Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

(Luận văn thạc sĩ) nghiên cứu đề xuất một số giải pháp quản lý rừng bền vững ở vùng đệm vườn quốc gia chư yang sin krông bông đắk lắk​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (697.7 KB, 102 trang )

Bộ giáo dục và đào tạo

Bộ Nông nghiệp và PTNT

Trường đại học lâm nghiệp

Lương hữu thạnh

NGHIÊN CứU Đề XUấT MộT Số GIảI PHáP
QUảN Lí RừNG BềN VữNG ở VùNG ĐệM VƯấn
quốc gia chư yang sin- krông bông - đăk lăk.

Luận văn thạc sĩ khoa học lâm nghiệp
MÃ số: 60-62-60

Tây Nguyên, 2002


Bộ giáo dục và đào tạo

Bộ Nông nghiệp và PTNT

Trường đại học lâm nghiệp

Lương Hữu Thạnh

Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp quản lí rừng
bền vững ở vùng đệm vườn quốc gia chư yang
sin- krông bông- đăk lăk

Luận văn thạc sĩ khoa học lâm nghiệp



Người hướng dẫn khoa học:
PGS.TS. Vũ Nhâm.

Tây Nguyên - 2002


Mục lục

Đặt vấn đề ................................................................................................. 3
Chương 1 : ................................................................................................... 6
tổng quan về vấn đề nghiên cứu ..............................................................6
1.1. Tổng quan về quản lý rừng bền vững. .......................................... 6
1.2- Trên thế giới. ................................................................................8
1.3- Trong nước : ...............................................................................10
Chương 2: .................................................................................................. 15
Mục tiêu, nội dung, phương pháp và phạm vi nghiên cứu ....................15
2.1- Mục tiêu .....................................................................................15
2.2- Nội dung nghiên cứu:................................................................. 15
2.2.1- Hiện trạng khu vực nghiên cứu. ..........................................15
2.2.2- Tình hình quản lý rừng ở vùng đệm:...................................16
2.2.3- ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên và kinh tế - xà hội đến quản lí
rừng bền vững vùng đệm:..............................................................16
2.2.4 - ảnh hưởng của một số chính sách của nhà nước:..............16
2.2.5- Đề xuất một số giải pháp quản lý rừng bền vững: ..............16
2.3- Phương pháp nghiên cứu:...........................................................16
2.3.1- Phương pháp kế thừa tài liệu :.............................................16
2.3.2- Phương pháp PRA...............................................................16
2.3.3- Phương pháp cân đo: ...........................................................18
2.3.4- Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế:.............................18

2.3.5- Phương pháp đánh giá hiệu quả xà hội và môi trường: 20
2.3.6 Phương pháp dự báo dân số và hộ gia đình trong tương lai: 20
2.4- Giới hạn, phạm vi nghiên cứu: ...................................................20
Chương 3 .................................................................................................. 22
Kết quả nghiên cứu................................................................................22
3.1- Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xà hội trong khu vực nghiên cứu :. 22
3.1.1 Lịch sử hình thành Vườn quốc gia Chư Yang Sin và các xà vùng
đệm: ...............................................................................................22
3.1.2- Điều kiện tự nhiên:..............................................................24
3.1.3- Hiện trạng sử dụng đất đai :................................................26
3.1.4 - Tài nguyên rừng trong khu vực nghiên cøu : .....................35
3.1.5 - Kinh tÕ - x· héi: ................................................................. 40
3.1.6- Thực trạng quản lý sử dụng rừng : ......................................45

1


3.2- ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên và kinh tế, xà hội đến quản lí rừng
bền vững: ...........................................................................................50
3.2.1- ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên : ....................................50
3.2.2- ảnh hưởng của kinh tế và xà hội đến quản lí rừng bền vững:53
3.2.3 - ảnh hưởng của tài nguyên sinh vật : ................................. 63
3.2.4- ảnh hưởng của một số chính sách đến quản lí rừng bền vững:
.......................................................................................................67
3.3- Một số giải pháp nhằm góp phần quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền
vững ở vùng đệm Vườn quốc gia Chư Yang Sin : .............................71
3.3.1 - Quy hoạch sử dụng đất: .....................................................71
3.3.2 - Giải pháp về xà hội : ..........................................................88
3.3.3 Giải pháp về môi trường :..................................................93
Kết luận, tồn tại và kiến nghị. ...............................................................97

4.1 - Kết luận:....................................................................................97
4.1.1- Điều kiện tự nhiên và ảnh hưởng đến quản lí rừng bền vững:97
4.1.2- Điều kiện kinh tế- xà hội và ảnh hưởng đến quản lí rừng bền97
vững: ..............................................................................................97
4.1.3 Về giải pháp phát triển kinh tế: .......................................98
4.2 - Tồn tại: ......................................................................................99
4.3- Kiến nghị:.................................................................................100

2


Đặt vấn đề
Rừng là nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng quý báu mà thiên nhiên đà ban tặng
cho con người. Ngoài giá trị kinh tế, rừng còn có tác dụng cung cấp các loại dược liệu cho
y học để phục vụ sức khỏe con người. Đặc biệt rừng còn có vai trò rất quan trọng trong
việc bảo vệ môi trường sinh thái, hạn chế lũ lụt, ... Tài nguyên rừng là một loại tài nguyên
có khả năng tái tạo nếu như nó nhận được những tác động hợp lý theo hướng có lợi của
con người.
Do nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nhu cầu ngày càng cao của con
người thì tài nguyên rừng ngày càng bị cạn kiệt cả số lượng và chất lượng của rừng. Hay
nói cách khác để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con người, trong những năm qua con
người đà khai thác kiệt quệ tài nguyên rừng làm cho các hệ sinh thái rừng mất đi tính bền
vững vốn có và làm cho nó khó có khả năng phục hồi, thậm chí diện tích rừng bị giảm
nhanh chóng ở những năm 90.
Nếu tính từ 1943 thì đất nước ta có khoảng 14,3 triệu ha rừng với độ che phủ chung
là 43% [10] thì hiện nay nước ta có khoảng 10,9 triệu ha rừng với độ che phủ chỉ còn
33,2% [11] thấp hơn chỉ mức báo động che phủ rừng tối thiểu để duy trì cân bằng sinh
thái cho một quốc gia. Chẳng những diện tích rừng và chất lượng rừng bị giảm sút gây nên
nhiều biến động xấu về kinh tế và môi trường mà còn làm mất đi tính đa dạng sinh học
của các theo hệ sinh thái rừng, mất đi những nguồn gen động thực vật qúy hiếm.

Mặc dù những năm qua đất nước ta phải gánh chịu nhiều thiên tai như hạn hán, lũ
lụt đà liên tiếp xảy ra, đặc biệt là ở vùng Tây bắc, Bắc trung bộ, duyên hải Nam trung bộ
và đồng bằng Sông Cửu Long đà gây thiệt hại nghiêm trọng về người và của. Tuy nhiên
quá trình Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta đang diễn ra theo tốc độ ngày càng tăng
sẽ có tác động lớn đến nhu cầu đảm bảo an ninh, môi trường cũng như nhu cầu phát triển
bảo vệ đất nước đòi hỏi vấn đề xây dựng cơ sở hạ tầng phải được đẩy mạnh hơn nữa trong
thời gian tới. Các nhà khoa học trên thế giới đà xác định rằng việc thành lập các khu rừng
đặc dụng nhằm mục đích bảo vệ nguyên vẹn các hệ sinh thái rừng hiện có, bảo tồn các
nguồn gen động thực vật quý hiếm phục vụ nghiên cứu khoa học, bảo vệ cảnh quan môi
trường, bảo vệ và cải tạo môi trường sinh thái là rất cần thiết.

3


Trong đó vấn đề ngăn chặn sự xâm lấn của người dân đến vùng lõi của các vườn
quốc gia, mở rộng và tạo điều kiện tốt cho các loại động, thực vật sinh sống trong vùng
lõi, trên cơ sở thành lập các vùng đệm của các khu rừng đặc dụng là quan trọng.
Vườn quốc gia Chư Yang Sin được xây dựng trên cơ sở khu bảo tồn thiên nhiên
Chư Yang Sin thành lập vào năm 1998 với tổng diện tích 58.947 ha. Diện tích vùng lõi
nằm trên địa bàn hai huyện Krông Bông và Lắk thuộc tỉnh Đăk Lăk. Diện tích vùng đệm:
có 09 XÃ, thị trấn thuộc huyện Krông Bông, 04 xà thuộc huyện Lăk tỉnh Đăl Lăk và hai
huyện Lạc Dương, Lâm Hà (Tỉnh Lâm Đồng). Việc thành lËp V­ên quèc gia Ch­ Yang
Sin cã ý nghÜa to lớn trong việc bảo vệ các hệ sinh thái rừng theo đai độ cao, bảo tồn các
nguồn gen động, thực vật quý hiếm như: Pơmu, Hồi, Kim giao, Thông 5 lá và Mi lang
Biang, Hổ... Khu hệ thực vật ở đây rất đa dạng và phong phú, có cả các loài thực vật nhiệt
đới và ôn đới và có những rừng cây lá kim rộng lớn, với khu rừng Thông thuần loài. Bên
cạnh đó còn phát triển và nâng cao kinh tÕ - x· héi ë c¸c x· trong vïng ®Öm [31]. V­ên
quèc gia Ch­ Yang Sin n»m trong l­u vực thượng nguồn sông Sêrêpok. Do đó nó còn có
chức năng phòng hộ, điều tiết nguồn nước cho sông Mêkông. Tuy nhiên, trong vấn đề
quản lý, bảo vệ rừng ở các khu rừng đặc dụng nói chung và ở Vườn quốc gia Chư Yang

Sin gặp rất nhiều khó khăn.
Trong những năm gần đây, dân số ở các xà thuộc vùng đệm Vườn quốc gia Chư
Yang Sin tăng lên khá nhanh. Các người đồng bào dân tộc thiểu số tại chỗ và người kinh
di cư từ 1982, đời sống của nhân dân ở đây gặp nhiều khó khăn. Những nhu cầu về cuộc
sống của người dân trong vùng đệm đà gây ¸p lùc lín ®Õn V­ên qc gia Ch­ Yang Sin
nh­ nhu cầu gỗ làm nhà, chất đốt, tiền mặt, lương thực... Để kiếm kế sinh nhai người dân
đà tác động đến rừng như: phá rừng làm rẫy, khai thác các loại gỗ quý hiếm và săn bắt
động vật hoang dà ... nhằm mục đích giải quyết một số nhu cầu trong cuộc sống để tồn tại.
Điều đó, dẫn đến việc quản lý rừng ở vùng lõi lẫn vùng đệm gặp nhiều khó khăn, diện tích
rừng và chất lượng rừng ngày càng bị giảm sút nghiêm trọng, làm mất đi tính bền vững
của các hệ sinh thái rừng.
Do vậy, để bảo vệ gìn giữ những giá trị tài nguyên rừng và ®éng, thùc vËt quý hiÕm
trong vïng lâi V­ên quèc gia Chư Yang Sin cần phải có những nghiên cứu đề xuÊt c¸c

4


giải pháp quản lý rừng bền vững ở vùng đệm, phục hồi nguồn tài nguyên rừng và nâng cao
đời sống kinh tế cho dân trong vùng đệm là điều rất cần thiết.
Để góp phần tìm ra những giải pháp quản lý rừng bền vững ở vùng đệm của các
khu rừng đặc dụng nói chung và ở vùng đệm Vườn quốc gia Chư Yang Sin nói riêng
chúng tôi tiến hành đề tài : Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp quản lý rừng bền
vững ở vùng đệm Vườn quốc gia Chư Yang Sin-Krông Bông -Đăk Lăk.

5


Chương 1 :
tổng quan về vấn đề nghiên cứu
1.1. Tổng quan về quản lý rừng bền vững.

Trước đây, rừng tự nhiên bao trùm phần lớn diện tích mặt đất. Tuy nhiên, do những
tác động của con người như khai thác lâm sản quá mức, phá rừng lấy đất trồng trọt, đất
chăn thả, xây dựng các khu công nghiệp, mở rộng các điểm dân cư, đà làm cho rừng
ngày một thu hĐp dÇn vỊ diƯn tÝch. Tû lƯ che phđ cđa rừng tự nhiên giảm đi mỗi ngày một
nhanh. Trong những năm đầu của thế kỷ 20, sau hàng nghìn năm khai thác và sử dụng của
con người diện tích rừng trên thế giới vẫn còn khoảng 60-65%, nhưng chỉ trong gần 1 thế
kỷ, tính đến năm 1995 con số này ®· gi¶m ®i mét nưa. Theo sè liƯu cđa tỉ chức lương
thực thế giới, tổng diện tích rừng tự nhiên hiện chỉ còn khoảng 3.454 triệu ha tương đương
khoảng 35% diện tích mặt đất. Bình quân mỗi năm diện tích rừng bị giảm đi khoảng 23
triệu ha [8].
ở Việt Nam hiện tượng mất rừng cũng tương tự như vậy. Vào năm 1943 tỷ lệ che
phủ của rừng tự nhiên còn khoảng 43% diện tích lÃnh thổ. Đến nay tỷ lệ này chỉ còn
khoảng 33,2%, tập trung chủ yếu ở Tây Nguyên, Đông nam bộ và miền trung. Rừng tự
nhiên ở nước ta không chỉ bị thu hẹp về diện tích mà còn bị giảm đi về chất lượng. Các
loài gỗ quý đà bị khai thác cạn kiệt, các loài cho sản phẩm có giá trị cao như lương thực,
thực phẩm, dược liệu, nguyên liệu cho công nghiệp, thủ công mỹ nghệ,.. trở nên khan
hiếm, nhiều loài động vật hoang dà trong rừng đang có nguy cơ tuyệt chủng.
Sự suy giảm diện tích và chất lượng của rừng tự nhiên chẳng những đà làm xuống
cấp một nguồn tài nguyên có khả năng cung cấp liên tục những sản phẩm đa dạng cho
cuộc sống con người, mà còn kéo theo những biến đổi nguy hiểm của điều kiện sinh thái
trên hành tinh. HËu qu¶ quan träng nhÊt cđa mÊt rõng trong thÕ kỷ qua làm cho khí hậu
biến đổi, nguồn nước không ổn định, đất đai bị hoang hoá, quy mô và cường độ của những
thiên tai như gió, bÃo, hạn hán, lũ lụt, cháy rừng ngày một gia tăng. Sự mất rừng đà trở
thành nguyên nhân trực tiếp của sự đói nghèo ở nhiều quốc gia, là nguyên nhân của hiểm
hoạ sinh thái đe doạ sự tồn tại lâu bền của con người và thiên nhiên trên toàn thế giới.

6


Trước tình hình đó một yêu cầu cấp bách đặt ra là phải quản lý rừng như thế nào để

ngăn chặn được tình trạng mất rừng, trong đó việc khai thác những giá trị kinh tế của rừng
không mâu thuẫn với việc duy trì diện tích và chất lượng của nó, duy trì và phát huy
những chức năng sinh thái to lớn với sự tồn tại lâu bền của con người và thiên nhiên. Đây
cũng là xuất phát điểm của những ý tưởng của quản lý rừng bền vững quản lý rừng nhằm
phát huy đồng thời những giá trị về kinh tế, xà hội và môi trường của rừng. Mặc dù nội
dung của quản lý rừng bền vững rất phong phú và đa dạng với những khác biệt nhất định
phụ thuộc vào điều kiện cụ thể của từng địa phương, từng quốc gia, song người ta cũng
đang cố gắng đưa ra những khái niệm để diễn đạt bản chất của nó. Chẳng hạn theo tổ chức
Gỗ nhiệt đới (ITTO) [41] thì Quản lý rừng bền vững là quá trình quản lý những diện tích
rừng cố định nhằm đạt được những mục tiêu là đảm bảo sản xuất liên tục những sản phẩm
và dịch vụ rừng mong muốn mà không làm giảm đáng kể những giá trị di truyền và năng
suất tương lai của rừng, không gây ra những tác động tiêu cực đối với môi trường vật lý và
xà hội, còn theo hiệp ước Helsinki thì Quản lý rừng bền vững là sự quản lý rừng và đất
rừng một cách hợp lý để duy trì tính đa dạng sinh học, năng suất, khả năng tái sinh, sức
sống của rừng, đồng thời duy trì tiềm năng thực hiện các chức năng kinh tế, xà hội và sinh
thái của chúng trong hiện tại cũng như trong tương lai, ở cấp địa phương, quốc gia và toàn
cầu và không gây ra những tác hại đối với các hệ sinh thái khác [4]. Mặc dù có sự sai
khác nhất định trong cách diễn đạt ngôn từ, nhưng các khái niệm đều hướng vào mô tả
mục tiêu chung của quản lý rừng bền vững. Đó là quản lý để đạt được sự ổn định về
diện tích, sự bền vững về tính đa dạng sinh học, về năng suất kinh tế và hiệu quả
sinh thái môi trường của rừng. Các khái niệm trên cũng chỉ rõ sự cần thiết phải áp dụng
một cách linh hoạt của các biện pháp quản lý rừng phù hợp với từng địa phương, và quản
lý rừng bền vững phải được thực hiện ở các quy mô từ địa phương, quốc gia đến quy mô
toàn thế giới.
Trên quan điểm kinh tế sinh thái thì, về mặt nguyên tắc, hiệu quả sinh thái môi
trường của rừng hoàn toàn co thể quy đổi được thành những giá trị kinh tế. Vì thực chất,
việc nâng cao giá trị sinh thái môi trường của rừng sẽ góp phần làm giảm bớt những chi
phí cần thiết để cải tạo và ổn định môi trường vật lý cho sự tồn tại của con người và thiên

7



nhiên, duy trì và cải thiện năng suất của các hệ sinh thái cũng như nhiều hoạt động phát
triển kinh tế xà hội khác. Như vậy, quản lý rừng bền vững thực chất là một hoạt động
nhằm góp phần vào sử dụng bền vững, sử dụng tối ưu không gian sống của mỗi địa
phương, mỗi quốc gia và toàn thế giới.
Với ý nghĩa kinh tế và sinh thái môi trường cực kỳ quan trọng, quản lý rừng bền
vững hiện được xem là một trong những nhiệm vụ cấp bách nhất của hoạt động quản lý tài
nguyên, một giải pháp lớn cho sự tồn tại lâu bền của con người và thiên nhiên trên trái đất.
1.2- Trên thế giới.
Cơ sở lý luận:
Đối với các quốc gia trên thế giới, tài nguyên rừng luôn luôn đóng vai trò hết sức
quan trọng. Cuộc sống của đại đa số người dân đều phụ thuộc vào tài nguyên rừng. Đặc
biệt là những người dân sống ë miỊn nói, cã ®êi sèng phơ thc chđ u vào nguồn thu từ
các loại lâm sản. Môi trường sống của đại bộ phận dân cư ở cả miền xuôi cũng như miền
ngược đều dựa vào sự tồn tại của tài nguyên rừng. Thế nhưng, những cố gắng tăng cường
kiểm soát hành chính đối với các khu rừng quốc gia thường chỉ làm tăng thêm mâu thuẫn
giữa các bên và chỉ gây thêm tổn hại đến hệ sinh thái, hơn là bảo tồn và sử dụng bền vững
các hệ sinh thái đó.
Nhân dân một số nước trên thế giới đà lên tiếng đòi hỏi các ngành công nghiệp chấm
dứt tình trạng khai thác tài nguyên rừng. Từ Surinam đến các đảo Solomo, ở ấn Độ, Nêpan,
Inđônêxia, Philippin, Ghana, Zimbabuwe, Panama, Mỹ, Canađa và nhiều dân tộc khác, mối
quan tâm đối với nạn phá rừng đà thúc đẩy các cộng đồng tổ chức các cuộc biểu tình quần
chúng, chặn các con đường chở gỗ, kêu gọi những đại biểu chính trị và các hệ thống pháp
luật ngăn chặn nạn phá rừng và làm suy thái tài nguyên rừng [15].
Quản lý rừng bền vững đề cập đến hai khía cạnh quan trọng là xây dựng, bảo vệ và
sử dụng các nguồn tài nguyên rừng phục vụ cho các nhu cầu của con người phải được diễn
ra một cách thường xuyên, liên tục và ổn định qua các thế hệ hiện tại và mai sau.
Quản lý và sử dụng rừng bền vững bao gồm các quy trình công nghệ, chính sách và
hoạt động, nhằm hội nhập những nguyên lý kinh tế-xà hội với các mối quan tâm về môi

trường sao cho có thể ®ång thêi :

8


- Giảm mức độ nguy cơ cho sản xuất (ổn định)
- Duy trì và nâng cao sự phục vụ sản xuất (sản xuất)
- Có thể đứng vững được kinh tế (kinh tế)
- Có thể chấp nhận được về mặt xà hội.
- Không gây ô nhiễm môi trường.
- Nói cách khác, loại hình sử dụng tài nguyên rừng có thể được coi là bền vững nếu
như cách sử dụng có tính cân đối về mặt xà hội, có cơ sở về mặt môi trường, được chấp
nhận về mặt chính trị, có tính khả thi về mặt kỹ thuật và phù hợp về mặt kinh tế [36].
Những nghiên cứu liên quan đến đề tài :
Trên thế giới, lịch sử quản lý rừng được phát triển từ rất sớm. Đầu thế kỷ 18, các
nhà lâm học Đức G.L. Hartig [38], Heyer [39] hay Hundeshagen [40]... đà đề xuất nguyên
tắc lợi dụng lâu bền đối với rừng thuần loại đồng tuổi. Cũng vào thời điểm đó các nhà lâm
nghiệp Pháp (Gournad, 1922) và Thụy Sĩ (H. Boiolley) [35] cũng đà đề ra phương pháp
kiểm tra điều chỉnh sản lượng đối với rừng khác tuổi khai thác chọn. Trong thời kỳ này, hệ
thống quản lý rừng phần lớn vẫn dựa trên các mô hình kiểm soát quốc gia từ Trung ương.
Các khu đất rừng công céng chiÕm tõ 25-75% tỉng diƯn tÝch ®Êt ®ai cđa nhiều quốc gia.
Hiện nay, nhiều Chính phủ vẫn giữ nguyên pháp lý độc nhất kiểm soát toàn bộ các khu
rừng tự nhiên. các cơ quan Lâm nghiệp được giao bảo vệ những khu đất này thường phải
đương đầu với các vấn đề về vốn và nhân sự do ngân sách khu vực công cộng bị giảm
xuống trong qúa trình cải tổ kinh tế.
Trong giai đoạn từ cuối thế kỷ 19 đến giữ thế kỷ 20, hệ thống quản lý rừng thường
mang tính tập trung cao ở nhiều quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển [15].
Trong thời kỳ này, vai trò sự tham gia của cộng đồng trong quản lý rừng không được chú
ý. Mặc dù trong các quy định pháp luật thì rừng là tài sản của toàn dân. Song, trên thực tế
người dân không hề được hưởng lợi từ rừng và vì vậy người dân cũng không hề quan tâm

đến vấn đề xây dựng và bảo vệ vốn rừng. Họ chỉ biết khai thác rừng để lấy lâm sản và lấy
đất canh tác phục vụ cho nhu cầu sống của chính họ. Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển
của ngành công nghiệp, nhu cầu lâm sản ngày càng tăng lên nên tình trạng khai th¸c qóa

9


mức đối với tài nguyên rừng trong giai đoạn này cũng trở thành nguyên nhân quan trọng
của tình trạng suy thái tài nguyên rừng.
Bước sang giai đoạn từ giữa thế kỷ 20 trở lại đây, khi tài nguyên rừng ở nhiều quốc
gia đà bị giảm sút một cách nghiêm trọng, môi trường sinh thái và cuộc sống của đồng
bào miền núi bị đe doạ thì phương thức quản lý tập trung như trước đây không còn thích
hợp nữa. Người ta đà tìm mọi cách cứu vÃn tình trạng suy thoái rừng thông qua việc ban
bố một số chính sách nhằm động viên và thu hút người dân tham gia quản lý và sử dụng
tài nguyên rừng. Phương thức quản lý rừng cộng đồng (hay lâm nghiệp cộng đồng) xuất
hiện đầu tiên ở ấn Độ và dần dần biến thái thành các hình thức quản lý khác nhau như lâm
nghiệp, trang trại, lâm nghiệp xà hội (Nepan, Thái Lan, Philippin,...). Hiện nay, ở các nước
đang phát triển, khi sản xuất nông lâm nghiệp còn chiếm vị trí quan trọng đối với người
dân nông thôn miền núi, thì quản lý rừng theo phương thức phát triển lâm nghiệp xà hội sẽ
là một hình thức mang tính bền vững nhất về cả phương diện kinh tế, xà hội lẫn môi
trường sinh thái[3].
Năm 1967 1969 FAO đà quan tâm đến phát triển nông lâm kết hợp và đi đến
thống nhất: áp dụng biện pháp nông lâm kết hợp là phương thức tốt nhấtđể sử dụng đất
rừng nhiệt đới một cách hợp lí, tổng hợp và nhằm giải quyết vấn đề lương thực, thực phẩm
và sử dụng lao động dư thừa đồng thời thiết lập cân bằng sinh thái[37].
1.3- Trong nước :
Cơ sở lý luận :
Trong những năm qua do dân số tăng nhanh, nhu cầu của xà hội ngày càng cao.
Nạn khai thác gỗ ồ ạt của lâm tặc, khai thác không đúng quy trình, chỉ chú trọng khai thác
mà không chú ý đến tái tạo và nuôi dưỡng rừng, chuyển đổi mục đích sử dụng đất làm cho

diện tích và chất lượng rừng ngày càng bị giảm sút, làm suy giảm tính đa dạng sinh học
của hệ sinh thái rừng. Trước tình hình đó Chính phủ đà ban hành nhiều văn bản và luật có
liên quan đến sản xuất lâm nghiệp :
- Luật bảo vệ và phát triển rừng[ 24].
- Ngày 22 tháng 7 năm 1992 Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra quyết định số 264/CT
về chính sách khuyến khích đầu tư và phát triển rừng[7].

10


- Năm 1992, Chính phủ phê duyệt chương trình 327 nhằm phủ xanh đất trống, đồi
núi trọc. Chương trình này bắt đầu từ năm 1992 đến năm 1998 đà được lồng ghép vào
chương trình 5 triệu ha kéo dài đến năm 2010 để gây trồng và khoanh nuôi tái sinh tự
nhiên nhằm tạo mới 5 triệu ha rừng, đồng thời bảo vệ nghiêm ngặt vốn rừng hiện có [23].
- Luật đất đai năm 1993 [9].
- Nghị định 64CP ngày 27/9/1993 của Chính phủ về giao đất nông nghiệp cho hộ
gia đình, cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích nông nghiệp[20].
- Nghị định số 02/CP ngày 15/1/1994 của Chính phủ về giao đất lâm nghiệp cho tổ
chức, hộ gia đình, cá nhân sử dụng lâu dài vào mục đích lâm nghiệp[21].
- Quyết định số 202/TTg ngày 02/5/1994 về quy định khoán bảo vệ rừng, khoanh
nuôi tái sinh và trồng rừng[25].
- Nghị định 163/1999/NĐ-CP ngày 16/11/1999 về giao đất, cho thuê đất lâm

nghiệp cho tổ chức, hộ gia đình và các cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm
nghiệp [22].
- Công văn số 1427 CV/ĐC ngày 13/10/1996 của Tổng cục Địa chính hướng dẫn
xử lý mét sè vÊn ®Ị vỊ ®Êt ®ai ®Ĩ cÊp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất[27].
- Trong tháng 2/1998, cục phát triển lâm nghiệp (Bộ nông nghiệp và PTNT) cùng
với sứ quán vương quốc Hà Lan và WWF Đông Dương, Hội đồng quản trị rừng quốc tế đÃ
tổ chức hội thảo về quản lý rừng bền vững và chứng chỉ rừng tại thành phố Hồ Chí Minh.

Hội thảo này nhằm làm rõ các khái niệm, nguyên tắc, tiêu chuẩn quảnlý rừng bền vững,
các chỉ tiêu đánh giá theo tiêu chuẩn quốc tế, hiện trạng quản lý rừng ở Việt Nam, xây
dựng mô hình quản lý các loại rừng có chức năng khác nhau, người quản lý rừng khác
nhau...
- Theo 10 tiêu chuẩn quản lí rừng bền vững của bộ tiêu chuẩn Việt Nam đều tập
trung vào 03 vấn đề chính là phát triển kinh tế ổn định, chấp nhận về xà hội và bảo đảm về
mặt môi trường.
Trong báo cáo Chiến lược phát triển lâm nghiệp đến năm 2010 [2]: Về môi
trường đạt độ che phủ 43%, về kinh tế đạt 2,5 tỷ USD của mặt hàng lâm sản xuÊt khÈu, vÒ

11


xà hội phải thu hút 6,8 triệu lao động tham gia sản xuất Lâm nghiệp. Riêng hệ thống rừng
đặc dụng phải đạt 2 triệu ha vào năm 2010. Định hướng phát triển Lâm nghiệp đến 2010:
Hệ sinh thái rừng nước ta rất đa dạng và phong phú. Do đó phát triển Lâm nghiệp đối với
rừng đặc dụng phải ưu tiên phát triển theo quan điểm môi trường là chủ yếu còn việc phát
triển xà hội là thứ yếu. Tập trung xây dựng hoàn thiện những khu rừng đặc dụng và đồng
thời tiếp tục phát hiện và đầu tư xây dựng các khu rừng đặc dụng khác. Nhiệm vụ chính
ngành Lâm nghiệp vùng Tây Nguyên là bảo vệ và phát triển rừng ở Tây Nguyên gắn liền
với giữ vững ổn định chính trị, an ninh và phát triển kinh tế xà hội của cả miền nam.
Khoanh giữ, bảo vệ các khu rừng đầu nguồn để bảo vệ đất đai màu mỡ và điều hòa nguồn
nước, cả nước ngầm cho các dòng sông và các thủy điện, giảm hạn hán cho các vùng hạ
lưu. Phấn đấu nâng độ che phủ bình quân của vùng này từ 53,2% (hiện nay) đến 61,4%
(vào năm 2010). Đối với các khu rừng đặc dụng cần phải làm rõ các phân khu chức năng
và quy hoạch xây dựng vùng đệm để ngăn chặn những tác động có hại đến vùng lõi.
Những quyết định, nghị định trên của Chính phủ là cơ sở cho việc quản lý và sử
dụng bền vững tài nguyên rừng.
Có thể nói rằng : Trong thời đại hiện nay, vấn đề quản lý bền vững các nguồn tài
nguyên thiên nhiên nói chung và tài nguyên rừng nói riêng không còn là nhiệm vụ của

riêng mét vïng hay mét qc gia nµo mµ lµ nhiƯm vụ của mọi thành viên, mọi cộng đồng
người trong một quốc gia hay rộng hơn là trên phạm vi toàn cầu. Sự suy giảm tài nguyên
của một quốc gia hay rộng hơn là trên phạm vi toàn cầu không những gây tổn thất trực
tiếp cho quốc gia đó trong việc cung cấp lâm sản (kinh tế), ổn định xà hội và bảo vệ môi
trường sinh thái mà còn có thể kéo theo nhiều hậu quả bất lợi cho các quốc gia lân cận
trong khu vực. Vì vậy chúng ta cần ph¸t huy c¸c t¸c dơng kh¸c nhau cđa rõng nh­ bảo vệ
môi trường sống, bảo tồn tính đa dạng sinh học và cân bằng hệ sinh thái v.v...
Một số nghiên cứu có liên quan:
- Vũ Văn Mễ, năm 1996 đà thử nghiệm phương pháp quy hoạch sử dụng đất và
giao ®Êt l©m nghiƯp cã sù tham gia cđa ng­êi d©n tại Quảng Ninh, đà đề xuất được 6
nguyên tắc và các bước cơ bản trong quy hoạch sử dụng đất cÊp x·.

12


- Nguyễn Tử Siêm và Thái Phiên [18], đà nêu được tínhbền vững trong sử dụng đất
đồi núi gồm 3 phương diện: bền vững về kinh tế, bền vững về môi trường và chấp nhận về
xà hội.
- Công trình Sử dụng đất tổng hợp bền vững của Nguyễn Xuân Quát năm 1996
[16], tác giả đà nêu những điều cần biết về đất đai, phân tích tình hình sử dụng đất đai,
cũng như các mô hình sử dụng đất bền vững, mô hình khoanh nuôi và phục hồi rừng ở
Việt Nam. Đồng thời cũng bước đầu đề xuất tập đoàn cây trồng nhằm sử dụng bền vững
và ổn định đất rừng.
- Về luân canh tăng vụ, trồng xen, trồng gối vụ, xác định cơ cấu cây trồng để sử
dụng hợp lý đất đai ở vùng núi phía Bắc đà được nhiều tác giả đề cập tới như Trần Đức
Viên và céng sù (1996) [33], Bïi Quang To¶n (1991) [26]. Theo các tác giả trên thì việc
lựa chọn hệ thống cây trồng trên đất dốc là rất thiết thực đối với các vùng phía Bắc Việt
Nam.
Đối với tài nguyên đất dốc, Phạm Chí Thành và cộng sự đà tiến hành nghiên cứu về
sử dụng tài nguyên đát dóc ở Văn Yên - Yên Bái, công trình nghiên cứu đều đi vào hướng

cải thiện hệ thống canh tác truyền thống: chọn giống cây trồng, chọn hệ thống canh tác,
chọn luân kỳ canh tác, chọn phương thức trông xen để tìm ra hệ thống trồng trọ tối ưu có
nhiều thuận lợi bảo vệ môi trường[19].
- 1998 Lê DoÃn Anh đà nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc rừng ở vườn quốc gia
Bạch MÃ, luận văn tốt nghiệp cao học năm 1998.[1]
- Năm 2000 Nguyễn Bá NgÃi đà nghiên cứu phương pháp luận, cơ sở thực tiễn quy
hoạch sử dụng đất có sự tham gia cấp xà vùng trung tâm tác giả đà đề xuất được phương
pháp luận về sự phối kết hợp giữa quy hoạch vĩ mô và vi mô và đưa ra được quy trình quy
hoạch sử dụng đất cấp xà [12].
Năm 2000, Lưu Cảnh Trung [29] đà nghiên cứu một số giải pháp nâng cao hiệu
quả quản lí sử dụng ®Êt ë x· ThiÖn KÕ thuéc vïng ®Öm V­ên quèc gia Tam Đảo, tác giả
đà khuyến nghị một số giải pháp phát triển kinh tế góp phần quản lí tài nguyên rừng.
Năm 1999 Tỉnh đoàn thanh niên Đăk Lăk đà thực hiện dự án bảo tồn đa dạng sing
học vùng đệm vườn quốc gia Chư Yang Sin( tại xà Hoà Phong), kết quả của dự án này đÃ

13


®em lai cho ng­êi d©n mét sè kiÕn thøc trång lúa nước và nâng cao nhậ thức về rừng của
đồng bào dân tộc thiểu số ở Buôn Ngô xà Hoà Phong.
Hiện nay ở vùng đệm vườn quốc gia Cát Tiên đang tiến hành dự án bảo vệ vùng
đệm ở hai xà Đăk Sin và Đạo Nghĩa, thông qua tham quan khảo sát của chúng tôi tại hai
xà trên thì rừng vẫn tác động bởi người dân thông qua việc khai thác gỗ và khai thác lâm
sản ngoài gỗ không đúng quy trình.
Nhìn chung các nghiên cứu trước đây đà tách rời việc nghiên cứu cấu trúc rừng và
việc sử dụng bền vững tài nguyên rừng vùng đệm, các khu rừng đặc dụng. Có rất nhiều tác
giả đà nghiên cứu quy hoạch sử dụng đất nâng cao thu nhập kinh tế cho người dân, còn
đối với vùng đệm của một khu rừng đắc dụng cụ thể thì có ít nghiên cứu hơn . Do đó, việc
nghiên cứu đề xuất một số giải pháp nhằm quản lý và sử dụng bền vững tài nguyên rừng
cho vùng đệm là việc làm thiết thực góp phần nâng cao đời sống kinh tế ở vùng đệm bền

vững. Đặc biệt là nghiên cứu cho một vùng ®Ưm cơ thĨ nh­ ë V­ên qc gia Ch­ Yang
Sin Krông Bông - Đăk Lăk.

14


Chương 2:
Mục tiêu, nội dung, phương pháp và phạm vi nghiên cứu
2.1- Mục tiêu
Phân tích được ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên và kinh tế - xà đến quản lí rừng
bền vững ở vùng đệm Vườn quốc gia Chư Yang Sin.
Đề xuất một số giải pháp phát triển kinh tế xà hội ở vùng đệm nhằm giảm áp lực
đến rừng vùng đệm và vùng lõi của Vườn quốc gia Chư Yang Sin
2.2- Nội dung nghiên cứu:
2.2.1- Hiện trạng khu vực nghiên cứu.
a. Hiện trạng Vườn quốc gia Chư Yang Sin và vùng đệm.
- Ví trí địa lý, ranh giới, diện tích, ranh giới hành chính.
- Lược sử hình thành khu bảo tồn và các xà vùng đệm.
- Địa hình, địa chất, thổ nhưỡng khí hậu thủy văn, tài nguyên rừng.
b. Hiện trạng sử dụng đất nông lâm nghiệp.
- Về nông nghiệp
- Về lâm nghiệp
c. Tài nguyên rừng trong vùng đệm.
- Trạng thái rừng
- Diện tích, trữ lượng theo trạng thái
d. Tình hình kinh tế - xà hội của vùng đệm.
+ Về kinh tế :
Tìm hiểu các hoạt động sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, cây công nghiệp, các
ngành thủ công và dịch vụ.
+ Về xà hội:

Tìm hiểu dân số, dân tộc, truyền thống canh tác và tổ chức quản lý xà hội.
Nhu cầu của người dân liên quan đến tài nguyên rừng (thực vật) gỗ làm nhà, chất
đốt.
e. Hiện trạng về môi trường :

15


. Độ che phủ
. Tài nguyên đất và những khu vực xói mòn qua biến động thiên tai
. Nước (nước bề mặt và nước ngầm).
2.2.2- Tình hình quản lý rừng ở vùng đệm:
- Tác động của con người đến vùng đệm và ảnh hưởng của con người đến vùng
đệm.
- Những thuận lợi.
- Những thách thức hiện tại trong thời gian tới đến QLBVR.
2.2.3- ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên và kinh tế - xà hội đến quản lí rừng
bền vững vùng đệm:
2.2.4 - ảnh hưởng của một số chính sách của nhà nước:
2.2.5- Đề xuất một số giải pháp quản lý rừng bền vững:
Trên cơ sở những hiện trạng và tình hình quản lý rừng ở vùng đệm chúng tôi đề
xuất một số giải pháp như sau :
a. Giải pháp về mặt kinh tế.
b. Giải pháp về xà hội.
c. Giải pháp về môi trường.
2.3- Phương pháp nghiên cứu:
2.3.1- Phương pháp kế thừa tài liệu :
- Trong đề tài này chúng tôi kế thừa những tài liệu như: Chính sách giao đất khoán
rừng, chính sách thuế lâm nghiệp, luật bảo vệ và phát triển rừng, chiến lược phát triển lâm
nghiệp từ 2001-2010.

- Những tài liệu đà có về điều kiện tự nhiên, kinh tế xà hội và nhân văn của vùng
đệm, hiện trạng và lịch sử hình thành Vườn quốc gia Chư Yang Sin và các xà vùng đệm.
- Hiện trạng quản lý sử dụng tài nguyên rừng được thu thập tại các uỷ ban nhân dân
xÃ, hạt kiểm lâm hun vµ V­ên qc gia Ch­ yang Sin.
- KÕ thõa việc phân chia trạng thái và trữ lượng theo các trạng thái rừng hiện có.
2.3.2- Phương pháp PRA
Để điều tra đánh giá kinh tế hộ gia đình và quy hoạch sử dụng đất chúng tôi tiến
hánh áp dụng phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham gia của người d©n: PRA.

16


Sau khi tìm hiểu điều kiện tự nhiên, kinh tế xà hội, chúng tôi tiến hành điều tra
phỏng vấn 30 hộ trong một buôn thuộc 1 xà (Yang Mao). Đây là buôn có mức sống thành
phần dân tộc, khả năng tiếp cận đại diện cho xà và cũng được xem là điển hình trong khu
vực. Những vấn đề phỏng vấn tập trung vào thực trạng đời sống kinh tế, văn hóa của người
dân, thực trạng quản lý và sử dụng các tài nguyên đất, rừng, tài nguyên sinh vật, hiệu quả
sử dụng các tài nguyên, nguyên nhân của sử dụng không hợp lý và làm suy thoái tài
nguyên rừng.
- Sử dụng phương pháp đi lát cắt, điều tra ngoài thực địa để tiến hành kiểm tra và
bổ sung những thông tin đà thu thập được từ qúa trình phỏng vấn hộ nhằm mô phỏng về
cấu trúc không gian của quá trình sản xuất hiện tại về hiện trạng tài nguyên rừng, đất, khí
hậu và động vật, thực vật ở địa phương, khảo sát điều kiện địa hình, địa chất thổ nhưỡng,
hoạt động canh tác, hiện trạng các loại rừng, tìm hiểu những nguyên nhân và đề xuất
hướng khắc phục.
-Phân loại cây trồng vật nuôi: Chúng tôi sử dụng phương pháp Matrix:
Phương pháp này được sử dụng bởi một nhóm người dân cân bằng về giới cho việc
lựa chọn đánh giá cây trồng, vật nuôi, mô hình canh tác. Matrix là một biểu mà
hàng trên cùng mà các loại cây trồng, vật nuôi của địa phương, cột bên trái là các
tiêu chí đánh giá cây trồng hoặc mô hình canh tác, các hàng, các ô còn lại để ghi kết

quả đánh giá các tiêu chí cao nhất là 10 điểm, thấp nhất là 1 điểm và cuối cùng là
điểm 0.
Hàng cuối cùng ghi tổng số điểm đánh giá tổng hợp từ các tiêu chí cho một
cây, con, một mô hình.
Người dân liệt kê những loài cây, con đà được trồng hoặc nuôi ở địa phương,
sau đó người hướng dẫn có thể gợi mở cho người dân và thống nhất đưa ra các chỉ
tiêu để phân loại, dựa vào các chỉ tiêu để so sánh và cho điểm.
Các chỉ tiêu như: Phù hợp với khí hậu, đất đai, dễ tìm giống, dễ gây trồng, ít
sâu bệnh hại, dễ tiêu thụ, ít dịch bƯnh,…(thĨ hiƯn ë 03 vÊn ®Ị: kinh tÕ, x· héi, m«i
tr­êng ).

17


- Phân tích lịch mùa vụ: Lịch mùa vụ cũng được chính người dân sống trong
cộng đồng bàn bạc, phân tích và thống nhất xây dựng lên sơ đồ lịch thời vụ. Trên cơ
sở lịch mùa vụ cho ta biết được thời gian nhàn rỗi trong nhân dân.
2.3.3- Phương pháp cân đo:
Để tính toán lượng gỗ, củi từ nhu cầu của con người, chúng tôi dùng phương
pháp cân đo trực tiếp lượng củi đun cho mỗi ngày và lượng gỗ cần thiết cho mỗi nhà
của một số hộ dân, sau đó tính giá trị bình quân.
2.3.4- Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế:
Để đánh giá tác động của các hình thức quản lý sử dụng đất đến phát triển kinh tế
xà hội. Đề tài dựa vào hệ thống các tiêu chí
-

Cơ cấu đất đai.

-


Cơ cấu lao động.

-

Cơ cấu đầu tư.

-

Cơ cấu thu nhập.

-

Kinh nghiệm sản xuất.

Để lựa chọn cây trồng thích hợp cho khu vực, từ điểm đánh giá cho một số
cây trồng vật nuôi của người dân theo phương pháp Matrix kết hợp với thực tiễn
trong sản xuất từ đó rút ra những nhận định chung nhất cho một số cây trồng, vật
nuôi phù hợp với thực tiễn sản xuất tại khu vực nghiên cứu.
Để đánh giá hiệu quả kinh tế cho mỗi mô hình canh tác, chúng tôi sử dụng
phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế thông qua các chỉ tiêu NPV, BCR, BPV,
CPV, IRR trên phần mềm Excel 7.0 của máy vi tính
Đề tài chọn hai phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế đó là Phương pháp
tĩnh và Phương pháp động.
+ Phương pháp tĩnh:
Coi các yếu tố chi phí và kết quả là độc lập tương đối và không chịu tác động
của yếu tố thời gian, mục tiêu đầu tư và biến động của giá trị đồng tiền.
Tổng lợi nhuận P=TN-CP

(2.1).


+ Phương pháp động:

18


Xem xÐt chi phÝ vµ thu nhËp trong mèi quan hệ động với mục tiêu đầu tư, thời gian,
giá trị đồng tiền .
Các chỉ tiêu:
Giá trị hiện tại lợi nhuận ròng NPV: NPV là hiệu số giữa giá trị thu nhập và
chi phí thực hiện các hoạt động sản xuất trong các mô hình khi đà tính chiết khấu ®Ĩ
quy vỊ thêi ®iĨm hiƯn t¹i.
Bt - C t

n

NPV =

(2-2)
(1+i)t

t=0

Trong đó : NPV là giá trị hiện tại thu thập ròng (đồng).
Bt là giá trị thu nhập ở năm t (đồng).
Ct là giá trị chi phí ở năm t (đồng).
i là tỉ lệ chiết khấu hay lÃi suất ( i = 7%/năm).
t là thời gian thực hiện các hoạt động sản xuất (năm).
NPV dùng để đánh giá hiệu quả kinh tế của các mô hình kinh tế hay các phương thức canh tác. NPV càng lớn thì hiệu quả cµng cao.
 Tû lƯ thu håi néi bé IRR: IRR là chỉ tiêu đánh giá khả khả năng thu hồi vốn
đầu t có kể đến yếu tố thời gian thông qua tÝnh chiÕt khÊu.

IRR chÝnh lµ tû lƯ chiÕt khÊu, tû lƯ nµy lµm cho NPV = 0 tøc lµ khi
n



t=0

Bt - C t
(1+i)t

= 0 th× i = IRR

(2-3)

 Tû lƯ thu nhËp so víi chi phÝ BCR:
BCR lµ hƯ số sinh lÃi thực tế phản ánh chất lợng đầu tư và cho biết mức thu
nhập trên một đơn vị chi phí sản xuất.
n



t=1

BCR =

Bt
(1+i)t

n


Ct

t=1

(1+i)t



Trong đó:

=

BPV

(2-4)

CPV

BCR là tỷ suất thu nhập và chi phí (đồng/ đồng).
BPV là giá trị hiện tại của thu nhập (đồng).

19


CPV là giá trị hiện tại của chi phí (đồng).
Nếu mô hình nào hoặc phương thức canh tác nào đó BCR > 1 thì có hiệu quả
kinh tế.
BCR càng lớn thì hiệu quả kinh tế càng cao, ngược lại BCR < 1 thì kinh doanh
không có hiệu quả.
2.3.5- Phương pháp đánh giá hiệu quả xà hội và môi trường:

Những thông tin thu được qua điều tra, phỏng vấn về lĩnh vực xà hội và môi trường được
tổng hợp đánh giá chỉ dừng lại ở mức độ định tính, mô phỏng chứ chưa đi sâu nghiên cứu
phân tích đánh giá về định lượng. Đây cũng là điểm giới hạn của đề tài.
2.3.6 Phương pháp dự báo dân số và hộ gia đình trong tương lai:
Để dự bao dân số và hộ gia đình trong tương lai chúng tôi áp dụng các công thức
sau:[17]
Dự báo dân số
Nt =

No( 1 +

Trong đó:

PV
100

)n

(2-5)

Nt

là dân số trong tương lai.

P

là tỷ lệ tăng dân số tự nhiên.

V


là tỷ lệ tăng dân số cơ học.

n

số năm cần dự tính.

No dân số hiện tại.

Dự báo số hộ gia đình:
H t=

Nt

*Ho
(2-6)
No
Trong đó : Ht Là số hộ trong tương lai.
Ho Là số hộ hiện tại.
Nt là dân số trong tương lai.
No dân số hiện tại.
2.4- Giới hạn, phạm vi nghiên cứu:
Nghiên cứu quản lý, sử dụng bền vững tài nguyên rừng nói chung và cho vùng đệm
nói riêng là lĩnh vực tương đối rộng. Tuy nhiên, do thời gian và điều kiện nghiên cứu có
hạn nên đề tài của chúng tôi chỉ tiến hành nghiên cứu trong thời gian 03 tháng với các nội
dung: nghiên cứu qúa trình quản lí sử dụng tài nguyên rừng bền vững ở vùng ®Ưm vµ ®Ị

20


xuất một số các giải pháp phát triển kinh tế xà hội cho một xà điển hình trong các xà vùng

đệm ở huyện Krông Bông, đó là xà Yang Mao.
Do điều kiện nghiên cứu có hạn nên các giải pháp được đề xuất chỉ dừng lại ở mực
độ định hướng, tổng thể.
Đề tài chúng tôi sử dụng phương pháp thu thập số liệu bằng phương pháp kế thừa
có chọn lọc là chính. Chỉ tiến hành đánh giá nông thôn và quy hoạch cơ cấu đất đai có sự
tham gia của ng­êi d©n.

21


Chương 3
Kết quả nghiên cứu
3.1- Điều kiện tự nhiên, kinh tế, xà hội trong khu vực nghiên cứu :
3.1.1 Lịch sử hình thành Vườn quốc gia Chư Yang Sin và các xà vùng đệm:
Khu bảo tồn thiên nhiên Chư Yang Sin được thành lập theo quyết định số 2200
ngày 29 tháng 09 năm 1998 của UBND tỉnh Dak Lak, Đến ngày 12 tháng 07 năm 2002
được Thủ tướng Chính phủ ký quyết định chuyển thành Vườn quốc gia Chư Yang Sin, víi
tỉng diƯn tÝch vïng lâi: 58.947 ha vµ diƯn tích vùng đệm 210.000 ha. Mục tiêu của Vườn
quốc gia Chư Yang Sin là : Bảo vệ nguồn gen động thực vật quý hiếm và đặc hữu. Tăng
cường khả năng phòng hộ của rừng đầu nguồn, góp phần cải thiện môi trường sinh thái
vùng Tây nguyên, đồng thời tăng cường khả năng phòng hộ cho cho rừng đầu nguồn lưu
vực sông Mê Kông. Góp phần giải quyết công việc làm cho nhân dân nhằm tăng thu
nhập, cải thiện đời sống và góp phần vào công tác an ninh trật tự an toàn xà hội. Trong
diện tích vùng đệm Vườn quốc gia Ch­ Yang Sin cã 09 x·, thÞ trÊn thuéc huyện Krông
Bông (Ea Trul, Hoà sơn, thị trấn Krông Kmar, Khuê Ngọc Điền, Hoà Lễ, Hoà Phong,
Cưpui, CưDRăm, Yang Mao), với tổng diện tích là 100.022,9 ha
Trước chiếc tranh các dân tộc MNông và Êđê sinh sống ở các thung lũng và bình
nguyên hẹp trên các sườn núi phía bắc của dÃy Chư Yang Sin con đường cũ (nay là tỉnh lộ
12) từ trung tâm huyện đến các xà Cư Drăm, Yang Mao do Thực dân Pháp xây dựng đà bị
hư hỏng mà không hề được sửa chữa và có rất ít sự trao đổi hàng hóa và thông tin với bên

ngoài. Người dân địa phương sinh sống chủ yếu theo phương thức tự cấp tự túc. Các buôn
làng đều ở các thung lũng gần chân núi. Canh tác nông nghiệp theo phương thức du canh,
du cư với các loại cây lương thực: Lúa, Sắn và Ngô... trên các sườn đồi và thung lũng. Hệ
thống thủy lợi chưa có, chủ yếu là dựa vào lượng nước mưa tự nhiên trong năm, đời sống
người dân vô cùng khổ cực. Hàng năm, thiếu đói từ 3 đến 5 tháng. Trong thời gian này, họ
sống qua ngày nhờ vào các loại lâm sản(củ rừng) và săn bắn động vật rừng.
Khi bắt đầu chiến tranh thì địa phận Krông Bông có lợi thế rất nhiều về chiến lược
quân sự và đà được bộ đội ta tận dụng triệt để. Trong thời kỳ này đất đai được tận dụng
nhiều để sản xuất lương thực cho tiền tuyến đồng thời thú rừng đà bị săn bắn nhiều để làm

22


thực phẩm, trong thời kỳ này bom đạn và chất độc hóa học do Mỹ nà xuống đà phá hủy
khoảng 3%-5% diện tích rừng ở Krông Bông.
Sau hiệp định Paris(1973) thì người dân nơi đây bắt đầu trồng trọt ở các thung lũng
thấp, mÃi đến 1975 thì người dân nơi đây mới dựng nhà trở lại nhưng chủ yếu là bằng
nguyên liệu tre, nứa, lồ ô (chiến tranh xảy ra thì người dân nơi đây sống ở trong rừng sâu
nhằm tránh Bom đạn). Đến năm 1979, đường sá giao thông được sửa lại còn người dân nơi
đây đà được tiếp thu mét sè kiÕn thøc vỊ kü tht n«ng nghiƯp do bộ đội ta tổ chức.
Đến năm 1982 thì huyện Krông Bông chính thức được thành lập( tách ra từ huyện
Krông Păk) thời kỳ này hoạt động khuyến nông lâm chưa được triển khai. MÃi đến năm
1987 có nhiều người đi kinh tế mới vào huyện Krông Bông và đà đến các vùng sâu vùng
xa. Họ đà đem đến cho người dân địa phương kiến thức và kỹ thuật canh tác lúa nước và
một số cây ăn quả khác. Diện tích lúa nước được nâng cao sau năm 1987 (Sau khi có số
lượng lớn người Kinh định cư tại Krông Bông), đồng thời diện tích rừng cũng giảm đi
nhanh chóng trong thời gian này.
Đến năm 1993 một số người dân đà bắt đầu trồng Cà phê nhưng do biến động về
giá cả thị trường nên hiệu quả kinh tế không cao trong giai đoạn hiện nay.
Sau khi ban hành luật ®Êt ®ai 1996 th× t×nh h×nh du canh du c­ đà hạn chế đi nhiều

và rừng đà được phục hồi về diện tích và trữ lượng. Thế nhưng trong năm 1996 có sự di
dân tự do bất hợp pháp của hàng ngàn người dân tộc HMông từ các tỉnh phía Bắc vào
huyện Krông Bông, kéo theo đó là hàng loạt nhu cÇu cÇn thiÕt cho cc sèng. Do vËy diƯn
tÝch rừng bị lấn chiếm để làm khu dân cư và đất sản xuất nông nghiệp, nạn săn bắn thú
rừng, khai thác gỗ quý hiếm xảy ra bừa bÃi, khó kiểm soát.
Trong những năm gần đây hoạt động khuyến nông lâm đà dần triển khai đến các xÃ
vùng 3 trong huyện nhưng hiệu quả chưa cao một phần do kỹ thuật canh tác một phần do
chưa đảm bảo hệ thống tưới tiêu nước, một phần do chưa xác định được cơ cấu cây trồng
hợp lý.
Nhìn chung, trong thời gian trước và trong chiến tranh người dân trong khu vực
nghiên cứu có phương thức sống tự cấp tự túc và sau đó là dựa vào khai thác tài nguyên

23


×