Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

On thi tot nghiep dai hoc tieu hoc ppTieng viet

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (264.61 KB, 34 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>ĐỀ CƯƠNG ÔN THI TỐT NGHIỆP TIẾNG VIỆT VÀ PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG VIỆT. PHẦN II. PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TIẾNG VIỆT 3 I. Khái quát về bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt ở tiểu học 1. Ý nghĩa, sự cần thiết của việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt - Học sinh có năng khiếu về Tiếng Việt nếu không được giáo viên bồi dưỡng, định hướng sẽ không bộc lộ . - Trong chiến lược đào tạo con người, việc coi trọng nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân tài được Đảng và nhà nước xem trọng. - Thực hiện tư tưởng chiến lược giáo dục đảm bảo sự cân bằng trong xã hội, đảm bảo điều kiện để người học phát triển tài năng - Thực hiện tinh thần dạy học phân hóa trong dạy học tự chọn nhằm phát huy cá tính và sự sáng tạo của học sinh để thỏa mãn sự phát triển của từng cá thể. - Thúc đẩy phong trào thi đua học tốt, dạy tốt nâng cao trình độ chuyên môn sư phạm của giáo viên. => Tạo điều kiện cho mọi học sịnh đều được bồi dưỡng như nhau.. 2. Những định hướng của việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt 2.1. Bám sát mục tiêu, chương trình tiếng Việt ở tiểu học - Kiến thức: Cung cấp kiến thức ban đầu sơ giản về tiếng Việt, những hiểu biết về đất nước Việt Nam và nước ngoài, hiểu biết sơ giản về tự nhiên xã hội... - Kĩ năng; Hình thành phát triển bốn kĩ năng: Nghe - nói - đọc - viết - Thái độ: Giáo dục, bồi dưỡng lòng yêu thích tiếng Việt, văn hóa, con người Việt Nam và thế giới giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. 2.2. Đề cao tính sáng tạo, tính tích cực của học sinh - Đề ra cho học sinh phù hợp với từng khố lớp không quá cao, không qua thấp, phải phát huy tính sáng tạo, tính tích cực của học sinh. - Đào tạo những con người sáng tạo, chủ động, tích cực nên phương pháp, nội dung dạy học bồi dưỡng HSG môn Tiếng Việt phải phát huy được tính năng động, sáng tạo để các em trở thành người thông minh, năng động hơn. - Trong qua trình dạy cần tổ chức toàn bộ các quá trình dạy – học dưới dạng thực hành xây dựng các nhiệm vụ dưới dạng bài tập và bài tập cũng là phương tiện hoạt động của tiếng Việt, tích cực hóa của học sinh để hình hành và phát triển các kĩ năng nghe, nói, đọc, viết để hoàn thành tốt mục tiêu của tiếng Việt. - Giúp học sinh tự chiếm lĩnh tri thức và phát triển bản thân 2.3. Đảm bảo nguyên tắc tích hợp - Đảm bảo sự tổng hợp các kiến thức tiếng Việt và các kĩ năng nghe, nói tiếng Việt; kết hợp dạy tiếng và dạy văn, tiếng Việt và các kiến thức, kĩ năng các môn học khác và tích hợp các kĩ năng sống. 2.4. Đảm bảo nguyên tắc tính đến đặc điểm của HSTH *. Đặc điểm nhận thức của học sinhTiểu học: - Chú ý của học sinh Tiểu học: Các thuộc tính chú ý được hình thành và phát triển mạnh ở học sinh Tiểu học. Ở giai đoạn đầu cấp khối lượng chú ý của học sinh còn hạn chế, học sinh chưa biết tập trung chú ý của mình vào nội dung bài học chưa có khả năng phân phối chú ý giữa các hoạt động diễn ra cùng một lúc. Ở giai đoạn 2 của cấp học khối lượng chú ý được tăng lên, học sinh có khả.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> năng phân phối chú ý giữa các hành động, biết định hướng chú ý của mình vào nội dung cơ bản của tài liệu. - Trí nhớ của học sinh Tiểu học. Học sinh phải nhớ công thức, quy tắc, định nghĩa, khái niệm... để vận dụng giải bài tập hoặc tiếp thu tri thức mới, ghi nhớ này buộc học sinh phải sử dụng cả 2 phương pháp của trí nhớ có chủ định là: ghi nhớ máy móc và ghi nhớ ý nghĩa. Trí nhớ trực quan hình ảnh phát triển mạnh hơn trí nhớ từ ngữ trừu tượng nghĩa là tài liệu, bài học có kèm theo tranh ảnh thì học sinh ghi nhớ tốt hơn so với tài liệu bài học không có tranh ảnh. - Tưởng tượng của học sinh: Tính có mục đích, có chủ định của tưởng tượng học sinh Tiểu học tăng lên rất nhiều so với trước 6 tuổi. Do yêu cầu của hoạt động học, học sinh muốn tiếp thu tri thức mới thì phải tạo cho mình các hình ảnh tưởng tượng. Hình ảnh tưởng tượng còn rời rạc, đơn giản chưa ổn định thể hiện rõ ở những học sinh đầu cấp Tiểu học. Do những nguyên nhân sau: Học sinh thường dựa vào những chi tiết hấp dẫn, những đặc điểm hấp dẫn, mới lạ bề ngoài của sự vật hiện tượng để tạo ra hình ảnh mới. Vốn kinh nghiệm của học sinh còn hạn chế vì tưởng tượng phải dựa vào hình ảnh đã biết. Tư duy học sinh đầu cấp Tiểu học vẫn là tư duy cụ thể, ở cuối cấp học hình ảnh tưởng tượng hoàn chỉnh hơn về kết cấu, chi tiết, tính lôgic. Tính trực quan trong hình ảnh trừu tượng giảm dần từ cấp 1 đến lớp 5; ở học sinh đầu cấp Tiểu học tính trực quan thể hiện rất rõ trong hình ảnh trừu tượng. Đến lớp 4, 5 hình ảnh trừu tượng bắt đầu mang tính khái quát. - Tư duy của học sinh Tiểu học. Do hoạt động học được hình thành ở học sinh Tiểu học qua 2 giai đoạn nên tư duy của học sinh cũng được hình thành qua 2 giai đoạn. Giai đoạn 1: Đặc điểm tư duy học sinh lớp 1, 2, 3. Tư duy cụ thể vẫn tiếp tục hình thành và phát triển, tư duy trừu tượng bắt đầu được hình thành. Tư duy cụ thể được thể hiện rõ ở học sinh lớp 1, 2 nghĩa là học sinh tiếp thu tri thức mới phải tiến hành các thao tác với vật thực hoặc các hình ảnh trực quan. Giai đoạn 2: Đặc điểm học sinh tiểu học lớp 4, 5. Tư duy trừu tượng bắt đầu chiếm ưu thế so với tư duy cụ thể nghĩa là học sinh tiếp thu tri thức của các môn học bằng cách tiến hành các thao tác tư duy với ngôn ngữ, với các loại ký hiệu quy tắc. *. Đặc điểm nhân cách của học sinh Tiểu học. - Nhu cầu nhận thức của học sinh Tiểu học. Nhu cầu nhận thức được hình thành và phát triển mạnh ở học sinh Tiểu học. Nhu cầu nhận thức của học sinh Tiểu học hình thành qua 2 giai đoạn. - Năng lực học tập của học sinh. Năng lực học tập của học sinh gồm: Biết định hướng nhiệm vụ học, phân tích nhiệm vụ học thành các yếu tố, mối liên hệ giữa chúng từ đó lập kế hoạch giải quyết. Hệ thống kỹ năng, kỹ xảo cơ bản: phẩm chất nhân cách, năng lực quan sát, ghi nhớ, các phẩm chất tư duy: tính độc lập, tính khái quát, linh hoạt... Đặc điểm năng lực học tập của học sinh Tiểu học. Nhờ thực hiện hoạt động học mà hình thành ở học sinh những năng lực học tập với cách học và hệ thống kỹ năng học tập cơ bản..

<span class='text_page_counter'>(3)</span> - Tình cảm của học sinh Tiểu học. Tình cảm của học sinh tiểu học gắn liền với tính trực quan hình ảnh cụ thể hay nói cách khác đối tượng gây ra tình cảm ở học sinh là những sự vật cụ thể và những hình ảnh trực quan. Nguyên nhân: Hệ thống tín hiệu thứ nhất vẫn chiếm ưu thế so với hệ thống tín hiệu thứ hai. Nhận thức của học sinh Tiểu học vẫn là nhận thức cụ thể. Nhận thức xác lập đối tượng nguyên nhân gây nên tình cảm. Học sinh Tiểu học dễ xúc cảm hay xúc động khó làm chủ được cảm xúc của mình. 2.5. Nguyên tắc đảm bảo tính hấp dẫn -Tổ chức câu đố, trò chơi. -Tạo môi trường thoải mái giữa thầy-trò. - Khai thác vẽ đẹp của từ ngữ. 3. Nhiệm vụ của việc bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt Mục đích của việc bồi dưỡng tiếng Việt là bồi dưởng tâm hồn vốn sống, bồi dưởng tư duy, kỹ năng cảm thụ văn học chứ không phải bồi dưởng cho các em trở thành nhà văn hay nhà thơ. 3.1. Phát hiện những học sinh có hứng thú học tập và năng khiếu về tiếng Việt Cách phát hiện: học sinh hát được nhiều bài hát, nói lưu loát, chuẩn bị bài tốt, ham đọc sách, thuộc thơ, phát biểu xây dựng bài... Cách kiểm tra: Xem chỗ ở của học sinh, lấy ý kiến từ giáo viên trước, ra những bài tập phù hợp. 3.2. Bồi dưỡng hứng thú học tiếng Việt cho học sinh 3.3. Bồi dưỡng vốn sống cho học sinh Qua con đường trực tiếp: tổ chức các buổi tham quan, các buổi trò chuyện với các nhà thơ, nhà văn; tổ chức cho các em ngâm thơ, kể chuyện, sưu tầm văn học dân gian, tổ chức thảo luận các tác phẩm văn học, tiếp xúc trực tiếp với các em, tổ chức trò chơi, câu lạc bộ về tiếng Việt Qua con đường gián tiếp: Hướng dẫn học sinh đọc sách, tìm thông tin trên mạng. Đối với học sinh giỏi nên yêu cầu sử dụng sổ tay văn học: ghi chép các câu thơ hay. Cho học sinh đọc các tác phẩm thiếu nhi, tác phẩm danh nhân nhằm phát triển ngôn ngữ, thấy được cái hay, cái đẹp, cái độc đáo. Bên cạnh đó, giáo viên cần giáo dục cho học sinh thái độ đọc kiên trì, chịu khó, không chi đọc để giải thích mà phải tìm thấy cái hay ở trong đó. 3.4. Bồi dưỡng kiến thức, kĩ năng về tiếng Việt cho học sinh Giúp học sinh biết cách sữ dụng từ ngữ, liên kết câu, đoạn sau cho logic, hợp lí.. II. Bồi dưỡng hứng thú học tập tiếng Việt cho học sinh giỏi 1. Phát hiện những học sinh có hứng thú học tập và năng khiếu tiếng Việt Những học sinh khả năng học tiếng Việt tốt thường có những biểu hiện sau: - Các em có lòng say mê văn học, có hứng thú với nghệ thuật ngôn từ, yêu thích thơ ca, ham mê đọc sách báo, thích nghe kể chuyện, có những em ước mơ thành nhà văn hoặc trở thành cô giáo dạy bồi dưỡng môn Tiếng Việt giỏi; thích quan sát, quan tâm đến mọi người và mọi vật xung quanh; không hờ hửng trước vẽ đẹp của ngôn từ văn chương, ghi nhớ và ghi chép những câu văn hay. - Các em có những tư duy có tính thống nhất cần cho sự phát triển năng lực tiếng Việt ở văn học: tư duy phân loại, tư duy phân tích, tư duy trừu tượng hóa, tư duy khái quát hóa rất cần để học tốt tiếng Việt và tư duy trừu tượng cụ thể rất cần để học giỏi văn. Các em có năng lực quan sát, nhận xét ngôn từ của mọi người và của chính mình, có em còn biết quan sát hiện thực, biết liên tưởng, giàu cảm xúc. - Các em có khả năng tư duy nghệ thuật về ngôn từ, có khả năng tư duy nghệ thuật theo cách riêng của mình, những gì ẩn chứa dưới những âm thanh, ẩn chứa các dòng chữ. Từ đó, các.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> em có khả năng tiếp nhận vẻ đẹp của ngôn từ, cách nói của văn chương, biết phát hiện những tín hiệu nghệ thuật ngôn từ trong việc biểu đạt nội dung. Ví dụ: một em nhìn thấy trăng bị mây che đã nói: “trăng đắp chăn”. Hay có em khi đọc 2 câu thơ “Còn xót lòng mẹ hái trái bưởi đào Con nhạt miệng có canh tôm nấu khế.” Các em đã hiểu được hình ảnh vừa cụ thể vừa trừu tượng: mẹ lúc nào cũng sẵn sàng chăm sóc con, lo lắng cho con, làm tất cả những gì mà con cần. - Về khả năng sử dụng từ: Những học sinh học giỏi tiếng Việt thường có khả năng sử dụng nhiều tính từ, từ láy, từ tượng hình, từ tượng thanh, sử dụng những câu có nhiều thành phần phụ như định ngữ, bổ ngữ, câu văn sáng sủa, gợi cảm, dễ hiểu trong nói, viết tiếng Việt; câu văn ít có những câu khô khan, không có cảm xúc tức là những câu chỉ có nghĩa sự vật mà thường viết những câu dài cảm xúc, bộc lộ sự đánh giá tình cảm của mình với sự vật được nói tới. Ví dụ: Cách diễn đạt của một em học sinh giỏi tiếng Việt “ Thế là chúng em đã được đến Quảng trường Ba Đình lịch sử. Nơi đây Bác Hồ đã đọc Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, cũng chính nơi đây toàn dân ta đã chung sức xây nên nơi an nghỉ cuối cùng của Người” Đoạn văn của em có tác động không phải chỉ vào lí trí mà cả tình cảm của người đọc. Vì vậy, để phát hiện những học sinh có năng khiếu tiếng Việt, chúng ta cần có sự điều tra các phép đo nhằm khảo sát, tìm hiểu hứng thú và khả năng tư duy tiếng Việt của các em thông qua phụ huynh, phỏng vấn trực tiếp các em bằng các bài tập kiểm tra từ, sử dụng từ, kiến thức và kĩ năng đặt câu; theo dõi, nắm tình hình học tập của các em. Cần tổ chức bồi dưỡng học sinh giỏi càng sớm càng có hiệu quả.. 2. Bồi dưỡng hứng thú học tiếng Việt cho học sinh Hứng thú có vai trò quan trọng trong học tập và làm việc. Không có việc gì người ta không làm được dưới sự ảnh hưởng của hứng thú. M.goocki từng nói: "Thiên tài nảy nở từ tình yêu đối với công việc". Vì vậy, bồi dưỡng hứng thú rất quan trọng. Cách tạo hứng thú: - Giáo viên làm cho học sinh ý thức được lợi ích của việc học tập nhằm tạo động cơ học tập của học sinh - Với mỗi bài học sụ thể cần giúp cho học sinh nhận ra tính ích lợi của một nội dung nào đó. Ví dụ 1: Sự cần thiết của dấu phẩy sẽ làm rõ sự khác nhau về nghĩa của 2 câu Đêm hôm qua, cầu gãy. .Đêm hôm, qua cầu gãy. Ví dụ 2: Sử dụng từ: từ lấy, từ ghép: "ấp" có: lấp ló, nhấp nháy, lấp lánh...=> cungfg vần "ấp" diễn tả sự lúc ẩn, lúc hiện - Từng giờ, từng phút trong giờ tiếng Việt giáo viên cần hướng đến hình thành, duy trì hứng thú của học sinh bằng cách giới thiệu bài hấp dẫn Ví dụ: Chúng ta đã được học rất nhiều bài về mẹ, “Bao tháng bao năm mẹ bế con trên đôi tay mềm mại ấy” “ mẹ là ngọn gió của con suốt đời” “ Bình yêu nhất là đôi bàn tay mẹ, những ngón tay gầy gầy xương xương”... Hôm nay, chúng ta lại được học một bài có tựa đề về “ Mẹ” của nhà thơ Bằng Việt, các em hãy cùng cô đọc xem bài “Mẹ” này có gì khác với những bài về mẹ mà các em đã học. - Hứng thú cũng được tạo ra bằng cách chỉ ra vẽ đẹp của một từ, cái hay của tình tiết truyện Ví dụ: Tiếng hót của con chim chuyền chuyện không phải là thánh thót mà ngọt ngào, long lanh, chan chứa. Hay ví dụ: Hoa sầu riêng nở tím ngát chứ không phải nở tím ngắt, ngan ngát.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Ví dụ: Tình tiết trong câu truyện của Alexen:" Người mẹ cho hồ nước đôi mắt để tìm đường đến thần chết để đòi trả lại con". Đến nay vẫn còn lay động đến tâm can của biết bao người - Ngay từ những vấn đề lí thuyết, ngữ pháp khô khan cũng có thể gây hứng thú cho học sinh bằng cách khai thác đặc điểm thú vị của tiếng Việt. Ví dụ 1: Mối quan hệ giữa nghĩa và cấu tạo từ, giá trị biểu cảm của từ láy, từ ghép, hiện tượng từ đồng nghĩa, đồng âm.... Ví dụ 2: Để thấy được tính đa nghĩa của từ láy, giáo viên có thể cho học sinh tạo ra từ láy từ tiếng " nhỏ": nhỏ nhắn, nhỏ nhoi, nhỏ nhăn, nho nhỏ Cách sử dụng danh từ riêng: Đại từ nhân xưng, dẫn đến văn hóa của người việt tiếp xúc với các tác phẩm văn chương qua các bài tập đọc. - Hứng thú tiếng Việt còn được tạo ra bằng cách: Sử dụng các thông tin bên lề theo đề bài học Ví dụ: bài" Hạt gạo làng ta" của Trần Đăng Khoa giáo viên có thể kể về cuộc đời của TĐK để khơi dậy hứng thú của học sinh, hay tổ chức cuộc thi đố vui để học để bồi dưỡng kĩ năng học tiếng Việt của các em. - Ngoài ra, hứng thú còn được tạo ra bằng cách: Nghệ thuật tổ chức dạy học của giáo viên phải phù hợp với sở thích của các em: trò chơi học tập; tạo mối quan hệ hợp tác tốt đẹp giữa thầy và trò, giữa trò và trò để tạo hứng thú học tập cho học sinh. - Tạo hứng thú còn thể hiện ở việc đánh giá công bằng, khách quan, vô tư, biết cách cư xử: nâng đỡ, thông cảm, chia sẽ với học sinh; tổ chức quá trình dạy học nhẹ nhàng, không căng thẳng trong giờ học. Tôn trọng sự sáng tạo dù rất nhỏ của học sinh, không nên tỏ ra mình là người luôn đúng.. 3. Bồi dưỡng vốn sống cho học sinh Qua 2 con đường: - Con đường trực tiếp: + Cho học sinh đi tham quan, để các em được quan sát trải nghiệm những gì các em sẽ phải nói, sẽ phải biết để viết hay hơn + Mời các chiến sĩ cách mạng, nhà văn, nhà thơ về kể chuyện cho các em nghe + Tổ chức các cuộc thi ngâm thơ, kể chuyện, sưu tầm văn học dân gian, đọc tác phẩm rồi yêu cầu học sinh thảo luận, tổ chức các trò chơi như hái hoa dân chủ... để bồi dưỡng vốn sống cho học sinh. - Con đường gián tiếp: + Qua sách vở giới thiệu cho học sinh về phương pháp đọc sách, cách ghi chép, có sổ tay văn học để các em ghi lại những đoạn văn hay + Khai thác thông tin trên mạng, tìm hiểu, nhận xét, đánh giá về các mối quan hệ tự nhiên xã hội. + Hướng dẫn học sinh tự học, xây dựng hứng thú đọc sách, giúp học sinh biết qua sách sẽ mở rộng tầm nhìn của các em. + Giáo dục tính kiên trì trong đọc sách, biết ghi chép sổ tay văn học. III. Bồi dưỡng kiến thức, kĩ năng tiếng Việt cho học sinh giỏi 1. Đơn vị từ, câu; kĩ năng xác định đươn vị từ, câu; phân cắt ranh giới từ và tách đoạn thành câu a. VỀ TỪ Khái niệm từ: * Từ là một đơn vị của ngôm ngữ, gồm một hay một số âm tiết, có nghĩa nhỏ nhất, có cấu tạo hoàn chỉ và được vận dụng tự do để cấu tạo nên câu (theo Đỗ Thị Kim Liên) * Từ là một đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có nghĩa dùng để đặt câu. (theo Lê Phương Nga).

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Từ lớp 2 đến lớp 5, bài tập nhận diện từ, phân cắt đơn vị từ có hai dạng: Dạng thứ nhất yêu cầu học sinh chỉ ra các từ trong câu hoặc đoạn. Dạng thứ hai không trực tiếp yêu cầu vạch ranh giới từ mà đưa ra một câu (hoặc đoạn) yêu cầu phân loại từ theo cấu tạo hoặc xác định từ loại của từ. Nếu không giải quyết được việc phân cắt câu (hoặc đoạn) thành từ thì sẽ không giải được bài tập. - Để giúp học sinh nhận diện và phân cắt từ, trước hết giáo viên phải chọn các từ tiêu biểu và được các nhà Việt ngữ cho đó là một từ. Tốt nhất là không đưa ra các đoạn văn không có những tổ hợp trung gian, khó xác định là một từ hay nhiều từ. Ví dụ: Bài tập yêu cầu: Tìm từ trong 3 câu sau (trong bài: Tiếng và từ - TV2, t1, trg 93): Nụ hoa xanh màu ngọc bích Đồng lúa rộng mênh mông Tổ quốc ta vô cùng tươi đẹp Trong bài tập trên, ta thấy các từ: xanh, màu, rộng - dễ dàng xác định được là những từ (đơn); các từ "mênh mông" (láy), "tươi đẹp" (ghép tống hợp), "ngọc bích", "tổ quốc", "vô cùng' (từ Hán - Việt) cũng dễ dàng xác định tư cách từ. Học sinh sẽ lưỡng lự, khó xác định 2 tổ hợp từ "nụ hoa" và 'đồng lúa" là một từ hay là hai từ. Khi sử dụng bài tập này, ta nên chọn cách xem " nụ hoa" là hai từ (dù hiểu rằng đó là nụ của cây hoa hay chỉ là bông hoa) và "đồng lúa" là một từ như đáp án SGV. Đáp án của bài tập trên sẽ là: Nụ/ hoa/ xanh /màu/ ngọc bích Đồng lúa/ rộng/ mênh mông Tổ quốc/ ta /vô cùng /tươi đẹp Sau đây là một số trường hợp dễ xác định được ranh giới từ khi chúng ở trong câu: + Từ láy: long lanh, xinh xắn + Từ ghép ngẫu hợp: tắc kè, bồ hóng Những từ này, chúng thuộc từ ghép điển hình + Từ ghép có ít nhất một hành vị không độc lập như: xanh lè, đỏ ối, thẳng tắp + Từ ghép biệt lập: chân vịt (của tàu thủy), đầu ruồi (bộ phận của súng), lá sen (cổ áo), cánh gà (hai bên sân khấu)... + Từ ghép hợp nghĩa phi cá thể: cơm nước, thuyền bè, nhà cửa, chợ búa.... + Từ ghép phân nghĩa một chiều do các hình vị tự do có nghĩa tạo nên những hình thức cấu tạo chặt chẽ: máy bay, máy tiện, nhà máy, xe đạp... + Từ ghép Hán - Việt: chính quyền, học sinh, giáo viên.. - Khi giải bài tập giáo viên cần tránh thái độ tuyệt đối hóa, phiến diện cứng nhắc. Nghĩa là, trong một văn bản không phải lúc nào cũng yêu cầu học sinh xác định được rạch ròi, dứt khoát là từ hay không là từ. Có nhiều trường hợp, chúng ta hoặc không yêu cầu xác định đơn vị từ hoặc là chấp nhận cả hai phương án: một tổ hợp vừa có thể xem là một từ vừa có thể xem là hai từ. Ví dụ: bài tập yêu cầu: Tìm từ trong các câu sau ( Tiếng Việt 4, tập 1, trang 107) Em mơ làm mây trắng Bay khắp nẻo trời cao Nhìn non sông gấm vóc Quê mình đẹp biết bao Trong bài tập này: những từ dễ nhận biết đó là một từ : em, mo, hay, nhìn, quê, mình, đẹp (từ đơn); non sông, gấm vóc, biết bao (từ ghép). Một số tổ hợp từ học sinh lưỡng lữ đó có phải là một từ hay là hai từ: mây trắng, khắp nẻo, trời cao. Trong đó, “mây trắng” và “trời cao” là 2 từ, “khắp nẻo” là một từ..

<span class='text_page_counter'>(7)</span> - Khi giải bài tập, giáo viên phải hướng dẫn học sinh vận dụng các thao tác kiểm nghiệm, nhận diện. Từ có tính hoàn chỉnh về cấu tạo và về nghĩa. + Để kiểm nghiệm tính hoàn chỉnh về cấu tạo, giáo viên phải dùng thao tác chêm xen để thử. Ví dụ: tổ hợp từ "bánh dẻo" khi là 2 từ nói về thứ bánh bất kì nào có tính chất dẻo nên có thể thêm yếu tố "rất" để thành " bánh rất dẻo". Nếu khi là một từ, "bánh dẻo" là tên của một loại bánh, lúc này có kết cấu chặt chẽ, không thể thêm yếu tố nào vào giữa "bánh" và "dẻo". + Để kiểm nghiệm tính hoàn chỉnh về nghĩa, nghĩa là tính kết cấu chặt chẽ của các yếu tố đê tạo thành nghĩa khiến cho từ mang tính chất ''thành ngữ", chứ không phải là phép cộng số học đơn thuần về nghĩa của các yếu tố nào chuyển nghĩa và mờ nghĩa gốc hay không. Ví dụ: 'bánh dẻo" với tư cách là một từ thì "dẻo" đã mờ nghĩa, gắn chặt với "bánh" để gọi tên nên mới có thể nói: "bánh dẻo này cứng vậy thì còn ăn làm sao được". Hay "bánh giầy làm mỏng quá", "áo dài này ngắn quá không hợp với em"... giầy, dài đã mờ nghĩa chỉ còn tên gọi một loại bánh, một loại áo. + Với học sinh tiểu học, loại suy cũng là một thủ thuật có hiệu quả để xác định cương vị từ. Vì vậy, nhiều trường hợp giáo viên có thể cung cấp mẫu để loại suy. Ví dụ: từ mẫu "cái bàn" là hai từ chứ không phải là một từ như nhiều học sinh tưởng, ta sẽ giúp các em suy ra con gà, quyển vở, thanh kiếm, ông chú ... cũng là hai từ. (chú ý: Nếu trường hợp này thuộc những bài tập đầu tiên mà học sinh xem là một từ thì cũng chấp nhận được). b. VỀ CÂU Khái niệm: câu là đơn vị nhỏ nhất có thể diễn đạt một ý trọn vẹn (theo Lê Phương Nga) - Để vạch được ranh giới câu trong đoạn, ta phải xác định được ý tối thiểu. Khái niệm ý, diễn đạt ý là trừu tượng đối với học sinh tiểu học. Nó cần được gắn với dấu hiệu hình thức của một câu, ứng với một mệnh đề: để có được một ý phải nêu ra một dạng thông báo nào đó và báo được một điều gì đó về đối tượng này. Để học sinh có thể xác định ranh giới câu không nên đưa ra những câu đặc biệt. Ví dụ: Trong cặp có bốn quyển sách hoặc: Trên nền xanh ấy nổi bậc một hàng chữ vàng in lấp lánh. Mà nên thay bằng câu: Em rất yêu chiếc bút chì của mình. - Điều cần lưu ý thứ 2 là đặc điểm diễn đạt một ý làm cho câu có chức năng với các đơn vị nhỏ hơn câu. Nhưng riêng đặc điểm này lại chưa đủ để phân biệt câu với các đơn vị lớn hơn nó như tổ hợp câu, đoạn, bài. Vì vậy, khi phân cắt đoạn ra thành các ý cần phân cắt triệt để để có ý tối giản. Tức là chia cho đến phần nhỏ nhất, trùng với một câu đơn. Để đạt được điều này, trong yêu cầu của bài tập phải có thêm đòi hỏi "sao cho được nhiều phần nhất". Nếu không chia đến phần nhỏ nhất ta có thể được những phần trùng với 2, 3 câu đơn. Sau khi phân cắt ra được thành phần các đơn vị ứng với câu, giáo viên sẽ đưa ra thuật ngữ yêu cầu học sinh nêu định nghĩa về câu. Cuối cùng, giáo viên hướng dẫn học sinh đi vào xem xét mối quan hệ câu và từ: từ dùng để đặt câu, câu do từ tạo thành.. Có thể làm rõ cách hình thành khái niệm câu bằng trích đoạn sau: Giáo viên Học sinh Hãy (/) tách đoạn sau thành từng phần nói được một ý sao cho được nhiều thành phần nhất: " Chiếc bút chì của em dài gần bằng một gang tay thân bút chì tròn như chiếc đũa vỏ ngoài của bút chì sơn màu xanh láng bóng em rất yêu chiếc bút chì của mình" - Gợi ý: + Đầu tiên, đoạn văn nói đến cái gì? + chiếc bút chì của em + Chiếc bút chì của em như thế nào? + dài bằng một gang tay => Như vậy phần " Chiếc bút chì của em dài bằng một gang.

<span class='text_page_counter'>(8)</span> tay" đã diễn đạt một ý. + Tiếp đó, đoạn văn nói đến cái gì? + thân bút chì + Thân bút chì như thế nào? + tròn như chiếc đũa => Như vậy, phần "Thân bút chì tròn như chiếc đũa" đã nói được một ý. Tương tự hướng dẫn học sinh tìm ý trọn vẹn (tìm câu) còn lại trong đoạn văn - Đoạn văn sau khi đã được chia thành từng phần có ý nhỏ nhất là: " Chiếc bút chì của em dài gần bằng một gang tay/ thân bút chì tròn như chiếc đũa/ vỏ ngoài của bút chì sơn màu xanh láng bóng / em rất yêu chiếc bút chì của mình." - Mỗi phần nhỏ vừa chia là một câu. Vậy câu là gì? - Câu là một đoạn lời, nhỏ nhất, diễn đạt một ý.. 2. Làm giàu vốn từ, rèn kĩ năng nắm nghĩa, mở rộng vốn từ và sử dụng từ Làm giàu vốn từ là mục đích của bài học mở rộng vốn từ theo chủ đề và tất cả các bài học liên quan đến từ. Đó là những bài học theo mạch các lớp từ vựng, mạch cấu tạo từ và mạch từ loại.  Rèn kĩ năng nắm nghĩa:Muốn làm cho học sinh nắm nghĩa của từ, giáo viên phải - Đưa ra vật thực hoặc tranh ảnh thể hiện sự vật từ nói đến Ví dụ: Nói từ "tách" - một đồ dùng để uống nước, uống trà thì giáo viên giới thiệu tranh ảnh về cái tách. - Dùng lời nói để tả lại sự vật, hiện tượng mà từ biểu đạt (giải nghĩa từ) Ví dụ: giải nghĩa từ "tách" thành " đồ dùng để uống nước, thường bằng sứ, miệng rộng, có quai cầm". - Giải nghĩa từ bằng các từ đồng nghĩa, trái nghĩa Ví dụ: "siêng học, siêng làm tức là chăm học, chăm làm" (dùng đồng nghĩa) - Giải nghĩa bằng cách phân tích các từ tố (tiếng) đặc biệt là từ ghép Hán - Việt Ví dụ: ái quốc (ái = yêu, quốc = nước) : yêu nước - Giải nghĩa từ bằng ngữ cảnh: là để cho từ xuất hiện trong 1 nhóm từ, một câu, một bài để làm rõ nghĩa của từ. Ví dụ: Để làm rõ nghĩa của từ "náo nức" giáo viên đưa ra câu " Chúng em náo nức đón têt" từ đó học sinh sẽ hiểu và nắm kĩ nghĩa của từ.  Rèn kĩ năng mở rộng vốn từ - Để giúp học sinh mở rộng vốn từ, giáo viên cần hướng cho học sinh thói quen luôn ghi chép những từ ngữ mới lạ khi xem sách báo, nghe người khác nói và cố gắng học thuộc càng nhiều càng tốt ca dao, tục ngữ và văn thơ vì đó là nguồn từ vô cùng quý giá - Hướng dẫn hóc inh tra từ điển để tìm từ đồng nghĩa, trái nghĩa là cách tốt để nâng cao số lượng từ của mình.  Rèn kĩ năng sử dụng vốn từ - Hướng dẫn sử dụng từ trong sáng, nghĩa là không dùng từ cổ - Không dùng từ địa phương trừ trường hợp trong văn thơ hoặc ghi chép trong ca dao - Không dùng từ cầu kì vì nó làm mất tính trong sáng. Ví dụ: Ước mơ như vậy là rơi vào phạm trù của lí tưởng ..

<span class='text_page_counter'>(9)</span> - Hướng cho học sinh có ý thức thực hành nhiều bài tập để sử dụng từ: đúng âm, đúng nghĩa, đúng phong cách và không phạm lỗi lặp từ. Các bài tập làm giàu vốn từ rất phong phú, tựu trung được sắp xếp thành ba nhóm sau: 2.1. Nhóm bài tập dạy nghĩa 2.1.1. Bài tập yêu cầu chỉ ra nghĩa của các yếu tố mang nghĩa (tiếng, từ, cụm từ, thành ngữ, tục ngữ, quán ngữ) Những bài tập này yêu cầu giải nghĩa các từ ngữ cụ thể, nhất là các thành ngữ. Ví dụ : Em hiểu “lao động trí óc” nghĩa là gì? Em hiểu các thành ngữ dưới đây như thế nào : a) Cầu được ước thấy. b) Ước sao được vậy . c) Ước của trái mùa. d) Đứng núi này trông núi nọ. Tục ngữ cũng trở thành một ngữ liệu để dạy nghĩa. Ví dụ : Mỗi câu tục ngữ sau đây khuyên người ta điều gì? a) Lửa thử vàng, gian nan thử sức. b) Nước lã mà vã nên hồ Tay không mà nổi cơ đồ mới ngoan. c) Có vất vả mới thanh nhàn Không dưng ai dễ cầm tàn che cho. Bài tập dạy nghĩa rất thú vị. Giải nghĩa từ có thể trở thành một yêu cầu bổ sung cho bất kì một bài tập nào liên quan đến từ. Nó tạo ra sự mới mẻ không lặp lại cho những bài tập về từ. Chẳng hạn, sau khi yêu cầu HS tìm các từ có tiếng “mới” cho một bài tập cấu tạo từ, chúng ta yêu cầu các em phân biệt nghĩa và cách dùng của hai từ “mới tinh” và “mới mẻ” hoặc sau khi HS tìm được các từ láy có tiếng “nhỏ” (nho nhỏ, nhỏ nhắn, nhỏ nhen), chúng ta yêu cầu các em phân biệt nghĩa của chúng thì những bài tập này sẽ trở nên thú vị hơn. Ngữ liệu nâng cao cho kiểu bài tập này là lớp từ được dùng theo nghĩa bóng, lớp từ đa nghĩa, lớp từ Hán Việt, đặc biệt là thành ngữ, quán ngữ, tục ngữ. Ví dụ: - Nên nghĩa của nhà trong nhà rộng, nhà có năm người, đời nhà Trần, nhà văn, nhà tôi đi vắng. - Tìm các nghĩa khác nhau của từ đánh. - Tham quan nghĩa là gì? - Thiên trong thiên phú, thiên biến vạn hóa, thiên vị có những nghĩa gì? 2.1.2. Chỉ ra cá thể đối lập về nghĩa của các yếu tố mang nghĩa (tiếng, từ, cụm từ, thành ngữ, tục ngữ, quán ngữ) Ngữ liệu nâng cao của các bài tập này có thể là những từ có cùng yếu tố cấu tạo, cũng là lớp từ đồng nghĩa, ví dụ phân biệt nghĩa của cần cù, cần kiệm, phân biệt nghĩa của kết quả, hậu quả, thành quả. Đó cũng có thể là những từ đa nghĩa, ví dụ “Nghĩa của từ quả trong quả ổi, quả cam, quả bưởi có gì khác so với quả trong quả tim, quả đồi, quả đất?”. Đó cũng có thể là những từ đồng nghĩa, gần nghĩa. Ví dụ : Phân biệt nghĩa của từ chết, từ trần, hi sinh. 2.2. Bài tập hệ thống hóa vốn từ (mở rộng vốn từ) Đây là dạng bài tập để phát triển vốn từ cho HS, cũng là dạng để đo sự phong phú về vốn từ và tính hệ thống của vốn từ của HS. Chúng gồm các kiểu sau: 2.2.1. Bài tập tìm từ Những bài tập này yêu cầu HS kể ra những từ thuộc một trường liên tưởng nào đó. Trước hết đó là những từ cùng chủ đề. Ví dụ, kể tên những đồ dùng học tập, kể ra những đức.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> tính tốt của người học sinh. Đây là dạng bài tập đặc trưng của nhóm mở rộng vốn từ theo chủ đề. Ngoài ra, những bài tập này cũng yêu cầu tìm những từ cùng lớp từ vựng (tìm từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa, tìm từ cùng từ loại, tiểu loại, tìm từ có cùng đặc điểm cấu tạo, tìm các thành ngữ, tục ngữ có nội dung nào đó) . Ví dụ : “Tìm các từ có tiếng nhân với nghĩa là người”. Những bài tập này là những bài tập mở, rất thuận lợi để tổ chức thực hiện dưới dạng các trò chơi khi chúng ta chọn các ngữ liệu là những từ ngữ có tính “năng sản” cao, ví dụ : tìm từ có tiếng ăn, tìm từ có tiếng sáng, tìm các thành ngữ tả gương mặt, tìm các thành ngữ chỉ các kiểu chạy, tìm các thành ngữ có từ mèo… 2.2.2. Bài tập phân loại từ Bài tập phân loại từ là những bài tập cho sẵn các từ, yêu cầu HS phân loại theo một căn cứ nào đó. Bài tập có thể cho sẵn các từ rời, cũng có thể để các từ ở trong câu, đoạn. Dựa vào các căn cứ để phân loại, cũng chính là các căn cứ để tìm từ, các bài tập phân loại từ có thể chia thành những bài tập phân loại từ theo chủ đề, theo các nhóm nghĩa, phân loại từ theo các lớp từ vựng, theo từ loại, tiểu loại của từ, phân loại từ dựa vào cấu tạo. Các bài tập phân loại từ có thể có các kiểu : Cho từ rời, dựa vào nghĩa, phân nhóm, ví dụ : - Cho một số từ sau : vạm vỡ, trung thực, đôn hậu, tầm thước, mảnh mai, béo, thấp, trung thành, gầy, phản bội, khỏe, cao, yếu, hiền, cứng rắn, giả dối. Dựa vào nghĩa, xếp các từ trên vào hai nhóm và đặt tên cho từng nhóm. - Cho các từ : bánh dẻo, bánh nướng, bánh cốm, bánh nếp, bánh rán, bánh ngọt, bánh mặn, bánh cuốn, bánh gai. Hãy chia các từ trên thành ba nhóm và chỉ ra những căn cứ dùng để chia. Cũng có thể cho từ trong câu, đoạn, yêu cầu dựa vào nghĩa phân nhóm. Ví dụ, yêu cầu HS tìm các từ đồng nghĩa trong đoạn văn. Đặc biệt, trong các tài liệu nâng cao thường có những bài tập yêu cầu loại bỏ từ lạc ra khỏi nhóm. Ví dụ : Gạch bỏ từ không cùng nghĩa với các từ còn lại trong dãy từ sau: a) Tổ quốc, đất nước, giang sơn, dân tộc, sông núi, nước nhà, non sông, nước non. b) Quê hương, quê cha đất tổ, quê hương bản quán, quê mùa, nơi chôn rau cắt rốn, quê hương xứ sở. 2.3. Bài tập tích cực hóa vốn từ (dạy sử dụng từ) Dạng bài tập để luyện kĩ năng sử dụng từ cũng là để đo năng lực, khả năng sử dụng của HS giỏi gồm các kiểu sau : 2.3.1. Bài tập yêu cầu thay thế từ, điền từ Bài tập điền thế có thể cho trước từ cần điền, thế hoặc yêu cầu HS tự tìm từ trong vốn của mình. Tính thú vị của bài tập này sẽ được nâng lên khi yêu cầu HS lựa chọn giữa những từ cùng yếu tố cấu tạo, những từ đồng nghĩa, gần nghĩa, từ nào dùng chính xác nhất, có hiệu quả giao tiếp nhất. Ví dụ : Thay từ được gạch dưới bằng một từ láy để các câu văn sau gợi tả hơn. Gió thổi mạnh. Lá cây rơi nhiều. Từng đàn cò bay nhanh trong mây. Loại bài tập điền từ được dùng cho HS giỏi thường yêu cầu HS nhận ra được sự khác nhau về nghĩa và cách dùng của các từ đồng nghĩa, gần nghĩa, ví dụ: Chọn tự lập hay tự lực điền vào chỗ trống trong mỗi câu sau cho thích hợp : Anh ấy sống …từ bé. Chúng ta phải …làm bài. Để nâng cao có thể đưa thêm yêu cầu giải thích vì sao lựa chọn một từ nào đó. Nếu từ được chọn là một từ có giá trị nghệ thuật thì thực chất bài tập đã yêu cầu HS đánh giá giá trị của từ như một dạng để cảm thụ văn học..

<span class='text_page_counter'>(11)</span> 2.3.2. Bài tập tạo ngữ Đây là những bài tập yêu cầu HS đưa ra những kết hợp từ đúng. Ví dụ : nối náo nức với những từ ngữ có thể kết hợp được : đến trường, học bài, đón Tết, trả lời, chuẩn bị biểu diễn, nghe giảng. Để có những bài tập dành cho HS giỏi cần chọn những ngữ liệu là những từ HS khó giải nghĩa bằng định nghĩa hoặc là những từ có giá trị gợi tả, gợi cảm. Ví dụ : Những từ ngữ nào có thể kết hợp được với từ nhấp nhô? 2.3.3. Bài tập đặt câu với từ Ví dụ : 3Đặt câu với từng từ tả hoạt động của thú rừng: rinh, rượt, vồ, quắp. Bài tập đặt câu với từ là một bài tập mở. Những bài tập đặt câu với từ dành cho HS giỏi thường chọn những từ có khả năng kết hợp thấp. Đặc biệt, những bài tập này sẽ trở nên thú vị hơn khi đề bài có thêm một yêu cầu nào đó: hoặc quy định chức vụ ngữ pháp của từ được dùng để đặt câu, ví dụ : “Đặt ba câu với từ năm nay sao cho chúng giữ chức vụ trạng ngữ, chủ ngữ, nằm ở bộ phận vị ngữ”, hoặc nếu yêu cầu đặt câu có quy định về mục đích nói, tức là quy định về nghĩa. Đây là loại bài tập xây dựng những tình huống để HS đặt mình vào hoàn cảnh nói năng, sản sinh ra những câu đã được dự tính trước. Những bài tập này có thể được thực hiện bằng hình thức trò chơi đóng vai. Đây là nội dung để xây dựng loại trò chơi học tập, các hình thức thi “Ai tài đối đáp” 2.3.4. Bài tập viết đoạn văn với từ Những bài tập này yêu cầu học sinh viết đoạn văn với những từ đã cho. Ví dụ : “ Em hãy viết bốn câu về người bạn của em, cố gắng sử dụng những từ sau…” Dạng bài tập đặt câu, viết đoạn với từ dành cho học sinh giỏi là những bài tập yêu cầu học sinh luyện viết câu, đoạn hay, yêu cầu các em tự tìm những từ ngữ và cách diễn đạt để từ những câu chưa gợi tả, gợi cảm, viết thành những câu gợi tả, gợi cảm; từ những câu chỉ có nội dung sự việc đến những câu có tình cảm, cảm xúc. Đây là những bài tập có tính chất tổng hợp từ ngữ - ngữ pháp- luyện viết văn. Ví dụ từ câu có nội dung sự việc “Chúng em đã đến thăm quảng trường Ba Đình, lăng Bác được dựng ở đây” trở thành câu có nội dung liên cá nhân, có cảm xúc như: “Thế là chúng em đã được đến thăm quảng trường Ba Đình lịch sử. Chính nơi đây, toàn dân ta đã chung sức xây nên nơi an nghỉ cuối cùng của Người”. 2.3.5. Bài tập chữa lỗi dùng từ Đây là những bài tập yêu cầu học sinh chữa những lỗi dùng từ sai. Bài tập chữa lỗi dùng từ cũng là một dạng bài tập thú vị. Chúng sẽ càng thú vị hơn khi chúng ta sử dụng các lỗi dùng từ phổ biến ở học sinh. Đó là các loại lỗi dùng từ sai do nhầm các từ gần âm, gần nghĩa, do không nắm khả năng kết hợp của từ…ví dụ bài tập “ Chỉ ra từ dùng sai trong câu sau và chữa lại cho đúng. Trong học kì I vừa qua, bạn Cường có một số yếu điểm cần phải khắc phục”. Bài tập chữa lỗi dùng từ cũng sẽ trở nên thú vị hơn khi chúng ta đưa thêm yêu cầu giải thích vì sao dùng từ như thế lại sai. Chẳng hạn bài tập chỉ ra từ dùng sai trong câu sau và chữa lại cho đúng: “Bạn Hùng chạy bon bon” có thể là bài tập cho HS lớp 2-3 nhưng nếu thêm yêu cầu giải thích vì sao dùng từ như thế bị xem là sai thì sẽ trở thành bài tập dành cho HS giỏi cả ở lớp 4,5.. 3. Cấu tạo từ, kĩ năng nhận diện, nắm nghĩa, tạo từ và sử dụng từ theo kiểu cấu tạo Phương thức cấu tạo từ là những cơ chế, những quá trình xử lý các nguyên liệu hình vị để cho ta các từ của ngôn ngữ. Mối quan hệ hình vị và phương thức cấu tạo từ, cũng tức là mối quan hệ giữa sự phân tích hình vị và nguyên cứu cấu tạo từ như sau: Do chỗ mỗi cơ chế hay mỗi phương thức cấu tạo đòi hỏi những nguyên liệu-hình vị thích hợp của mình cũng như mỗi cơ chế của mỗi loại máy đòi hỏi một loại nguyên liệu nhất định mới có thể cho ta sản phẩm, nếu phát hiện được phương thức cũng có thể đoán biết được hình vị được sử dụng là hình vị.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> loại nào. Ngược lại biết hình vị loại nào thì cũng có thể đoán biết phương thức sử lý chúng sẽ là phương thức gì. Đó là lý do của việc không thể cô lập sự phân tích hình vị với sự nguyên cứu cấu tạo của từ. Mối phương thức cấu tạo có một phương thức sủ lý riêng các hình vị nguyên liệu, cho nên các từ được cấu tạo nên do một phương thứ nào đấy sẽ có một đặc trưng đồng nhất, phân biệt với những từ sản sinh ra do các phương thức khác nhau. Nguyên cứu phương thức cấu tạo từ trước hết là phát hiện ra cá đặc trưng này. Những đặc trưng hình thức và quan trọng hơn nhiều là các đặc trưng ngữ nghĩa. Nói một cách khác nguyên cứu phương thức tạo từ phải phát hiện ra các tiểu loại từ - ngữ nghĩa là một phương thức nhất định sản sinh ra. Những phương thức tạo từ sau; 3.1. Phương thức từ hoá hình vị : Đối với các ngôn ngữ đơn lập phương thức này thường là làm cho các hình thức ngữ âm có nghĩa mang những đặc điểm ngữ nghĩa và những đặc điểm ngữ pháp của từ đã tồn tại từ lâu. Trong các ngôn ngữ này, phương thức từ hoá chỉ hiện ra rõ ràng khi một hình vị của một từ hay nhiều hình vị được tách ra và được dùng với những đặc trưng ngữ nghĩa ngữ pháp của cả từ toàn vẹn. Đối với ngôn ngữ biến hình, hoạt động của phương thức này giống với hoạt động của nó trong các ngôn ngữ đơn lập chỉ trong những từ không biến đổi hình thức ngữ âm nhau các hư từ thuộc ngữ pháp miêu tả và thuộc ngữ pháp phát ngôn. Còn trong các trường hợp khác nhau, bao giờ nó cũng hoạt động kèm theo phương thức “tương liên hoá”, nghĩa là kèm theo với việc kết hợp hình vị căn tố. Cho nên trong các ngôn ngữ này, trừ các từ hư không biến hình, không có những từ đơn. 3.2. Phương thức hoá hình vị : Phương thức này chia thành: a) Phương thức hoá bằng sự kết hợp các hình vị: Phương thức này tổ hợp 2 hoặc 1 số hình vị vố độc lập với nhau, tách biệt nhau đẻ tao tù . Phép kết hợp hình vị lại chia thành:  Phương thức phụ gia hay phương thức phái sinh thực chất là kết hợp hai hình vị khác loại với nhau, một hình vị “từ vựng thuần khiết”với một phụ t. Tuy nhiên, căn cứ vào cá loại phụ tố, phép phụ gia chia thành: Phép phụ gia định hình từ loại và phép phụ gia phái sinh ngữ nghĩa.  Phương thức hợp thành hay phương thức ghép: Thực chất là kết hợp 2 hình vị đồng loại với nhau, thường là hai căn tố, nhưng cũng có khi ghép thành 2 hinhf vị “ngữ pháp” b) Phương thức phức hoá bằng cách lặp hình vị (còn gọi là phương thức láy) Phương thức này tạo từ không phải băng cách kết hợp các hình vị vốn tách rời nhau mà bằng cách “nhân lên”, tăng lên, lặp lại các hình vị guyên liệu một số lần. 3.3. Phương thức tương liên hoá Phương thức này tổ hợp các hình vị tương liên vào thân từ, biến nó thành một từ đầy đủ về thành phần cấu tạo, được quy đinh đầy đủ về chức năng cấu tạo câu thành một đơn vị cú pháp 3.4. Quá trình chỉnh hình Các hình vị với các đặc trưng ngữ nghĩa và với các dạng ngữ âm cụ thể hiện thực hoá khi tổ hợp với nhau nhất định sẽ tác đọng với nhau, điều chỉnh lẫn nhau. Sự tác động này được gọi là các quá trình chỉnh hình. Kết quả của quá trình chỉnh hình là các quá trình hình vị và do đó toàn diện mạo cảm tính cụ thể của từ sẽ biến đổi đi ít hay nhiều, không hoàn toàn trùng khít với diện mạo lẽ ra phải có. Từ-cấu tạo(số lượng hình vị phương thức cấu tạo…)cũng được hiện thực hoá một cách trực tiếp, theo quan hệ 1:1 trong các phân đoạn ngữ âm và quan hệ giữa các phân đoạn ngữ âm đó trong từ cụ thể. Ở điểm này về tiếng Việt từ về cấu tạo nội bộ của từ không có vấn đề mà vấn đề là ở hình thức ngữ âm toàn bộ (tư cách từ của nhiều hình thức ngữ âm còn đáng ngờ)..

<span class='text_page_counter'>(13)</span> Đối với trường hợp đáng ngờ thì cần căn cứ vào ngữ nghĩa, vao tính sẵn có, vào chức năng tạo câu và vào trực cảm ngôn ngữ của người bản ngữ, có thể mạnh dạn kết luận một cách ít nhiều võ đoán rằng chúng là từ mặc dù lý do cấu tạo từ chưa hợp nghĩa. *Từ- ngữ pháp TV được hiện thực hoá bằng những dấu hiệu ngoài từ. Trong hình thức ngữ âm của từ TV không có những dấu hiệu ngữ âm hiện thực hoá các ý nghĩa ngữ pháp cho nên việc một hình thức ngữ âm có thể ứng với một số từ - ngữ nghĩa khac nhau, do đó thuộc về những từ- ngữ pháp khác nhau là một điều thường gặp và dễ giải thích. Những đặc điểm ngữ pháp ngoài từ của tiếng Việt, về cơ bản đều có lý do ngữ nghĩa và hình thức nên những từ-ngữ pháp phân biệt với nhau khá rõ. Ứng với những từ ngữ pháp đó là những từ hiện thực, cụ thể mang và chỉ mang từ- ngữ pháp đó nghĩa là cố định trong một từ -ngữ pháp. Ví dụ: Những từ như “nhà”,”ngói”, “học sinh”…bao giờ cúng mang từi ngữ pháp danh từ, những từ như “đi”, “làm”…bao giờ cũng mang từ- ngữ pháp động từ, những từ như “đẹp”, “xấu”… bao giờ cũng mang từ- ngữ pháp tính từ…Đó là các từ điển cho các từ- ngữ pháp. Dựa vào các từ mang và chỉ mang một từ- ngữ pháp có thể xác lập đượccacs từ loại theo chức năng tạo câu. Nói các khác sự đối lập về mặc từ loại trong tiếng Việt là hiển nhiên, không thể bác bỏ. Tuy rằng hiện tượng “nhất từ đa loại” trong tiếng Việt là có thật nhưng đó là hiện tượng cục bộ, những hiện tượng trung gian, tồn tâij của chúng phải lấy sự đối lập làm tiền đề. Không thể phủ định từ loại như những phạm trù ngữ pháp trong tiếng Việt nhưng không thể buột tất cả đi vào và chỉ đi vào một từ loại nhất định. Những điều nói trên không chỉ đúng cho các từ loại lớn, đúng cho các từ tiểu loại và nói chung đúng cho tất cả các đặc điểm ngữ pháp của từng nhóm từ rất nhỏ. Có điều càng đi sâu vào từng nhỏm nhỏ, thì ngữ pháp có lý do ngữ nghĩa càng có vai trò quyết định. Bởi vậy, đối với tiếng Việt sự nguyên cứu từ loại gần với từ vựng học hơn là ngữ pháp học theo tinh thần truyền thống Các đặc điểm hình thức nói trên có quan hệ trực tiếp đến từ- ngữ nghĩa được thực hiện hóa trong tiếng Việt Ở trên dã nói một từ ngữ nghĩa được biểu thị bằng một phân đoạn ngữ âm cố định bất biến. Song không loại trừ một từ- ngữ âm tương ứng với một số từ ngữ nghĩa khác, do đó tương ứng với một số từ ngữ pháp khác. Cấu trúc của các từ ngữ được hiện thực hóa trong các từ cụ thể, hiện thực.Trong từ tiếng Việt ý nghĩa từ loại và ý nghĩa từ vựng “thuần khiết” lại gắn chặt với nhau, được diễn đạt đồng thời trong cùng một hình vị, đã là từ tiêng Việt thì nhất thiết phải có ý nghĩa từ loại và chỉ có ý nghĩa ngữ pháp từ loại. Từ tiếng Việt được định hình chỉ đến từ loại Nhận xét ý nghĩa từ loại và ý nghĩa từ vựng “ thuần khiết” được hiện thực hóa theo lối hòa kết và ý nghĩa của từ tiếng Việt được định hình đến từ loại đúng cho các đại bộ phận cá từ miêu tả. Đôi với những từ hưthuoocj ngữ pháp miêu tả thì có khác Một số từ hư trong tiếng Việt như “sự”,“cuộc”,”việc”…mang ý nghĩa từ loại danh từ. Ý nghĩa của chúng là ý nghĩa từ loại bị đẩy ra khỏi thành ý nghĩa của những từ đối lập. Ý nghĩa của những từ này là ý nghĩa của những từ loại tr5ong phạm trù lớn. Cái phần từ vựng quyết định sự khác nhau về ngữ nghĩa giữa mỗi từ đối với nhau, chính là do sự đối lập giữa các tiểu loại mà có. Cái khuôn tiểu loại tạo nên ý nghĩa các từ hư-từ loại có thể tương đương với những khuôn tiểu loại tồn tại trong những từ miêu tả trong hệ thống từ vựng tiếng Việt Ví dụ: Ý nghĩa của “cái”chiếc”…tương với khuôn tiểu loại sự vật trong các danh từ “bàn”, “ghế”,”nhà”….

<span class='text_page_counter'>(14)</span> Song cũng có những khuôn tiểu loại của những từ hư- từ loại không tìm được những từ miêu tả khuôn tiểu loại tương đương, đó là ý nghĩa của các từ như “sự”, “cuộc”, “chiến” Sự vật hóa hành động, quá trình trạng thái tính chất…vừa là những sản phẩm vừa là những thao tác cần có và phải có của tư duy trừu tượng. Chúng cần phải được diễn đạt bằng ngôn ngữ . Tiếng Việt do không có phương thức cấu tạo tử sản sinh ra các danh từ hoạt động, quá trình, trạng thái …nên phải dùng đến biện pháp kết cấu. Sự có mặc của các từ hư-từ loại không có từ miêu tả tương đương và khuôn từ loại cung cấp cá tài liệu để tạo ra những kết cấu”sự vật hóa”thay cho biện pháp cấu tạo từ. Xảy ra tình trạng có vẻ mâu thuẫn là có những tổ hợp xét về tổ chức thì có tính cú pháp nhưng xét về ngữ nghĩa thì lại có tính từ vựng tức thuộc cấp độ từ.Đó là lý do giải thích tại sao những từ hư này không thể dùng độc lập nếu không có định ngữ Ở trên là những từ hư từ loại danh từ. Nhưng điều vừa nói trên đều đúng cho các tư hư- từ loại động từ trong tiếng Việt. Đáng chú ý là nếu như “làm”, “đánh”, “khiến”…có thể tìm được rất nhiều từ thực tương đương về khuôn tiểu loại, thì “ra”, “lên”,”đi”..không có những từ thực có khuôn loại tương đương. Những từ hư-từ loại là do những động từ thực bị hư hóa. Những trường hợp như trở nên, trở thành,hóa ra…là những từ hư-từ loại động từ thật sự. Chúng không có những từ thực có khuôn từ loại tương đương trong TV Những tư hư- từ loại trên có tính hư hoặc hư hóa đã khá rõ. Ngoài những từ này, trong TV còn khá nhiều từ khi sử dụng cũng có chức năng giống như chúng, mă cj dầu sự hư hóa chưa rõ ràng bằng .Ví dụ: “lật đỗ”, “nhuộm trắng” trong các câu lật đỗ chính quyền phản động, “thời gian nhuộm trắng mái tóc”. Hai từ “lật, nhuộm” đã mất đi những nét cụ thể, mang nghĩa trừu tượng hơn, gần như “làm cho”.Nói cách khác, trong hai từ lật và nhuộm cũng diễn ra quá trình hư hóa, song mới ở bước đầu. Điều quan trọng là quá trình hư hóa cũng diễn ra theo quy tắc chung :Từ thực miêu tả mất đi những nét nghĩa cụ thể, trở thành cái đại diện cho khuôn từ loại và tiểu loại. Ở các từ hư hoặc hư hoá tình thái và quan hệ thí sự hư hoá diễn ra theo chiều hướng ngược lại, mặc dù quy tắc vẫn là quy tắc chung: nếu từ thực mất đi khuôn từ loại thì một hoặc một số nét nghĩa tình thái và quan hệ không nằm trong từ, nhưng chúng vẫn là những ý miêu tả loại bỏ ý nghĩa từ loại để diễn đạt chúng trong kết hợp từ. Dễ nhiên không thể kể những từ hư thực sự. Có thể xác định những từ hư thực sự như sau: Từ TV là những phân đoạn ngữ âm cố định, bất biến, phản ánh một cách trực tiếp theo quan hệ 1/1 số lượng hình vị và phương thức cấu tạo, toàn bbọ ứng với một hoặc một số từ- ngữ nghĩa gồm một khuôn từ loại và những nétnghĩa riêng cho những từ và ứng với một tập hợp những đặc điểm ngữ pháp chủ yếu là ngoài từ phù hợp với mỗi từ- ngữ nghĩa. Đó là những đơn vị trong hệ thống từ vựng TV – tức là lớn nhất trong hệ thống từ vựng TV- và nhỏ nhất để tạo câu , chứa đụng trong bản thân những cấu trúc từ- ngũ nghĩa, từ cấu tạo và từ- ngữ pháp, chung cho nhiều từ cùng loại. Về mặc hình thức ngữ âm, tính âm tiết – mỗi từ là một hoặc bội số của âm tiết là tính chất chuẩncủa từ TV về mặc ngữ âm. Tính cố định, bất biến của từ -ngữ âm TV thể hiện ở chỗ các âm tiết cấu tạo nên nó ko biến đổi thành phần âm vị học theo các chức năng ngữ pháp khác nhau của từ trong câu, song vẫn có thể thay đổi ít nhiều về mặt số lượng âm tiết tuỳ theo những tác động có tính tu từ của ngữ cảnh. Sự thay đổi về hình thức ngữ âm của từ TV ko lập thành những hệ hình..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> => Từ của TV là 1 hoặc 1 số âm tiết cố định, bất biến, có một ý nghĩa nhất định, nằm trong 1 phương thức cấu tạo nhất định, tuân theo những kiểu đặc điểm ngữ pháp nhất định, lớn nhất trong từ vựng và nhỏ nhất để tạo câu. 1. Cấu tạo từ: là phương thức tổ chức nội bộ của từ: Cần phân biệt cấu tạo từ và cấu tạo dạng thức của từ. - Cấu tạo dạng thức: vd: child (đứa trẻ) Children (những đứa trẻ) - Cấu tạo từ: là cách tổ chức từ để tạo nên từ mới. Vd: công nhân (chỉ người) công nhân hoá (chỉ quá trình biến đổi) Phương thức cấu tạo và cấu tạo dạng thức giống nhau: gồm 2 bộ phận căn tố và phụ tố Khác nhau: ở tính chất bộ phận phụ tố + Khi ghép phụ tố vào thân từ mà đưa đến sự khác nhau về ý nghĩa từ vựng thì đó là phương thức cấu tạo từ. + Khi ghép phụ tố vào thân từ chỉ đưa lại sự thay đổi về dạng thức thì đó là cấu tạo dạng thức. 2. Hình vị - đơn vị cấu tạo từ Hình vị: là đơn vị ngôn ngữ có ý nghĩa nhỏ nhất và ko độc lập (tức ko thể vận dụng tự do trong việc cấu tạo nên câu), là đơn vị cấu tạo nên từ. 3. Phương thức cấu tạo từ: Trong cấu tạo dạng thức của từ, cách tổ chức nói chung là đơn giản. Một dạng từ nhất định thường gồm 1 bộ phận gốc (thân từ - căn tố) và 1 bộ phận phụ tố biến hình (đuôi từ - biến tố hay còn được gọi là vĩ tố) - Cấu tạo từ có thể chia ra: + phương thức phụ tố: dùng phụ tố ghép vào căn tố để tạo từ mới. Vd: writ/er (nhà văn) viết/ người + phương thức kết hợp: dùng 2 căn tố kết hợp với nhau để tạo từ mới Vd: nông + nghiệp  nông nghiệp + phương thức láy: láy lại căn tố để tạo từ mới. Vd: orang + orang  người chiến 4. Phân loại từ về mặt cấu tạo: Dựa vào số lượng hình vị, chia thành từ đơn và từ phức. a) Từ đơn: là những từ do 1 hình vị tạo nên. Đa số từ đơn TV là từ đơn đơn âm. Vd: sông, núi, sách, vở… - Từ đơn đa âm: là những từ vay mượn từ tiếng nước ngoài, chưa thuần hoá theo cấu trúc âm tiết TV (vd: computer, coppy..) b) Từ phức: là những từ bao gồm 2 hình vị trở lên. Dựa vào phương thức cấu tạo từ, có thể chia từ phức thành: - Từ láy: là những từ được cấu tạo dựa trên phương thức láy ngữ âm + Căn cứ vào số lượng âm tiết, có thể chia ra: từ láy đôi, láy 3 và láy 4 + Căn cứ vào bộ phận được láy có thể chia ra: láy hoàn toàn, láy bộ phận - Từ ghép: là 1 trong 2 kiểu từ phức được tạo thành bằng cách ghép 2 hoặc hơn 2 hình vị theo 1 kiểu quan hệ từ pháp nhất định. Vd: giàu sang, ốc bươu… Từ ghép gồm 2 loại: từ ghép hợp nghĩa (còn gọi là từ ghép đẳng lập, từ ghép song song, từ ghép liên hợp, từ ghép tổng hợp) thường gồm 2 hoặc 3 hình vị, có vai trò tương đương nhau, ko phụ thuộc nhau cùng tạo thành 1 kết hợp mang nghĩa khái quát, khác nghĩa từng thành tố, Vd: ngày đêm, phố xá….

<span class='text_page_counter'>(16)</span> + Từ ghép phân nghĩa ( từ ghép chính phụ) gồm 1 hình vị mang nghĩa tổng loại chung (về sự vật, hoạt động, thuộc tính) và 1 số hoặc 1 số hình vị đứng sau có tác dụng phân hoá nghĩa (vd: máy ảnh, máy bay, máy tiện…) Cách giải nghĩa từ Với mục tiêu được quy định thì môn Tiếng Việt có vai trò hết sức quan trọng, giúp trẻ chiếm lĩnh tri thức mới, hình thành và phát triển năng lực sử dụng tiếng Việt trong học tập và trong giao tiếp. Ngay từ bậc tiểu học, học sinh được chú trọng dạy từ, trong đó dạy giải nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa là nhiệm vụ vô cùng quan trọng. Mặc dù vấn đề nghĩa của từ, các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa và việc dạy vấn đề này ở trường tiểu học không gây nhiều tranh cãi như việc dạy nội dung cấu tạo từ, nhưng đây lại là công việc không mấy dễ dàng bởi vì nghĩa của từ là một hiện tượng phức tạp trừu tượng khó nắm bắt. Trong khi đó tư duy của học sinh tiểu học chủ yếu thiên về cụ thể chưa phát triển tư duy trừu tượng. Điều này đòi hỏi giáo viên cần phải tìm ra được biện pháp dạy học thích hợp với tâm lý nhận thức của các em. Qua nghiên cứu lý luận và tìm hiểu thực tiễn việc dạy học môn luyện từ và câu ở tiểu học nói chung và lớp 5 nói riêng. Tôi có thể đề ra một số các hướng dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa cho học sinh lớp 5 như sau: Trước hết ta cần hiểu nghĩa của từ là gì? Và dạy nghĩa của từ cho học sinh thế nào? Nghĩa của từ được hiểu là nội dung đối tượng vật chất, là sự phản ánh đối tượng của hiện thực (Một hiện tượng, một quan hệ, một tính chất, hay một quá trình) trong nhận thức, được ghi lại bằng một tổ hợp âm thanh xác định. Để tăng vốn từ cho học sinh, ngoài việc hệ thống hóa vốn từ, công việc quan trọng là làm cho học sinh hiểu nghĩa từ. Đây là nhiệm vụ sống còn trong sự phát triển ngôn ngữ của trẻ em. Việc dạy nghĩa của từ được tiến hành trong tất cả các giờ học, bất cứ ở đâu có cung cấp từ ngữ, thuật ngữ, khái niệm, thì ở đó có dạy nghĩa từ. Vídụ: Trong các phân môn Tập làm văn, Kể chuyện, Chính tả, thậm chí cả Tập viết, hoạt động giải nghĩa từ cũng thường xuyên được thực hiện. Để giải nghĩa từ, trước hết giáo viên phải hiểu nghĩa từ và biết giải nghĩa phù hợp với mục đích dạy học, phù hợp với đối tượng học sinh. Theo định hướng nêu trên, chúng tôi đưa ra các biện pháp giải nghĩa từ thích hợp với lượng từ ngữ cần cung cấp cho học sinh lớp 5 Giải nghĩa bằng định nghĩa Đây là biện pháp giải nghĩa bằng cách nêu nội dung nghĩa, gồm tập hợp các nét nghĩa bằng một định nghĩa. Tập hợp nét nghĩa được liệt kê theo sự sắp xếp nét nghĩa khái quát, cũng là nét nghĩa từ loại lên trước hết và các nét nghĩa càng hẹp, càng riêng thì càng ở sau. Ví dụ: + “Thảo quả”(TV5- T1- Tr113): thảo quả là một loại cây, thân nhỏ, quả hình bầu dục, lúc chín màu đỏ, tỏa mùi thơm ngào ngạt, dùng làm thuốc và gia vị. + Gùi (TV5 -T1- Tr 144): đồ vật, đan bằng mây, tre, đeo trên lưng để chuyên chở đồ đạc, miệng loe hơn đáy có hình trụ... Bằng việc giải nghĩa biểu niệm theo cách định nghĩa khái niệm như trên, chúng tôi nhận thấy cần hướng dẫn học sinh biết cách xác định các nét nghĩa và tổ chức sắp xếp các nét nghĩa ấy. Công việc này đòi hỏi giáo viên lưu ý các em trước hết phải nhận dạng được ý nghĩa phạm trù của từ cần giải nghĩa, và biết chúng thuộc tiểu loại nào. Bởi vì các từ loại khác nhau sẽ có hướng giải nghĩa khác nhau. Mặt khác cùng là danh từ, nhưng cách giải nghĩa danh từ trừu tượng sẽ khác với danh từ chỉ sự vật cụ thể. Giải nghĩa theo lối so sánh từ đồng nghĩa, gần nghĩa hoặc trái nghĩa. Đây là cách giải nghĩa một từ bằng cách quy nó về những từ đã biết. Nhất thiết các từ dùng để quy chiếu đó phải được giảng kĩ..

<span class='text_page_counter'>(17)</span> Ví dụ: + Cam tâm: cũng như cam lòng, nghĩa là tự kìm hãm, tự dập tắt, những tâm trạng của riêng mình để chịu đựng hay để làm một việc nào đó. + Thịnh nộ (TV5- T1- Tr 89): là giận dữ ; là tỏ ra giận lắm, một cách đáng sợ Vì từ đồng nghĩa thường khác nhau về sắc thái cho nên cách giảng theo lối so sánh từ đồng nghĩa nên kết hợp với cách giảng định nghĩa hoặc với cách giảng theo lối miêu tả. Vì thế bên cạnh việc đưa ra các từ đồng nghĩa, gần nghĩa để đối chiếu, cần bổ sung thêm những nét nghĩa riêng cho từng từ. Mặc dù khi giải nghĩa chúng ta có thể chỉ cần làm rõ nghĩa một từ, nhưng việc xác định loạt đồng nghĩa sẽ giúp chúng ta hiểu rõ nghĩa của từ cần giải nghĩa hơn. Ví dụ: Khi giải nghĩa từ lốc (cơn lốc), chúng ta đưa từ này về loạt đồng nghĩa: lốc, gió, bão, giông, giông tố,..... Trong loạt từ trên, chúng ta chọn từ gió làm từ trung tâm rồi giảng nghĩa từ thật kĩ, rồi bổ sung những nghĩa đặc thù cho các từ lốc, bão, giông... Giải nghĩa theo cách miêu tả. * Cách này có hai dạng: - Thứ nhất là dạng dẫn tính chất, (hiện tượng thường gặp) để giúp cho học sinh hiểu ý nghĩa của từ. Ví dụ: + sửng sốt (TV5- T1-Tr64): ngạc nhiên cao độ, vẻ mặt có thể biến đổi khác thường như mắt mở to, lông mày nhướn lên ... + đỏ (TV5 - T1-Tr10): chỉ mầu sắc có mầu như mầu máu tươi. - Thứ hai là đối với các từ có chức năng biểu hiện cao như các từ láy sắc thái hóa, hoặc từ ghép phân nghĩa sắc thái hóa, một mặt vừa phải kết hợp cách giảng theo định nghĩa, mặt khác phải dùng lối miêu tả. Để miêu tả, chúng ta có thể lấy một sự vật, hoạt động cụ thể làm chỗ dựa rồi miêu tả sự vật, hoạt động đó sao cho nổi bật lên các nét nghĩa chứa đựng trong từ. Ví dụ: + vật vờ: lay động nhẹ, yếu ớt, như không có sức mạnh chống đỡ từ bên trong, mặc cho sức mạnh bên ngoài kéo đi, lôi lại như cây cỏ dài lay động trong làn nước nhẹ. Nếu như cách giải nghĩa theo định nghĩa bắt đầu từ các ý nghĩa biểu niệm thì giảng nghĩa theo cách miêu tả về cơ bản là bắt đầu bằng một ý nghĩa biểu vật tiêu biểu nhất để giúp học sinh lĩnh hội được nghĩa biểu vật. Giải nghĩa theo cách phân tích từ ra từng tiếng và giải nghĩa từng tiếng này Cách giải nghĩa này có ưu thế đặc biệt khi giải nghĩa từ Hán việt. Việc giải nghĩa từng tiếng rồi khái quát nêu ý nghĩa chung của cả từ sẽ giúp học sinh cơ sở nắm vững nghĩa từ. Ví dụ: + Trí dũng song toàn: (TV5- T2- Tr56) : trí là mưu trí. dũng là dũng cảm. Trí dũng song toàn là vừa mưu trí vừa dũng cảm. + Nhân chứng(TV5 - T2- Tr56): nhân là chỉ người. chứng là chứng thực sự việc Nhân chứng là người làm chứng. Dựa vào những hiểu biết về lí thuyết và điều tra thực tiễn chúng tôi đã tìm ra những hướng giải nghĩa từ thích hợp đối với từng loại từ. Chia các từ cần giải nghĩa thành từng nhóm và tìm ra biện pháp giải nghĩa phù hợp, chúng tôi muốn giúp giáo viên tiểu học có phương pháp hệ thống trong hoạt động giải nghĩa từ. Trong mỗi giờ học, giáo viên chỉ cần hướng dẫn học sinh cách giải nghĩa một số từ trong nhóm. Học sinh dựa vào cách mà giáo viên đã dạy đó, tiếp tục giải nghĩa các từ còn lại. Có một số điểm cần lưu ý với giáo viên khi giải nghĩa từ như sau: - Thứ nhất, cần diễn đạt lời giảng sao cho ngắn gọn, súc tích, đầy đủ. Phải biết chọn cách diễn đạt sao cho đối với những từ trong cùng một nhóm ngữ nghĩa được giảng bằng công thức giống nhau. - Thứ hai, giúp học sinh hiểu được các từ “công cụ” mà giáo viên thường huy động để mở đầu cho lời giải nghĩa từ như: sự vật, hoạt động, tính chất, trạng thái.....

<span class='text_page_counter'>(18)</span> - Thứ ba, người giảng phải khái quát được ngôn cảnh để lời giảng đảm bảo đầy đủ các nghĩa và phát hiện ra được những nét tinh tế trong nghĩa của từ cần giải nghĩa. Hay việc giải nghĩa các từ ngữ có giá trị nghệ thuật, được tách ra thành mục riêng với phương pháp tìm hiểu đặc trưng. Để hiểu sâu sắc các nét nghĩa của từ, nắm được những sắc thái nghĩa tinh tế của nó, giáo viên có thể dùng biện pháp so sánh với các từ cùng trường nghĩa đồng nghĩa, hay trái nghĩa, hoặc biện pháp dựa vào quy tắc chuyển nghĩa. Định nghĩa Từ TV là 1 hoặc 1 số âm tiết cố định, bất biến, mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định, nằm trong những kiểu cấu tạo nhất định, tất cả ứng với 1 kiểu ý nghĩa nhất định, lớn nhất trong TV và nhỏ nhất để cấu tạo câu. * Đặc trưng: - Từ của TV là 1 hoặc 1 số âm tiết. vd: núi, sông… Các từ này mang tính ổn định bất biến - Mỗi từ Tiếng Việt đều thuộc về một kiểu cấu tạo từ nào đó (từ đơn, từ ghép, từ láy) - Những từ có cùng kiểu cấu tạo thường có cùng một kiểu ý nghĩa Ví dụ: Những từ ghép đẳng lập kiểu: nhà cửa, ruộng vườn, quần áo… Từ được coi là đơn vị “lớn nhất trong TV” nghĩa là được nhất trong tương quan với đơn vị bật thấp hơn là tiếng thì được coi là đơn vị nhỏ nhất. Kỹ năng nhận diện:hướng dẫn học sinh thực hiện để nhận biết và vận dung khái niệm vừa học Nhận biết từ trong chuỗi lời nói (câu hỏi, câu thơ…) VD: Tìm từ trong câu văn dưới đây:” Tiếng cô giáo trang nghiêm mà ấm áp…Em nhìn ai cũng thấy thương thương” Trước hết giáo viên hướng dẫn học sinh vạch ranh giới giữa cằct trong từng câu. Việc nay rất khó và “quá sức” đối với HSTH. Muốn giúp HS lam bài tập GV cần: Cần chọn câu văn câu thơ trong đó ranh giới giữa các từ rất tường minh, rất xác định. Cần dựa vào định nghĩa về “từ”trong SGK, dựa vào những đặc trưng cơ bản của từ mà SGK đã nói tới (về từ, về nghĩa, về chức năng cấu tạo) để nhận biết từ trong câu văn, câu thơ, VD: Trong 2 câu văn trên, ranh giới giữa các từ có thể được xác định như sau: 1. Tiếng/cô giáo/trang nghiêm/mà/ấm áp… 2. Em/nhìn/ai/cũng/thấy/thân thương. Sau đó hướng dẫn HS nhận xét từng từ -về các mặt: nghĩa: số lượng nghĩa… Vận dụng khái niệm từ vào thực tiễn nói-viết Có thể có mấy dạng bài tập sau : -Tìm 1 từ 2 tiếng và dùng từ đó đặt câu. (Tviệt 2 tập 1 trang 93) - Đặt 1 câu nói về việc học tập của em, rồi tìm xem trong câu ấy có mấy từ. Đối với dạng bài tập thứ nhất trước tiên GV hướng dẫn HS tìm 1 từ gồm 2 tiếng. VD: Tổ quốc, đất nước…Sau đó GV hướng dẫn đặt câu nếu từ tìm được là danh từ thì biến thành danh từ ấy thành chủ ngữ của câu. Câu được đặt nói về đời sống linh hoạt, tình cảm, cảm xúc của HS. Đối với dạng bài tập thứ 2, GV hướng dẫn HS tự tìm từ để đặt câu, nói về những gì gần gũi, quen thuộc hằng ngày. Sau đó hướng dẫn HS vạch ranh giới giữa các từ trong câu vừa đặt theo cách thức đã được hướng dẫn trên.. 4. Biện pháp tu từ, kĩ năng nhận diện và sử dụng biện pháp tu từ Biện pháp tu từ là những cách phối hợp sử dụng trong lời nói các phương tiện ngôn ngữ không kể là có màu sắc tu từ hay không trong một ngữ cảnh rộng để tạo ra hiệu quả tu từ (tức là tác dụng gây ấn tượng về hình ảnh, cảm xúc, thái độ, hoàn cảnh) Gồm: so sánh, đồng nghĩa kép, nói lái, điệp ngữ 4.1. Biện pháp tu từ từ vựng: là cách phối hợp sử dụng khéo léo các đơn vị từ vựng của phạm vi của một đơn vị khác thuộc bậc cao hơn, có khả năng mang lại hiệu quả tu từ.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> - Biện pháp hòa nhập: là biện pháp tu từ trong đó các từ ngữ có cùng một kiểu tính chung (màu sắc trang trọng cao quí) có quan hệ phụ thuộc hô ứng với nhau tạo nên cộng hưởng về nghĩa). Ví dụ: vẽ lên hình tượng đoàn thuyền đánh cá (Huy Cận) - Biện pháp qui định: là biện pháp tu từ trong đó các từ ngữ có điệu tính cao hoặc điệu tính thấp được sử dụng trên nền của từ ngữ trung hòa về tu từ học Ví dụ: từ sinh hoạt phong tục: “chén tì tì” câu nói mang màu sắc gần gủi 4.2/ Biện pháp tu từ ngữ nghĩa. a/ So sánh tu từ: là cách công khai đối chiếu hai hay nhiều đối tượng khác loại nhưng cùng có một dấu hiệu chung nào đó nhằm diễn tả một cách hình ảnh đặc điểm của một đối tượng - So sánh tu từ bao giờ cũng có hai vế: vế được so sánh và vế so sánh. Mỗi vế có thể gồm một hay nhiều đối tượng. Các đối tượng có thể là sự vật, tính chất hoặc hành động. - Từ so sánh như : là, như là, bao nhiêu, bấy nhiêu… b/ Biện pháp điệp từ ngữ: là hiện tượng lặp lại có ý thức những từ, ngữ nhằm mục đích tạo nên những ấn tượng mới mẻ, nhấn mạnh ý, mở rộng ý, gây ấn tượng mạnh hoặc gợi ra những cảm xúc trong lòng người đọc, người nghe. - Điệp từ, ngữ có cơ sở tâm lý, tín hiệu lặp đi lặp lại, kích thích nhiều lần gây ra sự chú ý. Nhằm nhấn mạnh một điều gì đó - Hiệu quả của tu từ điệp ngữ có giá trị nhấn mạnh, tăng tiến về nội dung biểu hiện - Điệp từ nối tiếp: (trùng trùng, điệp điệp) các từ lặp lại đứng gần nhau tạo ấn tượng mới mẻ, sự tăng tiến - Điệp từ, ngữ cách quãng là các từ lặp lại cách xa nhau tạo ra sự chú ý, vẽ đẹp âm thanh cho lời nói c/ Biện pháp tương phản. Tương phản là cách dùng các từ ngữ biểu thị những khái niệm đối lập nhau cùng xuất hiện trong một văn cảnh nhằm mục đích làm rỏ hơn đặc điểm của đối tượng được miêu tả. - Cách nói tương phản thì các sự vật, hiện tượng đối lập nhau sẽ soi sáng cho nhau - Sự tương phản cũng làm nảy sinh một lượng thông tin nào đó không được tác giả trình bày - Chức năng chủ yếu của tương phản là nhận thức, bên cạnh đó nó còn có giá trị tu từ, giá trị nghệ thuật. Ví dụ: trứng chọi đá ngàn cân treo sợi tóc d/ Biện pháp đồng nghĩa kép, tiệm tiến. - Đồng nghĩa kép là biện pháp tu từ trong đó người ta dùng phối hợp hai hoặc nhiều từ ngữ đồng nghĩa hoặc gần nghĩa nhằm mục đích biểu đạt đầy đủ các phương diện khác nhau của cùng một đối tượng hoặc cùng một nội dung nào đó. Đồng nghĩa kép có khả năng cùng một lúc khắc họa nhiều đặc điểm khác nhau hay phản ảnh những phương diện khác nhau Chức năng chủ yếu của đồng nghĩa kép là chức năng nhận thức - Tiệm tiến:là biện pháp tu từ người ta sắp sếp những từ, ngữ hoặc câu nói về một đối tượng, chủ đề với mức độ tăng dần về ý nghĩa hoặc màu sắc biểu cảm Ví dụ: đẹp nghiêng nước nghiêng thành Hoa nhường nguyệt thẹn 4.3/ Biện pháp tu từ cú pháp. Là biện pháp phối hợp sử dụng khéo léo các kiểu câu trong một ngữ cảnh rộng trong chỉnh thể trên cao, kiểu câu, trong đoạn văn bản nhằm đem lại, cảm xúc, biểu xúc cho người nói.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> a/ sóng đôi: là biện pháp tu từ cú pháp dựa vào sự cấu tạo giống nhau giữa hai hoặc nhiều câu hoặc hai hoặc nhiều bộ phận câu, sử dụng trong văn nghệ thuật, chức năng tu từ đa dạng, biểu cảm, xúc cảm. Ví dụ: vì lợi ích mười năm trồng cây vì lợi ích trăm năm trồng người b/ Câu hỏi tu từ: là hình thức câu hỏi về bản chất là câu khẳng định hoặc phủ định không đòi hỏi câu trả lời mà chỉ nhằm tăng cường tính diển cảm của phát ngôn c/ Tách biệt: là biện pháp tu từ cú pháp dựa trên cơ sở tách riêng một cách có dụng ý từ một cấu trúc ngữ pháp thống nhất ra một hoặc nhiều bộ phận biệt lập về mặt ngữ điệu, cách xa bằng một chổ ngắt, trên chữ viết hiện dấu chấm hay dấu ví dụ: Đôi mắt ấy nhìn tôi nhiều lần, ngập ngừng, nhiều lần. Rồi mới hỏi… d/ Liệt kê tu từ: là trong đó người ta có ý kết hợp các biện pháp và câu ghép không theo logic thông thường bằng cách khéo léo chọn cách liên kết thích hợp có kết từ hoặc không có kết từ hoặc không có kết từ bình đẳng hoặc không bình đẳng để đạt giá trị tu từ nhất định 4.4/ Biện pháp tu từ văn bản : Là cách phối hợp khéo léo sử dụng các bộ phận của văn bản để tạo ra hiệu quả tu từ (tạo hình, gợi cảm, nhấn mạnh) a/ Biện pháp hòa hợp : là biện pháp trong đó các mảnh đoạn của văn bản thống nhất với nhau b/ Biện pháp tương phản : là biện pháp có sự khác nhau về đặc trưng tu từ, biểu cảm, cảm xúc, bình giá, đặc trưng phong cách c/ Biện pháp qui định : là trong đó mảnh đoạn đánh dấu về tu từ học, qui định diện tích tu từ chung cho toàn văn bản. 5. Từ loại, kĩ năng nhận diện, sử dụng theo đúng từ loại, tiểu loại Từ loại:Là những lớp từ được phân loại dựa trên đặc điểm ý nghĩa khái quát và khả năng kết hợp trong cụm từ và câu. Căn cứ vào tiêu chuẩn ý nghĩa khái quát và khả năng kết hợp từ trước đến nay người ta thường chia ra : Thực từ và hư từ.Đặc điểm của chúng : +Thực từ :Là những từ mang ý nghĩa từ vựng Có khả năng làm thành phần câu Có khả năng làm trung tâm cụm từ +Hư từ:Là những từ ko mamg nghĩa từ vựng Không độc lập tạo thành câu Làm thành tố trong cụm từ hoặc liên kết tạo cụm từ mới Bảng hệ thống từ loại: Hệ thống từ loại. Thực từ Danh từ. Động từ Tính từ Số từ Đại từ. Hư từ Phụ từ Kết từ. Tình thái từ. Trợ từ. Danh từ :Danh từ là lớp từ có ý nghĩa phạm trù sự vật, biểu thị những đơn vị có thể nhận thức được trên cơ sở tồn tại của chúng dưới hình thức những hiện tượng trong tự nhiên và xã hội hoặc gtrong sự suy nghĩ của con người. Sơ đồ chung Riêng: Nam ,Thảo….

<span class='text_page_counter'>(21)</span> Danh từ: Tổng hợp: cha con, làng xóm… Chung. Chỉ loại : con ,cái… Không tổng hợp Không chỉ loại. Đơn vị Lít, mẫu. Chất liệu chỉ người thịt,muối giáo viên,. động – thực vật lợn,bò. đồ đạc trừu tượng bàn ghế tình cảm,tư duy. Động từ: Chỉ hoạt động hoặc trạng thái của người ,sự vật Động từ: +Động từ nội động: Là những động từ hướng vào người làm chủ hoạt động. Ví dụ: ngồi ,ngủ… +Động từ ngoại động: Là những động từ hướng đến người khác,vật khác,vật khác Ví dụ:xây, phá, đập Tính từ:Là những từ chỉ tính chất ,đặc điểm của sự vật,hoạt động ,hoặccủa trạng thái Động từ: + Tính từ chỉ tính chất chung ko có mức độ:Vi dụ:xanh ,tim, cam… +Tính từ chỉ tính chất xác định mức độ.Ví dụ: xanh lè, sâu hoắm… Số từ:Là những từ chỉ số lượng,được dùng chỉ số lượng hoặc thứ tự sự vật Số từ :+ số từ sốlượng: ví dụ: năm, sáu.. + Số từ chỉ thứ tự:ví dụ:ba cọc bốn đồng,ba máu sáu con,bảy nỗi ba chìm…. Đại từ:Thường được dùng để xưng hô, thay thế cho một từ thuộc từ loại danh từ,động từ,tính từ hoặc số từ Đại từ: + Dựa vào chức năng của đại từ thay thế ,có thể chia đại từ thành các tiểu loại: Đại từ thay thế cho danh từ:Họ ,nó, chúng Đại từ thay thế cho động từ ,tính từ:như thế ,thế,vậy,như vậy… Đaị từ thay thế cho số từ:bao nhiêu,bấy nhiêu… + Dựa vào mục đích sử dụng, chia đại từ thành 2 loại: Đại từ nhân xưng: Toi ,họ,chúng nó… Đại từ để hỏi: ai, cái gì,sao ,nào… Phụ từ : Phụ từ không mang ý nghĩa từ vựng chân thực mà đi kèm với danh từ,động từ ,tính từ,để bổ sung ý nghĩa phụ cho danh từ, động từ ,tính từ:đã , sẽ đang ,những… Phụ từ gồm 2 loại: +Nhóm phụ từ đi kèm danh từ: những ,các, mỗi +Nhóm phụ từ đi kèm với động từ, tính từ: - Các phụ từ chỉ ý nghĩa thời gian:đã ,sẽ ,đang… - Các phụ từ chỉ sự tiếp diễn:cũng ,vẫn,còn.. - Các phụ từ chỉ sự phủ định,khẳng định: có ,không, chưa… - Các phụ từ chỉ mệnh lệnh:hãy,đừng ,chớ….

<span class='text_page_counter'>(22)</span> - Các phụ từ chỉ mức độ:rất ,hơi, quá… Quan hệ từ: Là những từ không mang nghĩa từ vựng chân thực mà dùng để liên kết từ ,cụm từ ,kết cấu chủ vị + Nhóm quan hệ từ biểu thị quan hệ chính phụ:vì ,bơỉ,do,của,bằng,về, với,nếu,… +Nhóm biểu thị quan hệ đẳng lập:và,hay,hoặc ,nhưng,song… +Nhóm biểu thị quan hệ chủ- vị: là Ví dụ:- Anh nói là đúng -Ngồi cạnh tôi là nam Tình thái từ: Là những từ biểu thị những sắc thái tình cảm,cảm xúc của người nói Tình thái từ: + Đứng đầu câu để biểu thị sự gọi_ đáp :ơi ,hỡi,ời.. Ví dụ: -Hào ơi ! Đưa áo đây - Dạ +Đứng đầu câu để biểu thị sự ngạc nhiên,vui mừng, sợhãi,bực tức Vi dụ: -Ô Qụa tha gà -Ô kìa ! cô bé nói hay sao Nhà của tôi sao lại hỏi chào Như thể khách đường xa vừa ghé lại Bố đi đâu Hĩm ?Mẹ đâu nào ( Tố Hữu) Trợ từ: Không mang nghĩa từ vưng mà chỉ phụ trợ cho một từ nào đó trong câu để thể hiện thái độ người nói hoặc nhằm mục đichd nhấn mạnh. + Trợ từ gồm những từ: -những ,có ,chỉ,đã ,mới... Ví dụ: - Tôi mua những năm quyển sách Đánh giá là nhiều - Nó chỉ ăn cơm nhấn mạnh hành động ăn cơm - Hôm qua em đi Tỉnh về Đợi em ở mãi con đê đầu làng thể hiện thái độ dánh gía là xa (Nguyễn Bính) + Trợ từ gồm những từ :chính ,ngay đích ,mãi,mới... thể hiên thái độ khẳng định + Những từ: thì ,mà thể hiện sự nhấn mạnh Ví dụ: - Tôi thì tôi rất quý cô - Nam mà thi hõng à? Kỹ năng nhận diện: Để việc dạy từ loại có nhiều lợi ích cho hoạt động nói và viết của học sinh ta nên phân loại đi từ khái quát đến cụ thể.Trước hết ta chia từ ra thành thực từ(có khả năng làm thành phần câu)và hư từ chỉ biểu thị mới quan hệ giữa các yéu tố ngôn ngữ khác mà không có khả năng làm thành phần câu .Các hư từ có số lượng ít nhưng có tần số sử dụng cao,có vai trò quan trọng trong sử dụng ngôn ngữ.Sau đó,ta chia tiếp thực từ thành thể từ ( thường làm chủ ngữ trong câu đơn hai thành phần ) và vị từ (thường làm chủ ngữ trong câu đơn 2 thành phần) Đại từ là một loại từ đặc biệt dùng để thay thế. Ở đây chỉ có thể giới thiệu về thể từ. Việc phân loại vị từ thành động từ, tính từ tương đối khó vì đường ranh giới giữa động từ và tính từ nhiều khi không. Việc phân danh từ thành danh từ cụ thể, trừu tượng, động từ thành nội động từ, ngoại động từ, tính từ thành tính từ có mức độ và không có mức độ… lại càng phức tạp hơn vì vậy nội dung này nên dạy ở lớp 4, 5..

<span class='text_page_counter'>(23)</span> Sau khi xác định nội dung dạy từ loại như vậy, chúng ta sẽ sử dụng phương pháp dạy từ loại gắn với chức năng làm thành phần câu và khả năng kết hợp từ . Để giúp học sinh vượt được những khó khăn khi xác định từ loại, tiểu loại của từ . Khi dạy từ loại, ta cần chú trọng cả nội dung ý nghĩa và cả dấu hiệu hình thức của từng từ loại, tiểu loại. Bởi vì nhiều khi chỉ xét ý nghĩa thì khó xác định từ loại tiểu loại của từ. Thầy dấu cần biết một số dấu hiệu hình thức cũng như một số phép thử, mẹo để xác định từ loại Ví dụ: Danh từ xét về nghĩa là từ mang ý nghĩa sự vật ( chỉ người, vật …)về hình thức nó có khả năng kết hợp với các từ chỉ số lượng như : một, hai, ba, những, các ở phía trước ( những kỉ niệm, những tình cảm, những lúc,…) kết hợp được với các từ chỉ định như: này, kia, ấy, nó ở phía sau ( trận đấu này, hôm ấy…) và có khả năng tạo câu hỏi với từ nghi vấn: nào đi sau ( lợi ích nào, chỗ nào…) . Vì vây nếu thấy một từ nào đó đứng được sau các từ chỉ số lượng hoặc đứng sau một từ chỉ định thì đó là danh từ. Động từ :Xét về nghĩa là từ chỉ hoạt động hay trạng thái,về hình thức có khả năng kết hợp với phụ từ mệnh lệnh:hãy ,đừng ,chớ (hãy nhớ,hãy yêu,chớ giận,đừng băn khoăn…) Có thể tạo câu hỏi bằng cách đặt sau chúng từ: bao giờ,bao lâu ,trong khi tính từ không có khả năng này (ví dụ:lo bao giờ,rơi bao giờ,ngồi bao lâu…) --Vì vậy,nếu thấy từ nào kết hợp được với hãy ,đừng,chớ đứng trước hoặc kết hợp được bao lâu,bao giờ đằng sau thì đó là động từ. Một từ nào kết hợp được với các từ chỉ mức độ như:rất,hơi thì thường là tính từ.Nhưng các động từ chỉ cảm xúc như yêu ,ghét,xúc động…cũng đi được sau các từ:rất ,hơi,lắm. Vì vậy, khi còn băn khoăn một từ nào đó là động từ hay tính từ thì nên cho thử kết hợp với hãy, đừng, chớ + Những danh từ chỉ quan hệ thân thuộc như: con,bố,mẹ,ông,bà,cô,chú….thường được sử dụng thành từ xưng hô như đại từ.Nhưng khác với đại từ xưng hô khác,mỗi danh từ thuộc loại này có khả năng dùng 3 ngôi. Ví dụ: Em bảo con ăn cơm đi chứ! - sao con không ăn đi - con không muốn ăn à. +Nhưng danh từ đi được sau các từ chỉ loại như:cái ,chiếc,tám,con,quyển là danh từ cụ thể +Để nhận ra động từ ngoại động ta đặt câu hỏi : “ai,cái gì”đằng sau danh từ.Nếu có thể dùng 1 bổ ngữ trả lời trực tiếp không cần quan hệ từ thì đó là danh từ ngoại động,nếu không được thì đó là động từ nội động. Ví dụ: Yêu thương và lo lắng -Yêu thương bệnh nhân(không thể:lo lắng bệnh nhân). 6. Câu phân loại theo cấu tạo, kĩ năng nhận diện, sử dụng đúng kiểu câu theo cấu tạo a) Phân loại câu theo cấu tạo: Bao gồm câu đơn, câu ghép, câu ghép đẳng lập và câu ghép chính phụ, câu bình thường và câu đặc biệt, câu bình thường và câu rút gọn. - Câu đơn: là câu chỉ có một nòng cốt C – V Vd: Tôi / đi học. Câu ghép: Là câu có 2 nòng cốt C – V trở lên, trong đó C – V này không bao hàm C – V kia. Vd: Trời xẩm tối,mưa ập đến nhanh. Trông đánh xuôi, kèn thổi ngược..

<span class='text_page_counter'>(24)</span> - Câu ghép đẳng lập: Là loại câu ghép bao gồm nhiều cú (hay mệnh đề, đoạn, câu..) ghép với nhau bình đẳng thông qua các quan hệ từ: và, hay, sau, hoặc, mà, rồi… Vd: Gió vẫn thổi và mưa vẫn rơi Mình đọc hay tôi đọc ( Nam Cao ) - Câu ghép chính phụ là câu ghép bao gồn hai cú, trong đó có một cú chính và một cú phụ để bổ sung ý nghĩa cho cú chính. Vd: Vì bị ốm nên bạn ấy nghĩ học - Câu đặc biệt: Là câu được làm thành từ một hay nhiều từ (cụm danh từ, cụm động từ, cụm tính từ ) Vd: 1 từ: Mưa ! Cụm đanh từ: Thủ đô Hà Nội Cụm động từ: làm ăn, xô đẩy Cụm tính từ: gầy ốm, cao to.. - Câu rút gọn: Vd : Hôm nay trời mưa. ( câu bình thường ) Trời mưa( câu rút gọn ) b) Kĩ năng nhận diện câu theo cấu tạo. - Để xác định kiểu câu theo câu tạo GV cần hướng dẫn học sinh phân tích thành phần câu. Muốn phân biệt được câu đơn, câu ghép phải căn ncuws vào số lượng vế câu có trong câu. Trong đó câu ghép là câu cp nhiều vế câu nhưng cần lưu ý trường hợp vế câu nọ nằm trong vế câu kia thì không được xem là câu ghép mà phải xếp nó vào câu đơn. Vd: Tóc mẹ tôi/ đã bạc Đây là một câu đơn nhưng học sinh thường nhầm lẫn là câu ghép: Tóc mẹ tôi đã bạc Vì không được lưu ý những trường hợp như vậy nên học sinh đã nhầm lẫn những câu đơn kiểu như: Vì những điều nó đã hứa với cô giáo, nó quyết tâm học giỏi. - GV cần hướng dẫn để học sinh xác định đúng thành phần C – V trong câu để tránh sự nhầm lẫn.Nếu không nắm vững, học sinh dễ nhầm câu co nhiều CN – VN ( nhưng vẫn chỉ có một vế câu ) Vd: Lưng con cào cào và đôi cánh lụa mỏng manh của nó tô màu tía, nom đẹp lạ. Đây là câu đơn nhưng học sinh hay nhầm thành câu ghép. - GV cần hướng dẫn cho học sinh phân biệt câu đặc biệt và câu rút gọn. Cần chỉ cho HS thấy rõ câu đặc biệt thì không thể khôi phục bộ phận thiếu một cách đơn giản, còn câu rút gọn nhờ ngữ cảnh mà xác lập được một khả năng duy nhất cho bộ phận rút gọn. Vd: a: Lại bắt đầu trở rét, vòm trời thấp hẳn xuống. Gió bấc rít từng hồi dài. Mưa ! Mưa! b: Hôm nay trời thế nào? Mưa Hai câu “Mưa” trong hai ví dụ a là câu đặc biệt, còn câu “ Mưa” trong ví dụ b là câu rút gọn. - GV cũng cần phải hướng dẫn Hs phân biệt câu dặc biệt với câu đão vị. Câu đặc biệt thường chỉ sự xuất hiện, tồn tại Vd: Trên trời có đám mây xanh. Trên cao lấp lánh một vầng trăng. Câu đảo C – V thường là câu miêu tả, có dụng ý nghệ thuật, dảo để nhấn mạnh. Khi đảo lại vị trí C – V trong câu ta sẽ được những câu bình thường. Vd: Đã tan tác những bóng thù hắc ám. Đẹp vô cùng Tổ quốc của chúng ta..

<span class='text_page_counter'>(25)</span> - Khi đưa ra bài tập GV cần đưa ra các dạng bài có tính chất cấu trúc như: chuyển hai câu đơn, nối hai vế câu thành một câu ghép, điền tiếp vế câu còn thiếu để tạo thành câu ghép. VD: Tìm vế câu thích hợp điền vào chỗ trống để tạo thành câu ghép Vì Huệ học giỏi…….Nếu Huệ học giỏi….. Cũng có thể đưa ra dạng bài tập chữa câu sai thành câu đúng Vd: Hãy chữa lại hai câu sai dưới đây thành câu đúng theo 2 cách khác nhau. a) Vì thời tiết xấu nên cuộc tham quan của lớp không hoãn lại. b) Tuy nhà rất gần nhưng bạn Oanh klhoong bao giờ đến lớp muộn. Các câu trên sai vì không có sự tương hợp giữa nội dung của các vế câu và các cặp quan hệ từ. Có thể sửa lại bằng 2 cách như sau: C1: thay quan hệ từ C2: sửa lại nội dung Tóm lại,trong quá trình dạy học tiếng Việt ở trường TH GV cần hướng dẫn Hs nắm vững những kiến thức trên để HS có thể nhận diện, sử dụng câu theo cấu tao tốt hơn.. 7. Liên kết câu, kĩ năng nhận diện kiểu liên kết, liên kết câu Để liên kết các câu lại với nhau người ta thường sử dụng các phương tiện liên kết và các phương thức liên kết câu như sau: a> Phương thức lặp:là phương thức liên kết thể hiện ở việc trong câu ghép có những yếu tố lặp lại ,những yếu tố đã có trong câu khởi:Yếu tố lặp đó gọi là lặp tố. - Lặp liên kết khác với lặp tu từ vì lặp liên kết làm cho các câu văn trong đoạn thêm chặt chẽ,rõ ràng logic nếu viết đoạn văn mà lặp do thiếu vốn từ sẽ tạo nên cảm giác nặng nề,đơn điệu,nhàm chán,thừa và nghèo ý thì đó là lỗi lặp. * Lặp từ ngữ:là phương thức liên kết thực hiện bằng cách lặp lại ở câu sau 1 hay nhiều từ ngữ đã xuất hiện ở câu trước. Ví dụ:-Dân là gốc của nước .Dân có giàu thì nước mới mạnh. -Tài sản quý nhất của đất nước là con người.Cái quý nhất ở con người là trí tuệ. Căn cứ vào kích thước của chủ tố và lặp tố, ta có thể phân biệt lặp từ và lặp cụm từ, trong lặp cụm từ phân ra lặp hoàn toàn và lặp bộ phận. Ví dụ: Lan rất thích đọc sách. Sách đã trở thành người bạn thân thiết của Lan. Tình bạn thật đẹp và đáng quý. Mà điều đáng quý nhất là khi biết chỉ ra những khuyết điểm của bạn cách chân thành. Trồng cây xanh không chỉ cho ta bóng mát, cảnh đẹp mà còn góp phần giữ cho không khí trong lành. Cây đã trở nên gần gũi, thân thiết và quan trọng hơn với con người trong điều kiện môi trường ô nhiễm. - Căn cứ vào bản chất từ loại của chủ tố và lặp tố, có thể phân biệt lặp cùng từ loại và chuyển từ loại. Ví dụ: Lặp chuyển loại Trung ương đã nhất trí về đường lối, chính sách, chỉ tiêu, biện pháp. Động từ Chúng ta phải biến sự nhất trí ấy thành quyết tâm. Danh từ - Căn cứ vào chức năng làm thành phát ngôn của chủ tố và lặp tố, có thể chia ra lặp cùng chức năng hoặc lặp chuyển chức năng. Ví dụ: Nhà em / có nuôi một chú gà trống. Buổi sáng tinh mơ,chú / CN VN CN đã gáy vang gọi mọi người thức dậy..

<span class='text_page_counter'>(26)</span> VN Khi lặp bộ phận tức là khi lặp tố chỉ là một bộ phận của chủ tố thì sau lặp tố nhất thiết phải có đại từ chỉ dấu hiệu (này, ấy, đó…) đi kèm. Ví dụ: Lực lượng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động là rất to lớn. Nhưng lực lượng ấy cần có Đảng lãnh đạo mới chắc chắn thắng lợi. Lưu ý: lăp từ ngữ là lặplại những thực từ gĩư nhiệm vụ quan trọng trong câu thì hiệu quả liên kết mới cao.Để hiệu quả liên kết cao thì chủ ngữ ,vị ngữ ở câu trước đều được lặp lại ở câu sau.Lặp từ ngữ nó duy trì được chủ đề,nó tạo được sự nhất quán trong đoạn văn. *Lặp cấu trúc :là phương thức liên kết bằng cách lặp lại ở câu sau cấu trúc của câu trước. Ví dụ: Mõ cái / trên cột đình/ lại há miệng nhận những cây dùi CN TN chỉ nơi chốn VN giận dữ.Trống cái /dưới xà đình/ lại lì mặt chịu những cái nện CN TRNg chỉ chốn phũ phàng. (tắt đèn) CN/TRNg/V CN/TN/V---------lặp cấu trúc hoàn toàn. +Lặp cấu trúc thiếu:Tức là cấu trúc câu sau lặp lại một phần cấu trúc của câu trước. Ví dụ: vẫn vui như lúc nãy,vợ /đi trước thổi sáo chồng/ đi sau hát theo.(câu 2 thiếu tr) (Tô Hoài –vợ chồng Aphủ) + Lặp cấu trúc từ và đới lập ý nghĩa của từ ngữ Ví dụ: Gần cái gì ta ghét là khổ.Xa cái gì ta thương là khổ. *Ngoài ra, trong phương thức lặp còn có lặp ngữ âm nó tạo ra sự vần điệu ,nhịp nhàng cho thơ ca. b>Phương thức thế * Thế đại từ: là phương thức liên kết thực hiện ở câu sau một đại từ đề thay thế cho 1 hoặc nhiều từ ngữ ở câu trước. Ví dụ:Đời các vĩ nhân cho ta 1 lý tưởng,1 kiễu mẫu để bắt chước.Nhờ gương sáng của họ mà ta trở nên khá,có can đảm,kiên nhẫn để đi tới mục đích. + Lưu ý:Hiệu quả liên kết của thế đại từ sẽ gia tăng nếu đại từ đi kèm với một danh từ có ý nghĩa khái quát. Thế đại từ có khả năng duy trì chủ đề như phương thức lặp từ ngữ *Thế đồng nghĩa :là phương thức liên kết thực hiện bằng cách sử dụng ở câu sau một vài từ đồng nghĩa với một vài từ ngữ khác xuất hiện ở câu trước. Thế đồng nghĩa từ điển: Ví dụ;Phụ nữ lại càng cần phải học.Đây là lúc chị em phải cố gắng để kịp nam giới. - Thế đồng nghĩa phủ định Ví dụ: Người pháp đổ máu đã nhiều.Dân ta hy sinh cũng không ít. - Thế đồng nghĩa miêu tả Ví dụ:Thơ lục bát giàu nhạc điệu .Nguyễn Du đã dùng thể thơ thuần tuý VN ấy để viết nên Truyện Kiều. - Thế đồng sở chỉ (phép thế đồng nghĩa lâm thời) Ví dụ: “Bác Dương thôi đã thôi rồi Bác đã đi rồi sao Bác ơi!” “Ăn ở với nhau được đứa con lên hai thì chồng chết.Cách mấy tháng sau đứa con lên sài bỏ đi để chị lại một mình.”(Mùa lạc- Nguyễn Khải).

<span class='text_page_counter'>(27)</span> *Lưu ý: Thế đồng nghĩa giúp cho người viết tránh được lỗi lặp đi lặp lại nhiều lần 1 từ ngữ thế đồng nghĩa có khả năng duy trì chủ đề như lặp từ ngũ và thế đại từ. c> Phương thức đối :Là phương thức liên kết giống như phương thức lặp nhưng đối nghĩa ,đây là sự liên kết giữa hai câu chứa các cụm từ có ý nghĩa , đây là sự liên kết giữa hai câu chứa các cụm từ có ý nghĩa đối lập nhau.Sự đối lập này là sự đối lập giữa hai thái cực của cùng một thuộc tính ,tồn tại cùng nhau và quy đi nhau. Chia làm 4 loại *Đối trái nghĩa Ví dụ: “Đẹp và được yêu,đó mới chỉ là đàn bà .Xấu và biết làm cho người ta yêu đó mới là nữ hoàng(Bec-be- Đô-Nơ vinli(Đức) *Đối phủ định Ví dụ:Đừng tưởng mọi việc đã giải quyết xong rồi,chưa xong đâu,sự suy nghĩ của chúng ta hình như chỉ mới bắt đầu đã có cơ sở và cũng đã có những khám phá,những sáng tạo.(Tuyển tập thơ Xdiệu) *Đối miêu tả Ví dụ:Biết rất rõ về tôi,địch bắt tôi khuất phục.Nhưng tôi quyết giữu vững lập trường chiến đấu của mình”.(Nguyễn Đức Thuận) *Đối lâm thời Ví dụ: “Tôi không muốn là bướm.Tôi chỉ muốn là tằm.(Lưu quý kỳ) d>Phương thức liên tưởng:là quan hệ giữa các từ mà khi một từ xuất hiện thì làm cho người ta nghĩ đến từ khác .Đây là phương thức liên kết giữa các câu chứa những từ và cụm từ liên quan về nghĩa với nhau thông qua những nét nghĩa chung và không chứa nét nghĩa đối lập. Người ta chia ra các kiểu liên tưởng sau: Liên tưởng đồng loại: Ví dụ :-Triệu Thị Trinh mười chín tuổi đứng dậy diệt thù.Nguyễn Huệ mười tám tuổi phất cờ đào khởi nghĩa” - Bãi cát, rừng Dương ở đây dài tít tắp.Núi Chúa hùng vĩ cao ngất trời.Còn bể,một ngày thay đổi hàng trăm lần màu sắc dưới ánh nắng mặt trời” *Liên tưởng bộ phận với cái toàn thể và ngược lại Ví dụ : “Người ta sinh ra :ăn ,mặc,ở trước rồi mới hát múa .vẽ,viết bằng triết lí sau.Kinh tế là nền tảng của xã hội,là cơ sở hạ tầng.” Trường Chinh- Mác và CNXH) *Liên tưởng định vị Ví dụ: Sau khi mở cửa phòng mổ,đèn bật sáng trưng Bác sĩ đang rữa tay thay áo .Các y tá lan xăn chạy đi chạy lại. e> Phương thức nối Là phương thức liên kết giữa các từ ngữ có ý nghĩa liên hệ ,vừa dùng để nối,vừa dùng để biểu thị quan hệ ý nghĩa giữa các câu trong đoạn.  Phương thức nối bằng các quan hệ từ: là phương thức liên kết thực hiện bằng cáh sử dụng ở câu sau 1từ nối (liên từ)để liên kết với câu đi trước .Ví dụ:” Ngủ trọ 2 xu mỗi tối .Nếu chú khôg ăn cơm ,ăn quà.”(Ngô tất tố-Tắt Đèn) *Nối bằng các từ ngữ có tác dụng có tác dụng chuyển tiếp (tổ hợp từ) Ví dụ : “Xưa nay ,không ai chết đến lần thứ 2 để được bài học kinh nghiệmvề cách chết.Vì vậy vẫn có nhiều người chết một cách ngờ nghệch.” (Thịt người chết- Ng Công Hoan) “Từ đó dân ta càng cực khổ,nghèo nàn.Kết quả là,cuối năm ngoái sang đầu năm nay từ Quảng Trị đến Bắc Kỳ hơn 2 triệu đồng bào ta bị chết đói.(Hồ Chí Minh ).

<span class='text_page_counter'>(28)</span> 8. Cảm thụ văn học, rèn kĩ năng đọc hiểu, cảm thụ văn học(thiếu phần rèn kĩ năng đọc hiểu) 8.1: Cảm thụ văn học Là khả năng tiếp nhận tác phẩm văn học, đây là hoạt động tiếp thu thẩm mĩ, mang tính thẩm mỹ, tính sáng tạo của cá nhân. 8.3: Rèn kĩ năng cảm thụ văn học. Để hình thành năng lực văn học cho HS thì trước hết phải hình thành năng lực CTVH cho học sinh CTVH là qúa trình tiếp nhận, hiểu, cảm được văn chương; tính hình tượng của văn chương, đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật, phản ánh đặc trưng nghệ thuật của văn chương. Đây là một quá trình của hoạt động nhận thức thẩm mĩ rất đặc biệt phức tạp và có tính sáng tạo những tính chất này do đối tượng nhận thức – tác phẩm VH - quy định. - Qúa trình CTVH mang tính chủ quan vì nó phụ thuộc vào vốn sống, kinh nghiệm, hiểu biết của người CTVH VD: Nếu không hiểu được phong tục của làng quê miền Bắc, chưa từng uống một chén chè xanh từ tay một bà cụ già hiền ở một cái quán có bóng cây xanh mát trong những ngày hè oi ả thì khó mà cảm nhận được cái hay của một bài văn tả phong tục như bài “ Bà cụ bán hàng nước chè” – Tập đọc lớp 5. Vì vậy muốn bồi dưỡng năng lực này trước tiên phải bồi dưỡng vốn sống cho các em để các em có thể liên tưởng tiếp nhận tác phẩm. Muốn vậy GV phải cho HS quan sát trãi nghiệm; tổ chức cho các em tham quan thực tế… Khi học sinh tham quan GV đóng vai trò dẫn dắt, gợi mở, tạo nguồn cảm hứng suy nghĩ trong các em. Bên cạnh đó cần tổ chức các buổi ngoại khóa tiếng Việt văn học, nghe nói chuyện về các nhà văn, nhà thơ… , tổ chức thi ngân thơ, kể chyện, thảo luận về tác phẩm văn học… - Vốn sống còn được bồi dưỡng qua sách vở bởi những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn học, khoa học tư tưởng của các thế hệ trước và những người đương thời ghi chép lại. - GV cần xây dựng cho học sinh thói quen và hứng thú đọc sách để học sinh thấy đó là con đường tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ và phát triển vốn sống, tầm nhìn, có hiểu biết rộng hơn và khả năng phát triển sức sáng tạo… như người xưa từng nói “ trong bụng không có ba vạn quyển sách, trong mắt chua có núi sông kì lạ của thiên hạ thì chưa học được văn” - Cần cung cấp cho học sinh một số kiến thức về văn học như: các khái niệm về hình ảnh, chi tiết, kết cấu đặc trưng của ngôn ngữ nghệ thuật, một số biện pháp tu từ … bởi để cảm thụ tốt văn học thì mỗi người cần có tri thức. - Cho học sinh tiếp xúc với tác phẩm văn chương để kích thích hứng thú thẩm mĩ và năng lực thẩm mĩ ở các em. Cần cho học sinh trực tiếp tiếp xúc với tác phẩm văn học chứ không cảm thụ hộ, biến học sinh thành những kẻ minh họa cho mình. Cần tôn trọng những suy nghĩ, cảm xúc thực, thơ ngây của các em và nâng nó lên ở chất lượng cao hơn. - Để tổ chức tốt quá trình học văn, người GV cần hiểu rõ đặc trưng văn chương và đặc trưng tiếp nhận văn chương từ đó giúp học sinh tiếp nhận khác so với logic thông tục đời thường. Đó là năng lực biết được, nghe được, đọc được những gì ẩn dưới chuỗi âm thanh, dòng chữ hay chính là tư duy nghệ thuật. VD: GV thay từ “ ngồi dậy” cho từ “ vùng dậy” trong câu: “ Bé vùng dậy chui ra khỏi cái chăn ấm” ( Bài: Bé và chim chích bông – Tập đọc lớp 5) vì cho rằng câu văn trong SGK không phù hợp với kiến thức vệ sinh: mùa đông vùng dậy ngay sẽ bị cảm lạnh. Nhưng nhìn dưới góc độ văn chương thì chính từ “ vùng dậy” là từ hay cần được dạy vì nó hướng đến cái đích của bài, nói lên được ý thức vượt khó, quyết tâm dậy học bài của bé..

<span class='text_page_counter'>(29)</span> -Bồi dưỡng kĩ năng tiếp nhận vẻ đẹp của văn chương cho học sinh là một quá trình lâu dài và công phu vì vậy trong giờ Tập đọc, quá trình này được thực hiện bằng một hệ thống câu hỏi & bài tập. Nó giúp HS nâng cao khả năng cảm xúc, thẩm mĩ và kích thích các em hướng đến cái hay, cái đẹp của văn chương. Đặc biệt, GV cần hướng dẫn cho HS cách đọc diễn cảm vì đây chính là hình thức tái sản sinh tác phẩm nghệ thuật, khám phá những gì ẩn dưới dòng chữ để chúng được vang lên. Nhưng đôi khi chỉ cần cho HS cảm thụ trực tiếp bằng chính giọng đọc, nhạc thơ. VD: Trong bài Đất nước – Nguyễn Đình Thi – Tập đọc 4. Nên để HS đọc thật nhiều cho đến lúc nhạc thơ vang lên bay hết chiều cao, trãi hết chiều rộng, lắng hết chiều sâu của Đất – Nước, sau đó hướng dẫn HS trả lời những câu hỏi & làm những bài tập nhằm xác định kĩ thuật đọc thành tiếng bài đọc, tái hiện lại bài đọc, liên tưởng,tưởng tượng, ý nghĩa tác phẩm….để từ đó HS hiểu được mục đích thông báo của văn bản để cảm thụ được cái hay, cái đẹp của văn bản. - Khi ra đề cho HS CTVH GV nên đưa ra đoạn văn, đoạn thơ rồi yêu cầu HS phát hiện ra các tín hiệu nghệ thuật, đánh giá chúng trong việc biểu đạt nội dung hoặc yêu cầu HS phân tích ý nghĩa của đoạn văn, đoạn thơ được đưa ra. Những tín hiệu nghệ thuật này có thể là những từ dùng “ đắt”, chính xác, đa nghĩa, những lớp từ gợi tả, gợi cảm, những kết hợp bất thường, nhuwgx hình ảnh thẩm mĩ, những cấu tứ hay, những nhân vật điển hình, những biện pháp tu từ … Vậy CTVH là một khâu quan trọng trong việc hình thành năng lực CTVH cho HS. Vì vậy GVTH cần chú ý bồi dưỡng các năng lực CTVH cho HS nhằm giúp các em cảm thụ tốt hơn các tác phẩm văn học. 9. Thực hành phân tích một số bài tập về cảm thụ văn học ở tiểu học (tự cá nhân nghiên cứu) 10. Làm văn, rèn kĩ năng viết đoạn văn, bài văn Làm văn là nơi thử thách cho học sinh các kỹ năng tiếng Việt, vốn sống, vốn văn học, năng lực cảm thụ văn học. Học sinh phải thể hiện cảm xúc, suy nghĩ bằng ngôn ngữ nói và viết, từ đó rèn cách nghĩ, cách cảm nhận thật sáng tạo, luyện cách diễn tả chính xác, sinh động, hồn nhiên với những nét riêng độc đáo. - Rèn kĩ năng viết đoạn văn: Để tránh tình trạng học sinh viết đoạn văn lan man, giáo viên giúp học sinh cần biết như thế nào để viết được một đoạn văn và cần phải viết những gì trong đoạn văn ấy. Theo các bước sau: + Giúp học sinh có một hệ thống câu hỏi gợi ý rõ ràng: giáo viên các câu hỏi gợi ý để gợi mở vấn đề mà đề bài yêu cầu Ví dụ: Bài viết kể về một việc tốt mà em (bạn em) đã làm * Em (bạn em) đã làm việc tốt khi nào? Ở đâu? Đó là việc gì? * Em (bạn ấy) đã làm như thế nào? * Em suy nghĩ gì khi làm (thấy bạn làm) việc tốt đó. + Giúp học sinh nắm được trình tự các bước khi viết một đoạn văn  Viết câu mở đầu: giới thiệu đối tượng cần viết (có thể bằng 1 câu)  Phát triển đoạn văn: Viết về đối tượng: có thể viết theo gợi ý diễn đạt khoảng từ 2-3 câu tùy theo năng lực của học sinh.  Câu kết thúc: Có thể viết 1 câu thường là nói về tình cảm, suy nghĩ, mong ước về đối tượng đó với cuộc sống, với mọi người. Ví dụ: Viết về con vật Giáo viên đưa ra một số câu hỏi gợi ý: + Con vật em định viết là con gì?.

<span class='text_page_counter'>(30)</span> + Nó sống ở đâu? Hình dáng nó như thế nào? + Hoạt động của nó có gì nổi bậc? +Vì sao em thích con vật đó? * Câu mở đầu: Giới thiệu về chim sáo Trong thế giới loài chim, em thích nhất là chim sáo. *Câu phát triển Kể về chim sáo Chim sáo được ông em nuôi đã được hai năm rồi, mỏ nó vằng óng. Lông màu nâu sẫm. Nó hót suốt ngày. Đôi khi còn nói được cả tiếng người. Có lẽ nó vui vì được mọi người chăm sóc , nuôi trong một cái lồng rất to, bên cạnh một cây hoa lan rất cao tỏa bóng mát. * Câu kết thúc Tình cảm của em đối với loài chim này Em thích nhất chim sáo vì chúng rất hiền lành, dễ thương. - Rèn kĩ năng viết bài văn có bố cục chặt chẽ, có lời văn phù hợp với yêu cầu nội dung, thể loại và kiểu bài: Học sinh viết theo giàn bài đã được góp ý, chỉnh sửa từ tiết học trước. Để bài làm của các em có bố cục chặt chẽ, cần hướng dẫn học sinh biết cách liên kết các đoạn văn bằng những từ ngữ như: chẳng bao lâu, từ lâu, tuy vậy, trong khi đó,…Nhắc nhở học sinh xuống dòng khi kết thúc đoạn văn, mở đầu đoạn tiếp theo bằng câu nối vào ý khác, làm cho bài văn trong sáng, mạch lạc, khúc chiết. Chữ viết phải rõ ràng và cố gắng rèn viết chữ đẹp. Bài làm cần sáng sủa, sạch sẽ, lưu ý nhắc nhở các em nắm vững các đặc điểm về thể loại, kiểu bài tập làm văn như: “ tả người”- cần lựa chọn những động từ chỉ hoạt động, động từ chỉ trạng thái sát hợp; dùng những tính từ gợi hình ảnh, gợi cảm xúc; những từ tượng thanh, tượng hình thích hợp; dùng các hình ảnh so sánh, ví von sinh động…để vừa gợi tả cho cụ thể, vừa thể hiện tình cảm, thái độ của mình với người được miêu tả. Vẻ đẹp của một bài văn hay, không chỉ ở ý nghĩa nội dung, bộc lộ cảm xúc mà nội dung và cảm xúc đó phải được thể hiện thông qua vẻ đẹp của tiếng Việt. Trong giảng dạy, cần hướng dẫn học sinh tiểu học đi từ những cái cụ thể, chắt lọc những điều quan trọng về kiến thức, kĩ năng để truyền thụ cho các em. Khơi dậy tính kiên trì học hỏi, kiên trì rèn luyện ở các em. Gắn kiến thức, đề tài với vốn sống, vốn hiểu biết của học sinh, đánh thức ở các em những gì các em đang có và “phát triển ” dần lên. Giáo viên cần hướng dẫn học sinh viết văn theo các bước sau: Bước 1: Xác định nội dung, yêu cầu của đề bài và phương pháp triển khai bài viết: + Đọc kĩ đề bài, chú ý tới các dữ kiện đề bài đưa ra + Xác định những vấn đề . Nghĩa là giáo viên hướng dẫn học sinh trả lời các câu hỏi sau: Viết cái gì? Viết cho ai? Viết để làm gì? Thái độ cần bộc lộ qua bài viết như thế nào? => Việc trả lời các câu hỏi trên càng làm rõ ràng cụ thể chính xác thì hiệu quả của bài viết càng cao. Bước 2: Hướng dẫn học sinh quan sát, tìm ý * Hướng dẫn quan sát: + Hướng dẫn học sinh tìm ra những chi tiết để không lẫn lộn giữa đối tượng này với các đội tượng khác. Quan sát phải đầy đủ, toàn diện các mặt của đối tượng. Đồng thời.

<span class='text_page_counter'>(31)</span> không bỏ qua những chi tiết bản chất và quan trọng để nắm được cái hồn, cái thần, cái dạng...của đối tượng. + Khi hướng dẫn học sinh quan sát, giáo viên có thể đưa một đối tượng mẫu để học sinh quan sát * Hướng dẫn tìm ý: Khi hướng dẫn học sinh tìm ý cho bài văn, giáo viên cần hướng dẫn học sinh sử dụng những từ ngữ, những cách diễn đạt phù hợp với yêu cầu của đề. Bước 3: Lập dàn ý Hướng dẫn học sinh sắp xếp các ý cho phù hợp. Bước 4: Làm nháp Bước 5: Viết vào vở Giáo viên cần giúp học sinh hiểu có nhiều cách diễn đạt để bài làm phong phú, tránh tình trạng dạy học sinh làm văn mẫu. Cần chủ động hình thành kĩ năng từng bước ở từng thời điểm thích hợp. Không nên áp đặt và đòi hỏi các em phải thể hiện ngay những kĩ năng mới được hình thành. Trong suốt quá trình giảng dạy, giáo viên phải kiên nhẫn luôn tái hiện và lặp lại kiến thức đã học cho học sinh.. MỘT SỐ BÀI TẬP BỒI DƯỠNG HỌC SINH GIỎI (THAM KHẢO) Bài tập 3. Tìm 3 câu tục ngữ đồng nghĩa nói về truyền thống kiên cường, bất khuất Bài giải: - Chết đứng còn hơn sống quỳ - Chết vinh còn hơn sống nhục Bài tập 4. Hãy sắp xếp các từ dưới đây thành 6 nhóm đồng nghĩa: chết, hi sinh, tàu lửa, xe hỏa, máy bay, ăn, xơi, nhỏ, bé, rộng, bao la, toi mạng, quy tiên, phi cơ, tàu bay, ngón, đớp, loắt choắt, bé bỏng, bát ngát, mênh mông Bài giải: Nhóm 1: chết, hi sinh, toi mạng, quy tiên Nhóm 2: tàu lửa, xe hỏa Nhóm 3: máy bay, phi cơ, tàu bay Nhóm 4: ăn, xơi, ngón, đớp Nhóm 5: nhỏ, bé, loắt choắt, bé bỏng Nhóm 6: rộng, bao la, bát ngát, mênh mông Bài tập 5. a) Tìm 5 từ ghép tổng hợp có tiêng "vui" - vui mừng, buồn vui, vui cười, vui chơi, vui tươi b) Tìm 4 từ ghép phân loại có tiếng vui và 1 tiếng chỉ bộ phận chỉ cơ thể người. - vui tai, vui mắt, vui chân, vui miệng, vui lòng c) Tìm từ láy có tiếng vui - vui vui, vui vẻ, vui vầy Bài tập 6. Từ "buồn" trong câu nào sau đây là động từ a. Cô ấy có cặp mắt buồn b. Hôm nay, Hằng rất buồn Đáp án là b Bài tập 7. Câu sau có thể là câu đơn vừa có thể là câu ghép. Vì sao? Bộ phận " cánh đồng chỉ còn trơ gốc rạ" giữ chức vụ gì trong câu dưới đây. "Khi mùa rét đến, cánh đồng chỉ còn trơ gốc rạ, mẹ Lê lo sợ không ai mướn mình" Bài giải: - Câu trên là câu đơn. Khi câu có 2 thành phần trạng ngữ: Trạng ngữ chỉ thời gian "khi màu rét đến", trạng ngữ chỉ nguyên nhân "cánh đồng chỉ còn trơ gốc rạ'.

<span class='text_page_counter'>(32)</span> - Câu trên là câu ghép . Khi câu có 1 trạng ngữ chỉ thời gian "khi mùa rét đến" thành phần còn lại là một câu ghép chính phụ "Khi mùa rét đến, cánh đồng / chỉ còn trơ gốc rạ, mẹ Lê / lo sợ không ai mướn mình" C1 V1 C2 V2 Bài tập 8. Tại sao vị ngữ trong 2 câu sau không giống nhau a. Suối chảy róc rách b. Tiếng suối chảy róc rách Có thể chia vị ngữ 2 câu trên như sau: a. Suối/ chảy róc rách b. Tiếng suối chảy/ róc rách Vị ngữ 2 câu trên khác nhau vì "róc rách" (a) là bổ nghĩa cho động từ "chảy" 'róc rách" (b) là định ngữ bổ nghĩa cho danh từ "tiếng suối" Bài tập 9: Tìm bộ phận chủ ngữ và nghĩa của 2 câu saukhacs nhau như thế nào. a/ Những con dế bị sặc nước/ bò ra khỏi hang C1 V1. b/ Những con dế/ bị sặc nước bò ra khỏi hang C2 V2 Nghĩa: a/ chỉ hành động của những con dế bị sặc nước nó bò ra khỏi tổ. b/ Giải thích nguyên nhân những con dế bò ra khỏi tổ là vì sặc nước. Bài tập 10:Tìm bộ phận CN,VN của câu sau theo hai cách hiểu khác nhau: Hoa mua ở bên đường C1 Hoa mua/ ở bên đường C2 Hoa/ mua bên đường Bài tập 11: Có thể thay dấu phẩy, hoặc ngoặc đơn trong hai câu sau bằng dấu (-) không? Vì sao? a/ Hà Nội-Thủ Đô yêu quý của chúng ta, đã được tặng danh hiệu thành phố vì hòa bình. Vì: Bộ phận sau dấu phẩy là bộ phận biệt lập nếu không có bộ phận này thì câu vẫn rõ nghĩa cho danh từ Hà Nội. b/ Lan bạn thân thiết nhất của em, đã đạt giải nhất trong cuộc thi học sinh giỏi thành phố. Vì: Tương tự câu a. Bài tập 12: Cho câu ghép " Trăng đã lên, mặt biển sáng hẳn ra" Muốn tạo một câu ghép mới bằng cách đảo vị trí của các vế câu thì phải thay dấu ","bằng dấu "."Vì sao? Mặt biển sáng hẳn ra: trăng đã lên. Vì : Nếu để dấu phẩy thì đó chỉ là một câu vì "Trăng đã lên" là thành phần trạng ngữ. Bài tập 13: Nghĩa của hai câu : 1. Nó nói và anh tin àh? 2. Nó nói mà anh tin ah? Khác nhau như thế nào?cái gì tạo ra sự khác nhau ấy? Giải: Vì: câu 1: Anh đã tin rồi. Câu 2: Còn phân vân chưa tin. Khác nhau do quan hệ từ "và": Nối hai mệnh đề có trường nghĩa giống nhau . " mà": Nối hai mệnh đề có nghĩa tương phản nhau. Nó nói mà anh tin àh. Bài tập 14: Từ nào không thuộc nhóm nghĩa trong dòng sau?Vì sao? - Công nhân, doanh nhân,nông dân,quân dân,tri thức,học sinh,sáng tác văn học..

<span class='text_page_counter'>(33)</span> - Năng động, cần cù, sáng tạo,buôn bán,,tiết kiệm,dám nghĩ,dám làm,yêu lao động,trân trọng thành quả lao đông. - Khi thác, sản xuất,xây dựng, thiết kế,giảng dạy,chăm chỉ,học tập,nghiên cứu. Bài tập 15: Hãy sử dụng biện pháp nhân hóa để viết 3 câu sau: - Những cánh cò. - Giọt mưa xuân - Hoa cỏ mây Giải: Những cánh cò chao nghiêng ngắm cảnh hoàng hôn. Giọt mưa xuân tinh nghịch đùa giỡn với những cánh hoa vừa hé nở Những cánh cò chao nghiêng ngắm cảnh hoành hôn Bài tập 16: Viết 1 câu có hình ảnh tả một cảnh sông nước có sử dụng biện pháp so sánh, nhân hóa. Giải: Những con sóng đuổi nhau chạy miết về phía bờ như lũ trẻ nô đùa trên sân trường Bài tập 17: Trong câu "bố em làm bác sĩ?" từ "làm" có thể mang những nghĩa nào? Giải: Có mang nghĩa "là", "nghề nghiệp" Bài tập 18: Có phải 3 câu sau đếu có trạng ngữ chỉ nơi chốn không?vì sao? -Nhìn từ xa, những cảnh mây nước long lanh, mấy chiếc thuyền lưới làm ăn nhiều khi vất vả nhưng trông cứ như những con thuyền du ngoạn. -Hôm ở rừng học Xa Bàn đánh vào Đất Đỏ anh Ba Đảo nói về đất đỏ là quê hương của chị Võ Thị Sáu. - Xa xa giữa cánh đồng, đàn trâu đang thung thăng gặm cỏ. Giải: Câu b không có trạng ngữ vì thành phần " Hôm ở rừng học Xa Bàn đánh vào Đất Đỏ" chỉ là phần chú thích giúp câu văn có ý nghĩa hơn. Bài tập 19: Nhà thơ Tố Hữu nhớ lại cảnh rừng Việt Bắc trong những năm kháng chiến chống pháp được thể hiện trong đoạn thơ sau: "Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình" Hình ảnh người dân Việt Bắc được gợi tả trong đoạn thơ có nét gì đẹp. Trãi khắp "Việt Bắc" là một bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và trong bức tranh ấy nổi lên hình ảnh của người dân nơi đây cũng vô cùng tươi đẹp. Dường như, cảnh và người hòa quyện vào nhau, gắn bó với nhau, tôn thêm vẽ đẹp cho nhau. Câu thơ đầu đưa người đọc về với Việt Bắc trong không gian mùa đông, mùa đông nhưng không lạnh lẽo bởi vì có sắc đỏ tươi, xanh biếc của hoa chuối. Trong khung cảnh ấy, con người hiện lên với vẻ đẹp mạnh mẽ, khỏe khoắn, xua tan đi cái lạnh giá của mùa đông nơi rừng núi xa xôi. Bằng hình ảnh: người lên núi với lưỡi dao lấp lánh bên lưng. Đấy là mùa đông, còn sang xuân, rừng Việt Bắc tràn gập hoa mơ còn con người trẻ trung xinh đẹp, đằm thắm, chăm chỉ...lại càng tô đậm thêm cho vẻ đẹp của Việt Bắc. Không hiểu Việt Bắc sâu sắc, không yêu Việt Bắc nồng nàn và nhớ Việt Bắc tha thiết thì tác giả sẽ không miêu tả Việt Bắc được như thế. Và không thể miêu tả được con người Việt Bắc sâu sắc đến như thế. Bài tập 20:"Cây gạo già mỗi năm trở lại tuổi xuân, cành nặng trĩu những hoa đỏ mọng và đầy những tiếng chim hót chỉ cần một làn gió nhẹ hay một đôi chim mới đến là có ngay mấy.

<span class='text_page_counter'>(34)</span> bông hoa gạo lìa cành. Những bông hoa rơi từ trên cao, đài hoa nặng chúi xuống, những cảnh hoa đỏ rực quay quay tít như chong chóng trông thật đẹp". Hình ảnh miêu tả nào đã tạo nên vẻ đẹp bất ngờ và độc đáo khi hoa gạo đang rơi?vì sao? Giải: Hình ảnh tạo nên vẻ đẹp bất ngờ là' những cánh hoa quay tít như chong chóng trông thật đẹp" Bài tập 21: Đọc đoạn thơ sau: Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội Những phố dài xao xác hơi mây Người ra đi đầu không ngoảnh lại Sau lưng them nắng lá rơi đầy. Trong đoạn thơ trên em thích hình ảnh nào?vì sao? Giải: Em thích hình ảnh:"Người ra đi đầu không ngoảnh lại Sau lưng thèm nắng lá rơi đầy" Thể hiện sự dứt khoát ra đi chí làm trai nhưng tâm hồn vẫn lưu luyến-nghe,cảm nhận được cả sau lưng có ánh nắng, lá rơi đầy bên thềm. Bài tập 22:Em hãy cho biết ý nghĩa và tình cảm của nhà thơ như thế nào trong đoạn thơ sau: "Quê hương là con diều biếc Tuổi thơ con thả trên đồng Quê hương là con diều nhỏ Êm đềm khua nước ven sông". Giải: ý nghĩa và tình cảm; Quê hương là tình cảm thiêng liêng trong lòng mỗi người nhưng cũng thật gần gủi, gắn bó với cuộc sống mỗi người chúng ta: cánh diều, con đò nhỏ. Bài tập 23 Trong bài "chim sẽ" chi tiết con chim sẻ mẹ dũng cảm lao xuống cứu con giúp chúng ta hiểu được điều gì? Giải: Hiểu được tình yêu thương, hi sinh của mẹ dành cho con,người mẹ luôn sẵn sàng xả thân để cứu con và luôn bảo vệ sự sống cho con. Bài tập 24: Đoạn văn dưới đây có thành công gì nổi bật trong cách dùng từ?điều đó đã góp phần miêu tả nội dung sinh động như thế nào? "Vai kẻo kịt, tay vung vẩy, chân bước thoăn thoắt. Tiếng lợn eng éc,tiếng gà chíp chíp,tiếng vịt cạc cạc, tiếng người nói léo xéo.Thỉnh thoảng lại điểm tiếng eng éc của con chó bị lôi sau sơi xích sắt,mặt buồn rầu,sợ sệt" Giải: - thành công nổi bật trong cách dùng từ: Sử dụng từ láy để mô tả âm thanh, mô phỏng hành động của người,con vật. - Góp phần miêu tả nội dung sinh động: Sự hối hả,gấp gáp,sôi động của người,vật..

<span class='text_page_counter'>(35)</span>

×