõ những vấn đề liên quan đến công tác
quy hoạch đào tạo, đây được coi là kim chỉ nam cho q trình thực hiện các
chính sách liên quan đến đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của một địa phương cụ
thể [80].
Luận văn Thạc sĩ Luật học: “Đào tạo nguồn cán bộ, công chức cấp xã
và việc sử dụng sau đào tạo tại Thành phố Hồ Chí Minh” của Trần Duy Hưng

5


đã làm rõ các vấn đề liên quan đến đào tạo nguồn CB,CC cấp xã và việc sử
dụng đội ngũ này sau đào tạo; hệ thống hóa các quy định của pháp luật về đào
tạo nguồn CB,CC cấp xã và các quy định có liên quan đến CB,CC cấp xã sau
đào tạo; đã đánh giá thực trạng việc đào tạo nguồn CB,CC cấp xã và việc sử
dụng nguồn cán bộ sau đào tạo của Thành phố Hồ Chí Minh; đồng thời đề
xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về đào tạo nguồn CB,CC cấp
xã cũng như các giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nhân lực sau đào tạo.
Luận văn thạc sĩ kinh tế: “Đào tạo, bồi dưỡng công chức trong nền
kinh tế thị trường ở nước ta (qua thực tiễn ở Thành phố Hà Nội)” của Tạ
Quang Ngải đã làm rõ một số vấn đề về đào tạo, bồi dưỡng công chức trong
nền kinh tế thị trường ở nước ta; đánh giá thực trạng đào tạo, bồi dưỡng công
chức qua thực tiễn ở Thành phố Hà Nội trong 10 năm. Luận văn cũng đã đề
xuất mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng, hiệu quả đào
tạo, bồi dưỡng công chức trong nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Ngồi ra, cịn có luận văn thạc sĩ: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công
chức tỉnh An Giang thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước” của Đỗ Hải Long, Học viện Hành chính quốc gia, năm 2010; luận văn
thạc sĩ của Nguyễn Thị Hậu: “Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ Chính

quyền cấp xã ở tĩnh Phú Thọ” (Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
năm 2003); luận văn thạc sĩ chính sách cơng của Nguyễn Minh Tuấn: “Thực
hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn
huyện quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng” năm 2019. Luận án tiến sĩ của
Nguyễn Mậu Dựng: Xây dựng đội ngũ cán bộ lãnh đạo chủ chốt của đảng bộ
các cấp ở Tây Nguyên hiện nay, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh,
Hà Nội, 2013…
Từ các góc độ khác nhau, những cơng trình nghiên cứu trên đã hệ thống
hóa những vấn đề lý luận, phân tích, đánh giá thực trạng và đề xuất giải pháp
nhằm nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp

6


xã ở từng vùng và địa phương khác nhau. Với những kết quả đã đạt được
các cơng trình nghiên cứu trên có giá trị khoa học nhất định, đồng thời là
nguồn tài liệu quan trọng để tác giả luận văn tham khảo khi thực hiện đề tài
của mình.
Từ những cơng trình nghiên cứu trên tơi chọn đề tài: “Thực hiện chính
sách đào tạo, bồi dưỡng Cán bộ, Cơng chức cấp xã trên địa bàn tỉnh An
Giang: vì chưa có cơng trình nghiên cứu nào về vấn đế này, mặt khác đội ngũ
CB,CC cấp xã ở tỉnh An Giang khá đông, trình độ học vấn, trình độ chun
mơn khơng đồng đều, do đó chúng ta cần đánh giá lại những kết quả đạt được
và những khó khăn trong việc thực hiện chính sách này đào tạo, bồi dưỡng để
tạo nguồn lực lượng CB, CC ở xã, phường, thị trấn “vừa hồng, vừa chuyên”
đáp ứng được quá trình đất nước đổi mới, phát triển và hội nhập trong giai
đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu về thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán

bộ, công chức cấp xã nhằm đánh giá thực trạng, chất lượng công tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, cơng chức cấp xã hiện nay có đáp ứng được u cầu nhiệm
vụ trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa của đất nước.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về thực hiện chính sách đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức cấp xã ở Việt Nam.
Hai là, phân tích thực trạng thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh An Giang, làm rõ các kết quả đạt
được, những hạn chế và nguyên nhân của thực trạng đó.
Ba là, luận giải một số giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng đào tạo,
bồi dưỡng CB,CC cấp xã trên địa bàn tỉnh An Giang giai đoạn 2016 – 2019
và tầm nhìn đến năm 2025.

7


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là việc thực hiện các chính sách đào
tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã trên địa bàn tỉnh An Giang hiện nay.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về không gian: Trên địa bàn tỉnh An Giang
Phạm vi về thời gian: Từ năm 2016 đến 2019
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn lấy phép biện chứng duy vật mác xít, tư tưởng Hồ Chí Minh và
những quan điểm, chủ trương của Đảng và Nhà nước về CB,CC, các Nghị
quyết, Chương trình, Đề án, Kế hoạch của Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh An
Giang về công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức và cán bộ,
công chức cấp xã trên địa bàn tỉnh. Ngoài ra, luận văn cũng kế thừa và phát huy

những kết quả nghiên cứu của các cơng trình có liên quan của các tác giả khác
đã nghiên cứu trước đó.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở quan điểm lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn bản quản lý nhà nước
về CB, CC và công tác đào tạo, bồi dưỡng CB,CC của Trung ương và địa
phương quy định và Sử dụng phương pháp điều tra xã hội học, nghiên cứu
các báo cáo năm, thống kê, so sánh, thu thập thông tin…..
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần nghiên cứu về lý luận dưới góc độ chun ngành
khoa học về chính sách cơng; góp phần làm phong phú thêm lý luận về xây
dựng đội ngũ CB,CC hành chính cấp xã; đồng thời, làm rõ vị trí, đặc điểm,
vai trị và nội dung thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng đối với CB,CC

8


cấp xã
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đánh giá những kết quả đạt được và đề ra những giải pháp
trong thời gian tới nhằm góp phần hồn thiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức cấp xã tại địa phương và làm tài liệu tham khảo, nghiên
cứu cho các cơ quan, ban, ngành cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã trong q trình
hoạch định và thực thi chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã trên địa
bàn tỉnh An Giang.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn gồm có
02 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận cơ bãn về thực hiện chính sách đào

tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức cấp xã.
Chương 2: Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức
cấp xã ở tỉnh An Giang hiện nay: thực trạng và giải pháp.

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH

9


ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ
1.1. Khái niệm và vai trò cơ bản của thực hiện chính sách đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, cơng chức cấp xã
1.1.1. Khái niệm thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã
1.1.1.1. Khái niệm cán bộ, công chức
Pháp lệnh CB,CC được ban hành năm 1998 là văn bản pháp lý cao nhất
về công chức, đánh dấu bước chuyển biến cơ bản về công tác cán bộ của
Đảng và Nhà nước ta. Sau 2 năm thực hiện, Pháp lệnh CB,CC năm 1998 đã
bộc lộ những hạn chế, nên được sửa đổi vào năm 2000. Đến năm 2003 Pháp
lệnh CB,CC tiếp tục được sửa đổi và làm rõ đối tượng đang làm việc trong
các cơ quan, đơn vị sự nghiệp của Nhà nước là viên chức, ngoài ra Pháp lệnh
cịn quy định thêm chức danh cơng chức cấp xã. Tuy nhiên, cả Pháp lệnh
CB,CC năm 1998 và Pháp lệnh CB,CC sửa đổi năm 2003 đều chưa đưa ra
được khái niệm cán bộ và khái niệm công chức, mà chỉ đưa ra thuật ngữ chung
là CB,CC.
Để khắc phục hạn chế của pháp lệnh năm 1998, năm 2000 và năm 2003
theo khoản 1, Điều 4 Luật Cán bộ, công chức được Quốc hội nước Cộng hòa
Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa VII, kỳ họp thứ 4 thơng qua ngày 13/11/2008
và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010, quy định về Cán bộ, công chức

như sau:
Cán bộ là công dân Việt Nam được bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm giữ
chức vụ, chức danh theo nhiệm kỳ trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt
Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh), ở quận, huyện, thị xã, thành
phố thuộc tỉnh (sau đây gọi chung là cấp huyện) trong biên chế và hưởng lương
từ ngân sách nhà nước [Khoản 1, Điều 4].

10


Từ những khái niệm về cán bộ nêu trên có thể hiểu "cán bộ" là khái niệm
dùng để chỉ những người có chức vụ do bầu cử, phê chuẩn, bổ nhiệm làm việc
trong các cơ quan Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và lực lượng vũ
trang nhân dân từ Trung ương đến địa phương, thuộc biên chế Nhà nước và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước; giữ vai trò và cương vị nòng cốt trong cơ
quan (có thể là người lãnh đạo, người quản lý), có tác động, ảnh hưởng đến
hoạt động và sự phát triển của cơ quan.
Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào
ngạch, chức vụ, chức danh trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà
nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ
quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân
chuyên nghiệp, cơng nhân quốc phịng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an
nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp và trong bộ máy
lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập của Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội (sau đây gọi chung là đơn vị sự nghiệp
công lập), trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước; đối với công
chức trong bộ máy lãnh đạo, quản lý của đơn vị sự nghiệp công lập thì lương
được bảo đảm từ quỹ lương của đơn vị sự nghiệp công lập theo quy định của
pháp luật. [Khoản 2, Điều 4].

Như vậy, Công chức là những công dân được tuyển dụng vào làm việc
thường xuyên trong cơ quan nhà nước, là người do bầu cử, được tuyển dụng,
bổ nhiệm vào một ngạch công chức hoặc giao giữ một công vụ thường xuyên
trong các cơ quan nhà nước ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Công
chức không chỉ bao gồm những người thực hiện trực tiếp các hoạt động quản lý
nhà nước mà còn bao gồm cả những người làm việc trong các cơ quan có tính
chất cơng cộng.
1.1.1.2. Khái niệm cán bộ, cơng chức cấp xã
Cán bộ, công chức cấp cấp xã: Theo khoản 3, Điều 4, Luật Cán bộ, công

11


chức quy định: “Cán bộ xã, phường, thị trấn (sau đây gọi chung là cấp xã) là
công dân Việt Nam, được bầu cử giữ chức vụ theo nhiệm kỳ trong Thường trực
Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Bí thư, Phó Bí thư Đảng ủy, người đứng
đầu tổ chức chính trị - xã hội; cơng chức (cấp xã là công dân Việt Nam được
tuyển dụng giữ một chức danh chuyên môn, nghiệp vụ thuộc Ủy ban nhân dân
cấp xã, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước”.
Về vị trí, vai trị của cán bộ, cơng chức cấp xã:
Đảng, Nhà nước và Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng vai trị của con
người, ln khẳng định quan điểm coi con người (đặc biệt là đối với CB,CC) là
trung tâm của sự phát triển, của công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Hồ
Chí Minh khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “Muôn việc
thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém” [31, tr.280]. Theo Người,
“huấn luyện đào tạo cán bộ là công việc gốc của Đảng”, là công việc đặc biệt
quan trọng, cần phải được tiến hành thường xuyên, biết cách lựa chọn, sử dụng
và không ngừng bồi dưỡng cán bộ để cái vốn quý đó ngày càng lớn lên theo
yêu cầu, nhiệm vụ của cách mạng. Với tinh thần đó, trong suốt cuộc đời hoạt
động cách mạng, Hồ Chí Minh ln chú trọng việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ

cán bộ, xây dựng một đội ngũ cán bộ tận tụy, kiên cường, hoàn thành xuất sắc
nhiệm vụ qua các giai đoạn cách mạng.
Kế thừa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, từ khi ra đời đến nay, Đảng
và Nhà nước ta luôn coi công tác đào tạo, bồi dưỡng CB,CC là một trong
những vấn đề có tầm quan trọng chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách
mạng. Công tác đào tạo, bồi dưỡng CB,CC được xác định là một trong những
công tác quan trọng hàng đầu trong xây dựng bộ máy Nhà nước; xây dựng một
đội ngũ CB,CC tốt, ngang tầm là điều kiện tiên quyết, là lực lượng then chốt để
đưa sự nghiệp cách mạng đi tới thắng lợi. Theo Nghị quyết Trung ương 5 (khoá
IX): “Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân
dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo

12


việc, tận tuỵ với dân, biết phát huy sức dân, khơng tham nhũng, khơng ức hiếp
dân; trẻ hố đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải quyết hợp lý và
đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở”. Như vậy, người CB,CC cấp xã
khơng những có trình độ chun mơn cao, có phẩm chất theo tiêu chuẩn
CB,CC mà cịn phải gương mẫu, có tư duy, tinh thần kỷ luật, nói đi đơi với
làm, gắn bó với tập thể, với cộng đồng, có kỹ năng xử lý tình huống tốt trong
giải quyết cơng việc chun mơn tại cơ quan, đơn vị và tại địa phương.
Tóm lại, CB,CC cấp xã có vị trí, vai trị vơ cùng quan trọng, là cầu nối
giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, là người gần dân, sát dân, nắm bắt tâm tư,
nguyện vọng của dân, vận động nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương,
chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước, trực tiếp giải quyết những yêu
cầu, thắc mắc về lợi ích chính đáng của nhân dân. CB,CC cấp xã đã có sự đóng
góp rất lớn trong sự nghiệp cách mạng, duy trì ổn định an ninh chính trị, phát
triển kinh tế - xã hội ở địa phương, là động lực của sự nghiệp đổi mới, đẩy
mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền

xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Về chất lượng CB,CC cấp xã:
Chất lượng CB,CC được đánh giá dựa trên tiêu chuẩn của cán bộ, công
chức là những quy định cụ thể các yêu cầu về trình độ, năng lực, phẩm chất đạo
đức… của những người CB,CC theo những tiêu chí nhất định đối với từng
ngành nghề riêng biệt. Để đánh giá chất lượng CB,CC là tổng hợp những phẩm
chất nhất định về sức khỏe, trí tuệ khoa học, chuyên môn nghề nghiệp, phẩm
chất đạo đức, ý chí, niềm tin, năng lực, ln gắn bó với tập thể, với cộng đồng
và khả năng thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao. Trong thời kỳ CNH,
HĐH đất nước yêu cầu chất lượng đối với CB,CC ngày càng cao, địi hỏi người
CB,CC cấp xã khơng những có trình độ, phẩm chất theo tiêu chuẩn CB,CC mà
còn phải gương mẫu, có tinh thần kỷ luật cao, có tư duy khoa học, lý luận sắc
bén, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, gắn bó với tập thể, với cộng đồng,

13


có kỹ năng tốt trong việc kết hợp tri thức khoa học, kinh nghiệm, kỹ năng thực
tiễn một cách nhạy bén, linh hoạt; luôn chấp hành nghiêm chỉnh chủ trương,
đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Chất lượng của CB,CC ngồi những yếu tố nêu trên cịn phụ thuộc vào
cơ cấu CB,CC, đó là tỷ lệ hợp lý giữa các độ tuổi, giữa giới tính nam và nữ,
giữa thành phần dân tộc, giữa cán bộ với công chức lãnh đạo, quản lý, công
chức phụ trách chuyên môn nghiệp vụ. Bên cạnh đó, chất lượng của đội ngũ
CB,CC được thể hiện thông qua hoạt động của bộ máy chính quyền cấp xã, ở
việc nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền cấp xã
Từ những phân tích nêu trên có thể hiểu, chất lượng đội ngũ CB,CC cấp
xã là sự biến đổi về chất lượng đội ngũ CB,CC theo hướng đi lên biểu hiện thể
hiện qua phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống, trình độ, năng lực, kỹ năng
công tác, chất lượng và hiệu quả thực nhiệm vụ được phân công của CB,CC

cũng như cơ cấu hợp lý về độ tuổi, về số lượng CB,CC và khả năng thích ứng,
thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ được giao. Thực chất là quá trình tuyển dụng,
bố trí, sắp xếp, tập huấn, đào tạo nâng cao thể lực, trí lực, kỹ năng, thói quen và
thái độ nhằm xây dựng một đội ngũ CB,CC cấp xã từng bước trẻ hóa, chuẩn
hóa, đủ số lượng, có chất lượng và cơ cấu hợp lý, đủ khả năng hoàn thành tốt
chức trách, nhiệm vụ được giao, góp phần lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt động kinh
tế - xã hội ở địa phương.
1.1.1.3. Khái niệm đào tạo, bồi dưỡng
Hiện nay, theo các văn bản quy phạm pháp luật ở Việt Nam có sử dụng
hai từ ngữ “đào tạo” và “bồi dưỡng” cũng cho thấy các nội hàm khác nhau
khá rõ ràng cụ thể như Nghị định 18/2010/NĐ-CP ngày 5/3/2010 của Chính
phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức đã đưa ra cách hiểu về đào tạo, bồi
dưỡng như sau:
“Đào tạo là quá trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống những tri thức,
kỹ năng theo quy định của từng cấp học, bậc học”.

14


“Bồi dưỡng là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ
năng làm việc”. Như vậy, khái niệm đào tạo, bồi dưỡng được hiểu như sau:
Khái niệm đào tạo là công việc trang bị những phẩm chất, kiến thức, kỹ
năng cơ bản, có hệ thống cho người học, để sau một khoá học (dài hạn hoặc
ngắn hạn) người học đạt được trình độ một cấp học cao hơn.
Khái niệm bồi dưỡng là cập nhật, bổ túc thêm một số kiến thức, kỹ
năng cần thiết, nâng cao hiểu biết sau khi đã được đào tạo cơ bản, cung cấp
thêm những kiến thức chun ngành, mang tính ứng dụng...
Có thể hiểu rộng thêm, đào tạo là quá trình truyền đạt một lượng kiến
thức nhất định cho một đối tượng học tập cụ thể mà quá trình truyền đạt này
phải là một qui trình khép kín với những chuẩn mực và hệ phương pháp dạy

và học cụ thể, trong một khoảng thời gian nhất định. Yếu tố xuất phát điểm
của năng lực, kiến thức đầu vào của đối tượng được đào tạo không nhất thiết
làm rõ, nhưng năng lực và kiến thức đầu ra (sau quá trình truyền đạt, dạy và
học) phải được qui chuẩn và xác định rõ các tiêu chuẩn đã đạt được. Sự
chuyển biến về chất lượng năng lực và kiến thức của đối tượng được đào tạo
sau khi trải qua một qui trình dạy và học để có thể đảm nhận và đáp ứng được
yêu cầu của một chuyên ngành đã được học.
Bồi dưỡng là quá trình truyền đạt thêm một lượng kiến thức nhất định
cho một đối tượng học tập cụ thể, trong đó khơng nhất thiết phải làm rõ về
quá trình và hệ phương pháp truyền đạt thêm, cũng không nhất thiết phải thay
đổi cơ bản chất lượng năng lực và kiến thức của người học, mà chỉ cần cung
cấp thêm năng lực và kiến thức cho họ.
Như vậy, những CB,CC đã qua đào tạo, bồi dưỡng càng rộng, phẩm
chất, trình độ, năng lực CB,CC được đào tạo, bồi dưỡng càng cao thì càng tạo
được nguồn CB,CC đơng và có chất lượng. Khơng có nguồn CB,CC đã được
đào tạo, bồi dưỡng và thử thách qua thực tiễn thì khơng có đủ CB,CC đáp ứng
u cầu, nhiệm vụ của thời kỳ mới hiện nay. Cùng với nhiều công tác khác,

15


cơng tác đào tạo, bồi dưỡng góp phần rất quan trọng, thiết thực vào việc tạo ra
những “sản phẩm” CB,CC có chất lượng, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của tình
hình mới.
Có thể nói, đào tạo và bồi dưỡng tuy là hai khái niệm khác nhau nhưng
lại có cùng một mục đích chung làm cho CB,CC có trình độ chun mơn, có
khả năng xử lý cơng việc và năng lực cơng tác được tốt hơn. Trên thực tế có
một số hoạt động đào tạo, hoặc bồi dưỡng rất khó phân chia thành đào tạo
hoặc bồi dưỡng, bởi lẽ giữa chúng có sự đan xen và kế thừa lẫn nhau.
Như vậy, đào tạo, bồi dưỡng hiện nay có nghĩa là khi được tuyển dụng

và bổ nhiệm vào một vị trí nhất định, người CB,CC đã phải đáp ứng các tiêu
chuẩn của vị trí đó, trong đó có tiêu chuẩn về trình độ đào tạo. Chẳng hạn,
một CB,CC được bổ nhiệm vào vị trí lãnh đạo sẽ được học chương trình đào
tạo bồi dưỡng. Khi được tham gia khóa đào tạo, bồi dưỡng chương trình lãnh
đạo quản lý, người lãnh đạo đó vừa được đào tạo, vừa được bồi dưỡng, trong
đào tạo có bồi dưỡng và trong bồi dưỡng có đào tạo.
Đào tạo, bồi dưỡng thường đi đôi với nhau, thông qua đó CB,CC tiếp
nhận kiến thức, kỹ năng để thực thi công vụ được giao một cách hiệu quả và
chất lượng nhằm đáp ứng các yêu cầu phát triển của tổ chức gắn với công tác
quy hoạch cán bộ của Nhà nước.
Tuy nhiên, trên thực tế, CB,CC được bồi dưỡng chuyên môn, kiến thức
công việc là chủ yếu, mặc dù đào tạo, bồi dưỡng thường đi đôi với nhau. Đào
tạo, bồi dưỡng CB,CC được tổ chức thực hiện ở các Trung tâm bồi dưỡng
chính trị cấp huyện, cấp tỉnh; Trường đào tạo, bồi dưỡng của các bộ, ngành và
các trung tâm đào tạo khác. Đào tạo, bồi dưỡng CB,CC là chương trình mang
tính chun biệt vì: [57, tr.19].
Thứ nhất, đối tượng được đào tạo, bồi dưỡng là CB,CC nhà nước nhằm
trang bị những kiến thức, kỹ năng cần thiết để CB,CC tiếp thu kiến thức một
cách sáng tạo, có trao đổi nhằm đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực làm việc

16


hiện tại và trong tương lai, xây dựng hành vi, thái độ làm việc đúng đắn phục
vụ nhà nước và nhân dân của CB,CC.
Thứ hai, nội dung đào tạo, bồi dưỡng CB,CC.
Theo quy định tại Nghị định số 18/2010/NĐ-CP, ngày 05 tháng 3 năm
2010 của Chính phủ, “Đào tạo là q trình truyền thụ, tiếp nhận có hệ thống
những tri thức, kỹ năng theo quy định của từng cấp học, bậc học; Bồi dưỡng
là hoạt động trang bị, cập nhật, nâng cao kiến thức, kỹ năng làm việc; Bồi

dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch là trang bị kiến thức, kỹ năng hoạt động theo
chương trình quy định cho ngạch cơng chức; Đào tạo, bồi dưỡng theo tiêu
chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản lý là trang bị kiến thức, kỹ năng, phương pháp
làm việc theo chương trình quy định cho từng chức vụ lãnh đạo, quản lý; Bồi
dưỡng theo vị trí việc làm là trang bị, cập nhật kiến thức, kỹ năng, phương
pháp cần thiết để làm tốt công việc được giao” [40, tr.2].
Tóm lại, Đào tạo, bồi dưỡng là hoạt động có mục đích, có tổ chức
nhằm truyền đạt cho CB,CC những kiến thức, kỹ năng, cách thức làm việc
nhằm đáp ứng yêu cầu tương lai của vị trí việc làm, tiêu chuẩn ngạch của
CB,CC theo yêu cầu của tổ chức. Thơng qua q trình đào tạo bồi dưỡng,
CB,CC có thể đạt được một trình độ kiến thức, chun mơn, nghề nghiệp nhất
định và đồng thời làm cho họ sử dụng tốt hơn các khả năng, tiềm năng vốn có để
phát huy hết năng lực làm việc của họ và có khả năng đảm đương nhiệm vụ.
1.1.1.4. Khái niệm chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức
cấp xã
Dựa trên khái niệm về chính sách đào tạo, bồi dưỡng thì khái niệm
chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã là chính sách đề ra những chủ
trương, mục đích nhằm trang bị những kiến thức cơ bản, cập nhật, bổ sung
những kiến thức mới về lý luận chính trị, quản lý hành chính nhà nước,
chun mơn nghiệp vụ, kỹ năng xử lý và giải quyết cơng việc, nhằm nâng
cao trình độ, năng lực lãnh đạo, quản lý và thực thi cơng vụ, hồn thành tốt

17


các nhiệm vụ được giao, góp phần xây dựng bộ máy chính quyền ngày
càng vững mạnh, hiện đại, góp phần xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội
ở địa phương.
1.1.1.5. Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức
cấp xã

Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho CB,CC cấp xã là nhiệm
vụ được thực hiện thường xuyên, các ngành, các cấp có trách nhiệm trong
quản lý CB,CC cấp xã và có trách nhiệm thường xuyên triển khai, xây dựng
kế hoạch, hàng năm cử CB,CC cấp xã tham gia các lới tập huấn, bồi dưỡng
ngắn hạn hoặc dài hạn để CB,CC được trang bị tri thức, văn hố và trình độ
chun mơn ngày càng cao hơn, có tri thức sâu rộng về chun mơn nghiệp
vụ trên các mặt của lĩnh vực, từ đó giúp người CB,CC cấp xã họ có tư duy,
kỹ năng lãnh đạo, quản lý và thực hiện nhiệm vụ chuyên môn một cách tốt
nhất và hiệu quả nhất góp phần thực hiện tốt các mục tiêu, tiêu chí của chính
sách đã đề ra.
Thực tiễn đã chứng minh cho thấy, cấp ủy đảng, chính quyền địa
phương nào thường xuyên quan tâm xây dựng và thực hiện tốt chính sách
đào tạo, bồi dưỡng CB,CC phù hợp với nhu cầu của CB,CC và nhu cầu của
địa phương thì nơi đó có đội ngũ CB,CC có trình độ chun mơn nghiệp vụ,
có tinh thần trách nhiệm, có năng lực, phẩm chất đạo đức tốt thì nơi đó cơng
việc được vận hành một cách thơng suốt và mang lại hiệu quả, hoạt động tổ
chức bộ máy hành chính hiện đại, sự tín nhiệm của nhân dân đối với tổ chức,
chính quyền nơi đó càng cao.
1.1.2. Vai trị của thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức cấp xã
Trong điều kiện hiện nay hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, hệ
thống hành chính được quyết định bởi trình độ, phẩm chất, năng lực và kết
quả công tác của đội ngũ CB,CC,VC nhà nước. Trước yêu cầu mới của phát

18


triển đất nước thời kỳ cơng nghiệp hóa - hiện đại hóa và hội nhập sâu rộng,
việc ứng dụng những thành tựu khoa học công nghệ tin học vào hiện đại hóa
nền hành chính, đào tạo và bồi dưỡng CB,CC,VC là vấn đề cần được quan

tâm giải quyết một cách thiết thực phù hợp với tình hình mới. Vì vậy, thực
hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC cấp xã có những vai trị như sau:
Thứ nhất: thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho CB,CC là nâng
cao năng lực tác nghiệp, thực thi công vụ cho CB,CC; là nhiệm vụ trọng tâm
trong xây dựng và phát triển nhân sự tại các đơn vị, địa phương. Công tác đào
tạo, bồi dưỡng được tổ chức hàng năm thường được triển khai bằng việc cử
CB,CC tham gia các khóa đào tạo, bồi dưỡng nhằm hoàn thiện khả năng tác
nghiệp và chuẩn hóa các quy định của Nhà nước về tiêu chuẩn chức danh vị
trí việc làm theo ngạch, bậc do Nhà nước quy định của từng vị trí, chức danh
nghề nghiệp được bổ nhiệm.
Thứ hai: Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng là nhằm nâng cao khả
năng phục vụ của CB,CC trong thực thi công vụ của bộ máy công quyền ln
nhận được sự quan tâm, Ngồi ra, việc đào tạo, bồi dưỡng cần được quan tâm sát
sao nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của nền hành chính, mỗi đơn vị, địa
phương cần phải có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng hợp lý để ln bổ sung hồn
thiện kỹ khả năng cho CB,CC khi thực thi công vụ để góp phần đưa chính sách
đào tạo, bồi dưỡng CB,CC trở thành một chính sách có tính khả thi cao.
Thứ ba: Thực hiện tốt chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC để khẳng
định tính đúng đắn, yêu cầu của chính sách, đáp ứng yêu cầu tình hình thực tế
của đơn vị và địa phương. Trước nhu cầu phát triển của đất nước mở ra nhiều
cơ hội và thách thức cho nền hành chính của Việt Nam và cuộc cách mạng
cơng nghiệp 4.0, để thích ứng với điều kiện mới, do đó từng đơn vị, địa
phương thường xuyên tổ chức đào tạo, bồi dưỡng để nâng cao trình độ
chun mơn cho CB,CC, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, công việc, quyền
hạn và nghĩa vụ của từng vị trí cơng việc của CB,CC; từ đó sẽ giúp CB,CC

19


cấp xã chủ động sáng tạo, dễ dàng thích nghi nhanh chóng với yêu cầu đổi

mới, Song song đó, đơn vị, địa phương xác định những kỹ năng, kiến thức
chuyên mơn chưa đảm bảo trong q trình thực thi cơng vụ và xây dựng, điều
chỉnh nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng hợp lý đáp ứng được những
yêu cầu, mục tiêu của chính sách đề ra.
Thứ tư: Thực hiện tốt chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC khơng chỉ
thực hiện tốt các mục tiêu chính sách đã đề ra, bên cạnh đó, cịn xây dựng đội
ngũ CB,CC đáp ứng yêu cầu của một nền hành chính chuyên nghiệp; nâng
cao năng lực chuyên môn, nâng cao chất lượng hiệu quả thực thi cơng vụ của
CB,CC và tác động tích cực đến nhiều mặt của đời sống kinh tế - xã hội. Vì
vậy, thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC thường tập trung vào
những kiến thức lý luận cơ bản, trang bị kỹ năng, cách thức hoạt động thực thi
công việc, giáo dục thái độ thực hiện công việc thể hiện sự nhiệt tình, tinh
thần trách nhiệm của người CB,CC. Nhìn chung đối với bản thân CB,CC qua
triển khai đào tạo, bồi dưỡng là cần thiết nó đáp ứng nhu cầu học tập và phát
triển; nâng cao được trình độ năng lực; cập nhật đổi mới tư duy, phát huy tính
sáng tạo sử dụng kiến thức về các lĩnh vực: pháp luật, nghiệp vụ chuyên môn,
các lĩnh vực khác liên quan đến lĩnh vực tác nghiệp. Hơn nữa qua đào tạo và
bồi dưỡng, giúp CB,CC nâng cao hiệu quả thực hiện công việc, khả năng tự
giác, tự tiến hành cơng việc độc lập.
Thứ năm: Thực hiện tốt chính sách đào tạo, bồi dưỡng CB,CC là kết
quả lãnh, chỉ đạo của đơn vị, địa phương sử dụng có hiệu quả tối đa sức lao
động và có chiến lược tái đầu tư cho sức lao động; giúp CB,CC hiểu rõ bản
chất cơng việc, nghề nghiệp nâng cao khả năng thích ứng của CB,CC đối với
công việc trong tương lai; đào tạo, bồi dưỡng tốt các đơn vị, địa phương sẽ
duy trì và nâng cao được chất lượng CB,CC nhờ đội ngũ có trình độ chun
mơn; giúp tổ chức nâng cao tính ổn định, tính linh hoạt trong các hoạt động
thực thi công vụ đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của các đơn vị, địa

20



phương; hoạt động đào tạo, bồi dưỡng giúp tổ chức chuẩn bị đội CB,CC kế
cận trong các giai đoạn phát triển.
Tóm lại: Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cho CB,CC cấp xã là
phát huy nguồn lực của con người, là đòn bẩy mạnh mẽ nhất để nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác; Tạo ra những con người khơng chỉ có trí thức mà
những con người biết tơn trọng nhân phẩm và giúp cho người hình thành hành
vi một xã hội bền vững cả về kinh tế, mơi trường, văn hóa, một lối sống nhân
cách, biết q trọng các nguồn lợi tài nguyên cũng như cho cá nhân có cách
ứng xử, đối phó với những khó khăn, thách thức và tăng cường khả năng
thích nghi góp phần xây dựng một nền hành chính cơng chun nghiệp.
1.2. Thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, cơng chức cấp
xã: Nội dung, chủ thể và yêu cầu đặt ra
1.2.1. Nội dung thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công
chức cấp xã
Theo Điều 16 Nghị định 101/2017/NĐ-CP ngày 01/9/2017 của Chính
phủ về đào tạo, bồi dưỡng CB,CC,VC được quy định, nội dung đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức bao gồm:
Về đào tạo trong nước: CB,CC,VC được đào tạo, bồi dưỡng về Lý luận
chính trị; Kiến thức quốc phòng và an ninh; Kiến thức, kỹ năng quản lý nhà
nước; Kiến thức quản lý chuyên ngành, chuyên môn, nghiệp vụ; đạo đức công
vụ, đạo đức nghề nghiệp; kiến thức hội nhập quốc tế; Tiếng dân tộc, tin học,
ngoại ngữ.
Một là, đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị nhằm trang bị cho
CB,CC,VC và CB,CC cấp có đủ bản lĩnh chính trị, kiên định Chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, có tư duy đổi mới, có năng lực, phẩm chất, uy tín, có khả năng hoạch
định đường lối, chính sách và lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện. Từ đó,
sẽ có nhiều CB,CC,VC năng động, sáng tạo, thích ứng với xu thế hội nhập, có

21



khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Do đó, cơng tác đào tạo, bồi
dưỡng lý luận chính trị luôn được từ Trung ương đến cơ sở quan tâm lãnh
đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện. Thông qua các khóa huấn luyện, lớp đào tạo,
bồi dưỡng, các CB,CC,VC có đủ trình độ nhận thức và trưởng thành trong các
hoạt động; nâng cao ý thức tu dưỡng đạo đức, khắc phục chủ nghĩa cá nhân,
xây dựng được đội ngũ cán bộ, đảng viên có tư tưởng, lập trường vững vàng,
có bản lĩnh chính trị, có năng lực tổ chức, tập hợp, động viên, giáo dục, thuyết
phục quần chúng, góp phần xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng,
tổ chức và đạo đức, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng trong
từng thời kỳ, nhất là trong giai đoạn hiện nay.
Hai là, CB,CC,VC được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quốc phịng và
an ninh nhằm góp phần đào tạo con người phát triển toàn diện, hiểu biết,
truyền thống đấu tranh chống ngoại xâm của dân tộc, trách nhiệm và nghĩa vụ
của công dân về bảo vệ Tổ quốc; nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã
hội; có ý thức cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch; có
kiến thức cơ bản về đường lối quốc phịng, an ninh và cơng tác quản lý nhà
nước về quốc phịng, an ninh; có kỹ năng quân sự, an ninh cần thiết để tham
gia vào sự nghiệp xây dựng, củng cố nền quốc phịng tồn dân, an ninh nhân
dân, sẵn sàng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Ba là, CB,CC,VC được đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng quản lý nhà nước là
nhằm giúp đội ngũ CB,CC,VC cập nhật những kiến thức cần thiết về quản lý
nhà nước, cải cách hành chính và kỹ năng thực thi cơng việc. Qua đó, giúp họ
nâng cao năng lực công tác trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn và trách
nhiệm được giao, đồng thời, hoàn thiện các tiêu chuẩn của ngạch và của từng
chức danh, vị trí việc làm.
Việc đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng quản lý nhà nước cho đội ngũ
CB,CC,VC là vì họ là những người trực tiếp hoặc gián tiếp trong các hoạt
động quản lý của Nhà nước hoặc doanh nghiệp, có trách nhiệm theo dõi, tham


22


mưu về các lĩnh vực được giao; theo dõi thi hành văn bản quy phạm pháp
luật; thực hiện những nhiệm vụ công tác khác theo sự phân công của lãnh đạo
cơ quan, đơn vị; Tham mưu, đề xuất với lãnh đạo cấp trên các biện pháp
nhằm bảo đảm thực hiện tốt công việc được giao; được quyền liên hệ với các
cơ quan, đơn vị để phối hợp thực hiện các công việc liên quan đến công tác
chuyên môn; được tham gia các lớp tập huấn về chun mơn nghiệp vụ.
Ngồi ra, họ cịn có trách nhiệm trực tiếp thực thi công vụ, giải quyết các
công việc của cơ quan, đơn vị liên quan đến công dân và tổ chức theo quy
định của pháp luật. Do đó, để hồn thành được chức trách và nhiệm vụ của
mình, họ cần phải được đào tạo, bồi dưỡng một cách bài bản, được trang bị
những kiến thức cơ bản về lý luận chính trị, QLNN về ngành, lĩnh vực; được
trang bị các kỹ năng thực thi công vụ, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng phân tích và
xử lý các tình huống.
Bốn là, đào tạo, bồi dưỡng kiến thức quản lý chuyên ngành, chuyên
môn, nghiệp vụ; đạo đức công vụ, đạo đức nghề nghiệp; kiến thức hội nhập
quốc tế nhằm trang bị cho CB,CC,VC nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng,
phương pháp thực hiện nhiệm vụ trong hoạt động công vụ của CB,CC,VC và
hoạt động nghề nghiệp của viên chức, góp phần xây dựng đội ngũ CB,CC,VC
chuyên nghiệp, có phẩm chất đạo đức tốt, có bản lĩnh chính trị và năng lực,
đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, sự nghiệp phát triển của đất nước;
Công tác đào tạo, bồi dưỡng phải căn cứ vào tiêu chuẩn ngạch công
chức, tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức; tiêu chuẩn chức vụ lãnh
đạo, quản lý; vị trí việc làm; gắn với cơng tác sử dụng, quản lý CB,CC,VC,
phù hợp với kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và nhu cầu xây dựng, phát triển
nguồn nhân lực của cơ quan, đơn vị và của địa phương; thực hiện phân công,
phân cấp trong tổ chức bồi dưỡng theo tiêu chuẩn ngạch công chức, tiêu

chuẩn chức danh nghề nghiệp viên chức, tiêu chuẩn chức vụ lãnh đạo, quản
lý; kết hợp phân công và cạnh tranh trong tổ chức bồi dưỡng theo yêu cầu của

23


×