Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 xác định tốt phần từ loại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.68 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
NỘI DUNG
TRANG
PHẦN THỨ NHẤT: ĐẶT VẤN ĐỀ
1
1. Lý do chọn đề tài
2
2. Mục đích nghiên cứu
2
3. Đối tượng nghiên cứu
2
4. Phương pháp nghiên cứu
2
PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG
2
I. Cơ sở lí luận của vấn đề.
2
II. Thực trạng.
3
III. Các giải pháp thực hiện:
4
1. Căn cứ vào cấu tạo của từ (từ đơn, từ phức), hướng dẫn học sinh
4
cách xác định ranh giới từ trước khi xác định từ loại.
2. Dạy cho học sinh nắm vững các khái niệm theo hướng tích cực
6
hóa hoạt động học tập của học sinh.
3. Xác định danh từ, động từ, tính từ thơng qua khả năng kết hợp
9
của từ.
4. Hướng dẫn học sinh phân biệt động từ chỉ hoạt động, động từ chỉ


11
trạng thái.
5. Tổ chức trò chơi học tập cho học sinh.
13
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
14
PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
15
1. Kết luận
15
2. Kiến nghị
15


PHẦN THỨ NHẤT: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài:
Ở Tiểu học, môn Tiếng Việt là môn học rất quan trọng, nó góp phần hình
thành và phát triển cho học sinh các kĩ năng sử dụng tiếng Việt (nghe, nói, đọc,
viết) để học tập và giao tiếp trong các môi trường hoạt động của lứa tuổi. Thông
qua việc dạy học tiếng Việt, góp phần rèn luyện các thao tác tư duy: Cung cấp
cho học sinh những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và những hiểu biết sơ giản
về xã hội, tự nhiên và con người, về văn hóa, văn học của Việt Nam; bồi dưỡng
tình yêu tiếng Việt, hình thành thói quen giữ gìn sự trong sáng, giàu đẹp của
tiếng Việt, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam.
Ở lớp 4, mục tiêu dạy – học môn Tiếng Việt được cụ thể hóa thành những
yêu cầu kiến thức và kĩ năng thông qua học việc tập các phân mơn: Tập đọc,
Luyện từ và câu, Chính tả, Tập làm văn, Kể chuyện. Trong phân môn Luyện từ
và câu cung cấp những kiến thức sơ giản về tiếng Việt và rèn kĩ năng dùng từ,
đặt câu,... trong đó có hệ thống các từ loại là: danh từ (DT), động từ (ĐT), tính
từ (TT). Các kiến thức về từ loại lớp 4 giúp cho học sinh phân biệt được các từ

loại, cách dùng từ, đặt câu có ý nghĩa, vận dụng trong viết chính tả, làm bài tập
tiếng Việt. Khơng những thế, những kiến thức về từ loại sẽ giúp học sinh phát
triển được vốn từ, kĩ năng nhận diện, sử dụng thành thạo khi viết văn. Tuy
nhiên, trong thực tế, những kiến thức về từ loại rất phong phú, đa dạng và học
sinh cịn gặp rất nhiều khó khăn trong việc nhận diện, phân loại từ loại, vận
dụng từ loại vào dùng từ, đặt câu,…Nếu không nắm vững những kiến thức cơ
bản làm nền tảng thì học sinh dễ bị nhầm lẫn, mắc phải những lỗi sai cơ bản.
Bên cạnh đó, nếu khơng được củng cố kiến thức ngay sau khi học thì học sinh sẽ
gặp nhiều khó khăn trong việc phát triển ngơn ngữ viết của mình.
Vì thế, đối với giáo viên, dạy từ loại cho học sinh là một nhiệm vụ rất quan
trọng đang được nhiều giáo viên quan tâm đến. Việc giáo viên nắm vững kiến thức
và truyền đạt một cách dễ hiểu, kích thích niềm đam mê, luyện kĩ năng nhanh nhẹn,
phát triển sự sáng tạo cho học sinh là một việc rất cần thiết đòi hỏi mỗi giáo viên
phải quan tâm và trăn trở.
Là một giáo viên nhiều năm giảng dạy lớp 4, tôi nhận thấy học sinh vẫn
còn bị nhầm lẫn khi xác định từ loại đặc biệt sai nhiều ở các nhóm nhỏ của từng
nhóm từ loại.
Làm thế nào để giúp học sinh có kĩ năng xác định tốt phần từ loại? Vấn đề
này làm tôi băn khoăn, suy nghĩ và trăn trở trong nhiều năm giảng dạy, nó là
động lực khiến tơi ln tìm tịi, học hỏi, nghiên cứu. Và qua nghiên cứu, áp
dụng từ các năm học: 2012 – 2013; 2013- 2014; 2014- 2015 bước đầu đã có kết
quả khả quan. Tôi muốn chia sẻ với các bạn đồng nghiệp một số kinh nghiệm
dạy học sinh lớp 4 học tốt phần từ loại qua đề tài: “Giúp học sinh lớp 4 xác
định tốt phần từ loại.”
Với đề tài này tôi chỉ đi sâu nghiên cứu một góc nhỏ của từ loại (danh từ,
động từ, tính từ) mong rằng nhận được sự góp ý chân thành của các cấp quản lí và
các bạn đồng nghiệp để đề tài của tôi được hoàn chỉnh và áp dụng trong giảng dạy.

1



2. Mục đích nghiên cứu:
Tìm ra biện pháp nhằm giúp học sinh học tốt phân môn Luyện từ và câu
trong tiếng Việt đặc biệt là phần từ loại.
3. Đối tượng nghiên cứu: Giúp học sinh lớp 4 xác định tốt phần từ loại.
4. Phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết.
Phương pháp nghiên cứu thực tiễn.
Phương pháp điều tra thực tế, thu thập thông tin.
Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
Phương pháp tổng kết kinh nghiệm.
PHẦN THỨ HAI: NỘI DUNG
I. Cơ sở lí luận của vấn đề.
Kiến thức về từ loại được dạy học trong chương trình tiểu học:
- Ngay từ các lớp Hai, lớp Ba, học sinh đã được học về từ loại nhưng ở
mức độ đơn giản hơn, các em được học về: Từ chỉ sự vật, từ chỉ hoạt động, trạng
thái, từ chỉ đặc điểm, tính chất.
- Nội dung từ loại trong chương trình lớp 4 gồm:
+ Danh từ: 5 tiết (Tuần 5, 6, 7, 8: gồm cả các cách viết hoa danh từ riêng)
+ Động từ: 2 tiết (Tuần 9 và 11)
+ Tính từ: 2 tiết (Tuần 11, 12)
Danh từ, động từ, tính từ bao gồm những loại nhỏ hơn như: Danh từ có
danh từ chỉ sự vật, danh từ chỉ hiện tương. Động từ có: động từ chỉ hoạt động,
động từ chỉ trạng thái. Tính từ có: tính từ chỉ đặc điểm, tính từ chỉ tính chất.
Qua việc nghiên cứu chương trình và thực tế dạy học tôi nhận thấy, từ loại
rất gần gũi, quen thuộc với học sinh. Lên lớp 4, hệ thống các từ ngữ ấy được gọi
tên theo 3 nhóm từ loại: danh từ, động từ, tính từ. Và mỗi nhóm từ loại lại được
chia thành các nhóm nhỏ hơn.Về bản chất là không thay đổi và chỉ khác nhau về
tên gọi khái quát hơn.
Như vậy, nhìn vào hệ thống phần từ loại ở lớp 4 mà học sinh cần nắm

vững, chúng ta thấy: Kiến thức từ loại được cung cấp ngay từ các tuần đầu năm
học. Việc học sinh nắm vững các từ loại các em sẽ biết sử dụng từ tiếng Việt
đúng, tạo cơ sở để học sinh nắm chắc về câu, kiểu câu kể (Mẫu câu: Ai làm gì?
Ai thế nào? Ai là gì?). Các câu này đều xác định vị ngữ dựa vào ý nghĩa của từ
loại. Vì vậy, nếu học sinh khơng nắm chắc từ loại thì sẽ ảnh hưởng khơng nhỏ
đến việc xác định ba mẫu câu kể trên. Hơn nữa, việc nắm chắc từ loại học sinh
sẽ viết văn có hình ảnh, đúng ngữ pháp. Đó cũng chính là mục đích cơ bản của
giáo viên khi dạy tiếng Việt cho học sinh là các em hiểu và biết rõ mình đang
nói (viết) cái gì. Khi đó, các em sẽ có những từ ngữ, câu văn đúng với ý mình
muốn diễn đạt. Vì vậy, dạy cho học sinh nắm vững từ loại trong phân môn luyện
từ và câu ở lớp 4 là rất quan trọng.

2


II. Thực trạng dạy - học phần từ loại trước khi áp dụng sáng kiến:
Qua thực trạng dạy – học và trao đổi với đồng nghiệp, tôi nhận thấy việc
xác định từ loại của học sinh vẫn cịn có những tồn tại như sau:
- Nhiều em chưa xác định được danh từ, động từ hay tính từ.
- HS cịn xác định sai các từ loại có trong đoạn văn, đoạn thơ cho trước.
- Xác định từ loại còn nhầm lẫn giữa động từ hoặc tính từ, danh từ (một
số trường hợp khó phân biệt).
Tơi đã tiến hành khảo sát HS các lớp khác của GV trong khối, với các bài
tập sau:
Bài tập 1: Cho các từ sau: lơ thơ, ruộng nương, nhà cửa, đi đứng, mênh
mông, vuông vắn, đu đưa, khôn khéo, mẹ, khỏe khoắn, hiền, sao sáng, sung
sướng, inh ỏi.
- Xếp các từ trên vào 3 nhóm: danh từ, động từ, tính từ.
Bài tập 2: Cho hai câu thơ sau:
"Gió nâng tiếng hát chói chang

Long lanh lưỡi hái liếm ngang chân trời."
(Nguyễn Duy)
- Xác định danh từ, động từ, tính từ trong hai câu trên.
Bài tập 3: Hãy xác định danh từ, động từ, tính từ trong các từ sau:
Sách vở, kiên nhẫn, kỉ niệm, yêu mến, tâm sự, lo lắng, xúc động, nhớ,
thương, lễ phép, buồn, vui, thân thương, sự nghi ngờ, suy nghĩ, cái đẹp, cuộc
vui, cơn giận dữ, trìu mến, nỗi buồn, niềm vui, vui tươi, vui chơi, tình thương,
yêu thương, đáng yêu.
*. Kết quả khảo sát như sau:
Lớp

4B
4C
4D

Tổng
Số
HS Số HS tìm Số HS tìm Số HS có khơng
số học tìm
sai sai (thiếu) sai (thiếu) biết xác định
sinh
(thiếu)
động từ
tính từ
ranh giới từ.
danh từ
30
6
5
7

25
30
4
4
5
26
30
8
9
8
24

*. Nguyên nhân của những tồn tại:
- HS chưa xác định được ranh giới từ trong đoạn văn, đoạn thơ – Do GV
khi dạy chưa định hướng giúp học sinh cách phân tách ranh giới từ trước khi xác
định từ loại khiến học sinh bị lúng túng và sai nhiều.
- HS chưa hiểu hết bản chất khái niệm của danh từ, động từ, tính từ. Đặc
biệt là chưa hiểu được mỗi nhóm từ loại lại được chia thành các nhóm nhỏ hơn và
đặc điểm nhận diện của chúng lại khác nhau.
- Khi dạy học GV chưa hướng dẫn HS chiếm lĩnh kiến thức theo hướng tích
cực hóa hoạt động học tập mà mới chú ý đến việc giải quyết lần lượt hết các bài tập
ở sách giáo khoa là xong nhiệm vụ của tiết dạy.

3


- Thực tế nhiều GV cũng còn khá lúng túng khi xác định các từ loại do
chưa nghiên cứu những nội dung kiến thức có liên quan đến từ loại, khi hướng
dẫn học sinh xác định từ loại chưa đặt từ vào văn cảnh cụ thể mà chỉ dựa vào
nghĩa của từ là chủ yếu.

III. Các giải pháp thực hiện:
1. Căn cứ vào cấu tạo của từ (từ đơn, từ phức), hướng dẫn học sinh
cách xác định ranh giới từ trước khi xác định từ loại.
Đối với học sinh Tiểu học đặc biệt là học sinh lớp 4 việc phân cách ranh
giới từ cần tạo thành thói quen để giúp học sinh hiểu rõ nghĩa của từ và vận
dụng tốt. Thực tế, học sinh khi xác định từ loại trong các từ cho trước thì ít bị
sai, nhưng khi xác định từ loại có trong một đoạn văn, đoạn thơ lại xác định sai
nhiều. Do không biết cách xác định ranh giới từ nên các em nhầm lẫn xác định
cả cụm từ hoặc tiếng. Cá biệt vẫn có HS vẫn xác định được từ, song khi xếp vào
từng nhóm từ loại lại thiếu từ (bỏ sót).
*. Tơi đã hướng dẫn HS cách phân cách ranh giời từ trong đoạn văn, đoạn
thơ như sau:
- Học sinh tự đọc câu văn (hoặc đoạn văn, đoạn thơ) nhiều lần.
- Học sinh dùng dấu gạch xéo (/) phân cách ranh giới các từ.
*. Riêng bước xác định phân cách từ lần nữa tôi lưu ý các em phải căn cứ
vào khái niệm từ đơn, từ phức để không bị nhầm lẫn: Từ bao giờ cũng có nghĩa.
Từ gồm một tiếng gọi là từ đơn, từ gồm hai hay nhiều tiếng gọi là từ phức.
*. Khi xác định ranh giới từ, nếu từ nào các em cịn phân vân, chưa biết
đó là 1 từ ghép hay 2 từ đơn, thì có thể vận dụng các cách sau:
Dựa vào tính hồn chỉnh về cấu tạo và về nghĩa của từ, ta có thể xác định
được 1 tổ hợp nào đó là 1 từ phức hay 2 từ đơn bằng cách xem xét tổ hợp ấy về
2 mặt: kết cấu và nghĩa.
Cách 1: Dùng thao tác chêm, xen: Nếu trong một tổ hợp quan hệ giữa
các tiếng lỏng lẻo, dễ tách rời, có thể chêm, xen 1 tiếng khác từ bên ngoài vào
mà nghĩa của tổ hợp đó khơng thay đổi thì đó là 2 từ đơn. Nếu nghĩa của tổ hợp
đó thay đổi thì đó là 1 từ phức.
Ví dụ : Từ “quần áo” trong câu: Em có nhiều quần áo đẹp.
Ta dùng cách chêm xen từ như sau: Em có nhiều quần và áo đẹp.
Sau khi chêm xen từ “và” vào giữa “quần áo”, về cơ bản nghĩa của từ không
thay đổi. Cả hai cách nói trên đều có nghĩa là em có quần và có áo đẹp.

Mặt khác, trong câu: Con giặt quần áo giúp mẹ nhé! (từ “quần áo” ở đây là
một từ ghép vì nó chỉ chung các đồ dùng cá nhân trong nhà.
Cách 2 : Một tổ hợp nếu có thế đối lập thì đấy là kết hợp của 2 từ đơn.
Ví dụ : Trong câu sau:
- Bạn ấy cứ chạy lên rồi lại chạy xuống hết tầng nọ đến tầng kia.
Ta thấy “chạy lên” và “chạy xuống” là 2 từ đối lập nhau. Vậy “chạy lên”
và “chạy xuống” là kết hợp của các từ đơn.
Cách 3: Những yếu tố được dùng với ý nghĩa thay thế cũng là từ phức.
Ví dụ 1: Tổ hợp in nghiêng trong câu sau là từ đơn hay từ phức?

4


- Những cánh bướm rập rờn bên khóm hoa.
- Ở câu trên, “những cánh bướm” ý muốn chỉ “những con bướm” và
“cánh bướm” được dùng thay thế cho “con bướm”. Vậy “cánh bướm” là từ phức.
Ví dụ 2: Tổ hợp “ông cha” trong câu thơ sau là từ phức hay kết hợp của
các từ đơn?
Đời cha ông với đời tôi
Như con sơng với chân trời đã xa.
(Trích Truyện cổ nước mình)
- Trong trường hợp trên, “cha ơng” ý muốn nói “tổ tiên” vậy “ông cha”
được dùng thay thế cho “tổ tiên”. Chính vì vậy “cha ơng” là từ phức.
*. Sau khi hướng dẫn HS cách xác định từ đơn, từ phức, cuối cùng tôi
củng cố và nêu các bước làm của dạng bài: Xác định từ loại có trong đoạn văn
(đoạn thơ hay câu văn câu thơ) như sau:
- Học sinh đọc đoạn văn (đoạn thơ hay câu văn câu thơ) nhiều lần.
- Học sinh dùng gạch xéo (/) phân cách ranh giới các từ.
- Xác định các từ loại theo yêu cầu của đề bài.
Để trách nhầm lẫm hoặc thiếu (bỏ sót) từ, tơi lưu ý các em khi làm bước 3

cần đọc đến câu nào, từ nào thì xác định ln nó thuộc nhóm từ loại nào và ghi
vào nhóm đó.
Bài tập vận dụng :
Bài tập 1: Tìm từ đơn, từ phức trong đoạn văn sau:
Chim Sẻ và Chim Chích là đơi bạn thân, nhưng tính tình khác nhau.
Chích xởi lởi, hay giúp bạn. Cịn Sẻ thì đơi khi bụng dạ hẹp hịi. Một hơm, Sẻ
được bà ngoại gửi cho một hộp hạt kê. Sẻ không muốn chia cho Chích cùng ăn.
Thế là hằng ngày Sẻ ở trong tổ ăn hạt kê một mình.
- Dựa vào kiến thức đã học về cấu tạo từ, tôi hướng dẫn để các em cách
xác định ranh giới từ như sau:
Chim Sẻ /và/ Chim Chích/ là /đơi bạn /thân/, nhưng/ tính tình/ khác /nhau/.
Chích/ xởi lởi/, hay /giúp /bạn/. Cịn /Sẻ/ thì/ đơi khi/ bụng dạ/ hẹp hịi/. Một
hơm/, Sẻ/ được/ bà ngoại/ gửi/ cho/ một/ hộp/ hạt kê/. Sẻ/ không/ muốn/ chia/ cho/
Chích/ cùng/ ăn/. Thế là/ hằng ngày/ Sẻ/ ở/ trong tổ/ ăn/ hạt kê/ một/ mình/.
- Dựa vào ranh giới từ đã được xác định, học sinh tôi dễ dàng tìm được từ
đơn, từ phức có trong đoạn văn :
Học sinh có thể trình bày bài làm như sau :
Từ đơn
Và, là, thân, nhưng, Chích, hay, giúp,
bạn, cịn, thì, Sẻ, được, gửi, cho, một
hộp, không, muốn, chia, cho, cùng,
ăn, ở, trong, tổ, một, mình.

Từ phức
Chim Sẻ, Chim Chích, đơi bạn , tính
tình, xởi lởi, đơi khi, bụng dạ, hẹp
hịi, một hơm, bà ngoại, hạt kê, thế
là, hằng ngày.

Với cách làm như trên, tôi cung cấp thêm hệ thống các bài tập cùng dạng

để học sinh được thực hành luyện kĩ năng xác định từ theo cấu tạo.

5


Bài tập vận dụng:
Bài 1: Tìm từ đơn, từ phức có trong đoạn văn sau :
Bầu trời Việt Nam ln một màu tím biếc, những bãi cát vàng nghe tiếng
lao xao ào ào của biển xanh bát ngát chân trời. Đất này, có nhiều danh lam thắng
cảnh tuyệt đẹp. Hàng ngàn hòn đảo ở Vịnh Hạ Long, những Hòn Trống Mái ở
Sầm Sơn, Nha Trang, những Tháp Tràm cổ kính rong rêu.
Bài 2: Tìm xác định từ đơn, từ phức có trong đoạn thơ sau.
Q hương tơi có con sơng xanh biếc
Nước gương soi tóc những hàng tre
Tâm hồn tơi là một buổi trưa hè
Toả nắng xuống lịng sơng lấp lánh.
Bài 3: Tìm các từ phức trong các kết hợp được in nghiêng dưới đây:
Vườn nhà em có rất nhiều lồi hoa : hoa hồng, hoa cúc, hoa nhài,...Màu
sắc của hoa cũng thật phong phú: hoa hồng, hoa vàng, hoa trắng, ...
Như vậy bước xác định ranh giới từ là rất quan trọng giúp các em phân
tách từ chắc chắn hơn và không bị lúng túng khi xác định từ đơn, từ phức. Đó
cũng là nền tảng vững chắc để các em xác định các danh từ, động từ, tính từ có
trong câu văn, câu thơ hay đoạn văn, đoạn thơ.
2. Dạy cho học sinh nắm vững các khái niệm theo hướng tích cực hóa
hoạt động học tập của học sinh.
Muốn xác đinh tốt từ loại trước hết cần nắm vững khái niệm, bản chất về
từng nhóm từ loại và các nhóm nhỏ của danh từ, động từ, tính từ.
Muốn dạy đạt theo chuẩn kiến thức và chương trình giảm tải, giáo viên cần:
- Nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy.
- Định hướng rõ phương pháp dạy học tiết học đó.

- Cho học sinh được thực hành và làm việc tự các em sẽ là người rút ra
khái niệm (dạy theo hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh)
- Hướng dẫn học sinh làm bài theo hệ thống để học sinh luyện tập thực
hành các kiến thức đã học nhưng cần chú ý tới tất cả các đối tượng học sinh.
2.1. Về danh từ:
Trong thực tế dạy - học, học sinh thường xác định đúng các danh từ riêng
vì nó có dấu hiệu chính tả rõ ràng: Danh từ riêng là những từ chỉ tên riêng của
một sự vật. Danh từ riêng ln ln được viết hoa. Chính vì thế, khi dạy về danh
từ, tơi đã chú ý hướng dẫn học sinh cách xác định danh từ chung.
Ví dụ: Khi dạy bài Danh từ (Tiếng Viêt 4 – Tập 1 – trang 52, 53)
Chương trình sách giáo khoa đã nêu khái niệm danh từ như sau: Danh từ
là từ chỉ sự vật (người, vật, hiện tượng, khái niệm hoặc đơn vị).
Tuy nhiên thực hiện theo chuẩn kiến thức và kĩ năng, học sinh chỉ cần chỉ
ra: Danh từ là từ chỉ vật: chỉ người, vật, hiện tượng. Phần Luyện tập, học sinh
không phải làm.
Như vậy, nội dung kiến thức đã được giảm nhẹ hơn so với trước đó. Căn
cứ vào chuẩn kiến thức và kĩ năng, tôi đã dành thời gian làm chắc khái niệm về

6


danh từ và tổ chức cho mọi HS được nêu ví dụ, chú ý đến việc rèn luyện các kỹ
năng xác định danh từ.
Như đã phân tích, trong chương trình Luyện từ và câu lớp 2 và lớp 3, các em
đã được học về các từ chỉ sự vật là những từ chỉ người, chỉ vật. Chính vì thế, các
em sẽ thực hiện được yêu cầu về “tìm từ chỉ người, chỉ vật” có trong đoạn thơ.
Trước khi hình thành khái niệm về danh từ, tôi tổ chức cho các em tìm và
nêu thêm các từ dùng để gọi tên người và tên các bộ phận của thể người; từ dùng
để gọi tên các đồ vật và các bộ phận của đồ vật; gọi tên cây cối, các bộ phận của
cây cối; gọi tên con vật,…

Đặc biệt, sau khi củng cố về các từ chỉ người, chỉ vật, tôi gợi ý để HS tìm
các từ dùng để gọi tên các hiện tượng trong tự nhiên rất gần gũi với các em như
(mưa, nắng, gió, bão,…). Từ đó giới thiệu: Những từ dùng để chỉ người, chỉ vật,
chỉ hiện tượng gọi là danh từ.
Với những định hướng trên, học sinh tôi dễ dàng rút ra khái niệm Thế nào
là danh từ? Chính vì thế, các em vận dụng kiến thức vào thực hành – luyện tập
rất hiệu quả.
2.2. Động từ:
Dạy về động từ, cần giúp các em phân biệt rõ hai nhóm động từ: Động từ
chỉ hoạt động và động từ chỉ trạng thái.
Khi dạy bài Động từ (Tiếng Việt 4, Tập 1, trang 93, 94)
Tôi đặc biệt gợi ý để HS nêu rõ các yêu cầu của bài tập 2 phần Nhận xét là:
- Tìm từ chỉ hoạt động của: anh chiến sĩ, thiếu nhi.
- Tìm từ chỉ trạng thái của: dịng thác, lá cờ.
Sau đó tổ chức cho HS thảo luận nhóm 4 để hồn thành bài tập vào phiếu.
Dựa vào kết quả bài tập, tôi liên tục hỏi các em xoay quanh hai nhóm từ
đó là: từ chỉ hoạt động và từ chỉ trạng thái.
Tuy ở lớp 2 và lớp 3 các em đã được học về từ chỉ hoạt động và từ chỉ
trạng thái nhưng với thời lượng rất ít, đặc biệt là nhóm từ chỉ trạng thái, vì thế
HS có em đã qn, có em khơng nắm vững bản chất nên chưa hiểu hết về “từ chỉ
trạng thái”. Chính vì thế, làm rõ hai nhóm từ theo yêu cầu của bài tập 2 phần
Nhận xét là điều rất cần thiết trước khi hình thành khái niệm về động từ.
Dựa vào việc khai thác kĩ yêu cầu của bài tập nêu trên, HS tôi sẽ dễ dàng
nêu được khái niệm về động từ: Động từ là những từ chỉ hoạt động, trạng thái
của sự vật.
Bên cạnh đó tôi đặc biệt nhấn mạnh, lưu ý HS:
- Động từ chỉ hoạt động nêu lên các hoạt động của người hoặc con vật,
nếu là đồ vật thì phải được nhân hóa. Động từ chỉ trạng thái: là sự tồn tại của
một vật (bản thân chúng không tạo nên hoạt động mà phải nhờ vào các yếu tố
bên ngoài tác động).

Với cách tiến hành trên, HS sẽ nối tiếp nhau nêu ví dụ về từng nhóm động
từ. Điều đó sẽ giúp HS được trải nghiệm và nhận ra rằng động từ rất gần gũi và
tồn tại quanh ta.

7


2.3. Tính từ:
Khi cung cấp kiến thức về tính từ, cần giúp các em phân biệt rõ hai nhóm
tính từ: Tính từ chỉ đặc điểm và tính từ chỉ tính chất của sự vật, của hoạt động,
của trạng thái.
Khi dạy bài Tính từ (Tiếng Việt 4 – Tập 1 – Trang 110, 111, 112). Ở bài
này, nội dung ghi nhớ là: Tính từ là những từ miêu tả đặc điểm hoặc tính chất
của sự vật, của hoạt động, của trạng thái,…
Dựa vào ghi nhớ trên, tơi cụ thể hóa phương pháp dạy học thích hợp
nhằm giúp học sinh hiểu được ý nghĩa của cụm từ “tính chất của sự vật, hoạt
động, trạng thái,…”
Trong bài tập 2 phần Nhận xét: Sau khi HS hoàn thành bài tập, để giúp
học sinh hiểu và chủ động rút ra khái niệm về tính từ, tơi nhấn mạnh:
Các từ dùng để miêu tả tính tình, tư chất của cậu bé Lu –i, màu sắc của sự
vật, hình dáng, kích thước và các đặc điểm khác của sự vật gọi là tính từ.
Từ đó, qua gợi ý HS sẽ phát hiện và nêu được: Tính từ là những từ dùng
để miêu tả tính tình, tư chất của con người, màu sắc, hình dáng, kích thước và
đặc điểm của sự vật (Hay: Tính từ là những từ miêu tả đặc điểm hoặc tính chất
của sự vật)
Cịn với bài tập 3: Trong cụm từ đi lại vẫn nhanh nhẹn, từ nhanh nhẹn
bổ sung ý nghĩa cho từ nào?
Tôi gợi ý để HS rút ra các ý kiến sau:
- Từ nhanh nhẹn gợi tả dáng đi hoạt bát, nhanh trong bước đi.
- Từ nhanh nhẹn bổ sung ý nghĩa cho từ đi lại.

- Từ đi lại là động từ.
- Từ nhanh nhẹn miêu tả đặc điểm, tính chất của động từ.
- Tính từ là từ dùng để miêu tả đặc điểm, tính chất của động từ. (có thể là
ĐT chỉ hoạt động hoặc ĐT chỉ trạng thái)
 Từ hai bài tập trên, HS sẽ nêu được khái niệm về tính từ như sau: Tính
từ là những từ miêu tả đặc điểm hoặc tính chất của sự vật, của hoạt động, của
trạng thái,…
Bên cạnh đó tơi đặc biệt nhấn mạnh:
Tính từ chỉ đặc điểm: Đặc điểm là những nét riêng biệt, là vẻ riêng của
một sự vật. Đó là những nét riêng về màu sắc, hình khối, hình dáng, âm
thanh,...của sự vật. Đặc điểm của sự vật có thể là đặc điểm bên ngồi mà ta có
thể nhận biết qua mắt nhìn, tai nghe, mũi ngửi, tay sờ,... Hoặc cũng có thể là đặc
điểm bên trong của sự vật thông quan sát, suy luận, khái qt,... đó là đặc điểm
về tính tình, tâm lí, tính cách của một người hay độ bền, giá trị của đồ vật,...
Ví dụ:
+ Từ chỉ đặc điểm bên ngoài: cao, thấp, béo, gầy, rộng, hẹp, xanh, tím,...
+ Từ chỉ đặc điểm bên trong: ngoan, tốt, siêng năng, chăm chỉ, trung thành,...
Tất cả các kiến thức nêu trên về danh từ, động từ, tính từ đều khơng xa lạ
với giáo viên và học sinh, đó là tồn bộ nội dung trong SGK. Tuy nhiên, dạy thế

8


nào để học sinh tiếp cận kiến thức mới một cách nhẹ nhàng mà vẫn khắc sâu
được kiến thức không phải đơn giản.
Như vậy, để dạy cho học sinh lớp 4 nắm vững kiến thức về các khái niệm
từ loại, chúng ta cần đặt khái niệm trong hệ thống chương trình để xác định rõ vị
trí của nó.
Với tơi, khi thực hiện giải pháp nêu trên, tôi đã giúp học sinh nắm vững
khái niệm về các nhóm từ loại: danh từ, động từ, tính từ. Từ đó giúp các em vận

dụng vào thực hành, luyện tập rất tốt mà hiệu quả.
3. Hướng dẫn học sinh cách xác định danh từ, động từ, tính từ thơng
qua khả năng kết hợp của từ.
Danh từ, động từ, tính từ gắn liền với cấu trúc của câu văn. Nắm vững 3
nhóm từ loại trên, học sinh sẽ thuận lợi hơn rất nhiều khi xác định các thành
phần trong câu. Các nhóm từ loại cịn là nền tảng để các em học tốt các mẫu câu
kể. Trong thực tế, nhiều khi cùng một từ nhưng trong trường hợp này là danh từ,
nhưng trong trường hợp kia lại là động từ hoặc tính từ. Chính vì vậy, học sinh
rất khó xác định từ loại, các em dễ bị nhầm lẫn giữa danh từ, động từ, tính từ
trong những trường hợp đặc biệt. Nội dung chương trình về từ loại ở lớp 4 chỉ
dành khoảng thời gian nhất định, mỗi nhóm từ loại gồm 2 tiết là rất ít để học
sinh được rèn luyện kĩ năng. Hơn nữa, nội dung dạy học này lại khơng có trong
chương trình SGK, học sinh khơng được cung cấp nếu chỉ học những kiến thức
trong SGK. Trong khi đó, đề kiểm tra giữa Học kì I, năm học 2011- 2012 của Sở
Giáo dục và đào tạo Tỉnh Thanh Hóa có bài tập sau:
*. Gạch dưới động từ trong đoạn văn sau:
Có thể cần phải xem lại giấc mơ đó của Lin-da, nhưng bé vẫn còn đủ thời
gian để lựa chọn. Khi nào thì chúng ta sẽ ngừng ước mơ và loại bỏ đi trong tim
những ước mơ về tương lai? Thật đáng sợ khi chúng ta khơng cịn biết ước mơ nữa!
- Ta thấy đoạn văn có các động từ là: “có thể, xem lại, vẫn cịn, để, lựa
chọn, sẽ, ngừng, ước mơ, loại bỏ đi, biết, ước mơ”.
- Tuy nhiên, trong số đó có 2 động từ “ước mơ” lặp lại mà lại có tới 3 từ “ước
mơ” – như tơi đã gạch chân.
- Khi trình bày bài làm HS cần chỉ ra được “ước mơ” nào là động từ?
Trong 3 từ đó thì “ước mơ” trong “Khi nào chúng ta sẽ ngừng ước mơ”
và "Thật đáng sợ khi chúng ta khơng cịn biết ước mơ” là động từ; cịn “ ước
mơ” trong “... loại bỏ đi trong tim những ước mơ” lại là danh từ.
Kết quả bài làm của HS lớp tơi như sau: 27/ 30 em tìm đúng các động từ
và phân biệt rõ được động từ trong 3 từ“ước mơ” nêu trên vì các em đã được
học về cách xác định danh từ, động từ, tính từ thơng qua khả năng kết hợp của

từ. Trong khi đó HS các lớp khác trong khối thì khơng nêu được.
Như vây để giúp học sinh xác định tốt từ loại, tôi đã linh hoạt cung cấp và
kết hợp ôn luyện cho học sinh qua các tiết học tăng buổi song song với các tiết
chính khóa, hướng dẫn các em dùng cách kết hợp từ như sau:

9


3.1.Khả năng kết hợp với danh từ:
- Nếu là danh từ thì đứng trước nó sẽ kèm theo từ là các từ chỉ số lượng như:
những, một, hai, ba, vài, mỗi, mọi, tất cả,...
- Đứng sau danh từ thường có các từ: này, kia, ấy, nọ, đó,... (Đó là những từ
chỉ vai trị).
- Các động từ và tính từ đi kèm : sự, cuộc, nỗi, niềm, cái, lịng,…. ở phía
trước thì tạo thành một danh từ.
3.2. Khả năng kết hợp của động từ:
- Đứng trước động từ là những từ bổ sung ý nghĩa về thời gian, chỉ sự tiếp diễn,
mệnh lệnh: đã, đang, sẽ, không, chưa, chẳng, hãy, đừng, chớ, phải, cứ,…
- Đứng sau động từ là những từ chỉ sự kết thúc: xong, rồi,…
- Ngồi ra, có thể tạo câu hỏi để phân biệt động từ bằng cách đặt sau chúng
từ “bao giờ” hoặc “bao lâu” (tính từ khơng có khả năng này )
- Với động từ, khi xác định có thể thêm "đi, nào" và đằng sau (chạy đi! Chơi
nào!)
*. Lưu ý: Các động từ chỉ cảm xúc (trạng thái) như : yêu, ghét, xúc động,...
cũng kết hợp được với các từ: rất, hơi, lắm,.... Vì vậy, khi cịn băn khoăn một từ
nào đó là động từ hay tính từ thì nên cho thử kết hợp với hãy, đừng, chớ,...Nếu
kết hợp được thì đó là động từ.
3.3. Khả năng kết hợp của tính từ:
Tính từ có khả năng kết hợp được với các từ chỉ mức độ có thể đứng
trước hoặc sau tính từ như: rất, hơi, lắm, q, cực kì, vơ cùng,...

Ví dụ 1: Những từ được in nghiêng trong các câu sau là danh từ, động từ hay tính từ?
1. Bạn Hoa rất vui khi được cô giáo khen.
2. Bạn Hoa đang vui cùng bạn bè.
3. Những mong muốn của trẻ em đều rất ngộ nghĩnh.
4.Trẻ em cả thế giới đang mong muốn được sống trong hịa bình.
Dựa vào căn cứ trên, HS sẽ dễ dàng nêu được: từ “vui” trong câu 1 là tính
từ, từ “vui” trong câu 2 là động từ. Từ “mong muốn” trong câu 3 là danh từ, từ
“ mong muốn” trong câu 4 là động từ.
Ví dụ 2: Thêm từ vào trước động từ, tính từ để tạo thành danh từ :
Động từ (tính từ)
Danh từ
hi sinh
sự hi sinh
đấu tranh
cuộc đấu tranh
nhớ
nỗi nhớ
vui
niềm vui
rét
cái rét
Bài tập vận dụng:
Bài 1: Xác định từ loại của những từ thắng lợi dưới đây :
a) Những thắng lợi của chúng ta rất to lớn.
b) Chúng ta đang thắng lợi lớn.
c) Chúng ta hoàn thành rất thắng lợi kế hoạch năm học.
Bài 2:  Xác định từ loại của những từ được gạch chân dưới đây :

10



a. Anh ấy đang suy nghĩ.
b. Những suy nghĩ của anh ấy rất sâu sắc.
c. Anh ấy sẽ kết luận sau.
d. Những kết luận của anh ấy rất chắc chắn.
e. Anh ấy ước mơ nhiều điều.
f. Những ước mơ của anh ấy thật lớn lao.
Bài 3: Xác đinh từ loại của các từ sau:
vui, cuộc vui, buồn, nỗi buồn, liên hoan, cuộc liên hoan, xấu, cái xấu, đẹp,
cái đẹp, tức giận, cơn tức giận, đau khổ, sự đau khổ, thịnh nộ, cơn thịnh nộ.
Như vậy, mỗi từ loại (danh từ, động từ, tính từ) có khả năng kết hợp khác
nhau, vì thế căn cứ vào khả năng kết hợp của mỗi từ loại tôi đã hướng dẫn học
sinh vận dụng, thực hành rất tốt, các em khộng bị lúng túng trước những từ dễ bị
nhầm lẫn và với những từ tưởng như rất khó cũng được các em nhận diện từ loại
một cách dễ dàng.
4. Hướng dẫn học sinh phân biệt động từ chỉ hoạt động, động từ chỉ
trạng thái.
Trong thực tế, khi dạy – học về động từ, tôi thấy hầu hết các em học sinh
còn sai nhiều về các động từ chỉ trạng thái. Bên cạnh đó, số tiết học về động từ
chỉ có 2 tiết là rất ít, rất khó để học sinh có điều kiện rèn luyện khắc sâu kiến
thức. Trong khi đó, ở lứa tuổi Tiểu học, biện pháp tốt nhất để khắc sâu kiến thức
cho các em là tổ chức để các em được thực hành luyện tập nhiều lần. Chính vì
thế, sau 2 tiết học chính khóa (tuần 9 và tuần 11), tơi cũng đã dành thời gian
củng cố kiến thức về động từ cho các em qua các tiết học của buổi 2. Tôi đặc
biệt quan tâm giúp học sinh phân biệt chính xác động từ chỉ hoạt động và động
từ chỉ trạng thái như sau:
4.1. Động từ chỉ hoạt động:
- Động từ chỉ hoạt động là những từ chỉ hành động của người, con vật hoặc đồ
vật được nhân hóa đang diễn ra.  Động từ chỉ hành động trả lời câu hỏi Làm gì?
Ví dụ: đi, chạy, nhảy, học, bơi, múa, hát,...

Ngồi cịn một số động từ mà học sinh rất khó xác định, tơi đã khái qt
cho học sinh biết đó là:
+ Động từ chỉ hành động vật lí: gãy, nổ, giãn, co, nở,...
+ Động từ chỉ hành động tâm lí: nghĩ, cảm thấy, lo,...
+ Động từ chỉ hành động chuyển hướng: ra, vào, lên, xuống, ngược, xuôi,...
+ Động từ chỉ hành của cơ thể: co, cuối, nhắm, mở, nheo, ưỡn,..
+ Động từ chỉ hành động kết nối: buộc, chặt, treo, pha, trộn, hòa,...
+ Động từ chỉ hành động trao, nhận: tặng, biếu, cho, lấy,...
4.2. Động từ chỉ trạng thái:
- Trạng thái là tình trạng của một vật hoặc một con người, tồn tại trong
một thời gian nào đó.
- Động từ chỉ trạng thái cũng là tình trạng đã, đang và sẽ diễn ra của các
vật vô tri, vô giác như: cây cối, cảnh vật, đồ vật,..

11


- Xét về mặt từ loại, từ chỉ trạng thái có thể là động từ, có thể là tính từ
hoặc mang đặc điểm của cả động từ và tính từ (từ trung gian). Song theo như
định hướng trong nội dung chương trình SGK, ở cấp tiểu học, thống nhất chỉ
xếp chúng vào nhóm động từ để HS dễ phân biệt.
- Các từ sau đây cũng được gọi là động từ chỉ trạng thái (trạng thái tâm
lí): yêu, ghét , kính trọng, chán, hiểu,…Các từ này mang đặc điểm của cả động
từ và tính từ, có tính chất trung gian giữa động từ và tính từ, nên ta xếp các từ
trên vào nhóm động từ.
- Một số từ sau đây cũng được gọi động từ chỉ trạng thái : mặc, nằm,
ngồi, ngủ, thức, nghỉ ngơi, suy nghĩ, đi, đứng, lăn, lê, vui, buồn, hồi hộp, băn
khoăn, lo lắng,…Các từ này có đặc điểm sau :
+ Nó vừa được gọi động từ chỉ hành động khi nó chỉ hành động đang diễn
ra. Cũng có khi nó được gọi động từ chỉ trạng thái khi nó xuất hiện trong trường

hợp: tồn tại ở một thời điểm nhất định hoặc nó là hành động đã diễn ra.
Ví dụ 1: Các động từ được in nghiêng trong mỗi câu sau là động từ chỉ
hoạt động hay động từ chỉ trạng thái?
1. Em bé xịe đơi bàn tay xinh xắn tập đếm.
2. Lá cọ xòe ra nhiều phiến nhọn dài.
3. Nghe tiếng chuông reo, Thanh đang mặc chiếc áo màu xanh rồi đi ra cửa.
3. Hôm nay, Thanh mặc chiếc áo màu xanh.
Học sinh có thể trình bày như sau:
Câu 1: “xịe” là động từ chỉ hoạt động vì đó là hoạt động, hành động của
một em bé.
Câu 2: “xòe” là động từ chỉ trạng thái vì đó là tình trạng của lá cọ (vật vơ
tri, vô giác)
Câu 3: Từ “mặc” là động từ chỉ hoạt động đang diễn ra, chưa hoàn thành.
Câu 4: Từ “mặc” là động từ chỉ trạng thái vì đó là hoạt động đã diễn ra,
chỉ sự hồn thành.
Ví dụ 2:
a. Người bệnh đang hôn mê.
b. Bác sĩ đang trầm ngâm.
(Các từ “hôn mê, trầm ngâm” là trạng thái của người bệnh, của bác sĩ chỉ
tồn tại trong một thời gian nhất định.)
4.3. Một số lưu ý về động từ chỉ trạng thái :
- Trong Tiếng Việt có một số loại động từ chỉ trạng thái sau :
+ ĐT chỉ trạng thái tồn tại (hoặc trạng thái khơng tồn tại): cịn, hết, có
+ ĐT chỉ trạng thái biến hố : thành, hố,…
+ ĐT chỉ trạng thái tiếp thụ : được, bị, phải, chịu,…
+ ĐT chỉ trạng thái so sánh : bằng, thua, hơn, là,…
Như vậy, với cách củng cố và thường xuyên được luyện tập về động từ
như trên, học sinh tôi đã nắm rất vững, xác định rất tốt các động từ đặc biệt là
phân biệt rõ được đâu là động từ chỉ hoạt động, đâu là động từ chỉ trạng thái, là
nền tảng vững chắc giúp các em phân biệt tốt kiểu câu kể Ai làm gì? Và Ai thế


12


nào? Khi vị ngữ đều là động từ, điều đó giúp tơi có đủ tự tin hơn khi dạy về
nhóm từ loại này cho học sinh.
5. Tổ chức trò chơi học tập cho học sinh.
Trị chơi học tập là hình thức học mà chơi, chơi mà học. Tổ chức trò chơi
học tập sẽ góp phần trong việc giúp học sinh khắc sâu kiến thức. Đặc biệt là đối
với những em học sinh chưa ham học. Vì vậy, tơi đã tổ chức cho học sinh các
trò chơi học tập phù hợp với từng bài học như sau:
- Ví dụ 1: Sau khi học sinh học xong bài Danh từ, tôi tổ chức cho học sinh
chơi trò chơi “Ai nhanh - Ai đúng”. Trị chơi được thực hiện như sau:
- Tơi chuẩn bị 3 bơng hoa bằng giấy bìa, nhị hoa viết sẵn “Danh từ chỉ
người hoặc Danh từ chỉ vật; Danh từ chỉ hiện tượng”, mỗi bơng hoa có từ năm
cánh trở lên. Chọn ba nhóm học sinh tham gia chơi. Mỗi nhóm gồm năm HS.
Trước khi chơi, các nhóm trưởng sẽ được bốc thăm nhị hoa có sẵn đề chọn tên
chủ đề về danh từ. Trong 2 phút, lần lượt từng học sinh trong nhóm lên viết
danh từ vào các cánh hoa theo chủ đề đã bốc thăm và gắn vào nhị hoa tương ững
của nhóm mình. Kết thúc trị chơi, nhóm nào tìm được danh từ chính xác, nhiều
hơn và nhanh hơn sẽ thắng cuộc. Sau đây là ví dụ về các bơng hoa của trị chơi:


giáo

bố
mẹ

nh
à

ơng


DTchỉ
người

chú

bạn

áo
len

em



t

DTchỉ
vật

hoa

bác



n
gh

ế


ho
a
lan
mưa
sấm

bão
DT chỉ
hiện
tượng

lụt
gió

mưa
đá


13


Ví dụ 2: Sau khi học sinh học xong bài Động từ, tơi tổ chức cho học sinh
chơi trị chơi “Xem kịch câm”. Trò chơi được thực hiện như sau:
- Hình thức: Tơi chia lớp thành hai nhóm A và B. Mỗi nhóm gồm 5 HS.
Thời gian dành cho cả hai nhóm là 3 phút.
- Cách chơi: Lần lượt HS của từng nhóm A sẽ làm động tác tương ứng
với một việc làm. Sau khi bạn làm động tác, nhóm B sẽ nêu tên của việc làm

tương ứng với động tác bạn vừa làm. Luân phiên đổi vai cho nhau.Thời gian tối
đa cho mỗi động tác là 10 giây. Mỗi lần làm đúng hoặc nêu đúng tên động tác sẽ
được 1 điểm, nếu sai bị trừ 1 điểm. Cuối cùng nhóm nào đốn đúng, nhanh, có
hành động kịch đẹp mắt, tự nhiên, rõ ràng sẽ thắng cuộc.
- Các chủ đề để HS lưạ chọn như: động tác học tập, động tác khi lao
động, vệ sinh, động tác vui chơi giải trí, …
- Ví dụ:
+ Động tác trong học tập: mượn sách, viết, đọc, kẻ, mở trang, cất dụng
cụ vào cặp, ...
+ Động tác khi vui chơi: nhảy dây, kéo co, đá cầu, bắn bi, đá bóng, ...
+ Động tác trong lao động, vệ sinh: quét sân, hốt rác, lau bàn ghế, …
Như vậy, khi tổ chức các trò chơi học tập, tơi nhận thấy khơng khí tiết học
thêm sinh động hơn, tạo cho học sinh niềm phấn khởi, vui vẻ trong học tập. Qua
các trò chơi các em còn được khắc sâu hơn kiến thức bài học, tự tin hơn khi sử
dụng từ loại để đặt câu, viết văn có hình ảnh hơn.
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm:
Với cách dạy như trên, tôi nhận thấy kĩ năng xác định từ loại của học sinh
tốt hơn và nhiều học sinh có tiến bộ trong việc xác định từ loại. Các em khơng
cịn “ngại” khi gặp phải bài xác định từ loại như trước nữa. Đặc biệt một số em
đã có được kĩ năng xác định từ loại thành thạo, vững chắc, điều này thể hiện ở
các bài kiểm tra khảo sát hàng tháng, các bài khảo sát giao lưu “Câu lạc bộ Em
yêu thích tiếng Việt” của các em, khơng cịn hiện tượng bỏ trống như trước kia,
đặc biệt học sinh đó biết chọn lựa xác định từ loại nào là nhanh nhất và dễ nhất,
hợp lí nhất. Bên cạnh đó, các em cũng đã biết vận dụng từ loại trong viết văn tốt
hơn, có hình ảnh và sinh động hơn. Đặc biệt, các em biết vận dụng linh hoạt,
sáng tạo khi nào cần dùng danh từ, khi nào dùng động từ hoặc tính từ.
Sau thời gian giảng dạy và áp dụng các giải pháp trên, để khảo sát chất
lượng của học sinh tôi tổ chức cho các em làm kiểm tra về xác định từ loại, so
với các lớp khác trong khối, chất lượng lớp tôi vượt trội hơn hẳn.
Sau đây là kết quả khảo sát:

Đề bài:
Câu 1: Tìm các danh từ có trong đoạn thơ sau:
Khắp người đau buốt nóng ran
Mẹ ơi! cơ bác xóm làng đến thăm
Người cho trứng, người cho cam
Và anh y sĩ đã mang thuốc vào.
Câu 2: Tìm danh từ, động từ, tính từ có trong đoạn văn sau:

14


Nhiều người vẫn nghĩ lồi cây bao báp kì diệu chỉ có ở Châu Phi. Nhưng
thực ra tại châu lục đen chỉ có duy nhất một lồi bao báp. Cịn trên đảo Ma – đa –
ga – xca ở Ấn Độ Dương có tới tận bảy lồi. Một lồi trong số đó cịn được trồng
thành đồn điền, vì từ hạt của nó có thể chế được loại bơ rất ngon và bổ dưỡng.
Câu 3: Trong từng cặp từ được gạch chân dưới đây, từ nào là động từ chỉ
hoạt động, từ nào là động từ chỉ trạng thái?
a) Tôi treo bức tranh lên tường. / Bức trenh treo trên tường.
b) Bạn Hằng đang buộc tóc.
/ Con trâu buộc bên gốc cây.
Câu 4: Xác đinh từ loại của các từ sau: nhà cửa, đi đứng, mênh mông,
vuông vắn, đu đưa, im lặng, sự im lặng, vui sướng, niềm vui sướng, giàu đẹp,
sự giàu đẹp, yêu thương, lòng yêu nước.
Kết quả:
Sĩ số
Điểm
Năm học Lớp
Điểm khá Điểm TB
Điểm yếu
HS

giỏi
2013- 2014
2014 2015

4A
4A

28
29

14
15

10
11

4
3

0
0

PHẦN THỨ BA: KẾT LUẬN – KIẾN NGHỊ
1. Kết luận:
Như vậy, trong thực tế, phân mơn Luyện từ và câu có vị trí rất quan trọng,
là chìa khóa mở ra kho tàng văn hóa, giúp HS lĩnh hội tiếng Việt, là cơng cụ giao
tiếp, tư duy và học tập; là môn học nền tảng để học sinh học tập các môn học
khác. Bên cạnh đó, nhiệm vụ của GV Tiểu học là cung cấp kiến thức một cách
tồn diện cho HS. Chính vì thế, khi dạy phân mơn Luyện từ và câu nói chung và
dạy về từ loại cho HS lớp 4 nói riêng, GV cần cung cấp kiến thức một cách cơ

bản nhất, đầy đủ nhất; cần chủ động, sáng tạo và linh hoạt trong việc sử dụng đổi
mới các phương pháp và hình thức tổ chức dạy học giúp HS nắm vững kiến thức
theo chuẩn kiến thức kĩ năng của môn học, phát huy tính tính cực của HS.
Sau thời gian vận dụng những giải pháp nêu trên, HS của tôi đã có thêm
niềm đam mê khi học Luyện từ và câu và đặc biệt là thích tìm hiểu về các nhóm
từ loại, có kĩ năng xác định từ loại. Mỗi khi tham gia học tập, tìm hiểu những
kiến thức về từ loại, khơng khí lớp học trở nên sinh động và hấp dẫn hơn. Tôi đã
được Ban giám hiệu nhà trường, đồng nghiệp ủng hộ, đồng thuận. Những giải
pháp trên cũng đã và đang được áp dụng trong giảng dạy tại trường, góp phần
tích cực vào việc dạy – học phân môn Luyện từ và câu ở lớp 4.
2. Kiến nghị:
2.1. Đối với Ban giám hiệu, nhà trường:
- Duy trì và đổi việc tổ chức các chuyên đề “Nâng cao chất lượng giảng
dạy môn Tiếng Việt” nhằm nâng cao chất lượng dạy học mơn Tiếng Việt nói

15


chung và Phân Mơn Luyện từ và câu nói riêng, tạo mọi điều kiện để giáo viên
được học tập và bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ.
2.2. Đối với Giáo viên:
Để giúp cho học sinh lớp 4 xác định tốt các từ loại trong dạy phân môn
Luyện từ và câu, mỗi GV cần:
1. Tích cực tự học, tự bồi dưỡng về nghiệp vụ, nắm vững kiến thức về từ
loại. Làm chủ được nội dung kiến thức khi lên lớp.
2. Chú ý đến việc dạy học sinh phân biệt từ theo cấu tạo trước khi xác
định từ loại.
3. Trong các tiết dạy cần chú ý đến việc rèn luyện kĩ năng cho học sinh,
phát huy tính tích cực, chủ động của học sinh trong học tập.
4. Thường xuyên giúp học sinh vận dụng kiến thức về từ loại vào học tập

tất cả các môn học, đặc biệt là trong viết văn.
Trên đây là phần nghiên cứu tìm tịi của bản thân tơi đã ứng dụng và thực
hiện dạy học sinh xác định tốt phần từ loại lớp 4, rất mong được sự góp ý của
các đồng chí chỉ đạo chun mơn và các đồng nghiệp.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA THỦ TRƯỞNG Thanh Hóa, ngày 30 tháng 5 năm 2016
ĐƠN VỊ
Tơi xin cam đoan đây là SKKN của
mình viết, khơng sao chép nội dung của
người khác.
Người thực hiện

Đỗ Thu Hưng

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp Hai, lớp Ba, lớp Bốn tập 1, tập 2
2. Sách Giáo viên Tiếng Việt 4, tập 1, 2.
3. Chuẩn kiến thức kĩ năng lớp 4.
4. Công văn số 5842/BGDĐT - VP ngày 1tháng 9 năm 2011 về việc Hướng dẫn điều chỉnh nội dung dạy học giáo dục phổ thông.
5. Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt 4- tác giả Trần Mạnh Hưởng, Lê Hữu
Tỉnh – Nhà xuất bản Giáo dục.
6. Tài liệu Bồi dưỡng học sinh giỏi môn Tiếng Việt lớp 5 – Sở Giáo dục và
Đào tạo Thanh Hóa xuất bản năm 2013.

17



18



×