Tải bản đầy đủ (.pdf) (19 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học đọc hiểu văn bản ngữ văn 9 ở trường THCS hà tiến

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (280.89 KB, 19 trang )

MỤC LỤC
Nội dung

Trang
1

1. PHẦN MỞ ĐẦU
1.1 Lí do chọn đề tài

1

1.2 Mục đích nghiên cứu

1

1.3 Đối tượng nghiên cứu

2

1.4 Phương pháp nghiên cứu

2
2

2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận

2

2.2. Thực trạng


2

2.3. Các giải pháp

4

a. Thế nào là hứng thú văn chương

4

b. Tạo bầu khơng khí văn chương

4

c. Phát huy có hiệu quả kĩ năng đọc diễn cảm và kĩ năng 5
giảng bình
d.Giáo viên dạy văn phải là một “ nghệ sĩ” đa tài
12
e. Lồng ghép chuyện văn chương với “chuyện đời thường”.
2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
3. KẾT QUẢ, KIẾN NGHỊ

14
15
15

3.1. Kết quả

15


3.2. Kiến nghị

16

0


1. MỞ ĐẦU
1.1. Lí do chọn đề tài:
Theo William A Ward - nhà giáo dục người Mĩ thì:
“ Người thầy trung bình chỉ biết nói
Người thầy giỏi biết giải thích
Người thầy xuất chúng biết minh họa
Người thầy vĩ đại biêt truyền cảm hứng”
Từ đó cho thấy việc truyền cảm hứng cho học sinh là điều cực kì quan
trọng và cần thiết. Cho nên nếu khơi được sự hứng thú, say mê cho học sinh thì
sẽ tạo được động cơ học tập tích cực giúp các em hăng say nỗ lực vượt qua mọi
khó khăn, trở ngại để tạo ra được kết quả học tập tốt nhất và từ đó giúp các em
tiếp nhận tri thức một cách chủ động và tự giác.
Môn Ngữ văn không chỉ là một môn khoa học cơ bản mà nó có vị trí vai
trị quan trọng trong việc hình thành nhân cách con người, nhân cách XHCN cho
học sinh giúp các em cảm thụ được những giá trị chân- thiện- mĩ, hiểu biết về
thế giới con người, đúng như thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “ Dạy
được cái hay, cái đẹp của văn, đồng thời cũng dạy được bao nhiêu cái hay, cái
đẹp khác về tâm hồn, về tư tưởng, về lẽ sống”.
Tuy nhiên vấn đề dạy và học văn hiện nay ở các nhà trường đang có
“ cớ” để lạnh nhạt và hờ hững. Các em khơng cịn có tâm huyết và tình u thực
sự đối với văn chương. Điều đó đã vi phạm nguyên tắc và mục tiêu giáo dục
toàn diện. Hơn thế nữa khi các em không đặt niềm đam mê vào mơn Văn thì
việc phát hiện và bồi dưỡng để có được học sinh năng khiếu Văn là một vấn đề

khơng đơn giản.
Để khắc phục tình trạng trên, nhằm giáo dục tính nhân văn, ni dưỡng
tâm hồn cho học sinh đặc biệt là tạo cảm hứng cho học sinh khi học Ngữ văn, tôi
đã mạnh dạn nghiên cứu đề tài: “ Một số giải pháp tạo hứng thú cho học sinh
trong giờ Đọc – hiểu văn bản Ngữ văn 9 ở THCS Hà Tiến với hy vọng góp một
tiếng nói nhỏ bé cùng với các đồng nghiệp của mình tìm lại “chỗ đứng” cho
mơn Văn trong lịng học sinh cũng như giúp các em có kĩ năng làm văn tốt hơn.
1.2. Mục đích nghiên cứu:
Là giáo viên đứng lớp, bản thân tơi nhiều lúc cũng trăn trở trước tình
u văn học của học sinh mình. Phải chăng do xu thế phát triển chung của xã hội
các em khơng cịn u và thích mơn Văn hay chính người thầy chúng ta chưa
khéo léo dẫn dắt các em vào được thế giới văn chương bằng những lời lẽ, bằng
những hình ảnh sống động có sức lay động tâm can học trị? Và như vậy khi các
em chưa được sống trong thế giới của văn chương thì làm sao các em có thể viết
và cảm thụ sâu sắc được giá trị của một tác phẩm văn chương để đời.
Khi đi vào nghiên cứu đề tài này tơi khơng có mong muốn gì hơn, trước
tiên cùng với mỗi giáo viên dạy văn chúng ta hãy thổi hồn vào tác phẩm làm lay
động tâm hồn học sinh, khơi gợi tình yêu văn chương ở các em từ đó rèn rũa các
em - nhất là học sinh có năng khiếu văn viết được những bài văn bằng chính sự
rung động chân thành bởi cảm xúc được thăng hoa của mình.
1


1.3. Đối tượng nghiên cứu:
Để thực hiện đề tài, tôi đã xác định đối tượng nghiên cứu như sau:Tạo
hứng thú cho học sinh trong giờ học Đọc – hiểu văn bản lớp 9 tại trường THCS
Hà Tiến
1.4. Phương pháp nghiên cứu:
Từ việc tìm hiểu thực trạng về việc dạy và học văn hiện nay, qua khảo
sát thực tế thu thập thông tin, học hỏi đồng nghiệp, tôi đã áp dụng vào quá trình

giảng dạy học sinh tại trường THCS Hà Tiến của mình.
2. NỘI DUNG
2.1. Cơ sở lí luận
Từ ngày xưa, cha ông ta đã khẳng định; “Hiền tài là ngun khí quốc
gia” và điều đó đã trở thành truyền thống quý báu của dân tộc ta. Phát huy
truyền thống đó, Đảng và Nhà nước ln ln dành sự quan tâm đặc biệt đến sự
nghiệp giáo dục, đào tạo. Nhận biết rõ tầm quan trọng của tri thức và việc học
tập của mỗi cá nhân nên chỉ một ngày sau khi đọc tuyên ngôn độp lập, trong
phiên họp đầu tiên vào ngày 3-9-1945, của Chính phủ lâm thời nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hịa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra những biện pháp cấp bách
của Nhà nước ta lúc bấy giờ. Trong nhiệm vụ cấp bách thứ hai, Người đã
nói: “…Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu. Vì vậy, tơi đề nghị mở một chiến
dịch chống nạn mù chữ… [1]. Và trong thư gửi các học sinh nhân ngày khai
trường đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hịa, Người đã khẳng định
rằng: “…Non sơng Việt Nam có trở nên tươi đẹp hay khơng, dân tộc Việt Nam
có bước tới đài vinh quang để sánh vai với các cường quốc năm châu được hay
khơng, chính là nhờ một phần lớn ở công học tập của các em”. Từ quan điểm vô
cùng sáng suốt và đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, của Đảng ta về giáo dục,
về khuyến học, khuyến tài… đã phát huy tác dụng to lớn trong việc nhanh chóng
nâng cao dân trí, thu hút tầng lớp trí thức tham gia phong trào cách mạng.
Tiếp nối quan điểm này, trong bài phát biểu bế mạc Hội nghị lần thứ sáu
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, Tổng Bí thư đã trích rõ: “ Trong các
nguồn lực để phát triển đất nước nhanh, hiệu quả, bền vững, đúng định hướng
thì nguồn lực về con người là yếu tố cơ bản. Muốn vậy nguồn lực con người
phải đẩy mạnh, đồng bộ giáo dục – đào tạo, khoa học công nghệ và xây dựng
nền văn hóa tiên tiến, dậm đà bản sắc dân tộc.”
Từ quan điểm trên của Đảng, ta nhận thấy một trong những đường lối
phát triển của đất nước là phải xây dựng được một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc. Muốn như thế thì vài trị của các môn khoa học xã hội trong các
nhà trường không thể xem nhẹ, đặc biệt là môn Ngữ văn.

Từ năm học 2014-2015, Bộ Giáo dục đã chọn môn Văn là một trong ba
mơn thi bắt buộc trong kì thi THPT quốc gia là một tín hiệu “sáng sủa” để đưa
vị thế mơn học trở lại với giá trị đích thực của nó. Hy vọng từ quyết định này sẽ
tạo nên một sự tích cực cho người dạy Văn và học Văn thêm yêu hơn, có trách
2


nhiệm hơn với mơn học ngay từ khi cịn học ở THCS . Từ đó có thể định hình
nên những con người sống có nghĩa tình sau trước, biết dừng lại trước cái ác,
cái xấu để hướng tới cái đẹp vốn có của văn chương, của con người Việt Nam
ngàn năm văn hiến. Và môn Văn chỉ trở lại đúng vai trị của nó khi cả thầy và
trị cùng cầu thị để tiếp cận.
Nhận thức đúng được vị thế của môn Văn là một vấn đề quan trọng,
nhưng để thắp lên ngọn lửa đam mê và biết cách tạo ra “ sản phẩm văn học” của
chính mình một cách tự nhiên mà nồng nàn, giản dị mà sâu sắc, dễ dàng mà khó
quên, bất chợt để trường tồn, một chút xôn xao để rồi sâu lắng là một vấn đề vơ
cùng khó. Điều đố cần rất nhiều ở tinh thần trách nhiệm của giáo viên dạy Ngữ
văn và sự nhiệt huyết của học sinh.
2.2. Thực trạng của vấn đề:
Thế kỉ XXI đã và sẽ chứng kiến tốc độ phát triển như vũ bão của khoa
học và công nghệ. Không quá khó hiểu khi giới trẻ hiện nay có xu hướng tìm
đến Ngoại ngữ, Tin học và các mơn khoa học tự nhiên như là một sự bảo đảm
cho tương lai. Vì vậy mơn Văn khơng cịn là hành trang tri thức để bước vào
đời của các em nữa.
Bên cạnh đó mặc dù môn văn là một trong các môn học chính nhưng
với các em việc học văn chưa xuất phát từ sự say mê hứng thú thực sự, các em
chỉ học mang tính thụ động đối phó vì vậy những kiến thức học được hời hợt, ít
đọng, chóng qn. Tiến sĩ văn học Trịnh Thu Tuyết đã nói “ Những năm gần
đây, một trong những vấn đề khiến giáo viên dạy văn trăn trở, bối rối thậm chí
bất lực, bng xi đó là tình trạng học trị chán học văn, chán văn chương, rút

gọn việc học văn bằng các hoạt động nhàm chán, miễn cưỡng với nghe, ghi
chép, “trả bài”. Trong đó hoạt động nghe khơng cịn hứng thú, hoạt động ghi
khơng cịn sáng tạo, và việc trả bài phần nào đúng với nghĩa là trả lại bài thầy cô
đã giảng cho thầy cơ.”
Một thực trạng nữa là ở phía giáo viên – người có nhiệm vụ chỉ đường,
hướng dẫn cho học sinh đến với tác phẩm văn chương nghệ thuật . Giáo viên đã
thực sự đầu tư trăn trở, và tâm huyết trong giờ dạy văn hay chưa? Giáo viên đã
thực sự yêu văn để duy trì và tiếp lửa cho học sinh trong suốt chặng đường dạy
học của mình hay chưa? Hay vì đặc thù của mơn học và tâm thế của học sinh mà
người dạy chỉ chăm chăm vào việc làm sao cho hết tiết, cho xong, tránh tình
trạng giáo án “cháy”, “lụt”.
Qua khảo sát thực trạng hứng thú học văn của học sinh khi chưa áp dụng
đề tài, tôi thu được kết quả như sau:
Lớp
9B
9C

Số học sinh Số học sinh có hứng thú
36
35

10
12

Số học sinh có điểm từ
khá trở lên
8
10

3



2.3. Các giải pháp giải quyết vấn đề:
a. Thế nào là hứng thú văn chương:
Theo từ điển Tiếng Việt – Nhà xuất bản Đà Nẵng năm 2000 “ hứng thú
là sự ham thích”. Nói một cách rõ hơn, hứng thú là sự “nổi lên, dấy lên, bộc lộ
ra” cảm xúc thích thú, phấn khích, say mê trước một đối tượng nào đó. Hứng thú
là một trạng thái tinh thần khiến cho con người có thể giải tỏa được sự căng
thẳng, mệt mỏi, giúp tập trung vào công việc và trở thành động lực để làm.
Hứng thú văn chương là niềm đam mê, say sưa, cuốn hút bởi các yếu tố
có liên quan đến văn chương mà học văn là một điển hình. Từ việc có hứng thú
học sinh mới có nhu cầu khám phá, tìm hiểu về một tác phẩm văn chương và
cuối cùng là những rung động, cảm xúc được viết thành bài.
b. Tạo bầu khơng khí văn chương:
Khổng Tử đã từng nói: “ Biết mà học khơng bằng thích mà học, thích mà
học khơng bằng vui mà học”
Mơn Văn là mơn học nghệ thuật. Tính nghệ thuật được thể hiện ngay ở
đầu mỗi tiết học Văn. Dạy học văn là phải biết tạo ra bầu khơng khí văn chương
Khơng khí văn chương sẽ phá vỡ những khn cứng trì trệ tạo được sự hấp dẫn
thú vị đối với học sinh.
Hiện nay ở các nhà trường khơng ngừng tìm tịi đổi mới phương pháp
dạy học các bộ mơn nói chung và mơn văn nói riêng như đa dạng hóa chuyên
môn, tổ chức cho giáo viên tiếp cận với công nghệ thông tin, sử dụng các kĩ
thuật dạy học, tham gia các chuyên đề dạy học tích cực, sinh hoạt chuyên môn
cụm để học hỏi kinh nghiệm…tất cả những đổi mới trên cho thấy phần nào sự
cố gắng của các thầy cơ giáo trong việc tìm lại vị trí và chỗ đứng cho mơn văn
trong lịng học sinh, nhưng dù phương pháp có đổi mới đến đâu mà giờ học
khơng tạo ra cảm hứng học tập, không khơi gợi được tâm lí thoải mái cho học
sinh thì giờ học văn đó sẽ chưa đạt được hiệu quả.
“Văn học là nghệ thuật ngơn từ, nó có tính vạn năng trong việc phản ánh

mọi chiều sâu và bề rộng của hiện thực khách quan, cả những điều kì diệu và bí
ẩn trong thế giới tâm hồn con người”[2]. Con đường văn học đến với người đọc
chính là từ trái tim đến trái tim. Vì vậy mà văn học dễ gây hứng thú, bởi nó là
tiếng nói đồng điệu, đồng cảm sâu sắc. Nhưng vì văn học là nghệ thuật ngơn từ
khơng mang tính trực quan mà mang tính hình tượng gián tiếp. Cho nên việc
tiếp nhận văn học không chỉ đơn thuần là thu nhận kiến thức như các môn học
khác, cũng không thể cảm nhận trực tiếp bằng tai, mắt như các loại hình nghệ
thuật nghe, nhìn. Việc tiếp thu các hình tượng văn học cịn là q trình diễn biến
phức tạp của tư duy người đọc chỉ dựa trên những kí hiệu ngơn từ. Phải thơng
qua hoạt động khai thác hệ thống hình tượng nghệ thuật, người đọc mới khám
phá được chiều sâu tư tưởng, tình cảm mà nhà văn muốn gửi gắm.
Với ý thức trách nhiệm của bản thân trong việc tạo ra bầu khơng khí
cuốn hút trong q trình dạy văn, bản thân tơi thường áp dụng một số các biện
pháp sau:
4


*Tạo tâm thế cho học sinh trong học Văn.
Tạo tâm thế cho học sinh trong giờ học văn thực chất là việc giáo viên tạo cho
học sinh một tư thế vững vàng, một tâm lí thoải mái, một xúc cảm hứng thú và
một tâm hồn đam mê khi tiếp cận một tác phẩm văn học cụ thể.
Để “truyền lửa” cho học trị thì trong tim thầy cơ cũng cần có“lửa”. Bởi
“chỉ có những điều xuất phát từ trái tim mới đến được trái tim” và “chỉ có yêu
thương mới gieo mầm hạnh phúc”. Muốn học sinh không quay lưng lại với mơn
văn thì bản thân thầy cơ dạy cũng phải trung thành, yêu mến với nghề mình đã
chọn, phải biết yêu văn trước khi dạy học sinh yêu văn, phải biết tạo cho mình
một tâm thế thoải mái nhẹ nhàng, một tình cảm thân thiện, gần gũi hịa đồng với
học trò. Giáo viên vừa phải căn cứ vào mỗi bài dạy để tìm ra hình thức “tạo tâm
thế” phù hợp, vừa phải biêt nén lòng quên đi những vướng bận lo toan, nhọc
nhằn của cuộc sống đời thường. Không thể có một giờ học văn thành cơng nếu

như “ bộ mặt tâm trạng” khơng được “ giấu kín” trong lịng. Bước lên bục
“văn” với các em là chúng ta phải có cảm giác bước vào thế giới hồn tồn mới
lạ, tràn đầy hưng phấn, thiết tha với sứ mệnh thiêng liêng cao cả, là người đi
đường, mở cửa dẫn các em vào vương quốc của cái đẹp, để được cười được
khóc khơng chỉ cho mình mà cho cả giai cấp mình, dân tộc mình, cho những
thân phận, số phận đau khổ trên trái đất giống như lời thơ của Việt Nga:
“ Giờ văn nụ cười, nước mắt
Nghẹn ngào, thanh thản đan xen
Thầy đau nỗi niềm dâu bể
Trò day dứt cùng thế nhân”
Học tập căng thẳng thường làm chúng ta mệt mỏi về tinh thần, chỉ có sự
tận tình, tổ chức giờ học một cách khoa học, sinh động mới kích thích sự hứng
thú học tập trong học sinh. Cho nên giáo viên phải biết tạo ra khơng khí thoải
mái khi vào lớp học. Giáo viên có thể tạo khơng khí lớp học bằng việc dẫn các
chuyện vui, các câu thơ câu văn hay, bằng cách đặt vấn đề bât ngờ, gợi được sự
chú ý bằng các tranh ảnh sơ đồ…để gợi hứng thú, kích thích trí tị mị muốn
khám phá bài học cho học sinh. Trong tiết học chỉ cần một ví dụ thực tế về nhà
văn …sẽ làm cho bầu khơng khí học tập thay đổi tích cực, học sinh sẽ bị cuốn
hút vào những giai thoại, hay những liên hệ mà giáo viên kể.
*Tìm hiểu, cung cấp thơng tin cho các em biết thêm về các yếu tố ngoài
văn bản. Những yếu tố ngoài văn bản bao gồm cuộc đời và sự nghiệp sáng tác
của tác giả, hoàn cảnh sáng tác tác phẩm… tất nhiên những yếu tố này khơng
nằm trong thơng tin sách giáo khoa mà địi hỏi giáo viên cần phải tìm tịi, khám
phá.
Ví dụ 1: Khi dạy “Truyện Kiều” của Nguyễn Du – đỉnh cao chói lọi
của văn học Việt Nam ( Ngữ vă 9- tập 1), ai cũng biết “Truyện Kiều” có dựa
theo cốt truyện “Kim Vân Kiều truyện” của Thanh Tâm Tài Nhân ( Trung Quốc)
nên tôi đã kể cho các em nghe “Kim Vân Kiều truyện” để các em thấy được sự
sáng tạo bậc thầy của Nguyễn Du trong việc “khai sinh” ra một “Đoạn trường
tân thanh” kiệt tác.

5


Ví dụ 2: Để tạo khơng khí cho bài học “ Chuyện cũ trong phủ chúa
Trịnh” của Phạm Đình Hổ- tục gọi là Chiêu Hổ ( Ngữ văn 9), tôi đã kể cho cho
các em nghe một số giai thoại về Chiêu Hổ và Hồ Xuân Hương. Cuộc xướng
họa giữa Chiêu Hổ và Hồ Xuân Hương thực là “không tiền khoáng hậu” trong
lịch sử văn chương của nước ta . Sức trẻ và tình yêu sự sống, văn tài và cá tính,
lối nói khơng úp mở bóng gió nhiều, cả đôi bạn đều cân xứng về tài nghệ thơ
Nôm, và cũng thật tri âm tri kỉ. Trong một lần Hồ Xuân Hương xướng họa thơ
với Chiêu Hổ, bà có viết: “ Sao nói rằng năm lại có ba ?
Trách người quân tử hẹn sai ra
Bao giờ thong thả lên chơi nguyệt
Nhờ hái cho xin năm lá đa”.
Rõ ràng trong bài “Xướng” của Bà chúa thơ Nơm có nhắc đến chuyện
lên chơi cung trăng và nhờ người “quân tử” “hái cho xin nắm lá đa”. Vậy là đã
rõ Xuân Hương đang có ý trách khéo Chiêu Hổ là người cũng chẳng khác gì chú
Cuội – hay nói dối.
Chiêu Hổ cũng tỏ ra là một bạn thơ không vừa, ông đã họa lại Hồ Xuân
Hương một cách khéo léo: “ Rằng gián thì năm, q có ba
Bởi người thục nữ tính khơng ra
Ừ rồi thong thả lên chơi nguyệt
Cho cả cành đa lẫn củ đa”.
Theo đơn vị tiền tệ ngày xưa, tiền gián ăn 36 đồng kẽm, tiền quý ăn 60
đồng. Như vậy 5 đồng gián hay 3 đồng quý đều bằng 180 đồng kẽm. Cách nói
của Chiêu Hổ là trách Hồ Xuân Hương không giao hẹn rõ ràng. Xong ông vẫn
“ hào phóng” cho bạn thơ của mình “ cả cành đa lẫn củ đa”. Đây đúng thật là
cách hành xử của người “quân tử”[3].
Dĩ nhiên để cung cấp được những thơng tin ngồi văn bản cho học sinh
biết nhằm tạo khơng khí cho lớp học giáo viên cần phải phân bố được thời gian

hợp lí, dẫn dắt câu chuyện logic, cách kể tự nhiên.
*Trong quá trình giảng văn, giáo viên cần phải viện dẫn ý kiến của các
nhà nghiên cứu, nhà phê bình văn học về tác giả hoặc các yếu tố có liên quan tới
tác phẩm, so sánh đối chiếu với các tác phẩm cùng viết về một đề tài.
Ý kiến của các nhà nghiên cứu, nhà phê bình văn học bao giờ cũng thể
hiện tính đúng đắn, khách quan và có chiều sâu tư tưởng, đặc biệt được diễn đạt
bằng một vốn ngôn ngữ sắc sảo, uyên bác mà khơng kém phần rung động lịng
người.
Ví dụ 1: Nhận xét về tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiêu, tác giả Mộng
Liên Đường trong lời tựa truyện Kiều đã viết: “ Lời văn tả ra hình như máu chảy
ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía,
ngậm ngùi, đau đớn đến đứt ruột... Tố Như tử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả
cảnh cũng hệt, đàm tình đã thiết, nếu khơng có con mắt trơng thấu cả sáu cõi,
tấm lịng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy” chính là đã khái
quát rất tuyệt vời về giá trị của truyện Kiều trên mọi phương diện [6].
6


So sánh đối chiếu với các tác phẩm cùng viết về một đề tài cũng được
chú ý đến bởi có đối chiếu thì học sinh mới phát hiện ra thành cơng của tác
phẩm.
Ví dụ 3: Truyện ngắn “ Làng” của nhà văn Kim Lân đi vào khai thác đề
tài người nơng dân trong khi văn học Việt Nam có rất nhiều tác giả viết và thành
công về đề tài này như Nam Cao, Ngô Tất Tố, Nguyên Hồng, Nguyễn Công
Hoan... Nhưng từ khi ra đời truyện ngắn “Làng” đã nhanh chóng chiếm được
cảm tình của người đọc bởi truyện đã xây dựng thành công nhân vật ông Hai –
nhân vật chính của tác phẩm. Cũng như các nhân vật trong mỗi tác phẩm của
các nhà văn hiện thực nói trên, ông Hai là một người nông dân có nhiều phẩm
chất tốt đẹp: sống bộc trực thật thà, giàu tình yêu làng quê, thủy chung với tình
yêu đất nước... Song thành công của “ Làng” là Kim Lân đã phát hiện ra một nét

đẹp mới từ một đề tài cũ về người nơng dân sau cách mạng tháng tám. Đó là sự
chuyển biến trong nhận thức của ông Hai mà ở Lão Hạc, Chí Phèo, chị Dậu, con
mẹ Ni… chưa có được. Vì vậy khi dạy đến tác phẩm “Làng” tơi đã đối chiếu
so sánh cho các em thấy được nét đẹp đó ở ơng Hai. Những tác phẩm tơi đưa ra
để so sánh đối chiếu là những tác phẩm các em đã được học như “ Lão Hạc” của
Nam Cao “ Tắt đèn” của Ngô Tất Tố, và cả những tác phẩm các em chưa được
biết đến như “ Chí Phèo” của Nam Cao, “Con mẹ nuôi”, “Kép Tư Bền” của
Nguyễn Công Hoan…vv.
Một Lão Hạc vợ mất sớm, sống cô đơn cơi cút một mình, rất mực u
thương con vì con đã phải bỏ làng bỏ xứ đi xa để ôm mộng làm giàu giữa chốn
“hang hùm miệng sói”, một Lão Hạc giàu lòng tự trọng từ chối tất cả mọi sự
giúp đỡ của người khác “gần như là hách dịch” nhưng “sống nơi bùn lầy nước
đọng” ấy cuối cùng lão cũng đã âm thầm “ dọn cho mình con đường sạch sẽ
nhất để đi đến nhà mồ”( Văn Giá). Một anh Chí sinh ra trong một cái lị gạch cũ
khơng cha khơng mẹ, khơng họ hàng thân thích, khơng tấc đất cắm dùi. Tuổi thơ
của hắn bơ vơ “hết đi ở cho nhà này lại đi ở cho nhà nọ”, đến hai mươi tuổi thì
làm canh điền cho nhà Bá Kiến. Bản chất lương thiện của anh đã bị xã hội ra sức
hủy diệt. Cái nhà tù thực dân đã tiếp tay lão cường hào bắt giam anh Chí lương
thiện vơ tội để rồi thả ra một Chí Phèo lưu manh, hung ác. Trở về làng, Chí Phèo
trở thành một con người khác hẳn-con quỉ dữ của làng Vũ Đại. Chí Phèo thay
đổi cả nhân hình và nhân tính. Và thế là hắn khơng cịn được mọi người coi là
người nữa “ai cũng tránh mặt hắn mỗi lúc hắn qua”. Và rồi sự xuất hiện Thị Nở
- con người xấu “ma chê quỉ hờn” ấy lại thức tỉnh, gọi dậy bản tính người của
Chí Phèo. Sau cuộc gặp gỡ ngắn ngủi với thị Nở, Chí Phèo giờ đây đã nhận ra
nguồn ánh sáng ngoài kia rực rỡ biết bao…Rồi giây phút đó Chí thèm lương
thiện và khát khao làm hòa với mọi người. Nhưng bi kịch và đau đớn thay con
đường trở lại làm người của Chí Phèo vừa hé mở thì đã bị đóng sầm lại. Bà cơ
thị Nở không cho phép cháu gái bà lấy “một thằng khơng cha chỉ có một nghề là
rạch mặt ăn vạ”. Chí Phèo thật sự rơi vào bi kịch tinh thần đau đớn. Hắn lại
uống rượu nhưng “ càng uống càng tỉnh ra”. Tỉnh ra để thấm thía nỗi đau vơ hạn

của thân phận mình. Hơn ai hết Chí hiểu ra rằng kẻ đã làm cho mình phải đội lốt
7


quỷ chính là Bá Kiến . Phẫn uất Chí vác dao tìm đến nhà Bá Kiến địi quyền làm
người: “ Tao muốn làm người lương thiện”, “ Ai cho tao lương thiện”. Câu hỏi
không lời giải đáp . Và cuối cùng Chí cũng kết liễu cuộc đời mình sau khi kết
liễu Bá Kiến . Một chị Dậu trong “Tắt đèn” lấy bối cảnh là một vụ đốc sưu, đốc
thuế ớ một làng quê Đông Xá dưới thời Pháp thuộc. Sau hai cái tang liên tiếp gia
đình chị Dậu tuy vợ chồng “đầu tắt mặt tối’’ quanh năm mà vẫn “cơm không đủ
ăn, áo không đủ mặc”. Đến nay đã “ bậc nhất trong hạng cùng đinh”. Khơng có
tiền nộp sưu, anh Dậu đã bị bọn cường hào ” trói như trói chó để giết thịt”. Chị
Dậu tất tả ngược xi chạy vạy, phải đứt ruột bán đứa con gái đầu lịng và ổ chó
cho vợ chồng Nghị Quế’ để trang trải “món nợ Nhà nước”. Do đánh ngã nhào
tên cai lệ và tên hầu cận lí trưởng khi chúng trói anhDậu nên chị Dậu bị bắt giải
lên huyện. Tri phú Tư Ân thấy Thị Đào có nước da đen giịn, đơi mắt sắc đã giờ
trị bỉ ổi. Chị Dậu đã ném cả nắm giấy bạc vào mặt con quỷ dâm ơ, rồi vùng
chạy… “Món nợ nhà nước” vẫn cịn đó, chị Dậu phải đi ở vú. Một đêm tối trời,
cụ cố đã ngồi 80 tuổi mị vào buồng chị Dậu. Chị Dậu vùng chạy thốt ra
ngồi trong khi “trời tối đen như mực”…Một con mẹ Nuôi trong “ Đồng hào có
ma” của Nguyễn Cơng Hoan. Nó đến cửa quan để trình việc mất trộm hơm trước
lên quan. Trước khi lên quan nó phải đi chạy vạy, vay mượn một đồng hai hào,
vì nó biết được “ thơng lệ gặp quan”. Trước mặt quan ngài oai vệ quá, mắt trừng
trừng nhìn nó. Nó lúng túng, run q, nó đi trình việc mất trộm mà y như kẻ ăn
trộm vậy. Thế là rơi tiền, đồng rơi ở xó này, đồng rơi ở xó kia, qi. Cịn một
đồng nữa? Nó khơng biết rằng đồng hào mà nó tưởng là có ma ấy đang nằm
dưới chân con ma trước mặt nó. Khơng đủ tiền “ vi thiềng” quan, con mẹ Nuôi
lủi thủi ra về. Huyện Hinh chờ cho con mẹ Nuôi đi khuất đưa mắt xuống chân
dịch chiếc giày ra một ít mà vẫn thản nhiên như khơng, thị tay nhặt đồng hào,
thổi những hạt cát còn bám và bỏ tọt vào túi.

Như vậy qua những tác phẩm trên ta thấy các nhà văn đã phát hiện và
khẳng định vẻ đẹp của người nông dân qua bề ngoài lam lũ kia là một Lão Hạc
nghèo khổ, chất phác nhưng giàu lòng tự trọng. Một Chí Phèo khao khát làm
người lương thiện ngay khi mất cả nhân hình lẫn nhân tính. Một chị Dậu đẹp
người đẹp nết, yêu thương chồng con… Thế nhưng ở họ đều có chung một bi
kịch về cuộc đời. Đó là sự bế tắc trong cuộc sống để rồi họ phải tìm đến cái chết
hoặc sống trong cái “ tối trời tối đất". Nhưng đến với ông Hai - nguời nông dân
sau cách mạng tháng tám qua truyện ngắn “Làng” rõ ràng ta thấy tuy mới bước
vào cuộc kháng chiến nhưng ông Hai đã sớm giác ngộ, có nhận thức và tình cảm
đúng đắn, rạch rịi giữa tình u Q hương và tình yêu Tổ Quốc khi nghe tin
làng Chợ Dầu theo Tây. Như vậy ông Hai đã ý thức sâu sắc tình quê nằm trong
tình nước, niềm tự hào về quê hương phải bắt nguồn từ ý chí quyết tâm chiến
đấu của mọi người trong cuộc chiến đấu chung của đất nước. Và nhờ có niềm tin
vào nhận thức đúng đắn như thế nên cuộc đời ông Hai không thể như Lão Hạc,
chị Dậu…vv.
Cũng mong các đồng nghiệp của tôi đừng cho rằng khi liên hệ với các
tác phẩm như “Chí Phèo”, “ Con mẹ Ni”, “Kép Tư Bền”…là những tác phẩm
8


các em chưa được học, được đọc hoặc nó quá khó so với nhận thức của các em.
Ở đây mục đích của tơi là “ kể chuyện em nghe” để tạo hứng thú và lôi cuốn các
em vào trong các câu chuyện văn học mong cho giờ học bớt căng thẳng và bớt
nhàm chán chứ không phải bắt các em xem tác phẩm trên là bài văn cần phân
tích.
c. Phát huy có hiệu quả kĩ năng đọc diễn cảm và kĩ năng giảng bình
* Kĩ năng đọc diễn cảm:
Con đường đi vào tác phẩm văn học phải là từ đọc. Đọc là hình thức đặc
thù của nhận thức văn học . Đọc sẽ kích thích q trình tâm lí cảm thụ,tri giác
tưởng tượng, xúc cảm, đưa người đọc vào thế giới của tác phẩm tạo nên trạng

thái tâm lí cần có cho người đọc, người nghe.
Thực tế nhiều giáo viên thất bại trong giờ dạy văn vì chưa phát huy
được sức mạnh của nghệ thuật đọc diễn cảm, giờ học khơ khan thiếu cảm xúc,
nặng về diễn giải. Vì vậy đọc diễn cảm thường gắn bó trong suốt q trình
giảng văn làm cho giờ giảng văn trở thành một công việc tâm tình, một cuộc
trao đổi thực sự về cuộc sống.
Vậy đọc diễn cảm là gì? Đọc diễn cảm là cơng việc chuyển kí hiệu chữ
thành kí hiệu âm thanh một cách có nghệ thuật nhằm làm vang dậy tiêng nói tâm
hồn của nhà văn được “mã hóa”trong tác phẩm. Đọc diễn cảm phải thể hiện
được sự đánh giá, sự cảm thụ đúng đắn độc đáo của bản thân người đọc.
Một số nước trên thế giới từ xưa đến nay đều sử dụng phương pháp đọc
diễn cảm trong giờ Văn. Bởi vì phương pháp này có một hiệu lực rất lớn. Nó
truyền cho người nghe cái “thần” của tác phẩm, sự rung cảm tinh tế của nhà văn
trước cuộc đời. Người nghe sẽ rung động và khao khát đi sâu vào tác phẩm để
tìm hiểu cách cảm, cách nghĩ của nhà văn. Để truyền được cái “thần” ấy, bản
thân người đọc phải hiểu và rung động trước, lúc đó bằng giọng đọc, cách đọc
của mình mới truyền đến được cho người nghe. Qua việc đọc diễn cảm, người
đọc đã gắn kết được ba đối tượng vốn xa lạ với nhau trở nên thân thiết: nhà văn
và tác phẩm – người đọc – người nghe. Để đọc được diễn cảm không phải dễ.
Đọc diễn cảm là cả một nghệ thuật. Nghệ thuật xử lí các thơng số âm thanh: ngữ
điệu, tốc độ, cường độ, cao độ… để chuyển tải ý nghĩa và tình cảm mà tác giả
gửi gắm trong tác phẩm. Nói cách khác, người đọc phải xác định được kiểu văn
bản đang đọc từ đó xác định được tơng giọng chủ yếu được sử dụng để đọc tác
phẩm ấy. Trong quá trình đọc phải làm chủ được tốc độ (nhanh, chậm, dãn nhịp
đọc), làm chủ cường độ (to, nhỏ...)... Để xử lí các thơng số âm thanh ấy được
thuần thục, nhuần nhuyễn đòi hỏi người đọc (giáo viên, học sinh) phải có kĩ
năng, kiến thức về tác giả, tác phẩm và cách đọc diễn cảm[6].
Có một thực tế trong mỗi một tiết học văn bản bao giờ cũng có phần
hướng dẫn đọc và trước khi đọc, giáo viên dặn học sinh của mình phải đọc tác
phẩm (đoạn, khổ) này với giọng tha thiết hay buồn (vui), cao (thấp), trầm (lắng)

… Học sinh không biết đọc như thế nào sẽ ra giọng vui, giọng buồn, cao, thấp…
nghĩa là học sinh cũng chưa nắm được phần lí thuyết cơ bản của việc đọc diễn
cảm. Chẳng hạn, khi học tác phẩm “ Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải giáo
9


viên hướng dẫn là phải đọc với giọng vui tươi và suy ngẫm, nhịp thơ lúc nhanh,
bừng bừng phấn khởi và khẩn trương, lúc chậm khoan thai, càng về cuối càng
lắng chậm nhỏ dần. Rồi các em cứ thế đọc và phân vân rằng khơng biết mình
đọc như thế ở phần đầu đã vui tươi chưa và lắng đọng ở phần cuối như vậy có
đúng khơng? Vì vậy để đạt được hiệu quả cao trong đọc diễn cảm giáo viên và
học sinh phải nắm được các yêu cầu sau:
Trước tiên là phải đọc đúng: Là giải quyết kĩ năng, năng lực ngôn ngữ
cho học sinh , là phải đọc đúng chính tả, phát âm chuẩn, khơng được sai văn
bản, là trả lại hoàn toàn đúng nội dung văn bản.
Tiếp theo là phải đọc hay: Là bước tiếp theo của đọc đúng, phải trên cơ
sở của đọc đúng. Đọc hay là bước đầu chuyển tiếp từ lĩnh vực ngôn ngữ sang
lĩnh vực văn chương. Đọc đúng có nghĩa là đọc ra phần nghĩa, còn đọc hay là
đọc ra ý.
Cuối cùng là đọc diễn cảm: Là hệ thống phương pháp đọc sáng tạo, là
xác định mối quan hệ cảm xúc riêng tư của người đọc cũng như giá trị nội dung
và hình thức đọc của tác phẩm. Đọc diễn cảm đòi hỏi cả giáo viên và học sinh
phải có cảm xúc. Nếu gị bó, ép buộc sẽ là đọc giả cảm xúc của tác giả. Đọc diễn
cảm không phải ai cũng đọc được mà phải tùy chất giọng, trình độ nhận thức để
giáo viên yêu cầu học sinh đọc. Đọc diễn cảm có tác dụng giúp người ta hiểu
được tác phẩm và khi hiểu tác phẩm giúp cho đọc diễn cảm tốt hơn.
Ví dụ 1: Khi đọc diễn cảm bài “ Viếng lăng Bác” của Viễn Phương –
một bài thơ giàu chất suy tưởng, chất trữ tình đằm thắm, giọng điệu phải thành
kính, trang nghiêm . Đoạn thơ mở đầu:
Con / ở miền Nam / ra thăm / lăng Bác

Đã thấy trong sương / hàng tre bát ngát
Ôi / hàng tre xanh xanh / Việt Nam
Bão táp mưa sa / đứng thẳng hàng.
Ở đoạn thơ này mang tính tự sự thơng báo, kể chuyện giản dị như câu
chuyện văn xuôi. Nhưng không chỉ có thế. Trong câu thơ mộc mạc chân tình ấy
đã hàm chứa nỗi xúc động, bồi hồi của người con từ miền Nam- mảnh đất thành
đồng của Tổ Quốc. Vì vậy giáo viên cần hướng dẫn cho các em đọc nhấn mạnh
vào cách xưng hô con, Bác và hai tiếng miền Nam để gợi sự cảm động, gần gũi
nhưng cũng hết sức trang trọng ấy. Và rồi nỗi niềm xúc động đó vỡ ịa trong
thán từ “ơi” truớc hình ảnh ẩn dụ “ hàng tre” trong “ bão táp mưa sa” vẫn “ đứng
thẳng hàng”- biểu tượng cho con người Việt Nam bất khuất, kiên cường trong
khó khăn, gian khổ. Đến đoạn thơ cuối:
Mai về miền Nam / thương trào nước mắt
Muốn làm con chim / hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa / tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre / trung hiếu chốn này.
Tình cảm xúc động của nhà thơ bỗng nổi sóng dâng trào khơng thể kìm
nén dịng cảm xúc khi nghĩ đến ngày mai sẽ lại về miền Nam, sẽ xa Bác. Nhà
thơ bât ra nguyện vọng mãnh liệt thể hiện trong điệp ngữ muốn làm…muốn
10


làm…muốn làm…con chim hót quanh lăng Bác, bơng hoa tỏa hương đâu đây,
cây tre trung hiếu chốn này. Do đó giọng điệu phải tha thiết, sâu lắng nhưng
cũng vừa phải đau xót, tiếc thương.
Ví dụ 2: Để đọc bài “ Bài thơ về tiểu đội xe khơng kính” của Phạm Tiến
Duật như ta đã biết bao trùm lên toàn bộ bài thơ là giọng điệu vui tươi, dứt
khoát, nhịp thơ dài, câu thơ gần với câu văn xi, có vẻ lí sự, ngang tàng.
“ Khơng có kính/ khơng phải/ vì xe khơng có kính
Bom giật/ bom rung/ kính vỡ đi rồi

Ung dung/ buồng lái/ ta ngồi
Nhìn đất/ nhìn trời/ nhìn thẳng.
Nếu hai câu đầu là lời lí giải đủ sức thuyết phục cho việc chiếc xe khơng
có kính thì hai câu sau nhấn mạnh tư thế ngồi lái xe đầy kiêu hãnh, có thể làm
chủ chiến trường mà khơng hề nao núng của người chiến sĩ. Muốn tái hiện lại tư
thế đó địi hỏi khi đọc phải bắt đúng nhịp 2/2/2, giọng thơ bật mạnh, lên cao.
Đến khổ ba, khổ bốn khắc họa phẩm chất dũng cảm, tinh thần lạc quan, coi
thường khó khăn của người lái xe vẫn bằng giọng điệu ngang tàng nhưng pha
chút đùa tếu, nghịch ngợm. Vì vậy khi đọc đến những câu:
Khơng có kính/ ừ/ thì có bụi
Bụi phun tóc trắng/ như người già
Chưa cần rửa/ phì phèo/ châm điếu thuốc
Nhìn nhau/ mặt lấm/ cười ha ha
Giáo viên cần hướng dẫn cho các em khi đọc đặt đúng trọng âm vào chữ
“ừ” để lột tả được thái độ chấp nhận khó khăn, coi thường thách thức hiểm nguy
của người lính và hai tiếng “ phì phèo”, “ cười ha ha” phải đọc với giọng vui
tươi, sảng khối đậm chất lính, chất trẻ trung...
Khi đọc mẫu, yêu cầu giáo viên phải đọc đúng như lời giáo viên chỉ dẫn
cho học sinh. Để tránh trường hợp nói một đằng làm một nẻo, mỗi lần đọc một
khác khiến học sinh không biết theo đường nào cho phù hợp. Giáo viên phải có
biện pháp tự rèn luyện. Sau khi học sinh đọc, giáo viên phải uốn nắn những chỗ
sai sót của học sinh. Chẳng hạn, một số học sinh cố gắng lên giọng để thể hiện
đúng giọng đọc của bài nhưng lên quá cao giọng nên nghe gay gắt như một tiếng
gãy, tiếng kêu gào. Có lúc yêu cầu xuống thấp lại xuống quá thấp nên kéo rất
mệt và khó lên. Có lúc lại đọc khơng đúng lời nhân vật, có lúc ngắt nhịp cũng
khơng đúng...
*Giáo viên phải có kĩ năng giảng bình. Bình giảng là một phương pháp
đặc thù của dạy học tác phẩm văn chương và hình như trở thành bí quyết trong
dạy học văn. Bởi chỉ có bình giảng mới tạo được sự lắng đọng cảm xúc, mới làm
cho học sinh rung cảm và hiểu biết về tác phẩm đúng đắn và sâu sắc.

Một bài giảng văn, kết cấu chặt chẽ, rõ ràng, khoa học, lời giảng
trau chuốt, truyền cảm sẽ hấp dẫn học sinh, Song, giáo viên tạo điểm nhấn trong
giờ giảng văn bằng lời bình hay.
Giáo viên khi bình nên thốt li giáo án, diễn đạt rõ ràng, hấp dẫn, dù đó
là lời của ai, khơng nên đọc, nếu đọc sẽ giảm tính thuyết phục đi nhiều. Mỗi tiết
11


giảng văn giáo viên cố gắng lựa chọn một vài lời bình hay để diễn đạt cho học
sinh nghe.
Ví dụ 1: Ở bài thơ “ Bếp lửa” của Bằng Việt ( Ngữ văn 9) biết bao kỉ
niệm xa xưa được nhớ lại, trong đó có một ấn tượng đậm nhất, nổi lên, lay động
tâm hồn. Đó là ấn tượng về mùi “ khói bếp”. Giáo viên thật thiếu xót nếu khơng
bình hình ảnh này: “Nhà thơ đã chọn được một chi tiết thật sát hợp, vừa miêu tả
chân thực cuộc sống tuổi thơ, vừa biểu hiện thấm thía những tình cảm khi tỏ, khi
mờ, lúc da diết, bâng khuâng, lúc xót xa thương mến. Đẻ rồi cái “ mùi khói bếp”
ấy nhấn lại dịng kỉ niệm, xốy sâu trong tiềm thức, lay động mạnh cả thể xác
con ngườ. Vì thế cái “ Bếp lửa” kỉ niệm của Bằng Việt chỉ mới khơi lên, thoang
thoảng mùi khói, mờ mờ sắc khói …mà đã đầy ắp những hình ảnh hiện thực,
thấm đẫm biết bao nghĩa tình sâu nặng[4]”.
Ví dụ 2: “Bài thơ tiểu đội xe khơng kính” của Phạm Tiến Duật
( Ngữ văn 9) kết thúc bằng hình ảnh “ Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước /
Chỉ cần trong xe có một trái tim”, nó đã chói ngời cả đoạn thơ, bài thơ, bởi cội
nguồn sức mạnh của cả đoàn xe, gốc rễ, phẩm chất anh hùng của người cầm lái
tích tụ, đọng kết lại ở cái “trái tim” gan góc, kiên cường, giàu bản lĩnh và chan
chứa tình u thương này. Phải chăng chính tình u Tổ Quốc, tình yêu thương
đồng bào, đồng chí ở miền Nam đau khổ đã khích lệ, động viên người chiến sĩ
vận tải vượt qua khó khăn gian khổ, ln lạc quan, bình tĩnh nắm chắc tay lái,
nhìn thật đúng hướng để đưa đồn xe khẩn trương tới đích.
d. Giáo viên dạy văn phải là một “ nghệ sĩ” đa tài.

Văn học đến với người tiếp nhận thơng qua con đường tình cảm. Chỉ khi
nào tác phẩm văn học lay động được trái tim của người đọc, người nghe thì lúc
đó tác phẩm văn học mới thực sự được sống. Và giáo viên chính là “ chiếc cầu
nối” mang lại sự sống đó. Để làm được điều này thì giáo viên phải là người
“nghệ sĩ” đa tài. Bạn cứ nhìn lại mà xem, có khi ta trong vai một ca sĩ nghiệp dư
với những giai điệu lúc trầm lúc bổng; có khi lại sâu lắng, da diết với tư cách là
thành viên của “Hội ngâm thơ Tao Đàn”; có lúc lại một “nhà đạo diễn” bộn bề
mà các diễn viên khơng ai khác chính là học sinh của ta; và khi cần thiết ta cũng
có thể là một “nhiếp ảnh gia”, một “nhà quay phim”…tất cả sự hóa thân đó mặc
dù chưa được qua trường lớp nào nhưng nó lại góp phần đắc lực để tạo ra hứng
thú cho một giờ học văn có hiệu quả.
Ví dụ 1: - Khi những lời thơ trong bài “ Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh
Hải ( Ngữ văn 9) vang lên cũng là lúc đất nước bước vào xuân, ít nhiều làm cho
chúng ta bồi hồi xao xuyến. Vậy thì hãy để cho những giai điệu đã được nhạc sĩ
Trần Hồn phổ nhạc cất lên đón chào một mùa xn mới. Rồi cịn “ Đồng chí”,
“Viếng lăng Bác”…chẳng phải hứng thú văn học được gieo mầm từ đây sao ?
Ví dụ 2 - Dạy bài “ Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng ( Ngữ
văn 9) cũng nên cho học sinh xem một trích đoạn phim trong “ Cánh đồng
hoang” của đạo diễn Hồng Sến mà nhà biên kịch khơng ai khác chính là nhà văn
Nguyễn Quang Sáng để học sinh thấy được tội ác tày trời của quân giặc, thấm
12


thía được những đau thương, mất mát mà chiến tranh gieo xuống cho bao con
người, bao gia đình Việt Nam.
Đặc biệt so với các bộ mơn học khác thì dạy học Văn bằng đồ dùng trực
quan là rất ít do đặc thù của mơn Ngữ văn. Nếu có chăng thì cũng chỉ có vài bức
tranh ảnh minh họa. Mặc dù vậy tơi ln có ý thức sử dụng các phương tiện, đồ
dùng dạy học trong các giờ dạy với những hình ảnh sinh động phù hợp, giúp cho
học sinh dễ dàng tiếp thu, khắc sâu kiến thức và sẽ đem lại hứng thú cho học

sinh. Nguồn tư liệu để tạo đồ dùng dạy học có thể lấy từ trên mạng, tài liệu tham
khảo, giáo viên vừa tự sưu tầm vừa yêu cầu học sinh sưu tầm trong quá trình
chuẩn bị bài mới. Như vậy giáo viên vừa có đồ dùng để dạy vừa lôi cuốn được
học sinh vào bài học ngay từ lúc chuẩn bị bài ở nhà.
Ví dụ 3: Sau khi dạy xong bài “ Chuyện người con gái Nam Xương”
của Nguyễn Dữ để củng cố giúp học sinh nhớ lại cốt truyện tơi đã sử dụng tranh
và trình chiếu lên máy yêu cầu học sinh dựa vào tranh kể tóm tắt lại truyện.

Tóm lại để thực hiện được chức năng của người giáo viên – người “nghệ
sĩ đa tài” giáo viên phải nhiệt tình, phải thăng hoa trong mỗi giờ dạy, phải thành
thạo công nghệ thông tin và phải biết sử dụng các thiết bị dạy học hiện đại.
Có như thế thì hứng thú của một giờ học văn mới được nảy nở ở học
sinh. Tuy nhiên không có một biện pháp nào là tối ưu mà giáo viên cần phải linh
hoạt trong từng bài dạy vì biện pháp này mất rất nhiều thời gian, mà dạy văn
thời gian là vô cùng quan trọng.

13


e. Lồng ghép chuyện văn chương với “chuyện đời thường”.
Người giáo viên được vinh danh là “những kĩ sư tâm hồn” nghĩa là
người xây dựng, làm giàu, làm mới và làm đẹp cho tâm hồn người học. Tuy
nhiên với học sinh THCS ở lứa tuổi “ dại chưa qua, khôn chưa tới”các em rất dễ
chóng chán, dễ mất hứng thú, khơng chịu bất kì gị ép, lệ thuộc nào. Với các em
trước hết phải thích đã. Một khi đã mất hứng thú và cảm thấy khiên cưỡng các
em sẽ tìm đến một giải pháp là “ giải phóng” tinh thần. Nghĩa là để đầu óc trống
rỗng, khơng tập trung, khơng suy nghĩ và khơng cộng tác trong giờ học. Vì vậy
“ những kĩ sư tâm hồn” phải nắm bắt được tâm lí lứa tuổi này để đưa các em về
với khơng khí của giờ học.
Hiểu được thị hiếu của học sinh, trong các tiết học văn tôi đẫ cố gắng

lồng ghép chuyện văn chương với chuyện đời thường để tạo ra màu sắc mới cho
mỗi bài học. Bởi chúng ta đã biết “ văn học là nhân học”, bất cứ một tác phẩm
văn chương nào cũng chứa đựng một bài học luân lí mà người nghệ sĩ muốn gửi
đến người đọc. Tuy nhiên cứ giáo huấn các em bởi những lí thuyết khơ khan,
trừu tượng thì “chữ thầy lại trả cho thầy”. Cho nên đây là thời điểm để những
“câu chuyện đời thường” được kể các em nghe.
Xong chớ hiểu nhầm chuyện đời thường là những câu chuyện tạp nham,
“chuyện vỉa hè”, “chuyện đường phố” được thu lượm lại để rồi biến giờ học
thành giờ “ buôn dưa lê”.
Với tôi câu chuyện văn học thường được bắt đầu từ những câu chuyện
trong “Quà tặng cuộc sống”, “ Hạt giống tâm hồn” mà tơi xem đó là “ chuyện
đời thường”.
Ví dụ 1: Để chuẩn bị dạy bài “ Mùa xuân nho nhỏ” của Thanh Hải
( Ngữ văn 9) với mục đích giúp các em nhận thức được sự cống hiến, sẻ chia âm
thầm của một con người “ lúc gần đất xa trời”, tôi đã kể cho các em nghe câu
chuyện “ Hai biển hồ”: Biển Chết và Biển Galilê là hai biển hồ đều được đón
nhận nguồn nước từ sơng Jordan. Nước sơng Jordan chảy vào Biển Chết. Biển
Chết đón nhận và giữ riêng cho mình mà khơng chia sẻ nên nước trong biển chết
trở nên mặn chát. Biển Galilê đón nhận nguồn nước từ sơng Jordan rồi từ đó tràn
qua các hồ nhỏ và sông lạch. Nhờ vậy nước trong biển hồ này luôn sạch và
mang lại sự sống cho cây cối, muông thú và con người.
Rõ ràng câu chuyện là một định lí trong cuộc sống mà ai cũng đồng tình:
một ánh lửa chia sẻ là một ánh lửa lan tỏa. Một đồng tiền kinh doanh là một
đồng tiền sinh lợi. Đơi mơi có hé mở mới thu nhận được nụ cười. Bàn tay có mở
rộng, trao ban, tâm hồn mới tràn ngập vui sướng[5].
Ví dụ 2: “ Ánh trăng” của Nguyễn Duy ( Ngữ văn 9) gợi nhắc, củng cố
ở người đọc thái độ sống “ uống nước nhớ nguồn”, ân nghĩa thủy chung đối với
quá khứ. Tôi đã sử dụng thiết bị dạy học máy chiếu đa năng để trình chiếu cho
học sinh xem câu chuyện “Bàn tay yêu thương” trong “Quà tặng cuộc sống”:
Nội dung câu chuyện kể về một tiết học vẽ, cô giáo yêu cầu học sinh vẽ

về một điều gì mà các em thích nhất . Thế rồi lần lượt những món quà, những ly
kem, những quyển truyện …đều được các em vẽ. Thế nhưng cơ đã hồn tồn
14


ngạc nhiên trước một bức tranh lạ của một em học sinh: bức tranh vẽ một bàn
tay. Cả lớp bị lơi cuốn bởi bức tranh này. Đó là bàn tay của bác nông dân ? Của
một bác sĩ ?...Và rồi cơ giáo ngẩn ngơ người khi biết đó là bàn tay của chính
mình. Bàn tay cơ đã từng dùng để dắt em bước ra sân, bởi em là một cô bé
khuyết tật; bàn tay cơ đã nắn nót từng nét chữ cho em trong mỗi giờ học…Bàn
tay ấy hôm nay nhắc nhở em về những năm tháng gian lao luôn có cơ bên
cạnh[5].
Tuy nhiên lồng ghép chuyện văn học với chuyện đời thường cũng khơng
nên rập khơn, máy móc. Giáo viên cần phải sử dụng hợp lí, đúng lúc, đúng chỗ,
phù hợp với nội dung bài học hoặc một vấn đề nào đó mà cả lớp đang bàn đến.
2.4 Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
M. Gorki đã từng nói: Thiên tài nảy nở từ tình u đối với cơng việc”.
Nói như thế có nghĩa là bất cứ sự lao động nào nếu có niềm đam mê thì hiệu quả
cơng việc sẽ khả quan hơn. Sau khi vận dụng nội dung của đề tài vào thực tiễn
giảng dạy, tôi nhận thấy học sinh có sự tiến bộ rõ rệt, mỗi một giờ học trơi qua
thật nhẹ nhàng, các em tích cực hơn, tự tin hơn, có hứng thú hơn trong mỗi giờ
học văn. Đặc biệt từ việc có hứng thú trong học tập như thế đã giúp tôi rèn luyện
được một số kĩ năng cho các em như kĩ năng đọc diễn cảm, kĩ năng biết giảng
bình, so sánh đối chiếu khi phân tích và cảm thụ văn học, kĩ năng biết thu nhận
và tìm hiểu về những vấn đề xung quanh... Hơn thế nữa tơi cịn phát hiện một số
năng khiếu như hát, ngâm thơ, vẽ…của các em. Nhờ đó mà kết quả học tập mơn
Ngữ Văn đã có sự cải thiện và trong những năm gần đây tôi đều có học sinh giỏi
Ngữ văn các cấp.
Ngồi ra tơi cũng đã mạnh dạn trao đổi với đồng nghiệp của mình trong
tổ Văn và cũng được đồng nghiệp ủng hộ xây dựng.

Kết quả khảo sát số học sinh có hứng thú trong học Văn năm học 2015 – 2016
như sau:
Lớp Số học sinh Số học sinh có hứng thú
Số học sinh có điểm từ
khá trở lên
9B
36
20
15
9C

35

22

18

3. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
3.1 Kết luận:
Để nâng cao chất lượng dạy- học môn Ngữ Văn trong nhà trường, mỗi
thầy cô giáo dạy Văn cần phải có cái nhìn đa dạng và sâu sắc hơn. Khơng thể có
một giờ dạy Văn thành cơng nếu như thầy cơ khơng tự làm mới mình bằng
những phương pháp dạy học hiệu quả. Tạo hứng thú cho học sinh trong giờ học
là một trong yếu tố mà chúng ta cần phải nghĩ đến đầu tiên bởi tôi thiết nghĩ
phải mở được “cánh cửa” đã từ lâu khóa chặt ở học sinh thì chúng ta mới tác
động được đến tư tưởng tình cảm của các em.
15


Muốn làm được điều đó, các thầy cơ giáo cần chịu khó tìm tịi, học hỏi,

khơng ngừng nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Đồng thời cần soạn
giảng đầy đủ, kỹ càng vì bất kỳ nghề nào cũng cần phải có sự đầu tư, chuẩn bị
chu đáo mới thành cơng. Giống như nhà văn Nam Cao đã nói thơng qua lời của
nhân vật Hộ (Đời thừa): “cẩu thả trong văn chương khơng chỉ là bất lương mà
cịn là đê tiện”.
3.2 Kiến nghị:
* Đối với Phòng Giáo Dục: cần tổ chức các buổi học tập, trao đổi kinh
nghiệm trong dạy học Văn đồng thời những sáng kiến có tính thực tiễn cao cần
phải được triển khai để học tập.
* Đối với nhà trường: cần phải trang bị và bổ sung đồ dùng, phương tiện
dạy học đảm bảo chất lượng và hiện đại.
Trên đây là toàn bộ nội dung sáng kiến của tơi. Trong q trình giảng
dạy và rút kinh nghiệm khơng tránh khỏi thiếu xót. Rất mong nhận được sự góp
ý chân thành của các đồng nghiệp.
Tơi xin chân thành cảm ơn.

Xác nhận của thủ trưởng đơn vị

Hà Tiến, ngày 06 tháng 03 năm 2017
Tôi xin cam đoan đây là sáng kiến kinh
nghiệm của bản thân, không sao chép
của người khác
Người thực hiện

Lê Thị Kim Phượng

16


TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Hồ Chí Minh tồn tập, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội
năm 2002, tập 4.
2. Lí luận văn học – Nhà xuất bản giáo dục, 2001.
3. Thơ Hồ Xuân Hương – Nhà xuất bản văn hóa thơng tin, Hà Nội
năm 2000.
4. Bình giảng Văn 9 – Nhà xuất bản giáo dục.
5. Quà tặng cuộc sống – Nhà xuất bản trẻ - Báo tuổi trẻ.
6. Một số tài liệu tham khảo trên mạng:
Nguồn: .
Nguồn: />
17


DANH MỤC
CÁC ĐỀ TÀI SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ĐÃ ĐƯỢC HỘI ĐỒNG
ĐÁNH GIÁ XẾP LOẠI
Họ và tên tác giả: Lê Thị Kim Phượng
Chức vụ và đơn vị công tác: Giáo viên – Trường THCS Hà Tiến

TT

Tên đề tài SKKN

Cấp đánh
giá xếp loại

1.

Một số biện pháp bồi dưỡng học


Sở

Kết quả
đánh giá
xếp loại

Năm học
đánh giá
xếp loại

B

2008 - 2009

sinh năng khiếu môn Ngữ văn

18



×