Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tài liệu Đời sống tín ngưỡng Nhật Bản ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.42 KB, 5 trang )

Bùa Hên Độc Đáo Của Xứ Phù Tang
Văn hóa Nhật Bản
Thật hiếm có ở đâu mà bùa hên lại phong phú và được yêu thích rộng rãi như ở Nhật Bản.
Không chỉ được coi là đem lại những điều may mắn, tốt lành, bùa hên còn trở thành một người
bạn thân thiết để người ta gửi gắm những tâm tư, tình cảm.

Maneki-neko (mèo mời khách)
Những chú mèo này ngồi ở những quầy hàng,quán rượu hay các khu thương mại.Khi chú vẫy
tay phải lên là chú mời gọi thần tài, còn khi vẫy tay trái là mời khách.
Màu sắc của mèo mời gọi cũng được qui định.Màu đen để trừ tà,
màu hồng để được yêu, màu vàng được tiền và màu đỏ để được
khoẻ mạnh.

Bảy vị thần
Người ta rằng bảy vị thần này mang lại tài lộc, an vui và những điều
may mắn khác.Vào ngày Tết,người ta vẫn đi đền chùa theo thứ tự
trước sau để cúng quảy các vị thần này.

O-Tafuku
Người ta cho rằng người đàn bà hạnh phúc này có thể trừ tà và tai hoạ, đem lại may mắn.Khi
được đặt cạnh Fukusuke, hai vị sẽ mang lại hạnh phúc cho các cặp vợ chồng.

Fukusuke
Là vị thần tài, tóc búi cao trên đầu và mặc bộ kamishimo. Mặt và tai ngài thật to. Tai to là dấu
hiệu của giàu có.

Chim cú
Theo một huyền thoại Nhật, nghe được tiếng chim cú kêu là điềm may, và bạn sẽ còn may
hơn nếu bạn có một con cú vàng. Nó sẽ mang lại giàu có và hạnh phúc.

Búp bê Daruma


Là hình ảnh của Đức Bồ Đề Đạt Ma, người sáng lập ra phái Thiền Tông tại Trung Quốc. Dù
bạn có làm ngài ngã bao nhiêu lần đi nữa thì ngài cũng sẽ ngồi dậy ngay lập tức. Vì Daruma
chỉ sự kiên trì, bền chí, nên người ta tin rằng búp bê này đem lại lợi lộc, thắng cử, thi đậu…

Rồng
Theo các huyền thoại và truyền thuyết Nhật Bản, rồng là thần
mưa gió và biển cả.Rồng bảo vệ và đem lại may mắn cho người
dân.

Hime Daruma
Nếu được tặng một trong hai búp bê này vào dịp sinh nhật của
mình, các cô gái tin rằng mình sẽ lấy chồng trong hai năm tới.

Sendai Shiro
Ở vùng Tohoku,hầu như ai cũng thích Sendai Shiro vì ngài đem
đến tài lộc. Tục truyền rằng hễ ngài đến tiệm nào là tiệm đó
phát đạt,vì thế ai cũng thích ngài đến.

1

Hello Kitty
Nơi đầu tiên bán bùa này cách đây 15 năm là điện thờ Togo.
Kitty là con mèo được các cô gái rất ưa thích.

Ema
Thời xưa,người ta thường cúng ngựa cho đền chùa khi họ muốn xin một việc quan trọng. Qua
thời gian,người ta điưn giản hoá, vẽ ngựa lên một mảnh gỗ(mảnh gỗ tượng trưng cho chuồng
ngựa), rồi đem cúng. Ema treo tại các đền chùa, trên đó có ghi điều ước và tên của người xin.

Mũi tên Hamaya

Người ta thường mua những mũi tên này vào dịp đầu năm để trừ tà và hộ trì gia đạo.

Billiken
Gã tí hon này nổi tiếng ngay lập tức sau khi Mỹ đến Nhật năm 1911. Nếu bạn gãi gãi vào lòng
bàn chân của anh ta trong khi nói một điều ước, bạn sẽ được toại nguyện.)
Tín ngưỡng của người Nhật (Phật giáo)
Văn hóa Nhật Bản
Theo biên niên sử lâu đời nhất Nhật Bản, Nihon shoki (720, Biên niên sử Nhật Bản), Phật giáo
chính thức từ Triều Tiên du nhập vào Nhật Bản năm 552, khi vua Paekche cử một phái bộ
sang gặp Nhật hoàng mang theo quà gồm “ hình ảnh Thích ca mâu ni bằng đồng và vàng” và
“nhiều kinh sách”. Tuy nhiên giới học giả ngày nay cho rằng sự kiện này phải xảy ra vào năm
538.
Dòng họ Soga lập luận rằng Nhật Bản nên chấp nhận Phật giáo. Các dòng họ khác, nhất là
dòng họ Mononobe và dòng họ Nakatomi, quả quyết rằng các vị thần bản xứ sẽ bị xúc phạm
nếu thấy thần thánh nước ngoài. Đạo Phật được quần chúng chấp nhận sau khi dòng họ
Soga đành bại dòng họ Mononobe về mặt chính trị và quân sự, có nhiều thế lực trong vương
triều hoàng hậu Suiko (khoảng 593-628) thế kỷ 7. Nhiếp chính của hoàng hậu, Thái tử
Shotoku mộ đạo được coi là người sáng lập thật sự và cũng là người đỡ đầu đầu tiên cho Đạo
Phật ở Nhật Bản. Ông cho xây dựng nhiều tu viện quan trọng, trong số này có tu viện Horyuji
và Shitennoji.

Chùa Horyu (horyuji)
Việc nghiên cứu Phật giáo phát triển mạnh khi 5 trường phái nổi bật được du nhập từ Trung
Hoa vào Nhật Bản trong các thế kỷ 7 và 8, Gồm giáo phái Ritsu, Trường phái Kusha, Trường
phái Jojitsu, Trường phái Sanron, Giáo phái Hosso và Giáo phái Kegon. Trong thời kỳ Nara
(710-794), dưới sự bảo hộ của Hoàng đế Shomu (khoảng 724-749), Phật giáo được khuyến
khích như một tôn giáo của nhà nước. Các tu viện chính thức (kokubunji) được xây dựng ở
khắp các tỉnh trên cả nước. Ở Todaiji, người ta dựng lên một tượng Phật khổng lồ.

Đầu thời kì Heian (794-1185), giáo phái Tendai và giáo phái Shingon được du nhập vào Nhật

Bản. Họ được giới quý tộc cầm quyền ủng hộ. Đầu thời kỳ Kamakura (1185-1333), Phật giáo

2
Thiền từ Trung Hoa du nhập vào Nhật Bản, được giới quân phiệt cầm quyền ủng hộ. Các giáo
phái Nichiren và Phật giáo Đất lành phát triển khoảng thời gian này.
Dưới thời cai trị của chúc tướng quân Tokugawa (603-1867), Phật giáo và hệ thống chùa
chiền được sử dụng để loại bỏ tận gốc Đạo Cơ đốc, nhưng Phật giáo nằm dưới sự kiểm soát
mạnh mẽ của chúc tướng quân. Trong khi những phân chia giáo phái vẫn tiếp diễn, thì cũng
có khuynh hướng hiện đại hóa, chẳng hạn như đạo đức nghề nghiệp như Suzuki Shosan
(1579-1655) và phổ biến Thiền của Shido Bunan (1603-1676), và Hakuin (1685-1769). Dấu
hiệu khác là phong trào “Trở lại ý nghĩa thật sự của Phật giáo được tiết lộ trong các kinh sách
bằng tiếng Sanskrit, do Fujaku (1707-1781), Kaijo (750-1805), và Jiun Onko (718-1804) lãnh
đạo phong trào. Sau thời kỳ phục hưng Minh Trị (1868), chính phủ tìm cách đưa Thần đạo
thành quốc giáo, và nhiều chùa chiền phải bị bãi bỏ. Sau đó các tổ chức Phật giáo tồn tại bằng
cách điều chỉnh để thích nghi với sự phát triển của thời hiện đại.

Sau Thế chiến II, nhiều nhóm tôn giáo mới nằm trong nhóm gọi là shinko shukyo (tôn giáo
mới) được tổ chức như các phong trào Phật giáo thế tục. Một số nhóm lớn nhất (Soka Gakkai,
Rissho Koseikai, Reiyukai, Myochikai…) dựa vào lời dạy của Nichiren và kinh Pháp hoa.

Chùa Shitenno (Shitennoji)
Một số khuynh hướng đặc trưng có thể nhìn thấy trong lịch sử Phật giáo Nhật Bản: (1) nhấn
mạnh tầm quan trọng của các thể chế nhân văn, (2) định hướng biểu tượng, không duy lý, (3)
chấp nhận thế giới hiện tượng, (4) sẵn sàng điều tiết thích nghi với thông lệ pháp sư cổ đại và
Thần đạo, (5) phát triển giới lãnh đạo thế tục.

Theo thống kê, Nhật Bản là quốc gia Phật giáo có hơn 85% dân số theo Đạo Phật. Hiện ở
Nhật Bản có 75.000 chùa với gần 200.000 sư.
Tập quán sinh hoạt trong đời sống hàng ngày ở Nhật Bản
Văn hóa Nhật Bản

Kiềm chế bản thân, tế nhị, khiêm nhường và nhã nhặn...là những đức tính mà xưa nay người
Nhật vẫn tôn trọng . Nói chung, việc bộc lộ thẳng tình cảm ra được coi là ấu trĩ, không phù
hợp với cách ứng xử của người lớn và không được coi là thanh nhã lắm . Đặc biệt, người
Nhật không thể hiện tình yêu trước mặt người khác.

■ Cách thể hiện bản thân .

♦ Người ta cho rằng khó có thể dò xét được tình cảm và suy nghĩ của người Nhật bởi cách cư
xử kín đáo, ít bộc lộ cảm xúc ra bên ngoài của họ . Nhưng khi đã quen, bạn sẽ thấu hiểu được
những tình cảm với sự khác nhau rất tinh tế chứa đựng trong từng cử chỉ giao thiệp .

3

♦ Người Nhật thường kiềm chế bản thân, họ không dễ dàng sung sướng khi nhận được
những lời khen ngợi . Nhiều người khi được khen cũng không thể hiện niềm vui mà ngượng
ngịu trả lời “đâu có được như thế” hay tỏ vẻ bối rối “đừng đùa như vậy nữa”.

♦ Về tính khiêm nhường, có thể ví dụ như khi tặng quà, người Nhật thường nói “..chỉ là chút
quà mọn của tôi..” . Người nước ngoài nghe được câu này thường rất ngạc nhiên . Thực ra,
đó là cách diễn đạt tế nhị dù quà tặng luôn được chọn hết sức cẩn thận . Đó là sự nhã nhặn,
khiêm tốn thật sự đúng cách của người Nhật .

♦ Tuy nhiên, có sự khác biệt trong suy nghĩ giữa các thế hệ, ngày càng có nhiều quan điểm
cho rằng nên bộc lộ tình cảm của mình . Chính vì vậy nên ngày nay có thể nhìn thấy nhiều đôi
thanh niên Nhật nắm tay hay khoát vai nhau trên đường phố.

■ Kính ngữ

♦ Trong tiếng Nhật, kính ngữ được sử dụng rất đa dạng và phức tạp . Kính ngữ trong tiếng
Nhật có ba lối nói : Lối nói lễ phép, lối nói kính trọng và lối nói khiêm nhường tự nhún mình để

thể hiện sự tôn trọng .

♦ Chương trình giáo dục bắt buộc ở tiểu học và trung học có đưa vào nội dung giảng dạy
quốc ngữ một số tiết học về kính ngữ nên thanh thiếu niên có sự hiểu biết nhất định, tuy
nhiên, chưa phải họ đã sử dụng được thành thục kính ngữ trong đời sống hàng ngày . Nhiều
người lớn tuổi phàn nàn về thế hệ trẻ ngày nay sử dụng kính ngữ lung tung .

♦ Thực tế, kính ngữ trong tiếng Nhật rất phức tạp . Chẳng hạn, khi nói với cấp trên của mình
ở công ty thì dùng lối nói kính trọng, nhưng khi nói với người ngoài công ty về người ấy thì
phải dùng cách nói khiêm nhường .

♦ Nếu không biết dùng kính ngữ phù hợp với đối tượng mình giao tiếp thì sẽ bị coi là thiếu
giáo dục. Không hiểu biết lễ nghi, vì vậy có thê nói rằng kính ngữ là một kiến thức cơ bản
không thể thiếu được đối với người Nhật .

♦ Có những công ty đưa việc sử dụng kính ngữ cùng với cách ứng xử qua điện thoại, cách
giao tiếp với khách vào trong chương trình giáo dục, đào tạo nhân viên mới .
Ngồi quỳ trên chiếu , nếp sinh hoạt trong ngôi nhà kiểu Nhật
Văn hóa Nhật Bản

4
♦ Tại Nhật bản, trước khi bước lên nhà phải cởi giày để ở
thềm . Sàn nhà ở được làm từ những tấm chiếu được đan
bằng cói gọi là Tatami . Trong phòng, người ta để trên
chiều những cái nệm mỏng gọi là (zabuton) và ngồi quỳ
lên trên . Ngồi quỳ là cách ngồi ngiêm chỉnh nhất, nhưng
nếu được người ngồi cùng cho phép thì có thể để cho
chân được thoải mái .
Khi đó nam giới ngồi
xếp bằng còn nữ giới

hoặc ngồi quỳ như cũ
hoặc dịch hông sang
bên .
♦ Trong ngôi nhà truyền thống của Nhật, các phòng được
ngăn cách bằng các cửa kéo gọi là shoji và fusuma, tường
nhà có rất ít . Khi vào phòng có khách đang chờ thì
phải vừa quỳ vừa mở cửa hay đóng cửa và giữ
nguyên tư thế ngồi quỳ lúc chào.
♦ Khi được mời đến nhà ai và được dẫn vào phòng
khách, ngồi rồi mà chủ nhà vào sau thì phải rời khỏi đệm
ngồi sau đó mới được cúi chào . Người Nhật rất nhạy
cảm về vị trí ngồi cao thấp . Trên đệm ngồi, dù chỉ nhỉnh
hơn vài Cm cũng đã bị coi là ngồi cao hơn rồi, để mình
vào vị trí cao hơn người khác sẽ bị coi là thất lễ . CCC
♦ Ngoài vị trí ngồi cao
thấp, người Nhật còn rất chú ý đến thứ tự ngồi được gọi là
kazima (ngồi trên) và shimoza (ngồi dưới) . Lúc ngồi trên xe cũng như khi ngồi trong phòng,
thứ tự ngồi được ngầm quy ước . Trong phòng , “ngồi chỗ trên” là chỗ xa cửa vào phòng nhất,
dành cho người trên hay khách . Khi dẫn khách vào, phải mời khách “ngồi chỗ trên”, tiếp đến
là người là người bề trên ngồi ở phía trong, rồi theo thứ tự lần lượt ra phía cửa . Điều này liên
quan mật thiết đến lối kiến trúc Nhật bản . Trong phòng khách của những ngôi nhà Nhật bản
từ thời Edo (bắt đầu từ thế kỷ 17), có một khoảng trống được gọi là tokonoma . Đó là khoảng
trống lõm vào phía trong tường và cao hơn sàn nhà một chút, trên vách có treo tranh và bày
biện lọ hoa hay đồ trang trí . Chỗ ngồi phía trước tokonoma là “chỗ ngồi trên”.

♦ Cách xếp chỗ như thế này khiến người ta liên tưởng tới chê độ gia trưởng có ở Nhật bản từ
thời Minh Tri (1868-1912) . Trong gia đình, người Cha là trưởng gia ngồi ở vị trí cao nhất, kế
đến là con trai cả rồi đến con trai thứ, con dâu ngồi dưới cùng . Điều này thể hiện lối suy nghĩ
trọng nam khinh nữ, song phải chăng một phần do con dâu là người phục vụ cơm nước nên
được sắp xếp như vậy cũng tiện hơn .


♦ Sau chiến tranh thế giới thứ 2, nếp sinh hoạt vẫn được tuân thủ ở Nhật bản có phần thoáng
hơn . Ngày nay, khi hình thức sinh hoạt dùng bàn ghế thay chiếu ngày càng phổ biến thì số trẻ
em không ngồi quỳ được cũng tăng lên .


5

×