Tải bản đầy đủ (.doc) (78 trang)

Luận văn địa vị pháp lý chấp hành viên trong thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (324.75 KB, 78 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-----



-----

LÊ THỊ MAI

ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
CHẤP HÀNH VIÊN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

TỪ THỰC TIỄNTHÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

Hà Nội, năm 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
-----



-----

LÊ THỊ MAI


ĐỊA VỊ PHÁP LÝ
CHẤP HÀNH VIÊN TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

TỪ THỰC TIỄNTHÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. NGUYỄN ANH HÙNG

Hà Nội, năm 2021



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự là hoạt động thực hiện quyền lực nhà nước nhằm bảo đảm
hiệu lực thực tế của bản án, quyết định dân sự của Tòa án, quyết định của Trọng tài
thương mại và của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh bằng các biện pháp pháp luật,
bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp phần bảo
đảm tính nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa và góp phần giữ
vững ổn định chính trị - xã hợi, tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước.
Điều 106 Hiến pháp Việt Nam năm 2013 khẳng định: “Bản án, quyết định
của Tòa án nhân dân có hiệu lực pháp luật phải được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn
trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan phải nghiêm chỉnh chấp hành”. Bảo
đảm hiệu lực của bản án, quyết định của Tòa án được quy định tại Điều 19 Bộ luật
Tố tụng Dân sự năm 2015 và Điều 23 Luật Tố tụng Hành chính năm 2015 quy định:
Bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật phải được thi hành và phải
được cơ quan, tổ chức, cá nhân tôn trọng; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan

phải nghiêm chỉnh chấp hành. Trong phạm vi, quyền hạn của mình, Tòa án và các
cơ quan tổ chức được giao nhiệm vụ thi hành bản án, quyết định của Tòa án phải
nghiêm chỉnh thi hành và chịu trách nhiệm trước pháp luật về thực hiện nhiệm vụ
đó.
Nhận thức tầm quan trọng của cơng tác THADS, từ khi thực hiện đường lối
đổi mới đến nay, Đảng ta đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách về THADS, như
trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII
(1995) về Tiếp tục xây dựng và hồn thiện Nhà nước Cợng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, trọng tâm là cải cách mợt buớc nền hành chính; Nghị qút Hợi nghị lần
thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII (1997) về Chiến lược cán bộ
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; Nghị quyết số 08/NQTW ngày 02/01/2002 của Bợ Chính trị về Mợt số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư
pháp trong thời gian tới; Nghị qút Hợi nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung
ương Đảng khóa IX (2004) và nhất là trong Nghị qút số 48/NQ-TW ngày
24/5/2005 của Bợ Chính trị về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp
luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020; Nghị quyết số 49/NQ-TW

1


ngày 02/6/2005 của Bợ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. Kết
luận số 92-KL/TW ngày 12/3/2014 của Bợ Chính trị kết ḷn về vViệc tiếp tục thực
hiện Nghị quyết số 49/NQ-TW, ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị khóa IX về Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Kế thừa nhiều quy định của Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 2004 và các
văn bản hướng dẫn có liên quan đã được thực tiễn kiểm nghiệm và pháp điển hóa
thành quy định của Luật, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án
dân sự năm 2014 còn sửa đổi và bổ sung thêm rất nhiều quy định mới
Thực hiện Luật Thi hành án dân sự 2008, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều
của Luật Thi hành án dân sự năm 2014, Chính phủ đã ban hành Nghị định số
62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành

một số điều của Luật Thi hành án dân sự, Nghị định số 33/2020/NĐ-CP ngày
17/3/2020 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18
tháng 7 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số
điều của Luật Thi hành án dân sự, Nghị định số 08/2020/NĐ-CP ngày 08 tháng 01
năm 2020 về Tổ chức và hoạt động của Thừa phát lại, Chỉ thị số 40/CT-TTg ngày
02 tháng 11 năm 2020 về tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động
bán đấu giá tài sản.
Sau hơn 10 năm triển khai thực hiện Luật Thi hành án dân sự 2008, Luật Sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án dân sự năm 2014 cho thấy, thực trạng
công tác thi hành án dân sự ở nước ta trong những năm qua, bên cạnh những kết quả
đã đạt được, tổ chức thi hành án vẫn còn một số tồn tại như số việc chưa có điều
kiện thi hành án còn nhiều, việc vi phạm trình tự, thủ tục thi hành án của Chấp hành
viên vẫn còn nhiều; các hiện tượng tiêu cực, vô tâm, vi phạm đạo đức nghề nghiệp
Chấp hành viên, nghĩa vụ Chấp hành viên hoặc lạm dụng quyền hạn theo quy định
của pháp luật của một số Chấp hành viên hoặc công chức thi hành án vẫn còn xảy ra
ở một số nơi, gây bức xúc cho người dân. Về mặt thể chế, một số quy định của pháp
luật về thi hành án chưa tạo được hành lang pháp lý đầy đủ cho Chấp hành viên chủ
động tổ chức thi hành các bản án, quyết định dân sự theo quy định.
Vị trí, vai trò của Chấp hành viên trong THADS là một nội dung không thể
thiếu trước yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. Do vậy, việc tìm hiểu và nghiên cứu

2


về địa vị pháp lý Chấp hành viên trong THADS là mợt u cầu cần thiết góp phần
thực hiện thành công yêu cầu cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay. Việc nghiên cứu
này có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Bởi nó góp phần vào việc làm rõ và cũng
cố lý luận về địa vị pháp lý Chấp hành viên trong THADS, góp phần quan trọng vào
việc hoàn thiện các quy định pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể của Chấp
hành viên, nhằm định hướng hoạt động của Chấp hành viên, đáp ứng yêu cầu của

cải cách tư pháp hiện nay. Với lý do đó, tơi đã lựa chọn nghiên cứu đề tài: Địa vị
pháp lý Chấp hành viên trong thi hành án dân sự từ thực tiễn Thành phố Hồ Chi
Minh làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ. Thông qua đề tài này, tơi muốn
làm rõ hơn vị trí, vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên trong THADS
(từ thực tiễn Thành phố Hờ Chí Minh), từ đó, đề xuất mợt số kiến nghị nhằm hồn
thiện các quy định pháp luật về Chấp hành viên trong THADS, nâng cao hiệu quả
công tác THADS.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Theo thống kê không đầy đủ thì cũng có mợt số cơng trình nghiên cứu về địa vị
pháp lý Chấp hành viên trong THADS, có thể kể đến mợt số cơng trình nghiên cứu
như: Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bợ:“Đề án kiện tồn mơ hình tổ chức và đội ngũ
cán bộ thi hành án để thực hiện có hiệu quả Luật thi hành án dân sự năm 2008” , mã số
2010-8219 do PGS.TS Nguyễn Văn Luyện, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục Thi
hành án dân sự làm chủ nhiệm đề tài; Đề án cấp Bợ: “Khảo sát khoa học về quy trình,
thủ tục thi hành các bản án có tài sản thi hành là bất động sản và các giải pháp nhằm
đảm bảo tính thống nhất cho các quy trình này” do bà Đinh Thị Mai Phương làm chủ
nhiệm. Luận án tiến sỹ luật học tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hờ Chí
Minh của tác giả Nguyễn Thanh Thủy, năm 2008 với đề tài Hoàn thiện pháp luật thi
hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay; Luận văn thạc sỹ luật học tại Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hờ Chí Minh của tác giả Đặng Đình Quyền, năm 2012, với đề tài
Năng lực của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự ở Việt Nam; Luận văn thạc sỹ
luật học tại tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hờ Chí Minh của tác giả
Nguyễn Thị Phíp, năm 2009, với đề tài Hồn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên
trong thi hành án dân sự tại Việt Nam; Ngoài ra, còn có các tài liệu tham khảo khác
như: Giáo trình mơn Luật Thi hành án dân sự

3


của trường Đại học Ḷt Hà Nợi; Giáo trình Kỹ năng Thi hành án dân sự (phần chung
và phần nghiệp vụ thi hành án) của Học viện Tư pháp; Bình luận Luật Thi hành án dân

sự của Thạc sỹ, Chấp hành viên Hồng Thị Thanh Hoa, Giảng viên Hờ Qn Chính,
Học viện Tư pháp, Thạc sỹ Nguyễn Văn Nghĩa, Nhà xuất bản Tư pháp năm 2019. Các
cơng trình nghiên cứu trên đã nghiên cứu, luận giải được những khía cạnh nhất định về
vai trò, nhiệm vụ, quyền hạn và nhiệm vụ của Chấp hành viên trong THADS, song
chưa có cơng trình nào nghiên cứu chuyên sâu về địa vị pháp lý của Chấp hành viên
THADS từ thực tiễn một địa phương cụ thể. Mặt khác, đa số các cơng trình nghiên cứu
đó đều được thực hiện trước khi có Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi
hành án dân sự. Nay, theo Luật Thi hành án dân sự (sửa đổi, bổ sung năm 2014) thì
nhiều quy định về địa vị pháp lý của Chấp hành viên đã có sự thay đổi đáng kể.

Luận văn Địa vị pháp lý Chấp hành viên trong thi hành án dân sự tư thực
tiễn Thành phố Hờ Chí Minh được thực hiện trên cơ sở các quy định pháp luật có
liên quan trong thời gian gần đây để phân tích, nghiên cứu, đánh giá về địa vị pháp
lý Chấp hành viên trong THADS.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đich nghiên cứu
Việc nghiên cứu đề tài này nhằm làm rõ những vấn đề lý luận, nội dung các
quy định về hoạt động của Chấp hành viên theo luật Thi hành án dân sự cũng như
tình hình thực tiễn áp dụng pháp luật về hoạt động của Chấp hành viên trong
THADS. Từ đó đưa ra mợt số giải pháp nhằm nâng cao địa vị pháp lý của Chấp
hành viên theo hướng cải cách tư pháp như Bợ Chính trị đã đề ra trong các nghị
quyết 08, 49 và 48.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu các nội dung sau:

- Nghiên cứu, phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý
Chấp hành viên trong THADS.
- Nghiên cứu, phản ánh thực trạng địa vị pháp lý Chấp hành viên trong
THADS sự từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh, tìm ra những tờn tại, hạn chế, khó
khăn, vướng mắc.


4


- Đề xuất, kiến nghị một số nội dung, giải pháp nhằm bảo đảm địa vị pháp lý
Chấp hành viên trong THADS nói chung và tại Thành phố Hờ Chí Minh nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là các quy định của pháp luật THADS về địa
vị pháp lý Chấp hành viên và thực tiễn áp dụng các quy định về hoạt động của Chấp
hành viên trong THADS.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu về không gian: Tập trung nghiên cứu vị trí, vai trò, thẩm
quyền, phạm vi hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của Chấp viên trong THADS trên
địa bàn Thành phố Hờ Chí Minh gồm: Cục Thi hành án dân sự Thành phố Hồ Chí
Minh và 22 Chi cục THADS quận, huyện, thành phố trực thuộc, không đề cập đến
hoạt động của Chấp hành viên tại cơ quan thi hành án dân sự thuộc Bộ Quốc phòng.
Phạm vi nghiên cứu về thời gian: Từ khi Luật Thi hành án dân sự năm 2008
có hiệu lực cho đến nay, các sửa đổi và các văn bản hướng dẫn thi hành.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận để thực hiện đề tài này là chủ nghĩa duy vật biện chứng,
và duy vật lịch sử. Các phương pháp nghiên cứu được sử dụng gờm:
- Phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp áp dụng trong phần cơ sở lý luận
trình bày tại Chương 1 của luận văn.
- Phương pháp thống kê, phân tích, khảo sát thực tế, so sánh được sử dụng
cho những nội dung nêu tại Chương 2 của luận văn.
- Phương pháp phân tích, tổng hợp và quy nạp áp dụng tại Chương 3 của
luận văn.
Luận văn cũng tham khảo và kế thừa một số phương pháp và tài liệu của Cục
Thi hành án dân sự Thành phố Hờ Chí Minh từ năm 2017 đến nay.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài giúp cho cơ quan lập pháp lựa chọn giải pháp
hoàn thiện các quy định pháp luật về địa vị pháp lý Chấp hành viên trong THADS,
các quy định về thủ tục tố thi hành án dân sự và các quy định liên quan đến quá
trình tổ chức hành án của Chấp hành viên để việc tổ chức thi hành án của các cơ

5


quan Thi hành án Tòa án được khách quan, hiệu quả, tạo ra hành lang pháp lý vững
chắc cho Chấp hành viên khi thực hiện tổ chức thi hành án.
Bên cạnh đó, luận văn còn có ý nghĩa thực tiễn rất lớn cho những người làm
công tác thực tiễn mà cụ thể ở đây là Chấp hành viên, giúp cho Chấp hành viên có
nhận thức đúng đắn về nhiệm vụ quyền hạn và trách nhiệm của họ được pháp luật
quy định để từ đó áp dụng cho thống nhất, chính xác, tránh áp dụng tùy tiện. Luận
văn có thể là tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, học tập đối với công chức
ngành THADS.
Trên cơ sở nghiên cứu đề tài "Địa vị pháp lý Chấp hành viên trong THADS từ
thực tiễn Thành phố Hờ chí Minh" ḷn văn đã làm rõ những vấn đề lý luận về địa
vị pháp lý của Chấp hành viên; nghiên cứu thực trạng các quy định pháp luật về
hoạt động của Chấp hành viên trong THADS; tìm hiểu thực tiễn áp dụng các quy
định pháp luật về hoạt động của Chấp hành viên để thấy được những kết quả đạt
được và chưa đạt được, tìm ra những ngun nhân. Trên cơ sở đó ḷn văn đưa ra
mợt số giải pháp hồn thiện nhằm hoàn thiện địa vị pháp lý của Chấp hành viên
theo hướng cải cách tư pháp như Bợ Chính trị đã đề ra.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi lời nói đầu, phần kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
được cơ cấu gồm 3 chương, như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về địa vị pháp lý Chấp hành viên trong
THADS.

Chương 2: Thực trạng địa vị pháp lý Chấp hành viên trong THADS tư thực
tiễn Thành phố Hờ Chí Minh.
Chương 3: Định hướng, giải pháp hồn thiện địa vị pháp lý Chấp hành viên
trong THADS.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐẾ LÝ LUẬN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CHẤP HÀNH VIÊN
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, vị trí, vai trị của Chấp hành viên
1.1.1. Quan niệm, lịch sử hình thành Chấp hành viên ở nước ta
1.1.1.1. Quan niệm về Chấp hành viên
Dưới góc đợ tḥt ngữ, cụm từ “thi hành án” được Từ điển Luật học định
nghĩa:“Thi hành án, giai đoạn kết thúc trình tự tố tụng, là khâu cuối cùng kết thúc
một vụ án được xét xử nhằm làm cho các phán quyết của Tòa án nhất định có hiệu
lực pháp luật. Vì vậy, bản án sau khi có hiệu lực thi hành phải được thi hành
nghiêm chỉnh”.
Dưới góc đợ chính sách pháp ḷt của Nhà nước ta, hoạt động thi hành án
được coi là hoạt động tư pháp, cụ thể là Nghị quyết số 08/NQ-TW ngày 02/01/2002
của Bợ Chính trị về Mợt số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới
đề ra chủ trương tiếp tục cải cách, đổi mới tổ chức hoạt động các cơ quan tư pháp,
đã nhấn mạnh:“Thành lập cảnh sát tư pháp trên cơ sở tổ chức và lực lượng hiện có
ở ngành cơng an để hỡ trợ cơng tác thi hành án hình sự, dân sự..., khẩn trương ban
hành Bộ luật Tố tụng Dân sự, Bộ luật Tố tụng Hình sự, Luật Thi hành án… làm cơ
sở pháp lý cho hoạt động của các cơ quan tư pháp. Ngoài ra, Nghị quyết số 49/NQTW ngày 02/6/2005 của Bợ Chính trị về Chiến lược Cải cách tư pháp đến năm 2020
cũng nêu rõ: “Chuẩn bị về điều kiện cán bộ, cơ sở vật chất để giao cho Bộ Tư pháp
giúp Chính phủ thống nhất quản lý công tác thi hành án. Tưng bước thực hiện xa
hội hóa, giao cho tổ chức khơng phải là cơ quan nhà nước thực hiện một số công

việc thi hành án… Xây dựng lực lượng cảnh sát hỗ trợ tư pháp chính quy, đáp ứng
kịp thời cho hoạt động xét xử, thi hành án”.
Dưới góc đợ thực tiễn, Ḷt Thi hành án dân sự 2008 (sửa đổi, bổ sung năm
2014) đã đi vào thực tế cuộc sống và theo quy định của Luật này thì, hệ thống tổ
chức thi hành án dân sự (trừ hệ thống tổ chức thi hành trong quân đội) được tổ chức
và quản lý tập trung, thống nhất theo hệ thống dọc từ Trung ương đến địa phương;
khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn, Chấp hành viên phải tuân theo pháp luật, chịu
7


trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án - những quy định này mang đậm
tính chất tư pháp. Tại Tờ trình số 31/TTr-CP ngày 04/4/2008 của Chính phủ về dự
án Luật Thi hành án dân sự cũng đã khẳng định:“Thi hành án dân sự có vai trò
quan trọng trong hoạt động tư pháp nói chung và q trình giải quyết vụ án nói
riêng. Bản án, quyết định của Tòa án chỉ thực sự có giá trị khi được thi hành trên
thực tế. Hoạt động thi hành án là công đoạn cuối cùng, bảo đảm cho bản án, quyết
định của Tòa án được chấp hành, góp phần bảo đảm tính nghiêm minh của pháp
luật và tăng cường pháp chế xa hội chủ nghĩa; bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp
của tổ chức, cá nhân và Nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xa hội,
tăng cường hiệu lực, hiệu quả của bộ máy nhà nước”.
Nói tóm lại, hoạt động thi hành án là một trong những hoạt động tư pháp của
Nhà nước nhằm đảm bảo cho các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định
khác được thi hành theo đúng quy định của pháp luật.
Chấp hành viên thi hành án dân sự, xét về cả phương diện lý luận và phương
diện thực tiễn, là một chức danh tư pháp đã được quy định từ rất sớm trong các văn
bản pháp luật về THADS. Từ khi có Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1989 đến
nay, các quy định về vai trò, vị trí, thẩm quyền, chức năng, nhiệm vụ và tầm quan
trọng của chức danh Chấp hành viên thi hành án dân sự ngày càng được bổ sung,
hoàn thiện đầy đủ, xác định vị trí của chức danh này trong bợ máy tổ chức cơ quan
thi hành án dân sự cũng như trong quá trình tổ chức thi hành án.

Điều 17 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy định:
“1. Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án,
quyết định theo quy định tại Điều 2 của Luật này. Chấp hành viên có ba ngạch
là Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp.
2. Chấp hành viên do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm
3. Chính phủ quy định trình tự, thủ tục thi tuyển, bổ nhiệm Chấp hành viên”.
Qua nghiên nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về THADS, quy
định về nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên, có thể đưa ra quan niệm về Chấp
hành viên như sau:
Chấp hành viên là công chức thi hành án dân sự, là người được Nhà nước giao
nhiệm vụ trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định dân sự theo quy định của

8


Luật Thi hành án dân sự. Chấp hành viên do Bộ trưởng Bộ Tư pháp bổ nhiệm.
Chấp hành viên được cấp trang phục, phù hiệu để sử dụng trong khi thi hành công
vụ, được hưởng tiền lương, chế độ phụ cấp phù hợp với nghề nghiệp và chế độ ưu
đai khác theo quy định của Chính phủ.
1.1.1.2. Khái quát lịch sử hình thành Chấp hành viên
Khái niệm “Chấp hành viên” được ra đời khá sớm ở Việt Nam. Người thực
hiện ban đầu chưa được gọi Chấp hành viên mà là Ban Tư pháp xã và Thừa phát lại
(Sắc lệnh số 130/SL ngày 19/7/1946 của Chủ tịch Hờ Chí Minh, từ tháng 7/1946
đến tháng 7/1960 nhiệm vụ thi hành án do Thẩm phán kiêm nhiệm vừa xét xử vừa
tổ chức thi hành bản án, quyết định. Sau đó, trong khoảng 12 năm (từ tháng 7/1960
đến tháng 10/1972), bố trí ở các Tòa án nhân dân địa phương. Theo đó, Phòng Chỉ
đạo thi hành án được thành lập từ ngày 14/11/1974 [25, tr. 158].
Từ ngày 13/10/1972, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao đã ra Quyết định số
186-TC về tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên và Thông tư số 186TC cùng ngày hướng dẫn thực hiện Quyết định số 186-TC đã thay tên gọi “Nhân
viên Chấp hành án” bằng tên gọi “Chấp hành viên”, tuy nhiên về tổ chức thì Chấp

hành viên vẫn được bố trí ở các Tòa án địa phương dưới sự quản lý của Chánh án
Tòa án để thực hiện chuyên trách việc thi hành án. Khái niệm “Chấp hành viên” ra
đời và được sử dụng thống nhất trong Luật Thi hành án dân sự và trong các văn bản
pháp luật khác có liên quan từ đó đến nay. Như vậy, khái niệm “Chấp hành viên”
được ra đời từ các tên gọi trước đây xuất phát từ các quy định của pháp luật Việt
Nam như “Thừa phát lại”, “Chấp hành viên đồng thời là Thẩm phán”, “Nhân viên
Chấp hành án” [25, tr. 159].
Điều 17 Luật Thi hành án dân sự năm 2008 (sửa đổi, bổ sung năm 2014) quy
định: Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các bản án,
quyết định theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự.
Trước khi có Luật Thi hành án dân sự năm 2008, việc tổ chức thi hành bản
án, quyết định về dân sự do Chấp hành viên thực hiện. Tuy nhiên, đồng thời với
việc ban hành Luật Thi hành án dân sự năm 2008 thì Quốc hợi cũng ban hành Nghị
quyết số 24/2008/QH12 ngày 14/11/2008 về việc thi hành Luật Thi hành án dân sự,
theo đó, Nghị quyết quy định để triển khai thực hiện chủ trương xã hợi hóa mợt số

9


công việc liên quan đến thi hành án dân sự, giao Chính phủ quy định và tổ chức
thực hiện thí điểm chế định Thừa phát lại (Thừa hành viên) tại mợt số địa phương.
Việc thí điểm được thực hiện từ ngày luật này có hiệu lực đến ngày 01/7/2012. Đây
là một trong những nội dung triển khai thực hiện chiến lược cải cách tư pháp của
Đảng. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bợ Chính trị về Chiến lược
Cải cách tư pháp đến năm 2020 đã khẳng định: “Tưng bước thực hiện xa hội hóa và
quy định những hình thức, thủ tục để giao cho tổ chức không phải là cơ quan Nhà
nước thực hiện một số công việc thi hành án”. Trên cơ sở Nghị quyết này của Đảng,
Quốc hội đã lần lượt ban hành 03 Nghị quyết từng bước thực hiện thí điểm chế định
Thừa phát lại; bắt đầu từ năm 2010 thí điểm riêng Thành phố Hờ Chí Minh, từ ngày
01/7/2012 đến hết ngày 31/12/2015 thực hiện thí điểm nhân rợng trên phạm vi 13

tỉnh thành phố và kể từ ngày 01/01/2016 đã chấm dứt việc thí điểm để thực hiện
chính thức, đánh dấu sự ra đời của một nghề mới, nghề Thừa phát lại, trên phạm vi
cả nước ở Việt Nam. Các Nghị quyết quan trọng của Quốc hợi liên quan đến việc thí
điểm và tổ chức hoạt động của Thừa phát lại bao gồm, Nghị quyết số
24/2008/QH12 ngày 14/11/2008 về Luật Thi hành án dân sự, Nghị quyết số
36/2012/QH13 ngày 23/11/2012 về việc tiếp tục thực hiện thí điểm chế định Thừa
phát lại. Tại kỳ họp thứ 10, Quốc hợi khóa VIII đã thơng qua Nghị quyết số
107/2015/QH13 ngày 26/11/2015 về thực hiện chế định Thừa phát lại trong phạm vi
cả nước kể từ ngày 01/01/2016.
Như vậy, hiện nay, bên cạnh chức danh Chấp hành viên còn có chức danh
Thừa phát lại. Do vậy nếu nói chỉ có chức danh Chấp hành viên mới có thẩm quyền
tổ chức thi hành bản án, quyết định về dân sự là hoàn toàn chưa phù hợp với quy
định của pháp luật hiện hành và không phù hợp với thực tiễn công tác Thi hành án
dân sự. Nếu chế định Thừa phát lại vẫn tồn tại và phát triển thì quy định của Luật
Thi hành án dân sự phải cần có sự sửa đổi, bổ sung cho phù hợp khi quy định về
người được giao tổ chức thi hành bản án, quyết định [25, tr. 160].
Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được ban hành và có hiệu lực từ ngày 01
tháng 7 năm 2009 đã đánh dấu mợt bước ngoặt lớn về kiện tồn của hệ thống các cơ
quan thi hành án dân sự, các chức danh thi hành án dân sự, một bước tiến quan
trọng trong việc hoàn thiện thể chế về thi hành án dân sự. Luật Thi hành án dân sự

10


năm 2008 và trong cả những nội dung sửa đổi, bổ sung bởi Luật số 64/2014/QH13
ngày 25 tháng 11 năm 2014 của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi
hành án dân sự, có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2015 (sau đây gọi tắt là Luật
Thi hành án dân sự), Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án
dân sự (sau đây gọi tắt là Nghị định 62) đã quy định rất rõ về nhiệm vụ, quyền hạn

của Chấp hành viên và các quy định khác có lên quan đến chức danh Chấp hành
viên.
Tham gia vào q trình THADS có rất nhiều chủ thể và mỗi chủ thể có vị trí,
vai trò khác nhau. Trong đó, chủ thể tham gia vào hầu hết các giai đoạn của quá
trình thi hành án và là người giữ vị trí, vai trò tổ chức thi hành án được gọi là “Chấp
hành viên”. Chấp hành viên là người được Nhà nước giao nhiệm vụ thi hành các
bản án, quyết định dân sự được đưa ra thi hành.
1.1.1.3. So sánh chức danh Chấp hành viên với một số chức danh khác liên
quan
* So sánh chức danh Chấp hành viên với chức danh Thẩm tra viên trong thi
hành án dân sự
Xét trên phương diện pháp lý và trên phương diện thực thi chức trách nhiệm
vụ được quy định trong Luật Thi hành án dân sự và các văn bản có liên quan thì hai
chức danh này hồn tồn khác biệt. Nếu Chấp hành viên là công chức chuyên mơn
nghiệp vụ THADS có nhiệm vụ trực tiếp tổ chức thi hành bản án, quyết định dân sự,
có quyền thực hiện thông báo thi hành án, quyết định về thi hành án như quyết định
áp dụng các biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế thi hành án.v.v… thì Thẩm tra
viên cũng là công chức THADS nhưng không trực tiếp tham gia tổ chức thi hành án,
khơng có thẩm qùn ra các quyết định về thi hành án, mà làm nhiệm vụ kiểm tra
công tác thi hành án như là hoạt đợng kiểm sốt trong “nợi bợ” ngành, nợi bợ cơ
quan, đơn vị để kịp thời phát hiện các thiếu sót, vi phạm trong quy trình thủ tục tổ
chức thi hành án của Chấp hành viên, thực hiện nhiệm vụ giải quyết các khiếu nại,
tố cáo của đương sự đối với các hoạt động thi hành án, mà đa số là khiếu nại, tố cáo
các văn bản, quyết định, hành vi của Chấp hành viên. Tuy nhiên trong hoạt động
THADS hai chức danh này có mối quan hệ hỗ trợ, hoạt động trực tiếp tổ

11


chức thi hành án của Chấp hành viên làm phát sinh hoạt động kiểm tra, giải quyết

khiếu nại, tố cáo của Thẩm tra viên khi Chấp hành viên có sai sót, vi phạm trong
q trình tác nghiệp; ngược lại, nhờ hoạt động kiểm tra của Thẩm tra viên sẽ giúp
Chấp hành viên hạn chế, khắc phục được các sai sót, vi phạm xảy ra trong thực thi
nhiệm vụ của mình. Mặt khác, khái niệm Chấp hành viên được quy định từ khi có
Pháp lệnh Thi hành án dân sự năm 1993 và ngày càng được hoàn thiện thể hiện
trong Luật Thi hành án dân sự năm 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành đã có
nhiều quy định về nhiệm vụ, quyền hạn, trình tự, thủ tục tổ chức thi hành án của
Chấp hành viên trong khi chức danh Thẩm tra viên lần đầu tiên được quy định trong
Nghị định số 50/2005/NĐ-CP ngày 11 tháng 4 năm 2005 của Chính phủ.
* So sánh chức danh Chấp hành viên với chức danh Thưa phát lại
Thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước về xã hợi hóa cơng tác thi hành
án dân sự thì sự ra đời của Văn phòng Thừa phát lại đã giúp cho người dân cũng
như các tổ chức... được quyền lựa chọn về việc yêu cầu thi hành án tại Cơ quan thi
hành án hoặc tại Văn phòng Thừa phát lại. Thừa phát lại là người được Nhà nước bổ
nhiệm để làm các công việc về thi hành án dân sự, tống đạt giấy tờ, lập vi bằng và
các công việc khác theo quy định của Nghị định và pháp luật có liên quan. Do đó,
giữa chức danh Chấp hành viên và chức danh Thừa phát lại có mợt số đặc điểm
giống nhau về thẩm qùn, chức năng nhiệm vụ như trực tiếp tổ chức thi hành các
bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của đương sự, xác minh điều kiện thi
hành án, thực hiện việc tống đạt các văn bản giấy tờ cho đương sự. Tuy nhiên, giữa
Chấp hành viên và Thừa phát lại có mợt số đặc điểm khác nhau như: Thừa phát lại
được lập vi bằng theo yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức; Thừa phát lại không tổ
chức thi hành các bản án, quyết định trong trường hợp Thủ trưởng Cơ quan thi hành
án dân sự chủ động ra quyết định thi hành án; trong khi Chấp hành viên là người
được Nhà nước giao nhiệm vụ tổ chức thi hành các các bản án, quyết định dân sự
theo quy định tại Điều 2 của Luật Thi hành án dân sự (không phân biệt là trường
hợp chủ động ra quyết định thi hành án hay trường hợp ra quyết định thi hành án
theo đơn yêu cầu). Khi tổ chức thi hành án Thừa phát lại khơng có qùn áp dụng
biện pháp bảo đảm, biện pháp cưỡng chế và thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính như Chấp hành viên. Và dù là Thừa phát lại hay Chấp hành viên đều phải


12


thực hiện đúng trình tự, thủ tục, tuân thủ các quy định của pháp luật về thi hành án,
và đều chịu sự kiểm sát của Viện Kiểm sát nhân dân theo quy định của Luật tổ chức
Viện Kiểm sát nhân dân và quy định pháp luật liên quan. Hệ thống pháp luật về
Thừa phát lại cũng chưa được hoàn thiện cũng gây khó khăn nhiều cho hoạt đợng
của Thừa phát lại.
* So sánh chức danh Chấp hành viên với Thẩm phán, Kiểm sát viên
Chấp hành viên có ba ngạch là Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung
cấp và Chấp hành viên cao cấp. Hiện nay, trong ngành Kiểm sát và Tòa án cũng có
các ngạch kiểm sát viên (Điều 76 Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014),
các ngạch Thẩm phán tương tự như ngạch Chấp hành viên (Điều 66 Luật Tổ chức
Tòa án nhân dân năm 2014).
Tuy nhiên, theo quy định Thẩm phán là chức danh xét xử chuyên nghiệp và
là công chức nhà nước. Trong hội đồng xét xử, Thẩm phán được coi là chun gia
có trình đợ chun mơn cao về pháp ḷt. Thẩm phán đóng vai trò chính “gánh vác”
chức năng xét xử của Tòa án. Đối với Kiểm sát viên thì tại Điều 74 và Điều 83 của
Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định: “Kiểm sát viên là người
được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để thực hiện chức năng thực hành
quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp”. Như vậy, Thẩm phán hay Kiểm sát
viên đều có mợt số đặc điểm giống Chấp hành viên, đó là đều là cơng chức nhà
nước, được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, về bản chất, Thẩm
phán, Kiểm sát viên có vai trò, chức trách, nhiệm vụ hoàn toàn khác biệt với Chấp
hành viên, đó là, nhiệm vụ của Kiểm sát viên là thực hành quyền công tố và kiểm
sát các hoạt đợng tư pháp (trong đó có hoạt đợng THADS), còn Thẩm phán là chức
danh xét xử. Chấp hành viên là công chức chuyên môn nghiệp vụ THADS, là người
được Nhà nước giao thực hiện nhiệm vụ tổ chức thi hành các bản án, quyết định
theo Luật Thi hành án dân sự, quá trình tổ chức thi hành Chấp hành viên chịu sự

kiểm tra, giám sát, kiểm tra trực tiếp từ Viện Kiểm sát cùng cấp hoặc cấp trên và
chịu sự kiểm sát trực tiếp từ Kiểm sát viên được phân công làm nhiệm vụ trực tiếp
kiểm sát hoạt động THADS.
1.1.2. Đặc điểm, các ngạch Chấp hành viên
1.1.2.1. Đặc điểm của Chấp hành viên

13


Chấp hành viên có các đặc điểm cơ bản sau:
* Chấp hành viên là công chức nhà nước, được bổ nhiệm theo quy định của
pháp luật.
Chấp hành viên là công chức chuyên môn nghiệp vụ thi hành án dân sự, trực
tiếp tổ chức thi hành những vụ việc, quyết định dân sự theo quy định tại Điều 2 của
Luật Thi hành án dân sự. Trong hoạt động THADS, Chấp hành viên giữ vị trí trung
tâm, là người được Nhà nước giao nhiệm vụ trực tiếp tổ chức thi hành các bản án,
quyết định dân sự; khi tổ chức thi hành án, Chấp hành viên độc lập, nhân danh sử
dụng quyền lực Nhà nước để kịp thời tổ chức thi hành án.
1.1.2.2. Các ngạch Chấp hành viên
Tại Điều 3 của Thông tư số 03/2017/TT-BTP ngày 05 tháng 04 năm 2017 của
Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ
của các ngạch công chức chuyên ngành THADS thì chức danh Chấp hành viên thi
hành án dân sự được chia làm ba ngạch, với tên, mã ngạch như sau:
(1) Chấp hành viên cao cấp; Mã số ngạch: 03.299
(2) Chấp hành viên trung cấp; Mã số ngạch: 03.300
(3) Chấp hành viên sơ cấp; Mã số ngạch: 03.301
a) Chấp hành viên cao cấp: Chấp hành viên cao cấp là công chức chuyên
môn nghiệp vụ THADS, thi hành án hành chính cao nhất; trực tiếp tổ chức thi hành
những vụ việc THADS, thi hành án hành chính đặc biệt phức tạp, có liên quan đến
các ngành, các cấp, các địa phương hoặc có ́u tố nước ngồi tḥc thẩm quyền

của Cục Thi hành án dân sự.
b) Chấp hành viên trung cấp: Chấp hành viên trung cấp là công chức chun
mơn nghiệp vụ THADS, thi hành án hành chính, trực tiếp tổ chức thi hành những vụ
việc THADS; thi hành án hành chính phức tạp, tài sản phải thi hành lớn; việc thi
hành án liên quan liên quan đến nhiều địa phương thuộc thẩm quyền của Cục Thi
hành án dân sự, Chi cục Thi hành án dân sự.
c) Chấp hành viên sơ cấp: Chấp hành viên sơ cấp là công chức chuyên môn
nghiệp vụ THADS, thi hành án hành chính, có trách nhiệm trực tiếp tổ chức
THADS, đơn đốc thi hành án hành chính đối với những vụ việc đơn giản, lượng

14


tiền, tài sản phải thi hành án có giá trị không lớn thuộc thẩm quyền thi hành của Cục
Thi hành án dân sự, Chi cục Thi hành án dân sự.
Ngoài ra từ Điều 5 đến Điều 7 của Thông tư số 03/2017/TT-BTP ngày 05
tháng 04 năm 2017 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp (sau đây gọi tắt là Thông tư 03) còn
quy định cụ thể chức trách, nhiệm vụ và tiêu chuẩn chuyên môn nghiệp vụ của các
ngạch Chấp hành viên cao cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên sơ cấp.
1.1.3. Bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, điều động, luân chuyển, biệt phái
Chấp hành viên
1.1.3.1. Bổ nhiệm Chấp hành viên
Theo quy định tại Điều 18 Luật Thi hành án dân sự quy định tiêu chuẩn bổ
nhiệm Chấp hành viên sơ cấp, Chấp hành viên trung cấp và Chấp hành viên cao cấp
ở mỗi ngạch yêu cầu sẽ phải có các điều kiện về hiểu biết và trình đợ ở mức tương
ứng khác nhau. Theo đó, quy định về thẩm quyền bổ nhiệm Chấp hành viên viên
Thi hành án dân sự thuộc về Bộ Tư pháp
Chấp hành viên là cơng chức nhà nước và có vai trò đặc biệt quan trọng đối
với hoạt động thi hành án, cho nên chỉ những người đáp ứng đủ những tiêu chuẩn
do pháp luật quy định mới được bổ nhiệm làm Chấp hành viên. Điểm mới trong tiêu

chuẩn bổ nhiệm Chấp hành viên theo quy định tại Điều 18 Luật Thi hành án dân sự
đó là quy định cụ thể về thời gian làm công tác pháp luật đối với các ngạch Chấp
hành viên. Theo đó, Chấp hành viên sơ cấp phải có thời gian cơng tác pháp ḷt từ
03 năm trở lên, đối với Chấp hành viên trung cấp thì phải có thời gian làm Chấp
hành viên sơ cấp từ 05 năm trở lên, đối với Chấp hành viên cao cấp thì phải có thời
gian làm chấp hành viên trung cấp từ 05 năm trở lên. Một trong các tiêu chuẩn bắt
ḅc để được bổ nhiệm làm Chấp hành viên đó là phải qua kỳ thi và trúng tuyển kỳ
thi tuyển Chấp hành viên ở các ngạch tương ứng. Quy định mới về thi tuyển Chấp
hành viên này nhằm khắc phục hạn chế trong quy trình, thủ tục tuyển chọn để bổ
nhiệm Chấp hành viên theo quy định của pháp luật hiện hành, thông qua thi tuyển
sẽ cho phép lựa chọn được người có đủ tiêu chuẩn, năng lực để bổ nhiệm Chấp hành
viên, tạo khả năng thu hút cán bộ hoạt động ở những lĩnh vực khác, phù hợp với yêu
cầu cải cách tư pháp, cải cách hành chính.

15


Tuy nhiên, việc thi tuyển Chấp hành viên trong thời gian trước mắt cũng có
trường hợp ngoại lệ để phù hợp với điều kiện cụ thể về nguồn công chức làm công
tác thi hành án tại các địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa trong giai đoạn hiện nay.
Nghị quyết số 24/2008/NQ-QH12 ngày 14/11/2008 của Quốc hội về việc thi hành
Luật Thi hành án dân sự đã nhất trí giao cho Chính phủ quy định những cơ quan Thi
hành án dân sự cụ thể ở các địa bàn này được tuyển chọn người có trình đợ cử nhân
ḷt làm Chấp hành viên không qua thi tuyển trong thời hạn 05 năm, kể từ ngày
Luật Thi hành án dân sự có hiệu lực thi hành.
Về thời hạn bổ nhiệm Chấp hành viên: Luật Thi hành án dân sự đã quy định
mới về việc bổ nhiệm Chấp hành viên không kỳ hạn, vừa kế thừa được những ưu
điểm, vừa khắc phục được về cơ bản những hạn chế của việc bổ nhiệm Chấp hành
viên có kỳ hạn. Chấp hành viên là chức danh tư pháp gắn với việc thực hiện nhiệm
vụ chuyên môn về Thi hành án dân sự nên việc bổ nhiệm Chấp hành viên không

theo nhiệm kỳ sẽ tạo ra sự yên tâm để Chấp hành viên làm tốt công tác thi hành án,
điều này cũng không hạn chế việc xử lý kỷ luật nếu Chấp hành viên có vi phạm
hoặc miễn nhiệm nếu chấp hành viên không đủ năng lực, điều kiện làm chấp hành
viên. Hơn nữa, quy định mới về việc bổ nhiệm Chấp hành viên không kỳ hạn cũng
phù hợp với định hướng đã được quy định tại Nghị qút số 49-NQ/TW của Bợ
Chính trị, đó là: “Tăng thời hạn bổ nhiệm chức danh tư pháp hoặc thực hiện chế độ
bổ nhiệm khơng có kỳ hạn”.
1.1.3.2. Miễn nhiệm Chấp hành viên
Ngoài ra, để giảm bớt các thủ tục hành chính, tạo thuận lợi cho Chấp hành
viên khi được chuyển công tác, theo quy định tại Điều 19 Luật Thi hành án dân sự
đã quy định Chấp hành viên đương nhiên được miễn nhiệm trong trường hợp nghỉ
hưu hoặc chuyển cơng tác đến cơ quan khác vì việc làm thủ tục miễn nhiệm chức
danh Chấp hành viên đối với họ trong các trường hợp này là không thật sự cần thiết.
Ngoài ra, Luật Thi hành án dân sự cũng đã quy định các trường hợp phải được Bộ
trưởng Bộ Tư pháp xem xét, quyết định miễn nhiệm Chấp hành viên, đó là trường
hợp do hồn cảnh gia đình hoặc sức khoẻ mà xét thấy khơng thể bảo đảm hoàn
thành nhiệm vụ được giao; do năng lực chuyên môn, nghiệp vụ không bảo đảm thực
hiện nhiệm vụ Chấp hành viên hoặc vì lý do khác mà khơng còn đủ tiêu chuẩn để

16


làm Chấp hành viên. Trình tự, thủ tục miễn nhiệm Chấp hành viên do Chính phủ
quy định được quy định tại Điều 64 Nghị định 62.
1.1.3.3. Cách chức Chấp hành viên
Được quy định tại Điều 65 Nghị định 62, Chấp hành viên có thể bị cách chức
Chấp hành viên khi thuộc một trong các trường hợp sau đây: Vi phạm quy định của
pháp luật trong quá trình tổ chức thi hành án chưa đến mức bị thôi việc hoặc truy
cứu trách nhiệm hình sự nhưng xét thấy cần thiết phải áp dụng hình thức kỷ luật
cách chức Chấp hành viên; Vi phạm nghiêm trọng quy định những điều Chấp hành

viên không được làm mà xét thấy cần thiết phải áp dụng hình thức kỷ luật cách chức
Chấp hành viên. Trình tự, thủ tục để đề nghị Bộ trưởng Bộ Tư pháp quyết định cách
chức Chấp hành viên được thực hiện theo quy định của pháp luật về kỷ luật đối với
cán bộ, công chức.
1.1.3.4. Điều động, luân chuyển, biệt phái Chấp hành viên
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 70 của Nghị định số 62/2015/NĐ-CP thì
thẩm qùn điều đợng, ln chuyển, biệt phái Chấp hành viên đang giữ chức vụ
lãnh đạo thuộc thẩm quyền bổ nhiệm của Bộ trưởng Bộ Tư pháp; Tổng cục trưởng
Tổng cục Thi hành án dân sự quyết định việc điều động, luân chuyển, biệt phái
Chấp hành viên từ tỉnh này sang tỉnh khác, Chấp hành viên viên đang giữ chức vụ
Phó Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp; Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự quyết định điều động, luân
chuyển, biệt phái Chấp hành viên trong địa bàn do mình quản lý. Trường hợp điều
động, luân chuyển Chấp hành viên giữ chức vụ lãnh đạo quản lý thì phải xin ý kiến
của người có thẩm quyền bổ nhiệm chức vụ lãnh đạo trước khi thực hiện điều động,
luân chuyển, trừ trường hợp thuộc thẩm quyền của Tổng cục trưởng Tổng cục Thi
hành án dân sự.
1.1.4. Vai trò, ý nghĩa của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự
1.1.4.1. Chấp hành viên là người trực tiếp tổ chức thi hành các bản án,
quyết định của Tòa án và các quyết định khác do pháp luật quy định.
Tổng thể các quyền và nghĩa vụ của Chấp hành viên phát sinh trong quá trình
thi hành các bản án, quyết định đã có hiệu lực thi hành thể hiện vị trí của Chấp hành
viên trong mối quan hệ với các chủ thể khác của quan hệ pháp luật thi hành án dân

17


sự tạo thành địa vị pháp lý của Chấp hành viên trong thi hành án dân sự. Việc xác
định địa vị pháp lý của Chấp hành viên chịu sự quy định và chi phối của nhiều yếu
tố khác nhau như đặc thù của hoạt động thi hành án dân sự, bản chất của thi hành án

dân sự, vị trí, vai trò của Chấp hành viên hành viên trong THADS [24].
Theo quy định tại Điều 17 Luật Thi hành án dân sự, thì trong hoạt đợng
THADS chỉ có Chấp hành viên là người duy nhất được Nhà nước giao nhiệm vụ
trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Tòa án và các quyết định khác
do pháp luật quy định. Ngoài Chấp hành viên, trong THADS, các chức danh khác
như Thẩm tra viên, Lưu trữ viên, Thủ quỹ… không được trực tiếp tổ chức thi hành
các bản án, quyết định dân sự phát sinh trong quá trình thi hành án dân sự. Tuy
nhiên, khơng phải vì thế mà Chấp hành viên được phép lạm quyền, khi thực hiện
nhiệm vụ, quyền hạn, Chấp hành viên phải tuân theo pháp luật, chịu trách nhiệm
trước pháp luật về việc thi hành án và được pháp luật bảo vệ tính mạng, sức khỏe,
danh dự, nhân phẩm và uy tín.
1.1.4.2. Chấp hành viên là trung tâm, hạt nhân của hoạt động thi hành án
Chấp hành viên là người giữ vị trí trung tâm trong hoạt động THADS, chức
danh Chấp hành viên công chức chuyên mô nghiệp vụ thi hành án dân sự, do Nhà
nước bổ nhiệm để làm nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định dân sự; khi tổ chức
thi hành án, Chấp hành viên nhân danh, sử dụng quyền lực Nhà nước để kịp thời tổ
chức thi hành án
Trong cơ quan Thi hành án dân sự, nhiệm vụ tổ chức thi hành các bản án,
quyết định dân sự là nhiệm vụ chính, xun suốt, kết quả cơng tác THADS hàng
năm của các cơ quan thi hành án dân sự chủ yếu dựa trên kết quả thi hành án về việc
và tiền của các Chấp hành viên, hoạt động của Chấp hành viên góp phần tạo nên uy
tín, sức mạnh cho các cơ quan Thi hành án dân sự. Vai trò của Chấp hành viên có ý
nghĩa đặc biệt quan trọng quyết định kết quả công việc của cơ quan. Nếu như các
phán quyết của Tòa án mới chỉ là trên giấy thì hoạt đợng tác nghiệp của Chấp hành
viên là tác đợng trực tiếp đến qùn và lợi ích của các bên đương sự, do đó hoạt
đợng của Chấp hành viên thường được dư luận xã hội quan tâm chú ý. Tư cách, đạo
đức nghề nghiệp, trình đợ, kỹ năng xử lý vụ việc của Chấp hành viên là những tiêu
chí, thước đo để người dân đánh giá vị thế của cơ quan Thi hành án dân

18



sự, tính chun nghiệp của cơng chức, đánh giá về bợ máy nhà nước và tính nghiêm
minh của pháp ḷt.
1.1.4.3. Hoạt động của Chấp hành viên mang tính độc lập
Điều này được hiểu là trong qúa trình tổ chức thi hành án, Chấp hành viên
không bị tác động, can thiệp từ bất cứ ai, cơ quan nào để buộc phải tổ chức thi hành
án trái quy định của pháp luật. Nhiệm vụ và quyền hạn của Chấp hành viên do pháp
luật THADS quy định, Chấp hành viên tổ chức thi hành bản án, quyết định khi được
thủ trưởng cơ quan Thi hành án phân công.
1.2. Địa vị pháp lý Chấp hành viên trong thi hành án dân sự
1.2.1. Khái niệm địa vị pháp lý Chấp hành viên
Địa vị pháp lý là tổng thể các quyền, nghĩa vụ của một chủ thể pháp luật,
phản ánh vị trí, tư cách pháp lý của chủ thể đó trong các mối quan hệ pháp luật.
Địa vị pháp lý Chấp hành viên trong thi hành án dân sự được hiểu là tổng thể
các quyền và nghĩa vụ tổ chức thi hành án của Chấp hành viên phát sinh trong quá
trình thi hành bản án, quyết định được đưa ra thi hành, thể hiện vị trí của Chấp hành
viên trong mối quan hệ với các chủ thể khác của quan hệ pháp luật thi hành án dân
sự. Trong đó các quyền thi hành án dân sự của Chấp hành viên là phạm vi những
việc mà Chấp hành viên được quyền quyết định, thực hiện trong quá trình thực thi
nhiệm vụ của mình còn nghĩa vụ thi hành án của Chấp hành viên được hiểu là
những việc mà Chấp hành viên phải thực hiện trong quá trình tổ chức thi hành án
nhằm đảm bảo cho việc thi hành bản án, quyết định được nhanh chóng và hiệu quả.
Chấp hành viên không chỉ là chủ thể của quan hệ pháp luật thi hành án dân sự mà
còn là chủ thể của nhiều loại quan hệ pháp luật khác như quan hệ pháp ḷt hành
chính. Vì vậy, ngồi pháp luật thi hành án dân sự, hành vi của Chấp hành viên còn
chịu sự điều chỉnh của các ngành luật khác. Tuy nhiên, nói đến địa vị pháp lý của
Chấp hành viên trong THADS là chỉ nói đến các quyền và nghĩa vụ của Chấp hành
viên với tư cách là người trực tiếp tổ chức thi hành các bản án, quyết định dân sự,
phát sinh trong quá trình THADS, các quyền và nghĩa vụ này trước hết được quy

định tại Luật thi hành án dân sự 2008 và các văn bản hướng dẫn thi hành Luật thi
hành án dân sự 2008, cụ thể, Điều 20 Luật Thi hành án dân sự đã quy định 10 nhóm
nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên:

19


- Kịp thời tổ chức thi hành vụ việc được phân công; ra các quyết định về thi
hành án theo thẩm quyền.
- Thi hành đúng nội dung bản án, quyết định; áp dụng đúng các quy định của
pháp luật về trình tự, thủ tục thi hành án, bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi
ích hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan; thực hiện
nghiêm chỉnh chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp Chấp hành viên.
- Triệu tập đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan để giải quyết
việc thi hành án.
- Xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; yêu cầu
cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu để xác minh địa chỉ, tài sản
của người phải thi hành án hoặc phối hợp với cơ quan có liên quan xử lý vật chứng,
tài sản và những việc khác liên quan đến việc thi hành án.
- Quyết định áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án, biện pháp cưỡng chế
thi hành án; lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án; thu giữ tài sản thi hành án.
- Yêu cầu cơ quan công an tạm giữ người chống đối việc thi hành án theo
quy định của pháp luật.
- Lập biên bản về hành vi vi phạm pháp luật trong khi thi hành án; quyết định
xử phạt hành chính theo thẩm quyền; kiến nghị cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử
lý kỷ luật, xử phạt hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người vi
phạm.
- Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế để thu hồi tiền, tài sản đã chỉ trả
cho đương sự không đúng quy định của pháp luật, thu phí thi hành án dân sự và các
khoản phải nộp khác.

- Được sử dụng công cụ hỗ trợ trong khi thi hành công vụ theo quy định của
Chính phủ.
- Thực hiện nhiệm vụ khác theo sự phân công của Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự.
Khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Chấp hành viên phải tuân theo
pháp luật, chịu trách nhiệm trước pháp luật về việc thi hành án và được pháp luật
bảo vệ tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm và uy tín.
Có thể quan niệm về địa vị pháp lý Chấp hành viên thi hành án dân sự như sau:

20


Địa vị pháp lý Chấp hành viên thi hành án dân sự là tổng thể các quyền và
nghĩa vụ của Chấp hành viên trong các quan hệ pháp luật về thi hành án dân sự,
thể hiện vị trí, vai trò, thẩm quyền, chức trách, nhiệm vụ, quyền lợi, nghĩa vụ và
trách nhiệm của Chấp hành viên khi thực hiện các nhiệm vụ thi hành thi hành các
bản án, quyết định theo quy định của Luật Thi hành án dân sự và các nhiệm vụ
khác theo quy định của pháp luật.
1.2.2. Cấu thành địa vị pháp lý Chấp hành viên
Cấu thành địa vị pháp lý Chấp hành viên bao gồm tổng thể các quyền và
nghĩa vụ của Chấp hành viên phát sinh trong quá trình thi hành các bản án, quyết
định được đưa ra thi hành theo quy định của Luật Thi hành án dân sự.
Địa vị pháp lý của Chấp hành viên gắn liền với các quyền và nghĩa vụ của
Chấp hành viên trong quá trình thi hành án, do đó để xác định địa vị pháp lý của
Chấp hành viên cần nghiên cứu các quy định của pháp luật quy định về các quyền
và nghĩa vụ của Chấp hành viên.
1.2.2.1. Khái quát chung về các quyền và nghĩa vụ của Chấp hành
viên a) Về nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên:
Nhiệm vụ, quyền hạn của Chấp hành viên được quy định tại Điều 20 Luật
Thi hành án dân sự 2008 gờm có 10 nhóm nhiệm vụ, qùn hạn được trình bày ở

phần trên.
b) Quy định nhiệm vụ cụ thể đối với từng ngạch Chấp hành viên:
Theo Thông tư số 03/2017/TT-BTP ngày 05 tháng 04 năm 2017 của Bộ
trưởng Bộ Tư pháp quy định chức danh, mã số ngạch và tiêu chuẩn nghiệp vụ của
các ngạch công chức chuyên ngành Thi hành án dân sự thì thì mỗi ngạch Chấp hành
viên tương ứng có các nhiệm vụ cụ thể như sau:
Thứ nhất, nhiệm vụ cụ thể đối với ngạch Chấp hành viên sơ cấp là trực tiếp tổ
chức thi hành án dân sự, đôn đốc thi hành án hành chính đối với những vụ việc đơn
giản, lượng tiền, tài sản phải thi hành án có giá trị khơng lớn thuộc thẩm quyền thi
hành của Cục Thi hành án dân sự, Chi cục Thi hành án dân sự.
Thứ hai, nhiệm vụ cụ thể đối với ngạch Chấp hành viên trung cấp là trực tiếp
tổ chức thi hành những vụ việc thi hành án dân sự; thi hành án hành chính phức tạp,

21


tài sản phải thi hành lớn; việc thi hành án liên quan liên quan đến nhiều địa phương
thuộc thẩm quyền của Cục Thi hành án dân sự, Chi cục Thi hành án dân sự.
Thứ ba, nhiệm vụ cụ thể đối với ngạch Chấp hành viên cao cấp là trực tiếp tổ
chức thi hành những vụ việc thi hành án dân sự, thi hành án hành chính đặc biệt
phức tạp, có liên quan đến các ngành, các cấp, các địa phương hoặc có ́u tố nước
ngồi tḥc thẩm qùn của Cục Thi hành án dân sự.
Đồng thời, Chấp hành viên còn được hưởng các quyền, phải thực hiện các
chức trách, nhiệm vụ, nghĩa vụ theo quy định của Luật cán bộ, công chức và các
quy định của pháp luật hiện hành.
c) Quy định về trách nhiệm của Chấp hành viên:
Điều 21 Luật Thi hành án dân sự quy định những việc Chấp hành viên không
được làm, gồm:
- Những việc mà pháp luật quy định công chức không được làm.
- Tư vấn cho đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan dẫn đến việc

thi hành án trái pháp luật.
- Can thiệp trái pháp luật vào việc thi hành án hoặc lợi dụng ảnh hưởng của
mình tác đợng đến người có trách nhiệm thi hành án.
- Sử dụng trái phép vật chứng, tiền, tài sản thi hành án.
- Thực hiện việc thi hành án liên quan đến quyền, lợi ích của bản thân và
những người sau đây:
+ Vợ, chồng, con đẻ, con nuôi;
+ Cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại,
bác, chú, cậu, cơ, dì và anh, chị, em ṛt của Chấp hành viên, của vợ hoặc của
chồng Chấp hành viên;
+ Cháu ruột mà Chấp hành viên là ông, bà, bác, chú, cậu, cơ, dì;
- Sử dụng thẻ Chấp hành viên, trang phục; phù hiệu thi hành án, công cụ hỗ
trợ để làm những việc không thuộc nhiệm vụ, quyền hạn được giao;
- Sách nhiễu, gây phiền hà cho cá nhân, cơ quan, tổ chức trong quá trình thực
hiện nhiệm vụ thi hành án.
- Cố ý thi hành trái nội dung bản án, qút định; trì hỗn hoặc kéo dài thời
gian giải qút việc thi hành án được giao khơng có căn cứ pháp luật.

22


×