Tải bản đầy đủ (.pdf) (29 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn tập đọc lớp 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.77 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
Mục lục
PHẦN A: MỞ ĐẦU
I. Lí do chọn đề tài.
II. Mục đích nghiên cứu.
III. Đối tượng nghiên cứu.
IV. Phương pháp nghiên cứu.
PHẦN B: NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
1. Xuất phát từ vị trí, vai trị của phân mơn Tập đọc
2. Xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ và nội dung dạyTập đọc lớp 5
II. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
1. Thực trạng
2. Hiệu quả của thực trạng
III. Các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
1. Giải pháp 1: Làm tốt công tác chuẩn bị cho giờ dạy
2. Giải pháp 2: Chú trọng rèn kĩ năng dạy đọc thành tiếng cho học
sinh theo các mức độ đọc đúng, đọc nhanh, đọc diễn cảm.
2.1. Chuẩn bị tốt cho việc đọc
2.2. Rèn kĩ năng luyện đọc đúng
2.3. Rèn kĩ năng luyện đọc nhanh
2.4. Rèn kĩ năng luyện đọc diễn cảm
2.5. Rèn kĩ năng luyện học thuộc lòng
3. Giải pháp 3: Phối hợp các kĩ năng dạy đọc - hiểu một cách nhịp
nhàng, hiệu quả
3.1. Chuẩn bị tốt cho việc đọc thầm góp phần dạy học tốt đọc-hiểu
3.2. Biện pháp rèn kỹ năng đọc thầm để đọc – hiểu tốt
3.3. Phối hợp có hiệu quả các biện pháp hướng dẫn tìm hiểu bài
IV. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm.
1. Phiếu kiểm tra và hướng dẫn chấm khảo sát lần 2 (Đề kiểm chứng)
2. Tổng hợp kết quả


3. Nhận xét chung về kết quả đạt được
PHẦN C: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. Kết luận
II. Kiến nghị
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Trang
1
2
3
3
3
3
3
3
3
4
5
5
7
8
8
9
9
9
11
11
14
15
15

15
16
18
18
19
19
19
19
21

PHẦN A: MỞ ĐẦU

Đất nước đang tiến lên trên con đường cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và
hội nhập quốc tế địi hỏi sự nghiệp giáo dục cũng cần có nhiều thay đổi để đào
tạo ra những con người lao động tự chủ, năng động, sáng tạo, có năng lực giải
1


quyết vấn đề thường gặp, góp phần xây dựng đất nước giàu mạnh, xã hội cơng
bằng, dân chủ, văn minh.
Vì vậy, phương pháp giáo dục cũng phải hướng vào việc khơi dây, rèn
luyện và phát triển ở người học khả năng nghĩ và làm một cách tự chủ, năng động
và sáng tạo ngay từ khi đang học tập ở nhà trường, đặc biệt là rèn luyện cho các
em khả năng tự học, tinh thần hợp tác, kĩ năng vận dụng kiến thức vào những
tình huống khác nhau trong học tập và trong thực tiễn, giúp các em có niềm vui,
hứng thú trong học tập.
Trong xu thế chung đó, việc đổi mới phương pháp dạy học phân môn Tập
đọc là rất quan trọng và có ý nghĩa to lớn bởi vì phân mơn Tập đọc có vị trí đặc
biệt trong chương trình Tiểu học, nó đảm nhiệm q trình hình thành và phát
triển cho học sinh kĩ năng đọc, một kĩ năng quan trọng hàng đầu của học sinh

bậc học đầu tiên trong nhà trường phổ thông. “Tập đọc giúp các em chiếm lĩnh
một số ngôn ngữ dùng trong giao tiếp và học tập, nó là cơng cụ để học tốt các
môn học khác, tạo ra hứng thú và động cơ học tập, giúp học sinh có khả năng tự
học và tinh thần học tập: học, học nữa, học mãi - một khả năng không thể thiếu
của con người thời đại mới” [1].
Mục tiêu dạy học phân môn Tập đọc ở lớp 5 không chỉ giúp học sinh củng
cố, nâng cao và phát triển kĩ năng đọc mà còn bồi dưỡng ở các em tư tưởng, tình
cảm, nhân cách, lịng u cái thiện và cái đẹp. “Dạy Tập đọc có ý nghĩa to lớn vì
nó bao gồm cả nhiệm vụ giáo dục, giáo dưỡng và phát triển” [1].
Song, thực tế dạy học Tập đọc lớp 5 ở một số nhà trường chưa đạt hiệu quả
cao; chưa kích thích sự ham học, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học;
chưa quan tâm đúng mức đến việc rèn các kĩ năng đọc cho học sinh, dẫn đến học
sinh đọc chưa tốt, nhất là đọc diễn cảm.
Có nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan ảnh hưởng đến chất lượng
dạy học Tập đọc như trình độ, kĩ năng sư phạm, sự nhiệt tình của giáo viên; ý
thức tham gia học tập của học sinh; các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị
hỗ trợ cho việc dạy học. Trong đó, nổi bật là nguyên nhân giáo viên chưa linh
hoạt trong việc xây dựng kế hoạch dạy học, chua chú trọng đổi mới phương pháp
và các hình thức tổ chức rèn kĩ năng đọc. Nhiều giờ Tập đọc không đạt được mục
tiêu theo đúng nghĩa, trong khi nội dung chương trình đã có bổ sung thêm một số
dạng văn bản mới. Còn đối với học sinh, chỉ chú ý đọc đúng, đọc lưu lốt, ít để ý
đến ngữ điệu, tốc độ đọc, rèn kĩ năng đọc sao cho hay, đọc thế nào để hiểu được
nội dung văn bản; nhiều em chưa có phương pháp học tập đúng đắn, khả năng
cảm nhận cái hay, cái đẹp của văn bản đọc còn yếu.
Nhiều giờ dạy cịn rập khn máy móc theo các bước nên chưa phát huy
được tính tích cực, chủ động trong học tập của học sinh cũng như chưa huy động
được vốn kinh nghiệm, vốn hiểu biết của người học vào quá trình tự học, tự
chiếm lĩnh tri thức mới dưới sự điều khiển tổ chức, định hướng của giáo viên.
Vậy tổ chức dạy học Tập đọc thế nào để đạt hiệu quả, phát huy được tính
tích cực, chủ động sáng tạo trong học tập của học sinh, không gây nhàm chán

trong tiết học? Làm thế nào để học sinh say mê học tập đọc, thích đọc, thích tìm
[1] Giáo trình: “ Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học”; tác giả: Giáo sư, tiến sĩ Lê
Phương Nga, nhà xuất bản Đại học Sư phạm năm 2009.

đó phát triển năng lực cảm thụ văn học cho học sinh giỏi? Làm thế nào để rèn các
kĩ năng đọc cho học sinh một cách tốt nhất? Đó là băn khoăn, trăn trở của rất
nhiều giáo viên - những người đang trực tiếp giảng dạy.
Với mong muốn đóng góp một phần nhỏ vào việc nâng cao chất lượng dạy
học phân môn Tập đọc hiện nay, nâng cao chất lượng mũi nhọn, cách cảm thụ
2


văn học cho học sinh giỏi, tạo tiền đề cho các em học tốt môn Ngữ Văn ở bậc học
tiếp theo, tơi đã tìm tịi và áp dụng những biện pháp trong sáng kiến kinh nghiêm
“Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn Tập đọc lớp 5”
mang lại hiệu quả cao, được nhà trường đánh giá tốt và triển khai thực hiện dạy
Tập đọc cho học sinh khối lớp 5 trong trường, trong huyện. Chất lượng dạy học
phân môn Tập đọc được nâng lên rõ rệt. Không những nâng cao được chất lượng
đại trà mà một số biện pháp trong sáng kiến kinh nghiệm của bản thân cịn góp
phần nâng cao chất lượng mũi nhọn - nội dung cảm thụ văn học- cảm nhận những
cái hay, cái đẹp trong các tác phẩm cho học sinh trong Câu lạc bộ em yêu Tiếng
Việt.
II. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU

Mục đích nghiên cứu của đề tài này là đưa ra một số biện pháp rèn các kĩ
năng đọc cho học sinh lớp 5. Qua đó nâng cao năng lực đọc đúng, đọc diễn cảm,
đọc hiểu; giúp học sinh đạt kết quả học tập tốt hơn.Cụ thể:
-Tổ chức dạy học Tập đọc phát huy được tính tích cực, chủ động sáng tạo
trong học tập của học sinh, không gây nhàm chán trong tiết học
-Tạo hứng thú học tập cho học sinh: say mê học tập đọc, thích đọc, thích

tìm hiểu nội dung bài đọc để cảm nhận cái hay, cái đẹp từ tác phẩm văn chương,
từ đó bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học.
- Rèn các kĩ năng đọc cho học sinh một cách tốt nhất.Thông qua dạy học
giúp các em hiểu các văn bản, tiếp thu và chiếm lĩnh được tri thức, tự tin khi giao
tiếp, góp phần hình thành nhân cách con người Việt Nam hiện đại, phát triển tồn
diện về mọi mặt đức - trí – thể - mĩ cho học sinh.
III. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU

- Học sinh lớp 5B, năm học 2017-2018 Trường Tiểu học Hà Bình, huyện
Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa.
- Với sáng kiến kinh nghiệm này, tơi đi sâu nghiên cứu để tìm ra những
biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy - học phân môn Tập đọc lớp 5 qua việc
trú trọng rèn các kĩ năng đọc cho học sinh.
IV. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Trong q trình nghiên cứu đề tài, tơi đã sử dụng một số phương pháp sau:
- Phương pháp phân tích tài liệu, nghiên cứu, xây dựng cơ sở lý thuyết.
- Phương pháp điều tra, khảo sát thực tế, thu thập thông tin.
- Phương pháp thống kê, xử lý số liệu.
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm của bản thân.
- Phương pháp thực nghiệm, đối chứng.

PHẦN B: NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
I. CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ

1. Xuất phát từ vị trí, vai trị của phân mơn Tập đọc
Phân môn Tập đọc trong môn Tiếng Việt là một trong những phân mơn quan
trọng bởi có đọc tốt thì mới học tốt Tiếng Việt và các môn học khác. Vì vậy, việc
dạy Tập đọc ở Tiểu học là cần thiết bởi nó giúp học sinh có cơng cụ giao tiếp về
học tập.

Mỗi bài Tập đọc là một văn bản, là một bức tranh thu nhỏ về hiện thực cảnh
đẹp đất nước, con người, xã hội... Đọc giúp các em hiểu biết, tiếp thu được nền
văn minh của loài người, bồi dưỡng tâm hồn, tình cảm, nhân cách. Nó là chìa
khố đưa các em vào kho tàng văn hố, khoa học,... giúp các em nhận ra những
tinh hoa của dân tộc, của nhân loại đang được lưu trữ trong sách vở [2].
3


Tập đọc một cách có ý thức cũng sẽ tác động đến trình độ ngơn ngữ cũng như
tư duy của người đọc, việc dạy Tập đọc tốt sẽ giúp học sinh hiểu bài hơn, bồi
dưỡng các em lòng yêu cái thiện, cái đẹp, dạy cho các em biết suy nghĩ logic
cũng như biết tư duy có hình ảnh. Đặc biệt, khi các em đọc tốt sẽ giúp các em
cảm thụ được cái hay, cái đẹp trong đoạn văn, đoạn thơ; việc này hỗ trợ đắc lực
cho các em học tốt các phân môn và môn học khác như Tập làm văn, Luyện từ và
câu, Tốn,…góp phần tạo nên những con người phát triển toàn diện.
Cũng như các các lớp dưới, thông qua hệ thống bài Tâp đọc theo chủ đề và
những câu hỏi tìm hiểu bài, phân mơn Tập đọc cung cấp cho học sinh những hiểu
biết về thiên nhiên, xã hội và con người, cung cấp vốn từ, tăng cường khả năng
diễn đạt, trang bị một số hiểu biết ban đầu về tác phẩm văn học và góp phần bồi
dưỡng nhân cách cho học sinh.
2. Xuất phát từ mục tiêu, nhiệm vụ và nội dung dạy Tập đọc cho học sinh
lớp 5
Phân môn Tập đọc lớp 5 củng cố và nâng cao các kĩ năng đọc đã được hình
thành từ các lớp dưới cho học sinh.
Tập đọc là một phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là hình
thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ 4 kỹ năng cũng là
4 yêu cầu về chất lượng của phân môn Tập đọc: đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu
lốt, trơi chảy), đọc có ý thức (thơng hiểu được nội dung những điều mình đọc
hay cịn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Bốn kỹ năng này được hình thành qua
2 hình thức đọc: Đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn luyện đồng thời

và hỗ trợ lẫn nhau. Vì vậy khi dạy Tập đọc không thể xem nhẹ yếu tố nào.
Thơng qua 60 bài tập đọc thuộc các loại hình văn bản nghệ thuật, báo chí,
khoa học (Trước đây là 62 bài, theo nội dung điều chỉnh chương trình năm 2011,
không dạy bài thơ “Tiếng vọng” và bài văn xuôi “Thuần phục sư tử), trong đó có
44 bài văn xi (4 bài là trích đoạn kịch), 16 bài thơ (có 4 bài ca dao ngắn được
dạy trong cùng một tiết), phân môn Tập đọc ở lớp 5 tiếp tục củng cố, nâng cao kĩ
năng đọc trơn, đọc thầm đã được hình thành ở lớp dưới; tăng cường tốc độ đọc,
khả năng đọc lướt để chọn thông tin nhanh; tiếp tục rèn kĩ năng đọc diễn cảm là
kĩ năng được rèn luyện từ lớp 4.
Phát triển kĩ năng đọc - hiểu lên mức cao hơn: nắm và vận dụng được một số
khái niệm như nhận biết đề tài, cấu trúc của bài; hiểu nội dung, ý nghĩa của bài,
phát hiện giá trị của một số biện pháp nghệ thuật trong các bài văn, thơ.
Mở rộng vốn hiểu biết, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm, nhân cách cho học sinh.
Nội dung các bài Tập đọc trong sách giáo khoa Tiếng Việt 5 phản ánh một số vấn
đề cơ bản về đạo đức, phẩm chất, sở thích, thú vui lành mạnh...của con người
thơng qua ngơn ngữ văn học, những hình tượng giàu chất thẩm mĩ và nhân văn.
Do đó, nó có tác dụng mở rộng tầm hiểu biết, tầm nhìn về tự nhiên xã hội, đời
sống, bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm và nhân cách cho học sinh.
Ngoài ra dạy Tập đọc là giáo dục học sinh lịng ham đọc sách. Thơng qua
việc dạy Tập đọc, làm cho học sinh thích đọc và thấy được khả năng đọc tốt sẽ có
lợi ích cho các em trong cả cuộc đời. Phân môn Tập đọc giúp các em có vốn kiến
[2] Bồi dưỡng học sinh giỏi Tiếng Việt Tiểu học; tác giả là Giáo sư, tiến sĩ Lê Phương Nga; nhà xuất
bản Giáo dục năm 2012.

thức về ngôn ngữ, đời sống kiến thức văn học, phát triển ngôn ngữ, tư duy, giáo
dục tư tưởng, đạo đức, tình cảm và thị hiếu thẩm mỹ.
Mặt khác, hiện nay trong phương pháp dạy Tập đọc vẫn chưa thống nhất được
một chuẩn chính âm, ngữ điệu Tiếng Việt, làm cho khơng ít giáo viên khi dạy
4



còn lúng túng khi giải quyết vấn đề về đọc đúng, đọc diễn cảm, vấn đề phát âm
địa phương một cách có tính ngun tắc, khơng có những chỉ dẫn cụ thể cho đọc
diễn cảm mà bằng lòng với cách hướng dẫn chung chung. Ví dụ: Đọc kết thúc
câu kể phải xuống giọng; câu hỏi phải lên giọng… Những chỉ dẫn có tính định
lượng về mối quan hệ giữa cao độ, trường độ, cường độ, chỗ ngắt…của đoạn, của
bài chưa được xác định.
Vì vậy, để dạy tốt phân mơn Tập đọc cần phải có nhiều biện pháp cụ thể dựa
theo nguyên tắc và tình hình thực tế của học sinh tại địa bàn giáo viên đang công
tác, nhằm đảm bảo được mục tiêu dạy học phân môn Tập đọc lớp 5 nói riêng,
mơn Tiếng Việt nói chung.
II. THỰC TRẠNG CỦA VẤN ĐỀ TRƯỚC KHI ÁP DỤNG SÁNG KIẾN
1.Thực trạng.
1.1.Thực trạng chung
a. Về giáo viên: Thực trạng dạy học Tập đọc lớp 5 ở nhà trường một số năm gần
đây cho thấy:
- Hai nhiệm vụ dạy học Tập đọc chưa được giáo viên quan tâm đúng mức.
Nhiều giờ Tập đọc thiên về rèn đọc thành tiếng, nhiều giờ thiên về cảm thụ văn
(đọc hiểu), khơng ít giờ Tập đọc ở phần tìm hiểu bài lại được chuyển thành giờ
giảng văn (do q đi sâu vào đọc hiểu), ít thay đổi hình thức trong giờ học.
- Việc hướng dẫn đọc cho học sinh cịn mang nặng tính hình thức, chung
chung, ít chú ý đến cái chi tiết, cái cụ thể.Việc phối kết hợp rèn kĩ năng đọc thành
tiếng và đọc hiểu để chúng phát huy tác dụng hỗ trợ cho nhau còn hạn chế. Giáo
viên chưa linh hoạt trong việc sử dụng hệ thống câu hỏi, còn phụ thuộc vào sách.
b. Về học sinh: Học sinh đã quen với cách học ở lớp dưới nên chủ yếu chỉ chú ý
đến rèn đọc sao cho đúng, ít chú ý đến tốc độ, ngữ điệu, cách đọc sao cho hay.
- Một số học sinh chưa có ý thức học tập, ít có sự phấn đấu.
- Một số học sinh kĩ năng đọc yếu so với mức độ yêu cầu tối thiểu của khối
lớp 5 nên ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng giờ học.
- Kĩ năng đọc diễn cảm còn yếu. Khả năng hiểu bài của học sinh chưa sâu,

cảm nhận cái hay, cái đẹp trong tác phẩm cò hạn chế.
1.2. Một số hạn chế trong việc rèn các kĩ năng đọc.
1.2.1. Dạy đọc thành tiếng.
Đây là mục tiêu quan trọng trong giờ Tập đọc, chiếm thời gian nhiều. Dạy
đọc thành tiếng là dạy cho học sinh cách đọc đúng, đọc lưu loát, rành mạch, đọc
diễn cảm và đọc thuộc lịng (nếu có u cầu học thuộc lòng).
a. Về giáo viên:
- Khi dạy học phần này giáo viên chưa thực sự chú ý đến 3 mức độ của
luyện đọc thành tiếng, chỉ chủ yếu rèn cho học sinh kĩ năng đọc đúng, chưa chú ý
nhiều đến luyện đọc hay (luyện đọc diễn cảm). Nhiều tiết Tập đọc, thời gian dành
cho luyện đọc diễn cảm quá ít (chỉ khoảng 5 - 6 phút). Trong phần luyện đọc diễn
cảm, thường chỉ chú ý đến các đối tượng học sinh đọc tốt, chưa chú ý đến tất cả
các đối tượng học sinh.
- Việc thay đổi hình thức và phương pháp trong rèn kĩ năng đọc thành
tiếng đang cịn mang tính chung chung, chưa thay đổi cho phù hợp với từng bài,
nhiều khi cịn áp dụng máy móc cho tất cả các văn bản đọc (thơ, kịch, văn xuôi)
b. Về học sinh:
- Các em chỉ chú ý đến việc đọc sao cho đúng, cho rõ ràng.
- Việc luyện đọc diễn cảm mới chỉ chú ý đến ngắt hơi, nghỉ hơi theo dấu
câu, chưa chú ý nhiều đến cách ngắt giọng biểu cảm, ngắt giọng lôgic (học sinh
5


thường gặp khó khăn phân cách điểm cần ngắt giọng khi gặp các câu dài, thậm
chí trong những câu văn, câu thơ ngắn mà tác giả có dụng ý đề cập đến).
- Việc xác định các ngữ điệu đọc đúng trong các văn bản nghệ thuật và văn
bản khác còn thiên về hình thức hoặc cảm nhận “tùy tiện” của học sinh.
- Nhiều học sinh chưa chú ý đến tốc độ đọc (nhanh, chậm, dãn nhịp) và
cường độ giọng đọc nên có thói quen đọc nhanh, đọc liến thoắng, đọc vẹt.
- Kĩ năng đọc diễn cảm của học sinh còn yếu so với mục tiêu ở lớp 5.

- Đối với học thuộc lòng, học sinh chỉ thiên về ghi nhớ máy móc, ít chú ý
đến ghi nhớ lơgic (ghi nhớ có ý nghĩa), ghi nhớ các từ "chìa khóa" thể hiện nội
dung bài để rèn ghi nhớ sâu nên các em nhanh quên.
c. Nguyên nhân của thực trạng trên: Giáo viên chưa quan tâm đúng mức tới
việc rèn kĩ năng đọc thành tiếng cho học sinh ở các mức độ (đọc đúng; đọc trơi
chảy, lưu lốt; đọc diễn cảm).
- Giáo viên hướng dẫn nhưng chưa cụ thể và rõ ràng từng mức độ của kĩ
năng đọc thành tiếng (Ví dụ: Cách ngắt giọng biểu cảm, ngắt giọng lôgic phải căn
cứ vào đâu? Ngắt như thế nào là hợp lý? Những từ cần nhấn giọng là những từ
như thế nào?) dẫn đến học sinh khó xác định điểm ngắt giọng, nhất là đối tượng
học sinh yếu và trung bình.
- Cách hướng dẫn luyện đọc còn chung chung, chưa linh hoạt cho từng
dạng bài, từng đoạn cụ thể. Yêu cầu đọc diễn cảm thường áp dụng chung cho mọi
đối tượng nên nhiều khi chưa khuyến khích được các đối tượng học sinh tham gia
tích cực vào đọc diễn cảm, nhất là học sinh có kĩ năng đọc cịn yếu.
- Một số học sinh do khơng hiểu nội dung nên giọng đọc ít thay đổi linh
hoạt cho phù hợp với nội dung từng đoạn dẫn đến đọc không hay, không thể hiện
được ý nghĩa nội dung văn bản, dụng ý mà tác giả muốn gửi gắm đến người đọc.
- Kĩ năng học thuộc lòng chậm, nhanh quên do các em thường đọc vẹt.
1.2.2. Dạy đọc - hiểu: Một trong những kĩ năng đọc giúp học sinh hiểu văn bản
là đọc thầm. Dạy đọc thầm chính là dạy đọc có ý thức, dạy đọc - hiểu. Qua thực
trạng dạy đọc - hiểu hiện nay tôi thấy:
a. Về giáo viên:
- Giáo viên chưa chú trọng nhiều đến rèn kĩ năng đọc thầm cho học sinh,
nhiều khi u cầu học sinh đọc thầm nhưng khơng có mục đích, khơng kiểm tra
tốc độ đọc của học sinh nên đã khơng phát huy được ưu thế của nó trong việc tìm
hiểu và nắm nội dung bài.
- Giáo viên tổ chức cho học sinh tìm hiểu bài qua hệ thống câu hỏi cuối
bài với cách dạy đồng loạt và chủ yếu sử dụng phương pháp hỏi đáp, dễ gây
nhàm chán. Có những câu hỏi dài với nhiều yêu cầu nhưng giáo viên không tách

ra thành nhiều ý, dẫn đến học sinh trả lời không đầy đủ, dẫn đến thiếu tự tin khi
tham gia trả lời câu hỏi tiếp theo, vì vậy giờ học thiếu đi sự sơi nổi.
b. Về học sinh
- Các em chưa có kĩ năng đọc thầm để hiểu bài theo đúng nghĩa của nó.
- Nhiều em, tốc độ đọc thầm còn chậm. Nhiều khi đọc thầm cho có đọc chứ
khơng phải đọc thầm có ý thức. Khi tổ chức học nhóm, một số em khơng tự giác
tham gia vào việc học, câu trả lời của học sinh không phong phú do không huy
động được vốn kiến thức tổng hợp từ nhiều học sinh.
- Khi trả lời câu hỏi, nhiều em khơng có khả năng tổng hợp và diễn đạt nên
thường trả lời câu hỏi theo cách nêu lại nguyên văn ý trong đọan văn hay đoạn thơ,
khơng tóm gọn lại theo ý hiểu của bản thân (phụ thuộc vào văn bản)
- Khả năng cảm nhận cái hay, cái đẹp, giá trị nghệ thuật còn yếu.
- Ghi nhớ bài học khơng sâu, học thuộc lịng cịn chậm, nhanh quên.
6


c. Nguyên nhân:
- Giáo viên chưa thật sự thấy được ưu điểm của hình thức đọc thầm trong
việc dạy tìm hiểu bài (đọc được do bằng khả năng thông hiểu văn bản) nên chưa
thực sự quan tâm đến việc rèn kĩ năng đọc thầm cho học sinh theo đứng mức.
Giáo viên chưa có biện pháp kiểm sốt tốc độ đọc thầm của học sinh đúng cách.
- Học sinh ít có ý thức rèn kĩ năng đọc thầm; chưa tích cực và chủ động trong
học tập; khả năng phân tích, tổng hợp và diễn đạt còn hạn chế.
- Việc thay đổi hình thức khi tìm hiểu bài cịn nặng tính hình thức, ít hiệu quả.
1.2.3.Việc xây dựng kế hoạch dạy học.
Nội dung kế hoạch dạy học gần giống như sách giáo viên và thiết kế bài
dạy chỉ thêm sự gia công chút ít của giáo viên, có định hướng nhưng cịn chung
chung cho nhiều bài, ít có định hướng rõ ràng cho từng đối tượng.
Việc lập kế hoạch dạy học còn mang nặng hình thức, chưa lột tả được thực
chất của kế hoạch day học là “bản thiết kế tổ chức giờ dạy”.

Hình thức tổ chức và phương pháp dạy học được thể hiện qua kế hoạch
dạy học hầu như giống nhau, khơng có mấy thay đổi cho phù hợp với từng bài.
* Nguyên nhân: Nhiều khi, việc xây dựng kế hoạch dạy học chỉ để đối phó với
các đợt kiểm tra nên ít có giá trị thực tế; chưa có sự đầu tư hợp lý cho cho việc
nghiên cứu bài, xây dựng kế hoạch dạy học.
2. Hiệu quả của thực trạng
Năm học 2017-2018, tôi được phân công giảng dạy lớp 5B. Tôi đã khảo
sát chất lượng lần 1.
- Thời điểm kiểm tra: Tuần 6, tháng 10 năm học 2017-2018
- Đối tượng: Học sinh lớp 5B, năm học 2017-2018
- Số lượng học sinh được kiểm tra: 31 em
2.1. Phiếu kiểm tra và hướng dẫn chấm khảo sát chất lượng lần 1: Phụ lục 1
2.2. Tổng hợp kết quả:
* Tổng hợp số học sinh đạt yêu cầu về kiến thức, kĩ năng: 31 em.
Kiến thức, kĩ năng cần đạt
Số học sinh đạt u cầu
Đọc đúng
23
Đọc lưu lốt, trơi chảy
15
Đọc diễn cảm
13
Học thuộc lòng
20
Đọc - hiểu (hiểu ND bài)
21
* Tổng hợp kết quả kiểm tra chất lượng: 31 em

Tỉ lệ
74,2%

48,4%
41,9%
64,5%
67,7%

Điểm 9-10
Điểm 7-8
Điểm 5-6
Điểm dưới 5
Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ
7
22,6%
9
29,0%
11
35,5%
4
12,9%
2.3.Nhận xét chung: Qua bài kiểm tra, khảo sát chất lượng lần 1, tôi nhận thấy:
* Về đọc thành tiếng: Học sinh được luyện đọc thành tiếng tương đối nhiều,
giáo viên sửa lỗi phát âm để học sinh đọc đúng nhưng một số em vẫn bỏ sót từ
hoặc thêm từ khi đọc; nhiều tiếng có âm đầu là r, tr, s học sinh đọc vẫn sai.
Nhiều em chưa làm chủ được tốc độ đọc nên đọc liến thoắng, đọc nhanh.
7


Học sinh đọc diễn cảm còn yếu: Nhiều em ngắt nghỉ không hợp lý, nhấn
giọng tùy tiện, giọng đọc không thay đổi cho phù hợp nội dung từng đoạn.
Học thuộc lịng theo sự ghi nhớ máy móc nên cịn nhầm lẫn giữa các đoạn.
* Về đọc - hiểu: -Phần trắc nghiệm có một số em làm sai, do hiểu bài không sâu.

- Phần tự luận: Đa số học sinh diễn đạt dài dịng, chủ yếu là nêu ngun
văn câu có trong bài, khơng tóm được ý và diễn đạt theo cách hiểu của mình.
* Nguyên nhân: Giáo viên chưa chú ý rèn cho học sinh làm chủ tốc độ đọc, cách
nhấn giọng và cách ngắt giọng hợp lý theo lôgic và theo giá trị biểu cảm.
- Giáo viên chưa linh hoạt trong việc đổi mới phương pháp và hình thức tổ
chức dạy học.
Thời gian dành cho luyện đọc diễn cảm ít (6 phút) nên phần đọc diễn cảm
có ít em được thể hiện đọc trước lớp, chỉ chủ yếu là học sinh khá, giỏi.
Phần tìm hiểu bài, giáo viên nói và giảng hơi nhiều, chưa phát huy được
tính tích cực trong học tập, chưa huy động vốn kiến thức tổng hợp của học sinh.
III. CÁC GIẢI PHÁP ĐÃ SỬ DỤNG ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Trong năm học 2017-2018, tôi áp dụng “Một số biện pháp nâng cao chất
lượng dạy học phân môn Tập đọc lớp 5” ở lớp 5B với các giải pháp cụ thể:
1. Giải pháp 1. Làm tốt công tác chuẩn bị cho giờ dạy
Trước hết giáo viên phải nghiên cứu kĩ nội dung bài đọc trong sách giáo
khoa, hiểu ý đồ của tác giả để nắm bản chất của mỗi dạng kiến thức học sinh cần
đạt được, từ đó xây dựng kế hoạch dạy học mang tính thiết thực. Dự đốn các
tình huống sư phạm có thể xảy ra và dự đoán những lỗi học sinh thường mắc phải
- cách xử lí các tình huống đó. Điều giáo viên cần ghi nhớ " Muốn học sinh đọc
tốt, hiểu bài tốt, vận dụng tốt thì trước tiên giáo viên phải đọc tốt, thấu hiểu văn
bản theo cách hiểu của học sinh lớp 5 và biết tìm cách dạy hợp lý để học sinh đạt
được điều đó. Cụ thể:
- Cần rèn cho học sinh thói quen đọc và chuẩn bị bài ở nhà đầy đủ.
- Giáo viên phải nghiên cứu sách tỉ mỉ, chu đáo, phải đọc bài nhiều lần, để
đọc mẫu tốt và hiểu thấu đáo nội dung bài đọc. Giáo viên cần trả lời các câu hỏi
sau để xác định mục tiêu yêu cầu nội dung và lựa chọn phương pháp cũng như
hình thức dạy một cách hợp lý:
+ Trong bài vừa đọc học sinh dễ mắc những lỗi nào về phát âm? (Đó thường
là những tiếng khó, những chỗ ngắt nghỉ khó, đặc biệt là câu dài).
+ Giọng đọc, ngữ điệu chung của cả bài, từng đoạn như thế nào? đoạn nào

cần nhấn mạnh? Khi đọc diễn cảm, cần bộc lộ cảm xúc gì?
+ Bài cần đọc trong thời gian bao lâu? (xác định tốc độ đọc thành tiếng cũng
như đọc thầm)
+ Những từ ngữ nào cần giải nghĩa, những nội dung nào cần hướng dẫn tìm
hiểu? (hướng dẫn đọc - hiểu)
Những nội dung vừa xác định cần được kí hiệu lại trên bài đọc (dấu "/"
dùng khi ngắt hơi, tạo tiết tấu, dấu "// " để chỉ nghỉ hơi dài, "": lên giọng; "":
xuống giọng; "---": đọc chậm, kéo dài giọng; dấu gạch dưới: nhấn giọng. Những
nội dung cần tìm hiểu của bài như: từ, cụm từ, câu cần khai thác; những ý cần
nhấn mạnh, cần tìm hiểu;... nên đánh dấu lại, tránh tình trạng bỏ sót khi lên lớp.
Cần xem xét hệ thống câu hỏi của sách giáo khoa để có sự điều chỉnh phù
hợp với cách hiểu của mình về bài đọc cũng như phù hợp với đối tựợng học sinh
của mình. Bám sát mục tiêu, lựa chọn bổ sung lại hệ thống câu hỏi để làm rõ cách
đọc, nội dung và nghệ thuật của bài. Dự kiến trước các câu hỏi phụ, câu trả lời
và tình huống có thể xảy ra, cách giải quyết.
8


- Chuẩn bị đồ dùng dạy học phục vụ cho giờ dạy thành cơng (tranh, hình
ảnh, bảng phụ ghi câu, đoạn văn cần luyện đọc...)
- Giáo viên cần vận dụng linh hoạt các nguyên tắc dạy học Tập đọc đặc
biệt là tính vừa sức và phát huy tính tích cực của học sinh, ln tạo ra sự hứng
thú, kích thích sự tìm tịi và địi hỏi sự cố gắng phấn đấu cao của mỗi học sinh.
- Luôn chú ý rèn các kĩ năng đọc cho học sinh một cách hài hịa, tìm biện
pháp cụ thể và thích hợp cho việc rèn từng kĩ năng đọc đó.
- Chuẩn bị chu đáo cho tiết dạy, từ bước chuẩn bị cho đến bước thực hiện
trên lớp. Thường xuyên tự đánh giá hiệu quả của giờ dạy của bản thân qua
chính kết quả, chất lượng học tập của học sinh trong mỗi tiết để phát huy
điểm mạnh, khắc phục những hạn chế từ đó mà điều chỉnh phương pháp cũng
như hình thức dạy học cho hợp lý.

2. Giải pháp 2: Chú trọng rèn kĩ năng dạy đọc thành tiếng cho học sinh
theo các mức độ đọc đúng, đọc nhanh, đọc diễn cảm.
Rèn kĩ năng đọc thành tiếng để củng cố kĩ năng đọc đúng và luyện đọc
hay. Cần quan tâm từ việc chuẩn bị đọc (một khâu mà lâu nay giáo viên thường ít
để ý đến) cho đến việc hướng dẫn luyện đọc đúng, luyện đọc nhanh và luyện đọc
diễn cảm.
2.1. Chuẩn bị tốt cho việc đọc
Giáo viên cần giúp học sinh hiểu rằng: Trong hoạt động giao tiếp, khi đọc
thành tiếng, người đọc một lúc đóng hai vai: một vai là người tiếp nhận thông tin
bằng chữ viết, vai thứ hai là người trung gian để truyền thông tin, đưa văn bản
viết đến người nghe. Khi giữ vai thứ hai này, người đọc đã thực hiện việc tái sản
sinh văn bản. Vì vậy, khi đọc thành tiếng, người đọc có thể đọc to cho mình hoặc
cho người khác. Đọc bài và phát biểu ý kiến xây dựng bài là hai hình thức giao
tiếp trước đám đông của học sinh nên giáo viên phải coi trọng khâu chuẩn bị để
đảm bảo thành công, tạo cho các em sự tự tin cần thiết. Khi đọc thành tiếng, các
em phải tính đến người nghe.
Giáo viên cần rèn cho học sinh hiểu rằng: các em đọc không phải chỉ cho
mình cơ giáo mà để cho tất cả các bạn cùng nghe nên cần đọc đủ lớn cho tất cả
các bạn được nghe rõ. Nhưng như thế hoàn tồn khơng có nghĩa là các em phải
đọc q to hoặc gào lên.
Để luyện cho học sinh đọc quá nhỏ (lí nhí), giáo viên cần tập cho các em
đọc to chừng nào bạn ở xa nhất trong lớp nghe được mới thôi. Nhiều khi nên cho
học sinh này đứng trên bục giảng, đối diện với lớp để đọc bài; tạo sự tự tin.Tư thế
đứng đọc vừa đàng hoàng vừa thoải mái, sách phải mở rộng và cầm bằng hai tay.
2.2. Rèn kĩ năng luyện đọc đúng
Luyện cho học sinh cách đọc đúng: nghĩa là các em cần tái hiện âm thanh
của văn bản đọc một cách chính xác, khơng có lỗi, khơng đọc thừa, khơng sót
tiếng. Đọc đúng phải thể hiện đúng ngữ âm chuẩn, tức là đọc đúng chính âm. Đọc
đúng bao gồm việc đọc đúng các âm, thanh, nghỉ ngắt hơi đúng chỗ (đọc đúng
bao gồm một phần của đọc diễn cảm).

2.2.1. Rèn cho học sinh thể hiện chính xác các âm vị Tiếng Việt.
*Rèn đọc đúng các âm đầu, chính âm, dấu thanh.
- Đọc đúng các phụ âm đầu: Ví dụ có ý thức phân biệt để đọc đúng các
tiếng có âm tr/ch, r/d/gi, s/x; ..
- Đọc đúng các chính âm, nhất là các tiếng có âm chính là ngun âm đơi
hay phần vần có âm đệm: Chẳng hạn các em cần có ý thức phân biệt âm chính, để
khơng đọc "Kì dịu rừng xanh" mà đọc " Kì diệu rừng xanh ", khơng đọc "con
9


hưu" hay "con hiu" mà đọc "con hươu", không đọc "con thiền" mà đọc "con
thuyền",...
Ví dụ: Khi học bài “Người công dân số một”, (TV5 - tập II, trang 4) cần
hướng dẫn học sinh đọc đúng đủ các tiếng, từ như: phắc-tuya (không đọc “phắc
tia”), toạ đăng (không đọc “tạ đăng”),...
- Đọc đúng các dấu thanh, nhất là thanh hỏi, thanh ngã.
* Rèn đọc đúng bao gồm việc rèn đọc đúng tiết tấu, ngắt hơi, nghỉ hơi. Hướng
dẫn học sinh: cần phải dựa vào nghĩa, vào quan hệ ngữ pháp giữa các tiếng, từ để
ngắt hơi cho đúng, không được ngắt tuỳ tiện theo cảm hứng của cá nhân:
- Khi đọc, không được tách một từ ra làm hai: chẳng hạn khơng được tách
từ: bệnh viện, ngây thơ, trun thuyết.Ví dụ: Không ngắt hơi "Nằm trong bệnh /
viện nhẩm đếm từng ngày cịn lại của đời mình, cơ bé ngây / thơ tin vào một
truyền/ thuyết nói rằng...." (Những con sếu bằng giấy, TV5, tập 1, trang36).
- Không tách từ chỉ loại với danh từ mà nó đi kèm. Ví dụ, khơng tách “mái
tóc”, “sợi dây đồng”. Khơng đọc:
Một cơ gái Nga mái / tóc màu hạt giẻ
Ngón tay đan trên những sợi / dây đồng
(Tiếng đàn ba-la-lai-ca trên sông Đà - TV5, tập 1, trang 69)
- Không tách từ "là" với danh từ, từ chỉ quan hệ đi liền sau nó. Ví dụ,
khơng đọc: Trái đất này là / của chúng ta.

Ta là / nụ là / hoa của đất. (Bài ca trái đất - TV5, tập 1, trang 41)
- Hướng dẫn học sinh cần dựa vào nghĩa và quan hệ cú pháp để ngắt nhịp
cho đúng (Cần phân tích cả cách ngắt đúng và cách ngắt sai để học sinh hiểu, ghi
nhớ, lần sau khơng ngắt sai).
Ví dụ: Ngắt đúng: Chắt trong vị ngọt / mùi hương
Lặng thầm thay / những con đường ong bay.
(Không ngắt: Chắt trong / vị ngọt mùi hương
Lặng thầm / thay những con đường ong bay.)
Ngắt đúng: Trái đất trẻ / của bạn trẻ năm châu.
(Không ngắt: Trái đất trẻ của bạn trẻ / năm châu).
- Hướng dẫn học sinh nắm vững: Việc ngắt hơi phải phù hợp với các dấu
câu như: nghỉ ít ở dấu phẩy, nghỉ lâu hơn ở dấu chấm. Đọc đúng ngữ điệu câu là
cần đọc lên giọng ở cuối câu hỏi, hạ giọng ở cuối câu kể, thay đổi giọng cho phù
hợp với tình cảm diễn đạt trong câu cảm. Với câu khiến, cần nhấn giọng phù hợp
để thấy rõ các nội dung khiến.... Như vậy luyện đọc đúng đã bao gồm một số
tiêu chuẩn của đọc diễn cảm nhưng chưa sâu như đọc diễn cảm.
2.2.2. Trình tự luyện đọc đúng: Rèn kĩ năng đọc đúng tiếng, từ, câu, đoạn cho
đến cả bài.
Trước khi lên lớp, giáo viên phải dự tính để ngăn ngừa các lỗi khi rèn kỹ
năng đọc đúng. Tuỳ đối tượng học sinh, tuỳ vào từng bài, tuỳ vào phương ngữ
từng địa phương, giáo viên xác định các lỗi phát âm mà học sinh lớp mình dễ
mắc phải để chọn ra các tiếng, từ, cụm từ, câu khó cho học sinh luyện đọc.
Khi học sinh đọc, giáo viên và học sinh khác phát hiện lỗi sai. Giáo viên
tổng hợp, lựa chọn ghi ra một số lỗi sai phổ biến mà học sinh mắc phải để học
sinh luyện đọc các tiếng, từ khó này.Với những câu mà giáo viên dự tính sẽ có
nhiều em đọc sai, ngắt nghỉ khơng đúng chỗ thì cần được ghi ra bảng phụ, hướng
dẫn cho học sinh chỗ ngắt nghỉ, nhấn giọng, sau đó cho các em luyện đọc câu rồi
mới tếp tục tiến hành đọc theo đoạn, bài.

10



Điều quan trọng là giáo viên biết nghe học sinh đọc để nắm được trình
độ, kĩ năng đọc của từng em, từ đó có định hướng, hướng dẫn cách phát âm, ngắt
nghỉ sao cho thích hợp.
2.3. Rèn kĩ năng luyện đọc nhanh
2.3.1. Khái niêm: Đọc nhanh (còn gọi là đọc lưu lốt, trơi chảy) khơng phải là
đọc liến thoắng. Đọc nhanh là nói đến chất lượng đọc về tốc độ, là việc đọc
không ê a, ngắc ngứ. “Vấn đề tốc độ nên đặt ra ngay từ khi các em luyện đọc
đúng, căn cứ vào văn bản hướng dẫn chuyên môn của Bộ Giáo dục và Đào tạo,
linh hoạt theo từng giai đoạn: đến giữa học kì 1 là khoảng 100 tiếng/ phút; đến
cuối kì 1 là khoảng 110 tiếng/ phút; đến giữa học kì 2 là khoảng 115 tiếng/ phút;
đến cuối kì 2 là khoảng 120 tiếng/ phút"[3]. Tuy nhiên, cần áp dùng linh hoạt với
từng đối tượng học sinh, chẳng hạn đối tượng học sinh khá, giỏi thường yêu cầu
tốc độ 120 tiếng/ phút ngay từ thời gian đầu của lớp 5.
2.3.2. Biện pháp luyện đọc nhanh
+ Giáo viên giúp học sinh hiểu rõ:
- Tốc độ đọc phải đi song song với việc tiếp nhận có ý thức bài đọc
- Đọc nhanh chỉ thực sự có ích khi nó không tách rời việc đọc với việc hiểu
rõ điều được đọc.
- Cần rèn cho học sinh: khi đọc cho người khác nghe thì người đọc cần xác
định được tốc độ đọc nhanh nhưng phải để cho người nghe kịp hiểu. Vì vậy, đọc
nhanh khơng phải là đọc liến thoắng. Tốc độ của đọc nhanh khi đọc thành tiếng
trùng với tốc độ của lời nói. Khi đọc thầm thì tốc độ sẽ nhanh hơn nhiều.
+ Giáo viên hướng dẫn học sinh làm chủ tốc độ bằng cách:
- Nghe bạn đọc, nhận xét và rút kinh nghiệm.
- Giáo viên đọc mẫu để học sinh đọc theo tốc độ đã định. Đơn vị để đọc
nhanh là cụm từ, câu, đoạn, bài.
+ Giáo viên hướng dẫn học sinh điều chỉnh tốc độ đọc bằng cách giữ nhịp
đọc. Khi đọc tiếp nối trên lớp, đọc thầm ln cần có sự kiểm tra của giáo viên,

của bạn để điều chỉnh tốc độ đọc cho phù hợp.
+ Giáo viên hướng dẫn đo tốc độ đọc bằng cách đếm số tiếng trong bài và
dự tính sẽ đọc trong bao nhiêu phút (Tuy nhiên, tốc độ như thế nào cịn phụ
thuộc vào độ khó của bài đọc), từ đó điều chỉnh tốc độ đọc một cách hợp lý.
2.4 Rèn kĩ năng luyện đọc diễn cảm
2.4.1.Yêu cầu của đọc diễn cảm
Đọc diễn cảm là dùng ngữ điệu tái hiện cảm xúc của tác giả. Đó là việc đọc
thể hiện kĩ năng làm chủ ngữ điệu, chỗ ngừng giọng, cường độ, cao độ giọng...
để biểu đạt đúng ý nghĩ và tình cảm mà tác giả đã gửi gắm trong bài đọc, đồng
thời biểu hiện sự thông hiểu, cảm thụ của người đọc đối với tác phẩm. Như vậy
đọc đúng có yếu tố của đọc diễn cảm. Đọc diễn cảm không thể luyện tập tách rời
với đọc hiểu. Đọc diễn cảm thể hiện năng lực đọc ở trình độ cao và chỉ thực hiện
được trên cơ sở đọc đúng và đọc lưu loát. Đọc diễn cảm tốt trên cơ sở hiểu nội
dung bài đọc.
Đọc diễn cảm không phải là đọc thiếu tự nhiên, đọc có tính chất “kịch” và
tuỳ theo ý thích chủ quan của người đọc. Cần cho học sinh hiểu rõ: Tác phẩm quy
[3] Hướng dẫn thực hiện Chuẩn kiến thức kĩ năng các môn học ở Tiểu học, nhà xuất bản Giáo dục năm
2009

định ngữ điệu cho người đọc chứ không phải người đọc tự đặt ra ngữ điệu cho tác
phẩm. Vì vậy muốn dạy học sinh đọc diễn cảm tốt, trước hết phải làm cho các
11


em hiểu bài văn, bài thơ, cảm nhận được cảm xúc và điều tác giả muốn gửi gắm
đến người đọc. Có cảm xúc thì sẽ bật ra được ngữ diệu thích hợp.
2.4.2. Các biện pháp luyện đọc diễn cảm
Để luyện đọc diễn cảm, trước hết cần hướng dẫn học sinh đọc đúng trọng
âm và ngữ điệu. Giáo viên không được định ra ngữ điệu đọc của bài, ngược lại
xác định giọng đọc của bài là kết luận tự nhiên do học sinh đưa ra sau khi hiểu

sâu sắc về bài đọc và biết cách diễn đạt thích hợp dưới sự hướng dẫn của thầy.
Hiểu và có những ấn tượng đúng với bài học chưa đủ, học sinh cần chia sẻ với
mọi người những ấn tượng của mình mới đọc diễn cảm được. Để luyện đọc diễn
cảm, cần làm tốt các công việc sau:
Khi rèn đọc diễn cảm cho học sinh, giáo viên cần hướng dẫn để các em đọc
đúng giọng vui, buồn, giận dữ, trang nghiêm...phù hợp từng ý cơ bản của bài đọc,
phù hợp kiểu câu, thể loại; đọc có cảm xúc cao, biết nhấn giọng ở từ ngữ biểu
cảm, gợi tả, phân biệt lời nhân vật, lời tác giả...
Cho học sinh làm việc với toàn tác phẩm, xác định giọng đọc chung cho cả
bài và riêng cho mỗi đoạn: Tổ chức cho các em đàm thoại, nhận ra thể loại văn
bản, hiểu ý đồ của tác giả rồi cùng thảo luận với học sinh để xác định giọng đọc
chung của cả bài, xác định giọng đọc của từng đoạn.
Học sinh luyện tập để thực hiện giọng đọc của từng câu, đoạn, bài. Khi đó,
giáo viên cần chỉ ra những chỗ khó đọc, những " điểm nút" trong bài địi hỏi học
sinh phải hiểu được mới tìm cách thể hiện điều đó trong giọng đọc. Trong bước
luyện đọc diễn cảm học sinh phải thảo luận, nhận xét về giọng đọc, giải thích vì
sao đọc như thế là hay, đọc như thế là chưa hay, chỗ nào trong cách đọc của thầy,
trong cách đọc của bạn mà mình thích... Trong trường hợp này tơi thường trình
bày những cách đọc khác nhau trong thế đối lập để học sinh phát hiện ra được có
cách đọc hay, có cách đọc khơng hay. Trong văn bản kịch, văn xi có các nhân
vật, thường cho học sinh phân vai để làm sống lại các nhân vật của tác phẩm, để
đọc phân biệt lời của tác giả và lời của nhân vật, phân biệt lời của các nhân vật
khác nhau.
Để rèn kĩ năng đọc diễn cảm, cần phải rèn cho học sinh biết xác định được
chỗ ngắt giọng (ở đây muốn nói đến kỹ thuật ngắt giọng biểu cảm), làm chủ được
tốc độ đọc (đọc nhanh, chậm, chỗ ngân, chỗ giãn nhịp đọc), làm chủ được cường
độ giọng đọc (đọc to hay nhỏ, nhấn giọng hay không) và làm chủ ngữ điệu (độ
cao của giọng đọc, lên giọng hay hạ giọng).
* Giúp giúp học sinh hiểu cách ngắt giọng biểu cảm và ngắt giọng lơgíc
Hướng dẫn học sinh phân biệt rõ 2 cách ngắt giọng này theo cách hiểu

chung và theo từng bài cụ thể:
- Ngắt giọng lơgíc là chỗ dừng để tách các nhóm từ trong câu. Ngắt giọng
lơgíc phụ thuộc vào ý nghĩa và quan hệ giữa các từ. Các dấu câu cũng biểu hiện
của ngắt giọng lơgíc.
- Ngắt giọng biểu cảm là phương tiện tác động đến người nghe. Ngắt giọng
logíc thiên về trí tuệ, ngắt giọng biểu cảm thiên về cảm xúc. Ngắt giọng biểu cảm
là những chỗ lắng, sự im lặng có tác dụng truyền cảm, góp phần tạo nên hiệu quả
nghệ thuật cao, đó cũng chính là ngắt giọng có ý đồ nghệ thuật.
* Rèn cho học sinh kĩ năng làm chủ tốc độ đọc:
Biết làm chủ tốc độ đọc vì tốc độ đọc ảnh hưởng đến quá trình đọc diễn
cảm, đặc biệt là chỗ có thay đổi tốc đọc gây sự chú ý, có giá trị biểu cảm tốt.
Ví dụ 1: Khi đọc bài thơ "Ê- mi- li, con" có câu "Cha khơng bế con về được
nữa" đọc chậm lại, nhịp giãn ra thì câu thơ có nhiều âm lượng sẽ đọng lại trong
lòng người đọc hơn là đọc với tốc độ bình thường như những câu khác.
12


Ví dụ 2: Khi đọc bài “Hạt gạo làng ta”, TV5, tập 1, trang 139”, tốc độ đọc
cần linh hoạt giữa các dòng thơ, phù hợp từng ý thơ. Từ dịng 1 (Hạt gạo làng ta)
chuyển sang dịng 2 (Có vị phù sa) cần ngắt tương đương một dấu phẩy. Từ dịng
2 sang dịng 3 (Của sơng kinh thầy) đọc gần như liền mạch (vắt dòng).
Cần rèn cho học sinh cần thay đổi tốc độ đọc cho hợp lý dựa vào nội dung
bài. Ví dụ : Khi học bài " Một vụ đắm tàu”, TV5, Tập 2, trang 108”, học sinh
cần đọc đoạn 1 với giọng thong thả, tâm tình; đoạn 2 giọng đọc nhanh hơn để thể
hiện rõ một tai nạn đắm tàu bất ngờ ập đến.
* Rèn cho học sinh xác định ngữ điệu đọc:
Học sinh phải xác định được khi nào cần cao gọng, khi nào cần hạ giọng,
vì mỗi văn bản có ngữ điệu riêng.
- Giáo viên cần căn cứ vào nội dung phong cách văn bản để dẫn dắt, gợi
mở học sinh tìm ra ngữ điệu đọc và tập thể hiện giọng đọc, từ đó bước đầu ý thức

về cách đọc nhằm diễn tả nội dung văn bản đọc một cách tốt nhất.
Ví dụ: khi đọc đoạn thơ: "Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về.
( Đất nước - Nguyễn Đình Thi, TV5, tập 2, trang 94)
học sinh phải bắt được mạch cảm xúc của bài thơ đó là lịng tự hào về đất nước
để đọc hai câu đầu vút lên cho hết chiều cao (giọng vang cao); đọc câu thứ ba
chậm, giãn nhịp để trải cho hết chiều rộng và đọc hạ giọng, giảm cường độ để
lắng cho hết chiều sâu của đất nước khi đọc câu thơ cuối.
Ví dụ: Khi đọc bài "Một vụ đắm tàu”, TV5, Tập 2, trang 158): Những câu miêu
tả nỗi sợ hãi của hai bạn nhỏ ở đoạn 4 cần đọc giọng hồi hộp, lo sợ; đọc cao
giọng ở những tiếng kêu "Còn chỗ cho một đứa nhỏ. Đứa nhỏ thôi! nặng lắm
rôi". Ở đoạn 5, lời của Ma-ri-ô hét to "Giu-li-ét-ta xuống đi! Bạn còn bố mẹ." và
hai câu kết đọc với giọng trầm lắng, bi tráng; lời của Giu-li-ét-ta vĩnh biệt bạn
đọc với giọng nức nở, nghẹn ngào [4].
- Cần rèn cho học sinh nhấn giọng hợp lí theo các cách khác nhau (Những
từ nhấn giọng thường là những từ gợi tả gợi cảm, thể hiện nội dung tác phẩm).
Muốn vậy học sinh phải hiểu nội dung đoạn, tìm được các từ cần nhấn giọng.
* Cần hướng dẫn để học sinh xác định giọng đọc của mỗi thể loại văn bản.
Khi đã nắm được cách đọc chung cho từng thể loại thì học sinh sẽ biết vận dụng
để tìm ra cách đọc, giọng đọc phù hợp cho từng bài và đọc đúng hơn, hay hơn.
+ Với văn bản thơ: Tôi hướng dẫn học sinh khi đọc cần chú ý đến nhịp
thơ, vần thơ, thể thơ. Cần phân biệt sự khác nhau giữa thơ lục bát với song thất
lục bát, thơ 4 chữ, thơ 5 chữ, thơ 7 chữ và thơ tự do để đọc cho đúng tính chất kì
diệu của âm nhạc, cái tinh hoa của tiếng mẹ đẻ.
+ Đối với văn bản nghệ thuật: Khi luyện đọc hay, cần căn cứ vào nội dung
phong cách văn bản để dẫn dắt, gợi mở học sinh tìm ra cách đọc, tập thể hiện
giọng đọc. Từ đó bước đầu ý thức được cách đọc để nhằm diễn tả nội dung văn
bản một cách tốt nhất. Cần phân biệt dạng văn bản miêu tả với tường thuật, kể

chuyện, viết thư,... Đọc diễn cảm còn phụ thuộc vào cảm nhận riêng của các em,
vì vậy tơi khơng nên áp đặt một cách đọc khuôn mẫu cho tất cả học sinh mà cần
khuyến khích cách đọc sáng tạo của mỗi học sinh.
[4] Sách giáo giáo viên Tiếng Việt lớp 5, tập 2; nhóm tác giả: Nguyễn Minh Thuyết (Chủ biên), Nguyễn
Thị Hạnh, Nguyễn Thị Ly Kha, Lê Phương Nga, Lê Hữu Tỉnh; nhà xuất bản Giáo dục năm 2006.

13


+ Đối với các văn bản khác: Giáo viên cần hướng dẫn học sinh xác định
ngữ điệu đọc sao cho phù hợp với mục đích thơng báo (làm rõ những thông tin cơ
bản giúp người nghe tiếp nhận được vấn đề quan trọng, nổi bật trong văn bản).
Ví dụ: Khi đọc bài "Người công dân số Một" học sinh phải thể hiện giọng đọc
đúng ngữ điệu các câu theo mục đích nói, phù hợp với tính cách, tâm trạng của
từng nhân vật. Chẳng hạn: giọng anh Lê ngạc nhiên "Anh vào Sài Gịn để làm
gì?”, giọng anh Thành châm biếm, mỉa mai "À...vào làng Tây để có tên
Tây...Anh làm đơn chưa?"...
* Phải khắc phục cách đọc thiên về hình thức hoặc diễn cảm “tùy tiện”
của học sinh. Giáo viên thay đổi các hình thức đọc cá nhân, cặp, nhóm và phải
có biện pháp kiểm tra, qn xuyến các hình thức đọc đó để đạt được mục tiêu qua
việc sử dụng chúng với mong muốn nâng cao chất lượng rèn kĩ năng đọc.
Để hình thành kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh, giáo viên cần:
- Hướng dẫn cho học sinh hiểu rằng " đọc diễn cảm" không phải là đọc sao
cho "điệu", thiếu tự nhiên, dựa vào ý thích chủ quan của người đọc. Đọc diễn
cảm là cách sử dụng ngữ điệu để phô diễn cảm xúc của tác giả qua bài đọc.
Học sinh phải nhập tâm, biết bộc lộ cảm xúc khi đọc bài văn, bài thơ... Khi có
cảm xúc, các em sẽ tìm thấy ngữ điệu thích hợp. Chính văn bản quy định ngữ
điệu cho chúng ta chứ không phải chúng ta đặt ra ngữ điệu cho văn bản.
- Để luyện đọc diễn cảm tốt cần rèn cho học sinh những kỹ năng:
+Tập lấy hơi và tập thở: Biết thở sâu ở chỗ ngừng nghỉ để lấy hơi khi đọc.

+ Rèn cường độ giọng đọc - luyện đọc to vừa phải.
+ Tổ chức cho học sinh tìm hiểu ý đồ của tác giả, thảo luận tìm ra cách đọc
(giọng đọc như thế nào thì phù hợp? nhấn giọng ở những từ ngữ nào? nghỉ hơi
như thế nào cho hợp lý?... Nghĩa là thảo luận xem cần đọc như thế nào? vì sao lại
đọc như thế?). Có thể phân vai để làm sống lại nhân vật của tác phẩm.
+ Theo dõi giọng đọc mẫu của giáo viên, giọng đọc của bạn để phân tích
tìm ra cách đọc đúng và hay.
+ Rèn đọc cá nhân ln có sự đánh giá của nhóm, lớp và của giáo viên.
+ Đọc diễn cảm trên cơ sở hiểu văn bản đọc.
2.5. Rèn kĩ năng luyện học thuộc lịng
2.5.1. Học thuộc lịng: Là q trình học sinh đọc văn bản, ghi nhớ trong
não từng câu, chữ rồi tái hiện lại dưới dạng hình thức âm thanh. Việc dạy học
sinh học thuộc lòng văn bản để lưu giữ lại những tri thức là việc làm rất cần thiết.
Không những thế, giáo viên cần phải cho học sinh hiểu ý nghĩa của việc học
thuộc lòng: Những tri thức lưu giữ lại, đặc biệt là những bài học thuộc lịng là bài
văn hay bài thơ có giá trị sẽ giúp cho học sinh tích luỹ văn chương, bồi dưỡng
năng lực cảm thụ văn học cho các em; học thuộc lòng giúp cho các em nhớ được
những đoạn văn hay, những ý thơ đẹp, in sâu vào tâm hồn, tạo vốn kiến thức văn
học và khơi dậy cho các em niềm say mê học văn.
2.5.2. Các biện pháp luyện đọc thuộc lòng:
- Để rèn kỹ năng học thuộc lòng phải rèn cho học sinh kỹ năng đọc hiểu
bài vì học thuộc lòng chỉ được thực hiện và ghi nhớ sâu trên cơ sở hiểu bài đã
đọc. Vì vậy khơng nên bắt học sinh học thuộc lịng cái gì khác ngồi những cái
đã hiểu.
- Rèn học thuộc lịng phải rèn cho học sinh sự ghi nhớ có ý thức, phải phối
hợp ghi nhớ máy móc và ghi nhớ lơgíc (ghi nhớ có ý nghĩa).
- Cần hướng dẫn học sinh ghi nhớ những từ ngữ quan trọng của câu đoạn,
những từ "chìa khố" làm điểm tựa để ghi nhớ lơgíc, để học thuộc lòng nhanh.
- Từ các từ ngữ làm điểm tựa ở mỗi đoạn, học sinh liên hệ đến nội dung
đoạn có các từ ngữ “chìa khóa”, tránh ghi nhớ máy móc, tạo sự ghi nhớ sâu.


14


- Thường xuyên kiểm tra đánh giá kết quả học thuộc lịng của học sinh
bằng nhiều hình thức khác nhau: Bản thân học sinh tự kiểm tra, kiểm tra trong
nhóm nhỏ, trong nhóm lớn (bạn kiểm tra), kiểm tra trước lớp (bạn và giáo viên
kiểm tra).
- Kết hợp nhiều hình thức để luyện đọc thuộc lòng:
+ Cá nhân nhẩm đọc, luyện đọc trong nhóm nhỏ, nhóm lớn.
+ Tổ chức cho cá nhân học sinh thi đọc thuộc lòng trong mỗi nhóm.
+ Tổ chức cho cá nhân học sinh thi đọc thuộc lòng trước lớp: Học sinh đọc
thuộc lòng bằng cách đọc tiếp nối các đoạn của bài; đọc cả bài.
+ Tổ chức phần luyện đọc thuộc lòng này thành một trò chơi để tạo hứng
thú học tập cho các em. Ví dụ: Xì điện, hái hoa dân chủ,...
3. Giải pháp 3. Phối hợp các kĩ năng dạy đọc - hiểu một cách nhịp nhàng,
hiệu quả
Rèn kỹ năng đọc thầm rất quan trọng trong dạy đọc - hiểu. Nhưng trong
một số tài liệu dạy học cho rằng việc tổ chức dạy đọc thành tiếng gọi là "luyện
đọc". Nói như vậy, đọc đã bị thu hẹp nghĩa, chỉ cịn ứng với hình thức đọc thành
tiếng. Từ đây dễ dẫn đến một sai lầm trong thực tế là giáo viên không chú ý đúng
mức đến luyện đọc thầm cho học sinh.
Sự thực thì đọc thầm có ưu thế hơn đọc thành tiếng ở chỗ nhanh hơn đọc
thành tiếng từ 1,5 đến 2 lần. Nó có ưu thế hơn hẳn trong q trình tiếp nhận,
thơng hiểu nội dung văn bản vì người ta khơng chú ý đến việc phát âm mà chỉ tập
chung để hiểu nội dung điều mình đọc. Vì vậy, ngay từ lớp 1 đã đọc thầm và lên
lớp 5 thì kĩ năng này ngày càng được củng cố, nâng cao tốc độ đọc.
Để dạy học - hiểu tốt, tôi đã thực hiện tốt các việc sau:
3.1. Chuẩn bị tốt cho việc đọc thầm góp phần dạy học tốt đọc - hiểu
Cũng như khi ngồi đọc thành tiếng, giáo viên phải rèn cho học sinh tư thế

ngồi đọc thầm phải ngay ngắn, khoảng cách giữa mắt và sách 30 - 35 cm. Vì khi
ngồi đọc khơng đúng tư thế thì học sinh dễ mệt mỏi dẫn đến tình trạng chán học,
một yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến việc tiếp thu bài của học sinh mà giáo viên
chưa quan tâm đến nhiều.
3.2. Biện pháp rèn kỹ năng đọc thầm để đọc - hiểu tốt
Kĩ năng đọc thầm phải được chuyển dần từ ngoài vào trong. Phải luyện
cho học sinh đọc thầm với tốc độ nhanh và hiệu quả cao, nắm bắt đúng, đủ thông
tin cơ bản, cảm thụ tốt văn bản nghệ thuật, Đó là mục đích, là u cầu cơ bản của
hoạt động đọc thầm nói chung.
Để thực hiện được điều đó, giáo viên phải nắm vững nội dung rèn kĩ năng
đọc thầm khơng những ở khối lớp 5 mà cịn ở các khối lớp dưới để có hướng phát
triển và nâng cao cho các em.
Ở phần đọc thầm tìm hiểu theo yêu cầu cơ bản (trả lời câu hỏi), giáo viên
cần giao nhiệm vụ cụ thể cho học sinh, nhằm định hướng rõ việc đọc thầm và có
biện pháp kích thích hoặc giúp đỡ các em thực hiện tốt. Khi nêu câu hỏi và yêu
cầu đọc thầm, giáo viên nên nêu câu hỏi trước khi học sinh đọc để các em có định
hướng đọc rõ ràng, đọc để làm gì và nhằm mục đích gì?.Tránh u cầu học sinh
đọc thầm trước sau đó giáo viên mới đưa ra lệnh (câu hỏi), sẽ tạo cho học sinh
thói quen đọc thầm khơng có mục đích, dẫn đến hiệu quả đọc thầm khơng cao.
Chảng hạn: Đọc đoạn văn hay khổ thơ nào? đọc để biết, hiểu, nhớ hay suy nghĩ,
trao đổi về vấn đề gì?, từng bước hình thành cho học sinh thói quen tập trung chú
ý khi đọc thầm thu nhận thông tin và để cảm thụ văn bản nghệ thuật thì mới nâng
cao được hiệu quả của việc đọc thầm. Ví dụ: Đọc thầm khổ thơ thứ tư trong bài
“Đất nước” (TV lớp 5 - tập II, trang 94) để phát hiện biện pháp nghệ thuật mà tác
giả đã sử dụng.
15


- Đọc thầm (đọc lướt) để nắm nội dung, tóm tắt ý hoặc chọn ý: Giáo viên
cần từng bước đề ra nhiệm vụ hoặc yêu cầu từ dễ đến khó dần để học sinh làm

quen với cách đọc thầm, đặc biệt là cách đọc thầm nhanh (mở rộng trường nhìn),
đọc lướt tồn câu, đoạn hoặc cả bài. Ví dụ: Đọc thầm đoạn 1 trong bài “Hội thi
nấu cơm ở Đồng Vân”, TV lớp 5, tập II và cho biết hội thi bắt nguồn từ đâu?
Ví dụ: Đọc lướt cả bài "Chuyện một khu vườn nhỏ" và cho biết, qua bài
tập đọc này, tác giả muốn nói với chúng ta điều gì?
Cần kiểm sốt q trình đọc thầm của học sinh bằng cách quy định thời
gian đọc thầm cho từng đoạn và bài. Học sinh đọc song thì báo cho giáo viên
biết, từ đó giáo viên nắm được và điều chỉnh tốc độ đọc thầm cho hợp lý.
* Có hai hình thức kiểm tra đọc thầm:
+ Kiểm tra trực tiếp: Học sinh đang đọc thầm yêu cầu các em đọc to lên để
xem các em đã đọc đến đâu và yêu cầu giơ tay khi đọc hết đoạn nào đó.
+ Kiểm tra qua đọc - hiểu: Vì mục đích của đọc thầm là hiểu bài nên việc
kiểm tra kết quả hiểu bài đọc của học sinh là hình thức kiểm tra đọc thầm quan
trọng hơn. Trước khi học sinh đọc thầm giáo viên nên đưa ra mục đích đọc thầm
(câu hỏi hoặc các vấn đề cần tìm hiểu). Sau khi học sinh đọc thầm, yêu vầu trả lời
câu hỏi về nội dung hoặc biện pháp nghệ thuật của đoạn, bài để kiểm tra.
3.3. Phối hợp có hiệu quả các biện pháp hướng dẫn tìm hiểu bài
Hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài là giúp các em hiểu nghĩa của từ, cụm từ,
câu, đoạn, hiểu nội dung, giá trị nghệ thuật của bài. Vì vậy, học sinh tìm hiểu bài
nhằm mục đích trau rồi kĩ năng đọc - hiểu, nắm bắt thông tin góp phần nâng cao
năng lực cảm thụ và tạo cơ sở cho học sinh luyện đọc diễn cảm.
Để hướng dẫn học sinh tìm hiểu bài đạt kết quả tốt, ngay từ khi yêu cầu
học sinh tiếp nhận văn bản nhằm mục đích đọc đúng (luyện đọc), giáo viên cần
giúp các em hiểu nghĩa một số từ ngữ có tác dụng góp phần nâng cao kĩ năng
đọc - hiểu (Lưu ý không những giúp học sinh hiểu nghĩa từ ngữ được chú giải
trong sách giáo khoa mà cả những từ ngữ phổ thông mà học sinh địa phương
chưa quen biết hay là ngững từ ngữ đóng vai trị quan trong giúp học sinh hiểu
nội dung bài (từ chìa khóa).
Ở phần giúp học sinh hiểu nghĩa từ, giáo viên nên sử dụng nhiều cách giải
nghĩa từ khác nhau, giúp học sinh có hứng thú tìm hiểu nghĩa của từ, ghi nhớ lâu

và làm phong phú thêm vốn từ Tiếng Việt như: giải nghĩa từ trong văn cảnh, đặt
câu; giải nghĩa bằng cách thay thế bằng từ đồng nghĩa, từ trái nghĩa: giải nghĩa
bằng cách liên tưởng, tưởng tượng; giải nghĩa bằng trực quan...
Việc chọn từ nào để giải thích phụ thuộc nhiều vào đối tượng học sinh (ở
địa phương nào, thuộc dân tộc nào...), phụ thuộc vào nội dung của từng bài. Giáo
viên phải hiểu biết về từ địa phương cũng như có vốn từ của tiếng mẹ đẻ để chọn
từ giải thích cho phù hợp. Đồng thời, giáo viên phải chuẩn bị để giải thích cho
học sinh về bất cứ từ nào trong bài mà các em yêu cầu.
Để hiểu và nhớ những gì được đọc, cần giúp cho học sinh "không xem tất
cả các từ trong văn bản đều quan trọng như nhau mà cần sàng lọc để giữ lại
những từ "chìa khố", những nhóm từ mang ý nghĩa cơ bản. Đó là những từ
giúp ta hiểu nội dung của bài, những từ dùng "đắt" tạo nên giá trị nghệ thuật của
bài. Ví dụ: Trong bài "Người cơng dân số Một", TV5, tập 2, trang 4, nếu học sinh
không hiểu nghĩa từ "ngọn đèn" cả nghĩa gốc và nghĩa chuyển thì khơng thể hiểu
tại sao anh Thành (Bác Hồ) lại nói với anh Lê "Sẽ có một ngọn đèn khác anh à",
"ngọn đèn" ở đây là ánh sáng của đường lối mới.
Giáo viên cần có biện pháp để giúp học sinh phát hiện ra những từ có tín
hiệu nghệ thuật: Đó là tìm những từ giàu màu sắc biểu cảm như các từ láy, từ
nhiều nghĩa, những từ mang nghĩa chuyển, những từ có sự chuyển nghĩa của từ.

16


Ví dụ: Cần có câu hỏi để giúp học sinh phát hiện ra nghĩa của từ "vàng" làm nên
cái hay của câu thơ "Hạt vàng làng ta" (Hạt gạo làng ta, TV5, tập 1, trang 139).
Tiếp đó cần hướng dẫn học sinh phát hiện ra những câu quan trọng của bài,
những câu nêu ý chung của bài. Hướng dẫn học sinh phát hiện ra những hình ảnh
chi tiết nghệ thuật tiêu biểu nhất. Cần tìm được những mối liên hệ bên trong của
văn bản để thấy ý nghĩa hàm ẩn của nó chứ khơng phải chỉ có ý nghĩa biểu hiện.
Tức là cần dạy cho học sinh biết đọc giữa các hàng chữ. Ví dụ: Vì sao chú Mo ri - xơn lại dặn con nói với mẹ "Cha đi vui xin mẹ đừng buồn" ? ( Vì chú muốn

động viên vợ con bớt đau buồn trước sự ra đi của chú. Chú ra đi thanh thản, tự
nguyện, vì lí tưởng cao đẹp) (Ê-mi-li, con,..., TV5, tập 1, trang 49).
Có thể tuỳ từng bài, tuỳ từng lớp mà có biện pháp dạy đọc - hiểu khác
nhau. Tựu chung lại có hai hướng đi, đó là đi từ tổng thể đến bộ phận hoặc đi từ
bộ phận đến tổng thể. Để học sinh dễ dàng tìm hiểu bài nên chọn hướng thứ hai.
Định hướng tìm hiểu bài là hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa, giáo
viên có thể dựa vào hệ thống câu hỏi này để xây dựng hệ thống câu hỏi phù hợp
với đối tượng lớp mình dạy.
Có thể dùng các câu hỏi trong sách giáo khoa nhưng đối với những câu dài,
cần nhiều ý trả lời thì giáo viên nên áp dụng cho từng đối tượng hoặc chia nhỏ
câu hỏi thành 2; 3 ý để học sinh dễ thực hiện. Ngồi ra, giáo viên có thể bám sát
câu hỏi trong bài để xây dựng hệ thống câu hỏi theo từng đối tượng, từng trình
độ của học sinh lớp mình, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh nhưng vẫn
đảm bảo mục tiêu bài dạy.
Đối với đối tượng học sinh yếu hoặc trung bình, giáo viên nên sử dụng hệ
thống câu hỏi phụ để gợi mở, dẫn dắt học sinh trả lời, tạo sự tự tin cho các em.
Đối với học sinh khá giỏi, giáo viên có thể bổ sung câu hỏi giúp các em
cảm thụ được cái hay, cái đẹp về nội dung, nghệ thuật một cách sâu hơn, chi tiết
hơn nhưng phải chú ý tránh quá tải, tránh đặt câu hỏi khai thác nội dung vượt quá
yêu cầu bài học và không hợp với đối tượng học sinh lớp 5.
Dựa vào hệ thống câu hỏi cuối bài giáo viên có thể xây dựng một số kiểu
câu hỏi đọc - hiểu cho từng đối tượng học sinh lớp mình. Hệ thống câu hỏi có thể
là các dạng sau:
- Câu hỏi yêu cầu phát hiện từ quan trọng, từ các em không hiểu nghĩa.
- Câu hỏi yêu cầu phát hiện và giải nghĩa những từ quan trọng, từ "chìa
khố" của bài.
- Câu hỏi làm bộc lộ giá trị của từ dùng "đắt" trong bài (thường dùng cho
học sinh khá, giỏi để bồi dưỡng năng lực cảm thụ văn học).
- Câu hỏi yêu cầu học sinh phát hiện chi tiết, những hình ảnh đẹp của bài.
- Câu hỏi yêu cầu tìm hiểu nội dung của từng đoạn .

- Câu hỏi yêu cầu tìm hiểu và khái quát ý của đoạn, bài.
Vận dụng linh hoạt phương pháp và thay đổi hình thức tổ chức dạy học
khác nhau để tạo điều kiện cho học sinh học tập một cách tích cực mới nâng cao
được chất lượng dạy học (những câu hỏi đơn giản nên sử dụng phương pháp hỏi
đáp hoặc đàm thoại; những câu hỏi khó hoặc câu hỏi mở nên sử dụng hình thức
thảo luận nhóm, cặp; những câu hỏi có nhiều hướng trả lời nên sử dụng trị chơi
theo kiểu bài tập trắc nghiệm... Tuy nhiên giáo viên không được sử dụng tuỳ tiện
phương pháp và hình thức dạy học mà phải căn cứ vào bài cụ thể để lựa chọn.Ví
dụ: Với câu hỏi "Tại sao tác giả lại gọi là hạt vàng làng ta?", giáo viên có thể sử
dụng hình thức thảo luận nhóm sẽ thu được kết quả cao hơn, vì đây là câu hỏi địi
hỏi sự tư duy, suy luận lơgíc của học sinh.
Trong q trình tìm hiểu bài, giáo viên cần rèn cho học sinh cách trả lời và
diễn đạt ý mình muốn nói theo cách hiểu của bản thân một cách ngắn gọn, tránh
tình trạng nêu câu trả lời nguyên văn câu, đoạn trong bài. Để thực hiện được điều
17


này, giáo viên phải rèn cho học sinh có kĩ năng phân tích và tổng hợp. Sau câu trả
lời của học sinh, giáo viên phải kết luận và chốt ý thật ngắn gọn và súc tích.
Giáo viên phải khéo léo trong trong việc nhận xét khi có học sinh trả lời
sai, hoặc chưa đầy đủ. Nên tìm ý đúng trong câu sai đó cho dù là rất nhỏ để
khuyến khích, động viên học sinh hoặc định hướng gợi mở để các em có câu trả
lời đúng, từ đó giúp các em tự nhận ra cái sai của mình. Qua đó, giúp các em tự
tin và trả lời tốt hơn ở các lần sau, tránh để các em mặc cảm, tự ti, không dám
phát biểu ý kiến, trả lời câu hỏi ở các lần sau.
* Những điểm cần lưu ý khi dạy đọc - hiểu một bài thuộc phong cách
ngôn ngữ văn chương.
Giáo viên phải nắm được đặc chưng của ngôn ngữ văn chương để giúp học
sinh tiếp nhận được vẻ đẹp của ngơn từ, vẻ đẹp của cách nói văn chương, hướng
dẫn các em phát hiện được những tín hiệu nghệ thuật và giá trị của chúng trong

việc biểu đạt nội dung (phù hợp với trình độ học sinh lớp 5), đó là: Phát hiện lớp
từ gợi tả, gợi cảm (thường là các từ láy, từ đồng âm, từ nhiều nghĩa), những biện
pháp tu từ, những câu, đoạn, những hình ảnh đẹp.
Giáo viên cần giúp học sinh nắm được nội dung, giá trị biểu hiện, chất trữ
tình (thái độ, tình cảm, cách đánh giá sự việc của tác giả)
Dạy đọc hiểu một bài văn thuộc phong cách văn chương không chỉ giúp
học sinh thấy được bài văn ghi chép hiện thực gì mà phải giúp các em thấy bài
đọc là kết quả của một hành động tự nhận thức, nơi bộc lộ tình cảm, thái độ của
nhà văn trước hiện thực.
Như vậy, để học sinh có kĩ năng đọc - hiểu tốt một bài thuộc phong cách
ngôn ngữ văn chương, giáo viên cần rèn cho học sinh các kĩ năng: Tìm hiểu từ
ngữ, cảm nhận hình ảnh đẹp, khai thác hàm ý của lời văn, lời thơ, các chi tiết;
biện pháp nghệ thuật của văn bản; nhận biết tư tưởng, tình cảm của tác giả.... Bên
cạnh đó, giáo viên cần tạo cho học sinh có hứng thú với việc khám phá vẻ đẹp
muôn màu của tác phẩm văn học nghệ thuật.
IV. HIỆU QUẢ CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Sau thời gian áp dụng “Một số biện pháp nâng cao chất lượng dạy học
phân môn tập đọc lớp 5” vào dạy học Tập đọc ở lớp 5B từ tháng 10 năm học
2017-2018, tôi thấy chất lượng các giờ Tập đọc được nâng lên nhiều. Điều này
được thể hiện rõ qua lần khảo sát chất lượng lần 2 (Đề kiểm chứng) (sau khi áp
dụng các biện pháp trong sáng kiến).
- Thời điểm kiểm tra: Tuần 27, năm học 2017-2018
- Đối tượng: Học sinh lớp 5B, năm học 2017-2018
- Số lượng học sinh được kiểm tra: 31 em
1. Phiếu kiểm tra và hướng dẫn chấm khảo sát chất lượng lần 2 (Đề kiểm
chứng): Phụ lục 2.
2. Tổng hợp kết quả.
*Tổng hợp về kiến thức, kĩ năng: 31 em
Tỉ lệ tăng so với
Kiến thức, kĩ năng cần

Số học sinh đạt
Tỉ
lệ
đạt
yêu cầu
khảo sát lần 1
Đọc lưu lốt, trơi chảy
29
93,5 %
45,3 %
Đọc diễn cảm
26
83,9 %
42%
Học thuộc lịng
31
100 %
35,5%
Đọc - hiểu (hiểu ND bài)
31
100 %
32,7%
18


* Tổng hợp kết quả kiểm tra chất lượng: 31 em
Điểm 9-10
Điểm 7-8
Điểm 5-6
Điểm dưới 5

Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ Số lượng Tỷ lệ
18
58,1%
10
32,3%
1
3,2%
0
0%
Tăng 35,5% so với Tăng 3,3% so với
Giảm 32,3% so
Giảm 12,9% so
khảo sát lần 1
khảo sát lần 1
với khảo sát lần 1 với khảo sát lần 1
3. Nhận xét chung về kết quả đạt được: Học sinh hoàn toàn chủ động, tự giác
học tập, phát huy được tính tích cực, hợp tác trong giờ học. Các em được rèn kĩ
năng đọc thành tiếng phối kết hợp với kĩ năng đọc - hiểu theo các mức độ cần
đạt nên nhiều em đọc tốt, số lượng em đọc hay (diễn cảm) được nâng lên, nhiều
em có cách đọc hay khác nhau phù hợp với cảm nhận riêng của từng em. Đặc
biệt, có thêm nhiều học sinh có khả năng cảm thụ văn học tốt hơn.
- Do phối hợp và lựa chọn các phương pháp dạy học khác nhau, thay đổi
hình thức dạy học một cách hợp lí, giờ học đã diễn ra tự nhiên nên đã tạo được
hứng thú và sự thi đua trong học tập của học sinh.
- Ở bài đọc - hiểu, nhiều em đã biết cách trình bầy theo ý hiểu của bản
thân, chỉ có 2 em lực học yếu hơn diễn đạt chưa được ngắn gọn, rõ ràng ở câu 3;4
So sánh với kết quả kiểm tra lần 1, tôi thấy số lượng học sinh điểm 7-8 và
9-10 được nâng lên rõ rệt, khơng cịn học sinh điểm dưới 5; số học sinh có kĩ
năng đọc diễn cảm tốt tăng nhiều. Tôi tiếp tục áp dụng các biện pháp trên vào dạy
học trong các giờ Tập đọc ở lớp tôi và chất lượng ngày càng tăng. Điều này được

thể hiện rõ qua các lần kiểm tra định kỳ. Đến lần kiểm tra định kỳ lần 4 (cuôi kỳ
II năm học 2017-2018), Nội dung kiểm tra đọc thành tiếng và đọc hiểu số học
sinh đạt điểm 9;10 là 20 em chiếm 64,5%, điểm 7;8 là 11 em chiếm 35,5%,
không có học sinh điểm 5-6 và điểm dưới 5.
Sáng kiến kinh nghiệm của bản thân đã được Ban giám hiệu nhà trường,
đồng nghiệp đánh giá cao, triển khai thực hiện trong khối 5 từ đầu năm học này
và đã nâng cao chất lượng phân mơn Tập đọc nói riêng và mơn Tiếng Viêt của cả
khối nói chung. Trong lần Kiểm tra định kì giữa học kì II năm học 2018-2019, cả
khối 5 có 70 học sinh, tổng điểm đọc có 46 em điểm 9-10 đạt 65,7%, 23 em điểm
7-8 đạt 32,9%, 1 em điểm 5-6 đạt 1,4%, không em nào dưới điểm 5.

PHẦN C: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
I. KẾT LUẬN

Để thực hiện tốt các biện pháp nâng cao chất lượng dạy học phân môn
Tập đọc lớp 5, tôi đã làm tốt các việc sau:
1.Trước hết, giáo viên phải nghiên cứu kĩ nội dung bài đọc trong sách giáo
khoa, hiểu ý đồ của tác giả, nắm bản chất của mỗi dạng kiến thức học sinh phải
đạt được, từ đó xây dựng kế hoạch dạy học mang tính thiết thực, đúng là “bản
thiết kế tổ chức giờ dạy”. Dự đốn các tình huống sư phạm có thể xảy ra và dự
đốn những lỗi học sinh thường mắc phải, cách xử lí các tình huống đó. Điều
giáo viên cần ghi nhớ "Muốn học sinh đọc tốt, hiểu bài tốt, vận dụng tốt thì trước
tiên giáo viên phải đọc tốt, thấu hiểu văn bản theo cách hiểu của đối tượng học
sinh lớp 5 và tìm cách dạy hợp lý để học sinh đạt được điều đó”.
2. Cần linh hoạt sử dụng các phương pháp dạy học tích cực, áp dụng phù
hợp với đối tượng học sinh lớp mình để rèn các kĩ năng đọc cho học sinh.Tìm ra
những điểm yếu của học sinh để chú trọng rèn luyện. Cần rèn cho học sinh có
19



các kĩ năng đọc một cách linh hoạt và sáng tạo, phù hợp với từng dạng văn bản
đọc khác nhau.
3. Khi rèn các kĩ năng đọc (đọc thành tiếng cho đến đọc - hiểu) giáo viên
cần đổi mới hình thức dạy học sao cho linh hoạt nhưng cần chú trọng đến hình
thức luyện đọc cá nhân để rèn luyện uốn nắn cho từng học sinh; kết hợp hình
thức đọc theo nhóm, theo cặp để học sinh được đọc nhiều và giúp đỡ nhau luyện
đọc. Đối với lớp có nhiều học sinh yếu, có thể xen kẽ hợp lí việc đọc đồng thanh
(khi thật cần thiết) để tạo khơng khí, lơi cuốn những học sinh yếu, học sinh còn
rụt rè tham gia vào các hoạt động đọc. Bước luyện đọc diễn cảm có thể giảm yêu
cầu đối với học sinh học đại trà (chỉ tập trung luyện đọc một đoạn), có yêu cầu cụ
thể theo từng đối tượng học sinh.
4. Để phần tìm hiểu bài thật sự phát huy được tính tích cực của học sinh,
giáo viên cần chú ý thay đổi hình thức học (cá nhân, nhóm nhở, mhóm lớn, cả
lớp). Đối với những câu hỏi mở, những câu hỏi có nhiều hướng trả lời, câu hỏi
tổng hợp nhiều kiến thức giáo viên nên sử dụng hình thức học nhóm để các em
phối hợp, bổ sung hoàn chỉnh câu trả lời đúng, điều đó cũng có nghĩa là giúp các
em huy động vốn kiến thức của nhiều người, tạo sự đoàn kết trong học tập.
Bám sát nội dung câu hỏi trong sách giáo khoa để xây dựng hệ thống câu
hỏi phù hợp cho từng đối tượng học sinh lớp mình. Nhưng cần lưu ý có cả câu
hỏi cho ba đối tượng học sinh (câu hỏi cho đối tượng học sinh yếu, trung bình và
câu hỏi phát hiện, bồi dưỡng học sinh có năng khiếu học văn).
5. Khi dạy, giáo viên cần tuân theo các nguyên tắc dạy học Tập đọc đặc biệt
là tính vừa sức nhưng vẫn phát huy tính tích cực, tạo ra hứng thú, khuyến khích
sự tìm tịi và đòi hỏi sự cố gắng phấn đấu cao của mỗi học sinh.
6. Phải phối hợp rèn kĩ năng đọc cho học sinh qua 2 hình thức đọc vì: Tập
đọc là phân môn thực hành và hai nhiệm vụ quan trọng nhất trong dạy Tập đọc là
hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ từ 4 kĩ năng
cũng là 4 yêu cầu về chất lượng đọc: đọc đúng, đọc nhanh (đọc lưu loát, đọc trơi
chảy), đọc có ý thức (thơng hiểu nội dung - đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Bốn kĩ
năng đọc được hình thành trong hai hình thức đọc thành tiếng và đọc hiểu. Chính

vì vậy mà khi dạy học tập đọc giáo viên phải chú ý rèn luyện đồng thời cả hai
hình thức đọc này. Sự hồn thiện một trong những kĩ năng này sẽ có tác động tích
cực đến những kĩ năng khác. Đọc đúng là tiền đề của đọc nhanh, cũng cho phép
thông hiểu nội dung văn bản. Ngược lại, nếu khơng hiểu điều mình đang đọc thì
khơng thể đọc cho hay (đọc diễn cảm) được. Nhiều khi, khó có thể nói rạch rịi kĩ
năng nào làm cơ sở cho kĩ năng nào phát triển, nhờ đọc đúng mà hiểu hay chính
nhờ hiểu mà đọc đúng. Vì vậy trong dạy học Tập đọc khơng thể xem nhẹ hình
thức đọc nào.
7. Khi rèn kĩ năng đọc cho học sinh thơng qua hai hình thức này thường
được thực hiện đồng thời: Chẳng hạn, trong lúc bạn hay thầy (cô) đọc thành
tiếng, học sinh khác theo dõi nghĩa là các em đã sử dụng kĩ năng đọc thầm; để trả
lời câu hỏi của giáo viên nêu ra, cần có "lệnh" và yêu cầu cụ thể để rèn cho học
sinh có thói quen đọc thầm từng câu, đoạn, hay cả bài có mục đích. Để tránh
trường hợp học sinh đọc trơn tru nhưng lại là đọc vẹt, đọc mà không hiểu văn bản
đọc, giáo viên cần chú ý rèn kĩ năng đọc thơng hiểu văn bản ở mức độ phù hợp
với trình độ của các em theo từng đối tượng cụ thể.
8. Rèn đọc thuộc lịng phải đạt được mục tiêu tích lũy tri thức và rèn trí
nhớ cho học sinh nhưng giáo viên cần lưu ý rèn cho học sinh sự ghi nhớ có ý
thức kết hợp ghi nhớ máy móc và ghi nhớ lơgic, tuyệt đối tránh rèn học thuộc
lịng qua một mình sự ghi nhớ máy móc.
20


9. Chuẩn bị chu đáo cho tiết dạy, từ bước chuẩn bị, xây dựng kế hoạch cho
đến bước thực hiện trên lớp. Thường xuyên tự đánh giá hiệu quả của giờ dạy của
bản thân qua chính kết quả, chất lượng học tập của học sinh trong mỗi tiết để phát
huy điểm mạnh, khắc phục những hạn chế, từ đó mà điều chỉnh phương pháp
cũng như hình thức dạy học cho hợp lý.
Khả năng ứng dụng sáng kiến và mở rộng phạm vi nghiên cứu của
sáng kiến: Năm học 2018-2019, tôi và các đồng chí giáo viên khối lớp 5 ở

trường tôi tiếp tục áp dụng các biện pháp trong sáng kiến kinh nghiệm của bản
thân tôi và đều cho kết quả tốt, chất lượng phân mơn Tập đọc nói chung và môn
Tiếng Việt đã được nâng lên một cách rõ rệt. Thời gian tới, tôi tiếp tục nghiên
cứu, mở rộng sâu hơn sáng kiến kinh nghiệm của bản thân về rèn kĩ năng luyện
đọc diễn cảm và cảm thụ văn học qua mỗi bài Tập đọc cho từng đối tượng học
sinh, nhất là học sinh xuất sắc trong Câu lạc bộ em yêu Tiếng Việt.
II. KIẾN NGHỊ
1. Đối với nhà trường: Tiếp tục tham mưu với các cấp chính quyền xây
dựng cơ sở vật chất (như đóng mới bàn ghế đúng quy định cho học sinh tiểu học,
tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức các hình thức học tập khác nhau), bổ
sung trang thiết bị, đồ dùng dạy học (như tranh phóng to, hình ảnh minh họa cho
các bài tập đọc, tài liệu liên quan đến bài đọc, máy chiếu,...) để hỗ trợ giáo viên
trong việc nâng cao hiệu quả dạy học phân mơn Tập đọc nói riêng và việc dạy
học nói chung.
2. Đối với các cấp lãnh đạo ngành giáo dục: Tiếp tục mở các lớp chuyên
đề có các giờ dạy minh họa theo phương pháp phát huy tính tích cực chủ động,
sáng tạo của học sinh do các đồng chí giáo viên giỏi có nhiều kinh nghiệm trực
tiếp giảng dạy, hoặc các giờ dạy có áp dụng sáng kiến kinh nghiệm đạt giải cao
để các đồng chí giáo viên khác có điều kiện học hỏi, áp dụng giảng dạy tốt hơn ở
các nhà trường.
Trên đây là sáng kiến kinh nghiệm của bản thân khi dạy học phân môn Tập
đọc cho học sinh lớp 5. Rất mong sự tham gia đóng góp ý kiến của các cấp lãnh
đạo và các bạn đồng nghiệp để sáng kiến của tơi được hồn thiện hơn.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
XÁC NHẬN CỦA HIỆU TRƯỞNG

Bích Hồng

Hà Bình, ngày 2 tháng 4 năm 2019


Cam kết khơng cóp py
Tác giả 

Phạm Thị

21


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG ĐÁNH
GIÁ XẾP LOẠI CẤP PHÒNG GD&ĐT, CẤP SỞ GD&ĐT VÀ CÁC CẤP
CAO HƠN XẾP LOẠI TỪ C TRỞ LÊN
Họ và tên tác giả:
Phạm Thị Bích Hồng
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên – Trường Tiểu học Hà Binh, huyện Hà
Trung, tỉnh Thanh Hóa

TT

Tên đề tài SKKN

1

Rèn kĩ năng nhận diện và xác
định các thành phần câu đọc
cho học sinh giỏi lớp 5.
Một số biện pháp rèn kĩ
năng đọc cho học sinh lớp 4.

2

3

Một số biện pháp rèn kĩ năng
đọc cho học sinh lớp 4.

4

Một số biện pháp giúp học
sinh giỏi lớp 5 phòng ngừa,
chữa lỗi viết câu.
Một số biện pháp giúp học
sinh giỏi lớp 5 nhận diện câu,
xác định thành phần câu và
chữa lỗi câu sai.
Một số biện pháp giúp học
sinh giỏi lớp 5 nhận diện câu,
xác định thành phần câu và
chữa lỗi câu sai
Rèn kĩ năng đọc cho học sinh
lớp 4.

5

6

7

Kết quả
Cấp đánh
đánh giá

giá xếp loại
Năm học đánh
xếp loại
(Phòng, Sở,
giá xếp loại
(A, B,
Tỉnh...)
hoặc C)
Phòng
GD&ĐT Hà
C
2006 -2007
Trung
Phịng
GD&ĐT Hà
A
2007 -2008
Trung
Sở GD&ĐT
Thanh Hóa
B
2007 -2008
Phịng
GD&ĐT Hà
Trung
Phịng
GD&ĐT Hà
Trung
Sở GD&ĐT
Thanh Hóa

Phịng
GD&ĐT Hà
Trung

B

2010 -2011

A

2012 -2013

C

2012 -2013

B

2016 -2017

22


PHỤ LỤC
PHỤ LỤC 1: PHIẾU KIỂM TRA VÀ HƯỚNG DẪN CHẤM (KHẢO SÁT LẦN 1)
TRƯỜNG TIỂU HỌC
.HÀ BÌNH

PHIẾU KIỂM TRA LỚP 5
Môn : Tiếng Việt – Phân môn: Tập đọc


Họ và tên học sinh: .........................................................................................................................................Lớp:....................
Điểm

Nhân xét

1. Đọc thành tiếng:
2. Đọc hiểu:
Tổng điểm đọc:
Phần một: Đọc thành tiếng (3 điểm).
Kiểm tra kĩ năng đọc thành tiếng của từng học sinh với yêu cầu sau:
Tự chọn 2 khổ thơ trong bài " Bài ca về trái đất" (Tiếng Việt 5, tập 1, trang
41) để đọc diễn cảm và thuộc lòng; học sinh khá, giỏi đọc diễn cảm và thuộc lòng
cả bài.
Phần hai: Đọc - hiểu (7 điểm).
Thời gian: 35 phút.
Đọc thầm bài “Bài ca về trái đất” (Tiếng Việt 5, tập 1, trang 41) và làm các
bài sau.
Câu 1 (0,75 điểm): Nối khổ thơ với ý nghĩa của nó cho phù hợp.
A
B
Khổ thơ thứ nhất
Cần giữ cho trái đất bình yên
Khổ thơ thứ hai
Trái đất thật là tươi đẹp
Khổ thơ thứ ba
Mọi người trên trái đất đều đáng quí
Câu 2 (0,75 điểm): Hình ảnh "Tiếng hát, tiếng cười" có ý nghĩa gì? Khoanh tròn
vào chữ cái trước câu trả lời đúng nhất.
a. Trái đất hồ bình.

b. Con người sống bình n, vui vẻ.
c. Trái đất hồ bình, con người sống bình n, vui vẻ.
Câu 3 (1 điểm): Hình ảnh trái đất có gì đẹp?
.....................................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................................

23


Câu 4 (1,5 điểm): Câu thơ "Màu hoa nào, cũng q cũng thơm!" trong khổ thơ
thứ hai ý nói gì? Viết câu trả lời vào chỗ chấm.
.....................................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................................

Câu 5 (1,5 điểm): Chúng ta phải làm gì để góp phần giữ bình yên cho trái đất?
.....................................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................................

Câu 6 (1,5 điểm): Em hãy cho biết nội dung chính của bài tập đọc.
.....................................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................................
.....................................................................................................................................................................................


24


HƯỚNG DẪN CHẤM ĐỀ KIỂM TRA (KHẢO SÁT LẦN 1)
Phần 1: Đọc thành tiếng (3 điểm):
- Đọc đúng (sai không q 2 tiếng) (1,0 điểm).
- Đọc lưu lốt, trơi chảy 2 khổ thơ tự chọn trong bài, học sinh khá, giỏi đọc
cả bài (Tốc độ đọc khoảng 115 -120 tiếng/ phút); ngắt nghỉ hơi giữa các dòng
thơ, cụm từ; nhấn giọng ở các từ, gợi tả, gợi cảm. (1,0 điểm).
- Đọc diễn cảm và thuộc lòng hai khổ thơ; HS khá, giỏi đọc diễn cảm và
thuộc lòng cả bài. (1,0 điểm).
Phần 2: Đọc - hiểu (7 điểm).
Câu 1 (0,75 điểm): Nối đúng cả 3 ý, cho 0,75 điểm (nối đúng 1 ý, cho 0,25
điểm).
A
B
Khổ thơ thứ nhất
Cần giữ cho trái đất bình yên
Khổ thơ thứ hai
Trái đất thật là tươi đẹp
Khổ thơ thứ ba
Mọi người trên trái đất đều đáng quí
Câu 2 (0,75 điểm): Khoanh vào ý c.
Câu 3 (1 điểm): Hình ảnh trái đất đẹp: Trái đất giống như quả bóng xanh bay
giữa trời xanh; có tiếng chim bồ câu và những cánh hải âu vờn sóng biển.
Câu 4 (1,5 điểm): Mỗi lồi hoa tuy có vẻ đẹp  riêng nhưng lồi hoa nào cũng
q, cũng thơm cả. Ý chỉ trên trái đất này, mọi người dù khác nhau màu da, tiếng
nói nhưng cũng đều bình đẳng, cũng đều đáng quí, đáng yêu cả.
Câu 5 (1,5 điểm): Học sinh nêu được ý có nội dung: Chúng ta phải cùng nhau
chống chiến tranh xây dựng một thế giới hồ bình. Chỉ có hồ bình, tiếng cười

mới mang lại sự bình n, sự trẻ mãi không già cho trái đất.
Câu 6 (1,5 điểm): Nội dung: Mọi nười hãy sống vì hịa bình, chống chiến tranh,
bảo vệ quyền bình đẳng của các dân tộc

25


×