Tải bản đầy đủ (.pdf) (72 trang)

(Luận văn thạc sĩ) vai trò của hội liên hiệp phụ nữ việt nam trong phổ biến, giáo dục pháp luật từ thực tiễn huyện bình chánh, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (665.75 KB, 72 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ XUÂN ĐÀO

VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM
TRONG PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TỪ THỰC
TIỄN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH

HÀ NỘI, 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ XUÂN ĐÀO

VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP PHỤ NỮ VIỆT NAM
TRONG PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT TỪ THỰC
TIỄN HUYỆN BÌNH CHÁNH, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. NGUYỄN CẢNH HỢP

HÀ NỘI, 2021




MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt
Nam của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân thì việc hiểu biết pháp luật và
chấp hành theo pháp luật của các tổ chức và cá nhân là điều kiện rất quan
trọng, mang tính quyết định sự thành cơng của cả q trình. Vì vậy, việc tun
truyền, phổ biến giáo, dục pháp luật cho nhân dân là nội dung được Đảng và
Nhà nước đặc biệt quan tâm và chỉ đạo thực hiện thường xuyên, liên tục thông
qua nhiều văn bản như Chỉ thị, Kết luận của Ban Bí thư Trung ương Đảng;
Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương Đảng; Luật của Quốc hội và nhiều
Chương trình, kế hoạch thực hiện của hệ thống chính trị ở cơ sở.
Tuy nhiên, từ thực tiễn trong thời gian qua, công tác tuyên truyền,
giáo dục pháp luật cho nhân dân còn nhiều hạn chế, bên cạnh đa số người dân
tuân thủ tốt các chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của
Nhà nước thì vẫn cịn một bộ phận người dân chưa thực sự hiểu biết về pháp
luật, chưa nắm rõ các quy định của pháp luật liên quan đến quyền, lợi ích hợp
pháp, chính đáng của mình trong cơng việc và cuộc sống nên đã có hành vi vi
phạm pháp luật, đồng thời dễ bị lơi kéo, kích động tham gia vào các hoạt
động phi pháp, ảnh hưởng đến tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội và sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam là thành viên của hệ thống chính trị, có
trách nhiệm tham gia cùng các thành viên khác tổ chức các hoạt động tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân theo chức năng, nhiệm vụ
của tổ chức mình. Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã tích cực, trách nhiệm
tham gia thực hiện các nội dung tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho
nhân dân góp phần nâng cao kiến thức và ý thức pháp luật cho nhân dân, đóng
góp tích cực vào q trình phát triển của đất nước. Tuy nhiên, trong giai đoạn
vừa qua việc thực hiện vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ trong công tác phổ


1


biến, giáo dục pháp luật vẫn còn nhiều hạn chế trong quá trình phối hợp tổ
chức thực hiện cũng như thể hiện vị trí, vai trị của một tổ chức chính trị, xã
hội đại diện cho người dân.
Huyện Bình Chánh là huyện ngoại thành của thành phố Hồ Chí Minh,
diện tích rộng, dân số tăng cơ học nhanh, có tốc độ đơ thị hóa cao và tiềm năng
phát triển lớn. Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Bình Chánh là cơ sở Hội cấp
Huyện của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam có vai trị, trách nhiệm trong việc
tham gia thực hiện công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho
người dân trên địa bàn Huyện. Từ những lý do trên, tơi chọn vấn đề “Vai trị
của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong phổ biến, giáo dục pháp luật từ
thực tiễn huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu
để thực hiện luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật
Hành Chính.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân là một vấn đề
mang tính cấp thiết, đã và đang được các nhà nghiên cứu khoa học pháp lý
quan tâm và có nhiều cơng trình nghiên cứu, bài viết đăng trên các tạp chí
chuyên ngành, cụ thể như:
Nguyễn Tất Viễn (2006) Hướng dẫn nghiệp vụ phổ biến, giáo dục pháp
luật, Nxb Tư pháp. Bài viết tập trung vào việc giải thích các khái niệm liên
quan đến cơng tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật và hướng dẫn các biện
pháp nghiệp vụ trong công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật trong tình hình
mới.
Nguyễn Huy Hịa (2013) Mối liên hệ giữa chính sách pháp luật và ý
thức chấp hành pháp luật, Tạp chí Dân chủ và pháp luật - Bộ Tư pháp. Bài viết
góp phần tập trung làm rõ thêm dưới góc độ khoa học và thực tiễn các yếu tố


2


cấu thành chính sách pháp luật, vị trí của chính sách pháp luật và ảnh hưởng
của nó đến q trình hình thành ý thức chấp hành pháp luật.
Luận văn Thạc sĩ Nguyễn Thanh Xuân (2017) Phổ biến giáo dục Pháp
luật từ thực tiễn tỉnh Đồng Tháp. Phổ biến giáo dục Pháp luật từ thực tiễn tỉnh
Đồng Tháp. Luận văn tập trung nghiên cứu về nội dung thực trạng công tác
tuyên truyền phổ biến giáo dục trên địa bàn tỉnh Đồng Tháp từ năm 2010 –
2015, những kết quả đạt được và hạn chế, tồn tại, từ đó đề ra các quan điểm,
giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả cho công tác tuyên truyền, phổ biến pháp
luật cho nhân dân tỉnh Đồng Tháp.
Luận văn Thạc sĩ Vương Vân Huyền (2014) Hoàn thiện pháp luật bảo
vệ quyền Phụ nữ ở Việt Nam hiện nay. Luận văn nghiên cứu và làm sáng tỏ,
phân tích và đánh giá hệ thống quy định pháp luật về bảo vệ quyền phụ nữ; đề
xuất và luận chứng những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật bảo vệ
quyền của phụ nữ ở Việt Nam hiện nay, nhất là trong điều kiện thi hành Hiến
pháp năm 2013 và Luật Bình đẳng giới năm 2006.
Nội dung cơ bản của các nghiên cứu trước là nêu nhiều vấn đề về lý
luận và thực tiễn trong hoạt động tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
nhưng lại chưa nghiên cứu đầy đủ và có hệ thống về vai trị của Hội Liên hiệp
Phụ nữ trong tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho phụ nữ. Do đó, đề
tài “Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong phổ biến, giáo dục
pháp luật từ thực tiễn huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh” sẽ có ý
nghĩa lý luận và thực tiễn khi triển khai nghiên cứu vấn đề này, góp phần nâng
cao hiệu quả cơng tác tun truyền, phổ biến pháp, giáo dục luật trong việc xây
dựng pháp chế xã hội chủ nghĩa, phòng chống tội phạm, bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp, chính đáng của người dân huyện Bình Chánh trong thời gian tới.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu


3


Mục đích nghiên cứu là tìm hiểu, đánh giá vai trị của Hội Liên hiệp Phụ
nữ huyện Bình Chánh trong tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật; nhận
định những kết quả tích cực đã đạt được, những hạn chế vấp phải, phân tích
những nguyên nhân hạn chế và những khó khăn trong q trình thực hiện, từ
đó đề ra phương hướng, đề xuất giải pháp để tăng cường vai trò của tổ chức
Hội trong tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật thời gian tới.
Để đạt được mục đích nêu trên, nghiên cứu này xác định các nhiệm vụ
cụ thể sau:
Thứ nhất: Chỉ ra cơ sở lý luận về vai trị của Hội Liên hiệp Phụ nữ
trong cơng tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.
Thứ hai: Phân tích thực trạng vai trị của cơng tác tun truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật của Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Bình Chánh.
Thứ ba: Đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao vai trị của Hội Liên
hiệp Phụ nữ Huyện trong công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
- Về đối tượng nghiên cứu: luận văn này tập trung nghiên cứu thực trạng
và đề xuất giải pháp để tăng cường vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ trong
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.
- Về phạm vi nghiên cứu: về thời gian nghiên cứu từ năm 2016 đến năm
2020; về không gian: trên địa bàn huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận
Luận văn được xây dựng trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật; quan điểm và đường lối
của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề phổ biến, giáo dục pháp luật.
Phương pháp nghiên cứu là phương pháp duy vật biện chứng và các

phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như:

4


- Phương pháp xã hội học pháp luật nghiên cứu quan điểm, tư tưởng
của phụ nữ, nguyện vọng, nhu cầu của phụ nữ về tuyên truyền, phổ biến, giáo
dục pháp luật.
- Phương pháp tổng hợp, thống kê, so sánh, phân tích được sử dụng
trong xử lý các số liệu, thơng tin thu thập, phân tích trong q trình thực hiện
đề tài.
- Phương pháp lịch sử cụ thể nghiên cứu về thực hiện vai trò của tổ
chức Hội trong tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho phụ nữ trong
từng hoàn cảnh lịch sử, từng thời điểm cụ thể. Bên cạnh đó, tác giả cũng tham
khảo ý kiến các cán bộ, đồng nghiệp có kinh nghiệm về cơng tác Hội.
- Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng 3 nhóm phương pháp nghiên cứu chính, bao gồm:
- Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận: gồm phương pháp nghiên cứu
tài liệu thứ cấp (nghiên cứu các báo cáo, tài liệu, số liệu của các cơ quan quản
lý, cơ quan Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội để làm rõ vấn đề) và phương
pháp chuyên gia.
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn: Phương pháp thống kê, thu
thập và sử lý số liệu thống kê; trên cơ sở số liệu thu thập được, học viên tiến
hành xử lý số liệu và lấy số liệu thống kê một cách khoa học và tiến hành tổng
kết thực tiễn.
- Nhóm phương pháp xử lý thơng tin, số liệu, bao gồm: Phương pháp
phân tích (phân tích các báo cáo, tài liệu, số liệu có liên quan đến tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật cho phụ nữ); phương pháp tổng hợp (học viên tiến
hành thu thập và tổng hợp các tài liệu, số liệu có liên quan của các cơ quan, tổ
chức có liên quan); phương pháp so sánh (dựa trên cơ sở số liệu về kết quả

thực hiện tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho phụ nữ qua các giai
đoạn).
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
5


Luận văn sẽ hệ thống hóa được lý luận cơ bản về công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật và vai trị của Hội Liên hiệp Phụ nữ trong cơng tác phổ biến,
giáo dục pháp luật. Đây là cơ sở cho những nghiên cứu thực tiễn về công tác
phổ biến, giáo dục pháp luật của Hội Liên hiệp Phụ nữ trên địa bàn cấp huyện
và thành phố Hồ Chí Minh.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn phân tích và đánh giá thực trạng công tác tuyên truyền, phổ
biến, giáo dục pháp luật của Hội Liên hiệp Phụ nữ tại huyện Bình Chánh và
trên cơ sở đó xác định được nguyên nhân của thực trạng.
Kết quả nghiên cứu của luận văn đã đề xuất các giải pháp để nâng cao
vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện trong tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật.
Kết quả có thể làm tại liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu, quản lý
trên địa huyện Bình Chánh để giải quyết vấn đề về cơng tác phổ biến, giáo dục
pháp luật theo chương trình, mục tiêu đề ra.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục, luận văn được bố trí trình bày trong 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về vai trị của Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam trong cơng tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật.
Chương 2: Thực trạng vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Bình Chánh,
thành phố Hồ Chí Minh trong cơng tác tun truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật.

Chương 3: Quan điểm, phương hướng và giải pháp nâng cao vai trò của
Hội Liên hiệp Phụ nữ huyện Bình Chánh trong cơng tác tun truyền, phổ biến,
giáo dục pháp luật.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA HỘI LIÊN HIỆP
PHỤ NỮ VIỆT NAM TRONG CÔNG TÁC TUYÊN TRUYỀN,
PHỔ BIẾN, GIÁO DỤC PHÁP LUẬT
1.1. Khái quát về vai trò của Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam trong
tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
1.1.1. Khái niệm phổ biến pháp luật, giáo dục pháp luật
Bên cạnh việc hoàn thiện hệ thống pháp luật, phổ biến, giáo dục pháp
luật là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong quá trình xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Phổ biến là làm cho đông đảo người biết bằng cách truyền đạt trực tiếp
hay thông qua hình thức nào đó. Phổ biến pháp luật là làm cho đông đảo người
biết đến phát luật bằng cách truyền đạt trực tiếp hay thơng qua hình thức nào
đó.
Một số ý kiến xem giáo dục pháp luật là khái niệm chỉ một bộ phận nội
dung của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, đạo đức. Theo quan điểm này
thì q trình tiến hành giáo dục chính trị tư tưởng sẽ hình thành nên ý thức
pháp luật. Điều đó có nghĩa là nếu làm tốt cơng tác giáo dục chính trị tư tưởng
và đạo đức thì pháp luật sẽ được mọi người tơn trọng thực hiện.
Có quan điểm cho rằng giáo dục pháp luật chỉ đơn thuần là hoạt động
tuyên truyền hay giải thích pháp luật khi nhà nước ban hành một văn bản pháp
luật mới hoặc khi thực hiện một chiến dịch nào đó như: phịng chống ma túy,
mại dâm hay thực hiện tháng an tồn giao thơng… thông qua các phương tiện

thông tin đại chúng như đài phát thanh, truyền hình, sách báo v.v... Chỉ cần làm
tốt công tác thông tin tuyên truyền pháp luật là đã có thể làm tốt cơng tác giáo
dục pháp luật.
Ở một góc độ khác, có những ý kiến lập luận rằng: Pháp luật là những
7


quy tắc có tính bắt buộc chung, mọi người phải chấp hành và có nghĩa vụ thực
hiện. Vì thế khơng cần đặt ra vấn đề giáo dục pháp luật, chỉ cần ban hành, phổ
biến pháp luật và mọi người có nghĩa vụ phải thực hiện.
Những quan niệm nêu trên có yếu tố hợp lý và bất hợp lý riêng; vừa
cung cấp những dữ kiện cho việc định nghĩa đầy đủ, đúng đắn khái niệm “giáo
dục pháp luật”, đồng thời cũng thể hiện những hạn chế cần phải tránh.
Thực tế hiện nay, các nhà luật học quan niệm giáo dục pháp luật theo
nghĩa hẹp của khái niệm giáo dục trong khoa học sư phạm. Với hướng tiếp cận
như trên, hiện nay, ở Việt Nam tồn tại định nghĩa phổ biến: Giáo dục pháp luật
là hoạt động định hướng có tổ chức, có chủ định của chủ thể giáo dục, tác động
lên đối tượng giáo dục nhằm mục đích hình thành ở họ những tri thức pháp lý,
tình cảm và hành vi phù hợp với các đòi hỏi của hệ thống pháp luật hiện hành.
Sự hình thành và phát triển ý thức con người là sản phẩm của một quá
trình ảnh hưởng, tác động đồng thời của các điều kiện khách quan và nhân tố
chủ quan. Các điều kiện khách quan có ảnh hưởng mạnh mẽ đến ý thức của
con người, đến việc hình thành nhân cách con người. Đó là những hoạt động
chủ động, có tính định hướng, có tổ chức, có mục đích do con người thực hiện,
khi con người được cung cấp những tri thức khoa học, tri thức về cuộc sống thì
trong họ sẽ dần hình thành lịng tin, tình cảm. Từ đó, họ sẽ nhận thức đúng đắn
và điều chỉnh hành vi của mình một cách phù hợp với đòi hỏi của xã hội. Nếu
như con người được giáo dục có mục đích rõ ràng và có định hướng cụ thể thì
sẽ vượt qua những tác động của điều kiện khách quan, từ đó ở họ hình thành
niềm tin và hành vi đúng đắn, phù hợp. Các Mác đã viết "con người vốn là sản

phẩm của hoàn cảnh và giáo dục. Và do đó con người thay đổi vốn là sản phẩm
của hoàn cảnh và giáo dục thay đổi" [7, tr.20].
Theo đó, hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt động của các
cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật

8


năm 2012 với mục đích là cho người dân hiểu, biết các quy định của pháp luật
và thực hiện theo [42].
1.1.2. Chủ thể, đối tượng của công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
Phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt động xuất phát từ nhu cầu truyền
thụ tri thức về pháp luật – yếu tố bắt buộc mọi công dân phải hiểu biết để chấp
hành. Mọi đối tượng trong xã hội phải được truyền thụ tri thức về pháp luật để
đảm bảo nhận thức, định hướng cho hoạt động sống và làm việc theo pháp luật.
Phổ biến, giáo dục pháp luật là hoạt động định hướng có tổ chức, có
chủ định của chủ thể giáo dục, tác động lên người dân nhằm mục đích hình
thành những tri thức pháp lý, tình cảm và hành vi phù hợp với quy định pháp
luật hiện hành.
Người thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật phải là người có kiến
thức pháp luật, nắm vững tri thức pháp luật, có năng lực truyền tải những kiến
thức pháp lý cho người được giáo dục và hơn thế nữa phải luôn luôn là người
gương mẫu trong việc chấp hành pháp luật để người khác noi theo. Còn người
được giáo dục pháp luật là những người chịu sự tác động có tổ chức, có định
hướng các thơng tin về pháp luật. Trình độ hiểu biết, đặc điểm nhân thân của
người được giáo dục là yếu tố quan trọng mà chủ thể thực hiện giáo dục pháp
luật cần nắm được để lựa chọn hình thức, phương pháp giáo dục cho phù hợp,
mang lại hiệu quả cao. Hình thức giáo dục pháp luật có thể đơn giản, từ thấp
đến cao hay trực quan, trừu tượng cũng là yếu tố góp phần quyết định đến hiệu
quả của giáo dục pháp luật.

Theo quy định tại Điều 1 của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm
2012 “Luật này quy định quyền được thơng tin về pháp luật và trách nhiệm tìm
hiểu, học tập pháp luật của cơng dân; nội dung, hình thức phổ biến, giáo dục
pháp luật; trách nhiệm của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền …” và
theo quy định tại điều 25 đến điều 37 của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật

9


năm 2012 thì trách nhiệm thực hiện cơng tác phổ biến, giáo dục pháp luật là
của cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định; đối tượng của công tác phổ biến,
giáo dục pháp luật là công dân [42], cụ thể:
- Các cơ quan, tổ chức: các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc
Chính phủ; Tịa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân và Kiểm tốn nhà nước;
Chính quyền các cấp ở địa phương; cơ quan, tổ chức, đơn vị trực tiếp quản lý
cán bộ, công chức, viên chức; Ủy ban Mặt trận tổ quốc Việt Nam và các thành
viên của Mặt trận; tổ chức hành nghề pháp luật, tổ chức xã hội nghề nghiệp về
pháp luật, cơ sở đào tạo luật, cơ sở đào tạo, bồi dưỡng chức danh tư pháp; cơ
sở giáo dục của hệ thống giáo dục quốc dân; gia đình.
- Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp; cán bộ, công
chức, viên chức và cán bộ, chiến sỹ trong lực lượng vũ trang nhân dân; báo cáo
viên pháp luật; tuyên truyền viên pháp luật và những người được mời tham gia
phổ biến, giáo dục pháp luật ở cơ sở.
1.1.3. Nội dung, hình thức của phổ biến, giáo dục pháp luật
Nội dung và hình thức của phổ biến giáo dục pháp luật được quy định
tại điều 10, điều 11 của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 [42], cụ
thể:
Về nội dung phổ biến, giáo dục pháp luật:
- Quy định của Hiến pháp và văn bản quy phạm pháp luật, trong tâm là
các quy định về pháp luật dân sự, hinh sự, hành chính, hơn nhân và gia đình,

bình đẳng giới, đất đai, xây dựng, bảo vệ môi trường, lao động, giáo dục, y tế,
quốc phịng, an ninh, giao thơng, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân,
quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan nhà nước, cán bộ, công chức, các văn
bản quy phạm pháp luật mới được ban hành.
- Các điều ước quốc tế mà nước Công hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là thành viên, các thỏa thuận quốc tế.
10


- Ý thức tôn trọng và chấp hành pháp luật; ý thức bảo vệ pháp luật; lợi
ích của việc chấp hành pháp luật; gương người tốt, việc tốt trong thực hiện
pháp luật.
Về hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật, có các hình thức sau:
- Họp báo, thơng cáo báo chí.
- Phổ biến pháp luật trực tiếp; tư vấn, hướng dẫn tìm hiểu pháp luật;
cung cấp thơng tin, tài liệu pháp luật.
- Thông qua các phương tiện thông tin đại chúng, loa truyền thanh,
internet, pa-nơ, áp-phích, tranh cổ động; đăng tải thông tin pháp luật trên trang
thông tin điện tử; niêm yết tại trụ sở; bảng tin của cơ quan, tổ chức, khu dân cự.
- Tổ chức thi tìm hiểu pháp luật.
- Thông qua công tác xét xử, xử lý vi phạm hành chính, hoạt động tiếp
cơng dân, giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân và hoạt động khác của cơ
quan trong bộ máy nhà nước; thông qua hoạt động trợ giúp pháp lý, hòa giải ở
cơ sở.
- Lồng ghép trong hoạt động văn hóa, văn nghệ của tổ chức chính trị và
các đồn thể, câu lạc bộ, tủ sách pháp luật và các thiết chế văn hóa khác ở cơ
sở.
- Thơng qua chương trình giáo dục pháp luật trong các cơ sở giáo dục
của hệ thống giáo dục quốc dân.
- Các hình thức phổ biến, giáo dục pháp luật khác phù hợp với từng đối

tượng cụ thể mà các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền có thể áp dụng
để bảo đảm cho cơng tác phổ biến, giáo dục pháp luật đem lại hiệu quả.
1.2. Vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật
1.2.1. Cơ sở pháp lý cho vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ trong tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
11


Theo khoản 1 điều 41 Điều lệ Đảng Công sản Việt Nam “Đảng lãnh đạo
Nhà nước và đồn thể chính trị - xã hội …” [8].
Điều lệ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam quy định “Hội Liên hiệp Phụ nữ
Việt Nam (Hội) là tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị, có tư cách
pháp nhân, đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp
phụ nữ Việt Nam; …”, “Hội là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam …”
“tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tự nguyện, dân chủ, liên hiệp, thống
nhất hành động” [26].
Điều 1, điều 2 Điều lệ Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam quy định cụ thể về
chức năng, nhiệm vụ của tổ chức Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam, trong đó có
nội dung “Đồn kết, vận động phụ nữ thực hiện đường lối, chủ trương của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước …”, “Tuyên truyền, giáo dục phụ nữ
về chính trị, tư tưởng, lý tưởng cách mạng, phẩm chất đạo đức, lối sống; thực
hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
tham gia xây dựng Đảng, Nhà nước, phát triển kinh tế - xã hội và bảo vệ Tổ
quốc” [26].
Điều 29 Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật năm 2012 quy định về trach
nhiệm của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của
Mặt trận (trong đó có Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam) [42]:
- Tổ chức phổ biến, giáo dục pháp luật cho hội viên, đoàn viên ủa tổ chức
mình; vận động nhân dân chấp hành pháp luật.

- Phối hợp với các cơ quan nhà nước, tổ chức hữu quan phổ biến, giáo dục
pháp luật cho nhân dân.
- Xây dựng, tập huấn, bồi dưỡng đội ngũ báo cáo viên pháp luật, tuyên
truyền viên pháp luật của tổ chức mình.
- Vận động tổ chức, cá nhân, doanh nghiệp tham gia và hỗ trợ hoạt động
phổ biến giáo dục pháp luật.
- Tham gia giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật về phổ biến, giáo
dục pháp luật.
Theo quy định tại điều 1 của Quyết định số 27/2013/QĐ-TTg ngày 19
tháng 5 năm 2013 của Thủ tướng Chính phủ về thành phần và nhiệm vụ, quyền
12


hạn của Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật thì Hội Liên hiệp Phụ
nữ là thành viên của Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật [47].
Từ những cơ sở pháp lý nêu trên, có thể thấy Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt
Nam có vai trò, trách nhiệm trong việc thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật
cho nhân dân.
1.2.2. Nội dung vai trò của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật
Là một tổ chức chính trị - xã hội, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam tham
gia, góp phần vào hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật thể hiện trên các
phương diện: với vai trò là thành viên của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam; với vai
trò là thành viên Hội đồng phối hợp phổ biến, giáo dục pháp luật và trong quá
trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức mình.
Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật của Hội Liên hiệp Phụ nữ có ý
vai trị, ý nghĩa rất quan trọng, thể hiện trên những điểm chủ yếu sau:
Một là, góp phần quan trọng quyết định kết quả công tác phổ biến, giáo
dục pháp luật ở Việt Nam.
Chỉ thị số 32-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng xác định cơng

tác phổ biến, giáo dục pháp luật là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong
việc tăng cường quản lý xã hội bằng pháp luật. Trước u cầu đẩy mạnh cơng
nghiệp hóa, hiện đại hoá đất nước, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân thì cơng tác phổ biến, giáo dục
pháp luật cần được tăng cường thường xuyên, liên tục và ở tầm cao hơn, nhằm
làm cho cán bộ, nhân dân hiểu biết và chấp hành nghiêm chỉnh pháp luật,
thông qua đó mà kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật.
Phổ biến, giáo dục pháp luật là nhiệm vụ của tồn hệ thống chính trị và
tồn xã hội. Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã
hội chủ động, tích cực phối hợp với các cơ quan nhà nước thực hiện phổ biến,
giáo dục pháp luật cho các đoàn viên, hội viên của tổ chức mình và có các biện

13


pháp vận động nhằm nâng cao hiểu biết về pháp luật, tạo thói quen chấp hành
pháp luật; biểu dương, nhân rộng gương người tốt, việc tốt; giám sát việc thi
hành pháp luật của các cơ quan nhà nước, của cán bộ, công chức; kịp thời tập
hợp ý kiến của nhân dân trong các đợt đóng góp ý kiến cho các dự thảo luật và
trong việc thực hiện pháp luật để phản ánh, kiến nghị với các tổ chức và các cơ
quan nhà nước.
Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam là tổ chức đại diện cho phụ nữ - chiếm
hơn một nửa dân số ở Việt Nam nên công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật của Hội Liên hiệp Phụ nữ có ý nghĩa quan trọng đối với việc tuyên
truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho toàn dân.
Hai là, góp phần quan trọng vào kết quả xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tổ chức và hoạt động
trên cơ sở Hiến pháp, tôn trọng và bảo vệ Hiến pháp. Trong Nhà nước pháp
quyền, ý chí của nhân dân và sự lựa chọn chính trị được xác lập một cách tập

trung nhất, đầy đủ nhất và cao nhất bằng Hiến pháp. Chính vì lẽ đó mà Hiến
pháp được coi là Đạo luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất,
quy định chế độ chính trị, kinh tế, văn hố, xã hội, quốc phòng, an ninh, quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân, cơ cấu, nguyên tắc tổ chức và hoạt động của
các cơ quan nhà nước. Sự hiện diện của Hiến pháp là điều kiện quan trọng nhất
bảo đảm sự ổn định xã hội và sự an toàn của người dân.
Nhà nước pháp quyền Việt Nam quản lý xã hội bằng pháp luật, bảo
đảm vị trí tối thượng của pháp luật trong đời sống xã hội. Pháp luật nước ta là
kết quả của sự thể chế hố đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam
trên tất cả các mặt kinh tế, chính trị, xã hội, văn hố giáo dục khoa học, đối nội,
đối ngoại trên cơ sở Hiến pháp. Pháp luật thể hiện ý chí và nguyện vọng của
nhân dân, phù hợp với hiện thực khách quan, thúc đẩy tiến bộ xã hội. Vì vậy,

14


nói đến pháp luật trong Nhà nước pháp quyền là nói đến tính pháp luật khách
quan của các quy định pháp luật, chứ khơng phải chỉ nói đến nhu cầu đặt ra
pháp luật, áp dụng pháp luật, tuân thủ pháp luật một cách chung chung với mục
đích tự thân của nó. Nhà nước pháp quyền đặt ra nhiệm vụ phải có một hệ
thống pháp luật cần và đủ để điều chỉnh các quan hệ xã hội, làm cơ sở cho sự
tồn tại một trật tự pháp luật và kỷ luật. Vì vậy, sống và làm việc theo Hiến
pháp và pháp luật là lối sống có trật tự và lành mạnh nhất của xã hội. Tất cả các
cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và mọi công dân đều phải
nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và pháp luật.
Hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật của Hội Liên hiệp Phụ nữ, một
mặt góp phần nâng cao ý thức và hành vi sống, làm việc theo pháp luật của một
nửa thành viên trong xã hội, mặt khác góp phần trang bị hiểu biết cho người
dân về nhà nước và pháp luật, giúp nâng cao năng lực làm chủ, tham gia xây
dựng pháp luật và xây dựng nhà nước. Một nửa xã hội hiểu biết và thượng tôn

pháp luật, một nửa xã hội tham gia tích cực và hiệu quả vào công tác xây dựng
nhà nước và pháp luật có ý nghĩa to lớn đối với xây dựng Nhà nước và xã hội
pháp quyền ở Việt Nam.
Ba là, góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của phụ nữ.
Ðể đẩy mạnh tồn diện cơng cuộc đổi mới đất nước, thực hiện mục tiêu
dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, Ðảng ta đặc biệt
coi trọng phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, động viên sự nỗ lực
vượt bậc của toàn dân, trong đó có phụ nữ. Chủ trương của Đảng ta là phải
tăng cường sự lãnh đạo của Ðảng, tiếp tục đổi mới công tác phụ nữ để phụ nữ
tham gia ngày càng nhiều hơn, chủ động hơn, đóng góp ngày càng lớn hơn cho
sự phát triển của gia đình, cộng đồng, đất nước.
Công tác phụ nữ là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của tồn xã
hội và từng gia đình. Trong đó, hạt nhân lãnh đạo là các cấp ủy Đảng, trách

15


nhiệm trực tiếp và chủ yếu là cơ quan quản lý nhà nước các cấp, vai trò chủ thể
là phụ nữ mà nòng cốt là các cấp Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam. Nghị quyết
số 11-NQ/TW ngày 27 tháng 4 năm 2007 của Bộ Chính trị về cơng tác phụ nữ
thời kỳ đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước nêu rõ: “Xây dựng,
hồn thiện và thực hiện tốt hệ thống luật pháp, chính sách về bình đẳng giới,
tạo điều kiện cho sự phát triển của phụ nữ”.
Sự tiến bộ của phụ nữ tùy thuộc vào sự phát triển tồn diện của phụ nữ.
Quyền và lợi ích hợp pháp của phụ nữ phải được tôn trọng và bảo vệ ngay từ
chính khả năng hiểu biết và thực hành pháp luật của phụ nữ. Sự tham gia vào
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa,… của phụ nữ cũng phải được đặt trên
nền tảng sự hiểu biết pháp luật để có thể thực hiện đúng và bảo vệ đúng. Công
tác giáo dục pháp luật cho phụ nữ đáp ứng yêu cầu này, do vậy, có ý nghĩa
đóng góp khơng nhỏ vào thực hiện các mục tiêu vì sự tiến bộ của phụ nữ.

Bốn là, góp phần bảo vệ và đấu tranh phòng, chống các tiêu cực xã hội
và tội phạm đối với phụ nữ và trẻ em gái.
Pháp luật Việt Nam bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của
phụ nữ, trẻ em gái trong nhiều văn bản như Luật Bình đẳng giới, Luật Hơn
nhân và gia đình, Bộ Luật Lao động và rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật
khác. Nhìn chung, pháp luật Việt Nam bảo vệ quyền và lợi ích của phụ nữ trên
những phương diện cơ bản sau: (1) Quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được
pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, danh dự và nhân phẩm; (2) Quyền bất khả xâm
phạm về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân và bí mật gia đình; (3) Có quyền bảo
vệ danh dự, uy tín của mình; (4) Quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín và
các hình thức trao đổi thơng tin riêng tư khác; (5) Quyền có nơi ở hợp pháp;
quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở; (6) Quyền tự do đi lại và cư trú ở trong
nước, có quyền ra nước ngồi và từ nước ngồi về nước; (7) Quyền tự do tín
ngưỡng, tơn giáo;…

16


Trong thời gian qua, bên cạnh những kết quả tích cực thì cơng tác bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng hợp của phụ nữ, trẻ em gái có nhiều
hạn chế, khó khăn, cụ thể như hiện tượng bạo lực đối với phụ nữ, xâm phạm
đời tư và làm nhục nhân cách, bóc lột lao động,…vẫn đang diễn ra. Trong các
nhiệm vụ, giải pháp được xác định, Đảng và Nhà nước ta quan tâm đến nâng
cao năng lực tự bảo vệ của phụ nữ, xem đó là giải pháp chủ yếu và lâu dài.
Năng lực tự bảo vệ của phụ nữ được hình thành từ nhiều yếu tố, trong đó, nhất
định phải trên nền tảng hiểu biết về pháp luật, nhất là pháp luật liên quan đến
quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ. Công tác giáo dục pháp luật
cho phụ nữ đáp ứng yêu cầu này, do vậy, góp phần bảo vệ quyền và lợi ích của
phụ nữ, đấu tranh phòng chống các hiện tượng tội phạm đối với phụ nữ.
Năm là, góp phần thể hiện tính ưu việt, dân chủ của chế độ chính trị và

sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
Chế độ chính trị Việt Nam là chế độ của nhân dân, do nhân dân và vì
nhân dân. Tồn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam khơng gì khác hơn nhằm
mục tiêu giải phóng và phát triển con người. Hồ Chí Minh đã khẳng định:
“Nước ta là nước dân chủ.
Bao nhiêu lợi ích đều vì dân.
Bao nhiêu quyền hạn đều của dân… Chính quyền từ xã đến Chính phủ
trung ương do dân cử ra… Nói tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân” [33, tr.232]. Đó là Nhà nước do nhân dân lựa chọn, bầu ra những đại biểu
đại diện cho mình để quản lý, điều hành công việc. Nhà nước ấy do nhân dân
ủng hộ, giúp đỡ, đóng thuế để có chi phí hoạt động. Vì vậy, tất cả các cơ quan,
công chức Nhà nước phải dựa vào nhân dân, phải lắng nghe ý kiến của nhân
dân, phải chịu sự kiểm sốt của nhân dân. Nhà nước phục vụ lợi ích và nguyện
vọng chính đáng của nhân dân. Người thường nói dân là chủ thì chính phủ là
đày tớ, cơng bộc của dân và nhấn mạnh, làm đày tớ, công bộc của dân chứ

17


không phải làm quan cách mạng; không phải để “đè đầu cưỡi cổ dân”.
Mục tiêu và bản chất nêu trên thể hiện tính chất ưu việt của chế độ
chính trị và sự nghiệp cách mạng Việt Nam – yếu tố quy tụ lực lượng và kết
tinh sức mạnh để chiến thắng. Giải phóng phụ nữ là một nửa của giải phóng
con người. Trình độ giải phóng phụ nữ được coi là thước đo của trình độ phát
triển xã hội. Bởi, “Nói phụ nữ là nói phân nửa xã hội. Nếu khơng giải phóng
phụ nữ thì khơng giải phóng một nửa lồi người. Nếu khơng giải phóng phụ nữ
là xây dựng chủ nghĩa xã hội một nửa” [35, tr.300]. Cách mạng Việt Nam
hướng đến phát huy vai trò của phụ nữ trong mọi lĩnh vực của đời sống xã hội.
Bác Hồ nói: "Trong sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước, phụ nữ đảm đang
ta đã góp phần xứng đáng trong chiến đấu và trong sản xuất, Đảng và Chính

phủ phải có kế hoạch thiết thực để bồi dưỡng, cất nhắc và giúp đỡ để ngày
càng nhiều phụ nữ phụ trách mọi công việc lãnh đạo. Bản thân phụ nữ cố gắng
vươn lên. Đó là một cuộc cách mạng đưa đến quyền bình đẳng thực sự cho phụ
nữ" [36, tr.617]. Phát huy vai trò của phụ nữ trong các lĩnh vực của đời sống xã
hội, bảo vệ quyền và lợi ích của phụ nữ, chỉ có thể thực hiện đạt kết quả tốt nếu
phụ nữ hiểu biết về nhiều vấn đề liên quan, trong đó có hiểu biết pháp luật.
Cơng tác phổ biến, giáo dục pháp luật góp phần quan trọng vào nâng cao hiểu
biết pháp luật cho nhân dân, trong đó có phụ nữ, do vậy, góp phần vào sự vươn
lên của phụ nữ trong sự nghiệp giải phóng chính mình.
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp
luật của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
1.3.1. Yếu tố về chính trị, tư tưởng
Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định thắng lợi của cách mạng
Việt Nam. Đó là vấn đề có tính quy luật và được thực tiễn kiểm nghiệm. Trong
thời kỳ đổi mới, Đảng là đội tiên phong của đổi mới đồng thời là người lãnh
đạo sự nghiệp đổi mới một cách toàn diện về mọi mặt, mọi lĩnh vực của đời

18


sống xã hội. Chỉ thị số 32-CT/TW của Ban Bí thư Trung ương Đảng đã xác
định "phổ biến, giáo dục pháp luật là một bộ phận của công tác giáo dục chính
trị tư tưởng, là nhiệm vụ của hệ thống chính trị đặt dưới sự lãnh đạo của
Đảng”. Chỉ thị nhấn mạnh trong những năm tới "cần tập trung chỉ đạo, tổ chức
thực hiện tốt công tác phổ biến, giáo dục pháp luật để góp phần tạo sự chuyển
biến căn bản về ý thức tôn trọng pháp luật và nghiêm chỉnh chấp hành pháp
luật của cán bộ và nhân dân".
Xác định nhiệm vụ cụ thể của các cấp uỷ Đảng trong lãnh đạo chính
quyền các cấp tổ chức thực hiện cơng tác giáo dục pháp luật với nội dung, hình
thức, phương pháp phù hợp với từng địa phương và từng đối tượng. Nghị quyết

số 48-NQ/TW ngày 24 tháng 5 năm 2005 về chiến lược xây dựng và hoàn
thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010 định hướng đến năm 2020 đã
chủ trương "Xây dựng và triển khai chương trình quốc gia về phổ biến, giáo
dục pháp luật dài hạn”.
Như vậy, với những chủ trương và biện pháp trên, sự lãnh đạo của
Đảng, trực tiếp là các cấp uỷ Đảng trở thành điều kiện tiên quyết bảo đảm cho
hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật của Hội Liên hiệp Phụ nữ.
1.3.2. Yếu tố pháp lý
Nhà nước thể chế hóa chủ trương, đường lối của Đảng thành pháp luật,
đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật; tổ chức triển khai thực
hiện chương trình giáo dục pháp luật ở tất cả các cấp, các ngành, xây dựng và
đào tạo đội ngũ cán bộ, công chức quản lý và thực hiện giáo dục pháp luật;
đảm bảo kinh phí, cơ sở vật chất cho giáo dục pháp luật, tổ chức hệ thống
thông tin, tuyên truyền pháp luật, cung cấp các dịch vụ pháp lý. Với những
hoạt động trên, bảo đảm vai trị của Nhà nước là điều kiện khơng thể thiếu để
đảm bảo cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Hội Liên hiệp Phụ nữ.
Công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật cho nhân dân có

19


một vị trí hết sức quan trọng, nó khơng chỉ giúp nhân dân hiểu biết pháp luật,
đấu tranh chống mọi hành vi vi phạm pháp luật mà còn tạo điều kiện để mọi
người sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật, góp phần xây dựng một
xã hội pháp quyền. Việc phổ biến, giáo dục pháp luật không phải là trách
nhiệm của một ngành, một cơ quan nào mà là trách nhiệm chung của các cấp
uỷ Đảng, chính quyền và các đoàn thể xã hội. Tổ chức Đảng, Ủy ban Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị xã hội lãnh đạo tổ chức của mình
chủ động và tích cực phối hợp với các cơ quan nhà nước thực hiện phổ biến,
giáo dục pháp luật cho các đoàn viên, hội viên.

Bảo đảm cơ chế trên là bảo đảm phát huy được sức mạnh tổng hợp và
có hiệu quả trong công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Hội Liên hiệp Phụ
nữ. Cần có sự phối hợp đồng bộ giữa các ngành, đồn thể, trong đó chú trọng
đến việc phân công nhiệm vụ cụ thể, rõ ràng với sự tham gia của cơ quan nhà
nước, các tổ chức chính trị xã hội ở các cấp, các ngành để tránh sự chồng chéo
cũng như đùn đẩy trách nhiệm. Như vậy, việc thực hiện tốt cơ chế phối hợp là
điều kiện quan trọng để đảm bảo cho công tác phổ biến, giáo dục pháp luật của
Hội Liên hiệp Phụ nữ đạt hiệu quả thiết thực.
1.3.3. Yếu tố về kinh tế
Điều kiện bảo đảm công tác phổ biến, giáo dục pháp luật khơng thể
thiếu được là kinh phí, cơ sở vật chất để tiến hành tổ chức thực hiện các hoạt
động giáo dục cụ thể. Trong những năm qua, do khó khăn về kinh phí nên cơng
tác phổ biến, giáo dục pháp luật của Hội còn hạn chế như: số cuộc tuyên truyền
pháp luật chưa nhiều, tài liệu tuyên truyền chưa phong phú, chưa đa dạng, chế
độ đãi ngộ cho báo cáo viên, tuyên truyền viên còn thấp, thậm chí có nơi cịn
khơng có chế độ đãi ngộ. Vì thế, không làm động lực cho công tác giáo dục
pháp luật tốt được. Do vậy, muốn nâng cao được hiệu quả của cơng tác này thì
việc đầu tư kinh phí và các trang thiết bị cho công tác này là yếu tố rất quan

20


trọng.
1.3.4. Yếu tố chủ thể thực hiện phổ biến, giáo dục pháp luật
Chủ thể thực hiện giáo dục pháp luật là những người có vai trị rất quan
trọng trong việc chuyển tải những nội dung, những quy định của pháp luật đến
mọi tầng lớp nhân dân, góp phần đưa pháp luật vào thực tiễn cuộc sống. Để
pháp luật đến với phụ nữ một cách dễ hiểu, có hiệu quả thì đòi hỏi chủ thể thực
hiện giáo dục pháp luật phải có trình độ, năng lực pháp luật, kỹ năng, nghiệp
vụ, có tâm huyết, nhiệt tình, tận tuỵ với cơng việc và chia sẻ khó khăn của phụ

nữ. Cần thiết phải hình thành được đội ngũ những người thực hiện giáo dục
pháp luật và có sự kết hợp chặt chẽ giữa chủ thể chuyên nghiệp với các chủ thể
khác trong đó vai trị của các cấp uỷ Đảng, chính quyền cơ sở và vai trị của
các cấp Hội, tổ chức đồn thể là quan trọng.
Trong phổ biến, giáo dục pháp luật, nội dung giáo dục với hình thức,
phương pháp giáo dục có quan hệ chặt chẽ với nhau. Nội dung tốt mà hình
thức, phương pháp khơng phù hợp thì hiệu quả giáo dục khơng bảo đảm. Vì
thế, hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật của Hội phải phù hợp với đặc điểm
từng đối tượng cụ thể; nội dung giáo dục, các hình thức, phương pháp giáo dục
phải đa dạng, linh hoạt, có sự đan xen, lồng ghép, gắn với cơng việc, nhu cầu
pháp luật cụ thể.
1.3.5. Yếu tố tích cực và tiêu cực
• Các yếu tố tác động tích cực
Với sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và các cấp chính quyền trong
việc đẩy mạnh cơng tác tun truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật đã hình
thành đội ngũ chủ thể thực hiện giáo dục pháp luật đơng đảo, có kiến thức pháp
luật, có kỹ năng nghiệp vụ tuyên truyền, có trách nhiệm và tâm huyết với sự
nghiệp phổ biến, giáo dục pháp luật. Mặt khác, bên cạnh đội ngũ giáo dục pháp
luật chun nghiệp, cịn có đội ngũ giáo dục pháp luật quan trọng là các già
21


làng, trưởng bản, trưởng thôn, các cán bộ pháp luật, trong đó có cán bộ đã về
nghỉ hưu, họ tham gia tích cực vào cơng tác giáo dục pháp luật cho phụ nữ
bằng sự hiểu biết pháp luật, sự gương mẫu chấp hành luật và uy tín của cá
nhân.
Nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế của nước ta đòi hỏi người
dân cần phải hiểu biết phát luật trên nhiều lĩnh vực. Vì vậy nhu cầu tìm hiểu,
tiếp thu các tri thức pháp luật và kỹ năng thực hành pháp luật của phụ nữ ngày
càng tăng.

Việc thực hiện pháp luật dân chủ ở cơ sở, hoà giải ở cơ sở đã tạo ra môi
trường thuận lợi cho hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật.
Ngoài ra, các yếu tố tinh thần cũng đã có tác động mạnh mẽ, tích cực
đến hoạt động phổ biến, giáo dục pháp luật của Hội như: truyền thống yêu
nước, tinh thần cách mạng, tính cộng đồng làng xã và nhất là sự tác động tích
cực của mơ hình gia đình truyền thống.
• Các yếu tố tác động tiêu cực
Bên cạnh các yếu tố tích cực, cơng tác phổ biến, giáo dục pháp luật của
Hội còn chịu nhiều tác động tiêu cực. Sự tác động của nền kinh tế thị trường,
của q trình đơ thị hoá làm cho một số người xem nhẹ việc nhà nước ta quản
lý đất nước bằng pháp luật, coi thường pháp luật và không nghĩ đến tác hại của
việc coi thường pháp luật. Do sự hạn chế về trình độ dân trí, đời sống vật chất,
tinh thần cịn nhiều khó khăn dẫn đến họ biết việc họ làm là vi phạm pháp luật
nhưng họ vẫn làm như tình trạng bn bán ma t, đưa người ra nước ngồi
trái phép ...
Ngồi ra, các cấp chính quyền ở một số địa phương còn xem nhẹ vai trò
quản lý nhà nước bằng pháp luật, chưa thực sự tiến hành thường xuyên, liên
tục, đồng bộ và rộng khắp các hoạt động giáo dục pháp luật hoặc thực hiện
nhưng chưa có trọng tâm, trọng điểm. Trong chỉ đạo tổ chức thực hiện, nhận
22


×