Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

(Luận văn thạc sĩ) nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng tại xã ân tình, huyện na rì, tỉnh bắc kạn​

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.24 MB, 94 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

Vũ Thị Hiệp

NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CHO
QUY HOẠCH BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG TẠI XÃ
ÂN TÌNH, HUYỆN NA RÌ, TỈNH BẮC KẠN

LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP

Hà Nội, năm 2009


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP

Vũ Thị Hiệp

NGHIÊN CỨU CƠ SỞ KHOA HỌC VÀ THỰC TIỄN CHO
QUY HOẠCH BẢO VỆ VÀ PHÁT TRIỂN RỪNG TẠI XÃ
ÂN TÌNH, HUYỆN NA RÌ, TỈNH BẮC KẠN

Chuyên ngành: Lâm học
Mã số: 60.62.60



LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC LÂM NGHIỆP
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:

PGS. TS. Nguyễn Bá Ngãi

Hà Nội, năm 2009



1

ĐẶT VẤN ĐỀ
Rừng đóng vai trị vơ cùng quan trọng đối với đời sống của con người
đặc biệt là đồng bào sống ở vùng nơng thơn miền núi có cuộc sống phụ thuộc
nhiều vào rừng.Tuy nhiên trong những thập kỷ qua, vốn rừng của Việt Nam
đã và đang bị suy giảm nghiêm trọng, nạn khai thác rừng trái phép, đốt phát
nương làm rẫy làm cho môi trường sinh thái bị hủy hoại, diện tích đất trống
đồi núi trọc ngày càng tăng. Chính vì vậy, việc quản lý, bảo vệ, khơi phục và
phát triển tài nguyên rừng, phấn đấu hạn chế và tiến tới chấm dứt nạn mất
rừng, nâng cao độ che phủ của rừng là mục tiêu của nhiều quốc gia trong đó
có Việt Nam.
Việc quy họach, đặc biệt là quy họach bảo vệ và phát triển rừng đã được
chú trọng và triển khai ở nhiều địa phương và bước đầu đã thu được một số
thành tựu đáng kể nhưng bên cạnh đó cịn một số tồn tại như quy họach rừng
chưa sâu rộng, tư tưởng của quy họach bảo vệ và phát triển rừng chưa chú
trọng đến nhiều mặt liên quan trong sản xuất lâm nghiệp. Mặt khác vấn đề
quy họach thường tập trung ưu tiên quy họach cấp quốc gia, tỉnh, huyện mà ít
chú ý đến cấp địa phương(xã) cho nên quy họach ở cấp xã cò nhiều vấn đề
chưa rõ ràng và cần đưa ra thảo luận.

Xã là đơn vị hành chính nhỏ nhất trong hệ thống các đơn vị hành chính ở
nước ta, cấp xã có vị trí rất quan trọng trong việc ổn định xã hội và phát triển
kinh tế trên địa bàn nông thôn nói chung và vùng miền núi có đồng bào dân
tộc thiểu số sinh sống nói riêng, có thể nói xã là cánh tay nối dài của chính
quyền cấp huyện do đó cần hiểu rõ thêm vị trí của cấp xã trong việc quy
họach bảo vệ phát triển rừng tại địa phương. Trong phát triển kinh tế xã hội
của nông thôn, miền núi nước ta, quy họach bảo vệ và phát triển rừng cấp xã
có sự tham gia của người dân giữ một vị trí hết sức quan trọng nhằm giúp
người dân có kế họach bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng một cách hợp lý, đạt
hiệu quả cao trên nguyên tắc bền vững, bảo đảm hài hịa giữa lợi ích kinh tế
với lợi ích xã hội và mơi trường sinh thái.
Tuy nhiên hiện nay quy họach bảo vệ và phát triển rừng cấp xã đang còn
nhiều vấn đề như hạn chế về quan điểm quy họach, phương pháp tiến hành


2

lập quy họach, hệ thống chính sách phức tạp, khơng thống nhất và khó áp
dụng cho từng địa phương, sự phân định ranh giới, tiêu chuẩn phân chia các
lọai rừng và đất rừng chưa cụ thể gây khó khăn cho công tác quy họach. Quy
họach bảo vệ phát triển rừng cấp xã chưa có sự thống nhất về mặt quan điểm
và phần lớn các quy họach dựa trên bản đồ hiện trạng và dựa trên sự phân
định ranh giới ba lọai rừng và phân bố đất đai mà chưa áp dụng phương pháp
đánh giá tiềm năng đất đai, nhu cầu và khả năng của thị trường.
Hơn nữa việc quy họach bảo vệ và phát triển rừng phần lớn đang được
thực hiện dựa vào phương pháp từ trên xuống do vậy hạn chế sự tham gia của
người dân. Phương pháp quy họach thường xem nhẹ mối quan hệ tổng hòa
giữa các yếu tố liên quan vì vậy thiếu cơ sở khoa học và thực tiễn khi đề ra
định hướng, chiến lược phát triển cũng như các giải pháp kinh tế, xã hội và kỹ
thuật trong quá trình quy họach bảo vệ và phát triển rừng

Ân Tình là xã miền núi cao, nằm xa trung tâm huyện Na Rì. Người dân
sống hồn tồn dựa vào sản xuất nơng lâm nghiệp, trình độ dân trí thấp, đời
sống người dân cịn nhiều khó khăn...chính vì lẽ đó vấn đề quản lý, bảo vệ
rừng cũng như sử dụng tài nguyên rừng và đất rừng của địa phương còn nhiều
bất cập. Mặt khác, xã mới chỉ được tiến hành QHSD đất vào năm 2006, còn
vấn đề bảo vệ và phát triển rừng thì chưa hề có một quy hoạch, kế hoạch nào.
Trước tình hình thực tế của địa phương và những chủ trương, chính sách
của Đảng và Nhà nước ta về việc bảo vệ và phát triển rừng. Chúng tôi tiến
hành thực hiện đề tài “ Nghiên cứu cơ sở khoa học và thực tiễn cho quy
họach bảo vệ và phát triển rừng tại xã Ân Tình huyện Na Rì tỉnh Bắc Kạn”
nhằm góp phần vào phát triển cơ sở khoa học và thực tiễn cho quy họach bảo
vệ phát triển rừng cấp xã từ đó đưa ra một tiến trình quy họach bảo vệ phát
triển rừng cấp xã tại địa phương.


3

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1 Thế giới
Ngay từ thế kỷ 17 quy hoạch lâm nghiệp đã được xem như là một chuyên
ngành bắt đầu bằng các quy hoạch vùng. Theo Olschowy [52] vào thời gian
này quy hoạch quản lý rừng và lâm sinh ở Châu Âu được xem như là một lĩnh
vực phát triển ở mức cao trên cơ sở quy hoạch sử dụng đất. Đến thế kỷ 19 với
các khái niệm “lập địa hợp lý”, “Năng suất sử dụng”( Weber, 1921) đã mở
đầu thời kỳ quy hoạch phát triển lâm nghiệp trên cơ sở QHSD đất theo địa lý
với vùng sản xuất là nền tảng của quy hoạch vùng cho sản xuất lâm nghiệp.
Thập kỷ 30 và 40 tại Châu Âu quy hoạch ngành giữ vai trò lấp chỗ trống
của quy hoạch vùng được xây dựng vào đầu thế kỷ. Tại vùng Rhodesia trước
đây, nay là Cộng hồ Zimbabwe, Bộ Nơng nghiệp đã xuất bản cuốn sổ tay

hướng dẫn QHSD đất hỗ trợ cho quy hoạch cơ sở hạ tầng cho trồng rừng [51].
Năm 1966 Hội đất học của Mỹ Và Hội nông học Mỹ cho ra đời chuyên khảo
về hướng dẫn điều tra đất, đánh giá khả năng của đất và ứng dụng trong
QHSD đất. Tại Mỹ, bang Wiscosin đã ra đạo luật sử dụng đất đai vào năm
1929, tiếp theo là xây dựng kế hoạch sử dụng đất đầu tiên cho vùng Oneide
của Wiscovin. Kế hoạch này đã xác định các diện tích cho sử dụng lâm
nghiệp, nơng nghiệp và nghỉ ngơi giải trí [50]. Hạn chế của quy hoạch này là
tạo việc khai thác rừng quảng canh, khơng kiểm sốt lửa rừng và chống xói
mịn.
Năm 1985 một nhóm chun gia tư vấn quốc tế về QHSD đất được tổ
chức FAO thành lập nhằm xây dựng một quy trình QHSD đất. Theo Purnell
năm 1988, mục tiêu của QHSD đất đựợc các chuyên gia xác định là “Thiết
lập các kế hoạch thực tiễn có khả năng sử dụng tốt nhất các loại đất đai nhằm
đạt được các mục tiêu khác nhau để tăng sản xuất quốc gia, cải thiện đời
sống, bảo vệ môi trường, đạt các lợi ích xã hội và giải trí”. 4 câu hỏi nền tảng
của quy hoạch đất đai là: Các vấn đề nào đang tồn tại và mục tiêu quy hoạch
là gì? Có các phương án sử dụng đất nào? Phương án nào là tốt nhất? Có thể
vận dụng vào thực tế như thế nào?.


4

Khi xây dựng khung đánh giá đất đai, lần đầu tiên tổ chức FAO năm
1976 đã đề xuất cấu trúc khung QHSD đất với 10 điểm chính [42]. Trong đó
phân loại đánh giá và đề xuất các kiểu và dạng sử dụng đất được xét như là
các bước chính trong q trình quy hoạch.
Trên cơ sở đó nhiều nhà khoa học đã tiến hành nghiên cứu các phương
pháp quy hoạch lâm nghiệp cấp địa phương và phương pháp QHLN cấp địa
phương có thể được khái quát bằng 2 cách tiếp cận chủ yếu: tiếp cận từ trên
xuống (Top-down Approach) và tiếp cận từ dưới lên (Bottom-up Approach).

Cách tiếp cận thứ nhất được hình thành từ khi có quy hoạch ra đời cho
đến nay và được áp dụng cho quy hoạch ngành. Cách tiếp cận này ngày càng
bộc lộ những hạn chế, kém hiệu quả vì khơng có sự tham gia của cộng đồng
khi các chương trình thực hiện ở cấp vi mơ.
Cách tiếp cận thứ 2 được hình thành khi các nhà xã hội học chứng minh
rằng “Sự không thể thiếu được” vai trị của cộng đồng nơng thơn trong lập kế
hoạch và quản lý tài nguyên của cộng đồng [40].Từ đây thuật ngữ “Quy
hoạch dựa vào cộng đồng” (Community-based Planning) bắt đầu xuất hiện
[37]. Gilmour năm 1997 đã phân biệt 2 loại tiếp cận, đó là tiếp cận kinh điển
(Classical Approach) và tiếp cận lấy người dân làm trung tâm (People’s
centered Approach) [43, tr.73-91]. Những nghiên cứu của ông về quy hoạch
và quản lý rừng cộng đồng ở Nepal chứng tỏ những ưu thế về tiếp cận mới
trong xây dựng và thực hiện kế hoạch phát triển cộng đồng.
Trong khuôn khổ quy hoạch quản lý tài nguyên thiên nhiên dựa vào
cộng đồng, hệ thống thông tin số liệu và thu thập số liệu được nhiều tác giả
nghiên cứu. Các tác giả Lund và Soda năm 1987 đã đưa ra hệ thống thông tin
cần thiết cho quy hoạch xây dựng rừng [47]. Trước đó, vào năm 1984, Bohlin
đề xuất yêu cầu của hệ thống thông tin cho quy hoạch trồng rừng [38]. Cuối
thập kỷ 70, các phương pháp điều tra, đánh giá truyền thống về điều kiện vật
lý sinh học như: điều tra thổ nhưỡng, đánh giá đất đai, vẽ bản đồ. . . ít được
nghiên cứu mà thay vào đó là các phương pháp điều tra đánh giá cùng tham
gia như: Đánh giá nhanh nông thôn (RRA), Nông dân tham gia đánh giá


5

(PRA), Phương pháp quá trình sáng tạo. Đặc biệt là phương pháp Phân tích
các hệ thống canh tác cho QHSD đất vi mô được nghiên cứu rộng rãi [40].
Tại Châu á, Châu Phi và Nam Mỹ những kết quả thử nghiệm xác nhận
rằng phân tích hệ thống canh tác là một công cụ quy hoạch và lập kế hoạch

nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất cấp địa phương. Luning năm 1990,
lần đầu tiên nghiên cứu kết hợp đánh giá đất đai với phân tích hệ thống canh
tác cho QHSD đất [49]. Năm 1994 một nhóm chuyên gia tư vấn của FAO đã
cơng bố quy trình kết hợp đánh giá đất đai với phân tích hệ thống canh tác
cho QHSD đất. Phương pháp này có tên gọi là LEFSA [48], nó có hạn chế là
địi hỏi hệ thống thơng tin phân tích lớn, khó áp dụng cho quy hoạch địa
phương. Theo Erwin năm 1999, phân tích hệ thống canh tác là cơng cụ cho
phân tích các trở ngại trong hệ thống nơng trại hộ gia đình để xác định mục
tiêu quy hoạch, xác định các kiểu sử dụng đất hiện tại và phương án sử dụng
đất mới, đánh giá các phương án sử dụng đất khác nhau nhằm mục đích lựa
chọn phương án tốt nhất [41].
1.2 Việt Nam
Đảng và Nhà nước ta từ lâu đã có những chủ trương, chính sách cụ thể
cho việc quy hoạch phát triển lâm nghiệp cấp xã, cụ thể như:
Hiến pháp nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 nêu
“Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật,
đảm bảo sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ
chức, hộ gia đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài” (Điều 18) [8]. Luật đất
đai năm 1993 quy định rõ 6 loại đất với 5 quyền sử dụng tuỳ theo từng loại
đất và mục đích sử dụng mà được giao cho tổ chức, cá nhân quản lý và sử
dụng. Luật đất đai nêu rõ trong điều 13 là quy hoạch và kế hoạch hoá việc sử
dụng đất đai là một trong 7 nội dung quản lý nhà nước đối với đất đai [21].
Luật Đất đai là cơ sở pháp lý cơ bản nhất cho QHLN.
Luật bảo vệ và phát triển rừng năm 1991 phân định rõ 3 loại rừng làm cơ
sở cho QHLN [22]. Theo biên bản hội thảo quốc gia về “Quy hoạch sử dụng
đất và giao đất lâm nghiệp” năm 1997 nhiều ý kiến cho rằng cần nghiên cứu
tính thống nhất giữa 2 luật: Luật đất đai và Luật bảo vệ và phát triển rừng


6


trong quy hoạch và giao đất nông nghiệp và đất lâm nghiệp, xác định rõ vai
trò của địa phương, đặc biệt là cấp xã trong quy hoạch và giao đất giao rừng
[1]. Bên cạnh đó là văn bản quan trọng nhất về giao đất lâm nghiệp là Nghị
định 02/CP lại ít đề cập đến vai trò của cấp xã [5].
Mới đây nhất Nghị định của Chính phủ số 163/1999/NĐ-CP ra ngày 1
tháng 11 năm 1999 về giao đất, cho thuê đất lâm nghiệp cho tổ chức, hộ gia
đình và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài vào mục đích lâm nghiệp có một số
điều nói tới nhiệm vụ và quyền hạn cấp xã trong quy hoạch và giao đất lâm
nghiệp [6]. Mặc dù, các văn bản pháp quy chưa quy định rõ quyền hạn đầy đủ
của cấp xã trong QHLN, nhưng ở các văn bản pháp quy nêu một số điểm
quan trọng trong QHSD đất cấp xã như:
Trên địa bàn xã làm rõ 3 loại đất: đất nông nghiệp, đất phi nông nghiệp,
đất chưa sử dụng, làm rõ 3 loại rừng: rừng sản xuất, rừng phòng hộ và rừng
đặc dụng, để tiến hành quy hoạch sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn
nuôi và đồng cỏ, cơ sở hạ tầng phục vụ cho sản xuất và đời sống.
UBND xã tổ chức QHSD đất đai trong địa phương và thông qua hội
đồng nhân dân và trình lên cơ quan có thẩm quyền để phê duyệt. Trên cơ sở
quy hoạch đất đai được phê duyệt, UBND xã tổ chức cùng nhân dân trong xã
tiến hành quy hoạch để lập kế hoạch hoặc xây dựng các dự án phát triển xã
cho từng lĩnh vực.
Ban lâm nghiệp xã và địa chính xã có trách nhiệm phối hợp với các cơ
quan khác để quy hoạch và lập kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch, lập kế hoạch
và xây dựng các dự án cấp xã.
Mặc dù Đảng và Nhà nước đã chú trọng đến QHLN cấp địa phương,
nhưng bên cạnh đó hiện nay chưa có các quy định cụ thể về QHLN cấp địa
phương, đặc biệt là cấp xã. Những điểm liên quan đến quy hoạch lâm nông
nghiệp cấp xã chưa được thống nhất. Trên thực tế cấp xã mới có định hướng
và mục tiêu phát triển sản xuất nông nghiệp và lâm nghiệp
Các quan điểm về quy hoạch lâm nghiệp cấp xã

Vào đầu thập kỷ 90, các vấn đề QHLN cấp vi mô được nhiều tác giả đề
cập và nghiên cứu. Các nghiên cứu của Reichenberg (1992) [24] và các nhà


7

nghiên cứu trong nước đều cho rằng Việt Nam chưa có QHSD đất, quy hoạch
QHLN cấp vi mơ được xây dựng trên cơ sở xem xét mọi khía cạnh của tất cả
các ngành trong tương lai, vì vậy việc tiến hành QHLN còn thiếu cơ sở thực
hiện.
Năm 1990 Tổng cục quản lý ruộng đất có ban hành bản hướng dẫn
QHSD đất vi mô theo thông tư số 106/ĐKTĐ [25]. Nhiều tỉnh thực hiện quy
hoạch vi mô theo hướng dẫn này. Tuy nhiên, khi triển khai gặp những khó
khăn về phương pháp chưa thống nhất. Dù sao quy hoạch vi mô cũng là tiền
đề để thay đổi cách nhìn về quy hoạch cấp xã trong những năm tiếp theo. Khi
khảo sát 5 tỉnh Trung tâm miền núi phía bắc Việt Nam Reichenberg năm 1992
cho rằng quy hoạch vi mô ở Việt Nam nên được nghiên cứu để phát triển khái
niệm quy hoạch cấp xã trên 4 khía cạnh sau [24]:
- Phủ toàn bộ đất đai trong xã, nghĩa là quy hoạch lâm nông nghiệp dựa
trên quy hoạch sử dụng đất trên tồn bộ diện tích hành chính trong xã.
- Phối hợp các kế hoạch và các hoạt động giữa các cơ quan nhà nước,
nghĩa là khi quy hoạch phải đề cập đến quy hoạch của các ngành do cơ quan
quản lý nhà nước quản lý.
- Quy hoạch sử dụng đất phục vụ cho giao đất và cấp giấy chứng nhận để
sử dụng đất tốt hơn, tạo điều kiện cho cộng đồng tiến hành quy hoạch phát
triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, cơ sở hạ tầng.
- Chuẩn bị và phê duyệt quy hoạch đất theo đúng luật định.
Trong đầu những năm 90, Luật Bảo vệ và Phát triển rừng ra đời năm
1991, Luật Đất đai sửa đổi năm 1993 và đặc biệt là các Nghị định 02 năm
1994, Nghị định 01 năm 1995, Nghị định 64 năm 1993 là cơ sở tiền đề cho

QHLN cấp xã. Cùng lúc ra đời của Luật Đất đai, Luật Bảo vệ và Phát triển
rừng, nhiều người cho rằng quy hoạch vĩ mô là quy hoạch phản ánh hiện trạng
và phân chia 6 loại đất sử dụng và 3 loại rừng. Hai định nghĩa mới được xác
nhận cho quy hoạch quốc gia và cấp tỉnh. Các nhà khoa học trong nước và
nước ngoài đều cho rằng quan điểm QHLN cấp địa phương nên theo các
hướng sau:


8

Tiến hành nghiên cứu và thực thi khả năng kết hợp QHLN dựa vào chức
năng sử dụng của đất với đánh giá tiềm năng của đất.
- Rà soát và xem xét lại hệ thống chính sách nhằm hướng tới đa mục đích
sử dụng đất đai bằng việc đa dạng hố các hoạt động sản xuất trong mỗi bản
quy hoạch của cộng đồng.
- Gắn 2 quá trình quy hoạch đất đai với giao đất và coi là 2 bộ phận có
quan hệ chặt chẽ để làm cơ sở cho quy hoạch sản xuất lâm nông nghiệp ở mỗi
địa phương, mỗi cộng đồng.
- Nghiên cứu và thử nghiệm các phương pháp cùng tham gia trong q
trình quy hoạch phát triển lâm nơng nghiệp, xác định và phân tích rõ các chủ
thể trong QHLN cấp xã.
Sự tham gia của người dân trong quá trình quy hoạch là một khái niệm
mới. Vũ Văn Mễ và Desloges năm 1996 cho rằng "Điểm quan trọng là thu
hút người dân tham gia vào tất cả các giai đoạn trong quá trình QHSD đất và
giao đất lâm nghiệp ngay từ khi bắt đầu. Sự tham gia này tất nhiên sẽ khác
nhau về phạm vi và mức độ tuỳ theo nội dung hoạt động và giai đoạn tiến
hành" [9].
Một số nghiên cứu đáng kể liên quan đến phương pháp quy hoạch
lâm nghiệp cấp xã:
Nghiên cứu và thí điểm đầu tiên về QHSD đất và giao đất lâm nghiệp

cấp xã được thực hiện tại xã Tử Nê huyện Tân Lạc và xã Hang Kia, Pà Cị
huyện Mai Châu tỉnh Hồ Bình do Dự án đổi mới chiến lược phát triển lâm
nghiệp từ năm 1993. Theo Nguyễn Văn Tuấn năm 1996, QHSD đất được coi
là một nội dung chính và được thực hiện trước khi giao đất trên cơ sở tôn
trọng tập quán nương rẫy cố định, lấy xã làm đơn vị để lập kế hoạch và giao
đất, có sự tham gia tích cực của người dân, già làng, trưởng bản, chính quyền
xã [34]. Bản đánh giá về trường hợp Tử Nê cho thấy cần phải có một kế
hoạch sử dụng đất chi tiết hơn hiện nay thì mới đáp ứng được yêu cầu, tránh
được các mâu thuẫn của cộng đồng phát sinh sau quy hoạch. Đề nghị ở đây là
điều chỉnh và thời sự hoá kế hoạch là hết sức cần thiết.


9

Chương trình phát triển nơng thơn miền núi giai đoạn 1996-2000 trên
phạm vi 5 tỉnh: Lào Cai, Tuyên Quang, Hà Giang, Yên Bái, Phú Thọ đã tiến
hành thử nghiệm QHLN cấp xã trên cơ sở xây dựng kế hoạch phát triển cấp
thơn và hộ gia đình. Theo Bùi Đình Tối và Nguyễn Văn Nam năm 1998, tỉnh
Lào Cai đã xây dựng mơ hình sử dụng PRA để tiến hành QHSD đất, tỉnh Hà
Giang đã xây dựng quy hoạch và lập kế hoạch sử dụng đất 3 cấp: xã, thôn và
hộ gia đình. Đến năm 1998 trên tồn vùng dự án có 78 thơn bản được quy
hoạch sử dụng đất theo phương pháp cùng tham gia. Phương pháp QHSD đất
dựa trên PRA căn cứ vào nhu cầu và nguyện vọng của người sử dụng đất, với
cách tiếp cận từ dưới lên tạo ra kế hoạch có tính khả thi cao hơn [4], [10]. Tuy
nhiên, phương pháp trên cũng bộc lộ một số mâu thuẫn giữa nhu cầu của cộng
đồng và định hướng của nhà nước và các kế hoạch của tỉnh, huyện. Vấn đề
này cũng xuất hiện và được phê phán trong trường hợp ở Yên Châu tỉnh Sơn
La. Vấn đề nghiên cứu ở đây là có một phương pháp quy hoạch địa phương
sao cho kết hợp hài hoà giữa ưu tiên của chính phủ và nhu cầu của cộng đồng
. Vũ Văn Mễ và Desloges năm 1996 đã thử nghiệm phương pháp QHSD đất

và giao đất lâm nghiệp có sự tham gia của người dân tại Quảng Ninh và đề
xuất 6 nguyên tắc và các bước cơ bản trong quy hoạch cấp xã đóng góp vào
phát triển phương pháp quy hoạch. Sáu ngun tắc đó là: Kết hợp hài hồ
giữa ưu tiên của chính phủ và các nhu cầu nguyện vọng của nhân dân địa
phương; Tiến hành trong khuôn khổ luật định hiện hành và các nguồn lực
hiện có của địa phương; Đảm bảo tính cơng bằng, chú ý đến cộng đồng dân
tộc miền núi, nhóm người nghèo và vai trò của phụ nữ; Đảm bảo phát triển
bền vững; Đảm bảo nguyên tắc cùng tham gia; Kết hợp và hướng tới mục tiêu
phát triển cộng đồng [9].
Từ kết quả thử nghiệm ở Quảng Ninh, Thừa Thiên Huế, Gia Lai và Sông
Bé, Vũ Văn Mễ cho rằng quy hoạch cấp xã phải dựa trên tình trạng sử dụng
đất hiện tại, tiềm năng sản xuất của đất, các quy định của nhà nước và nhu cầu
nguyện vọng của người dân. . . ., xem xét mọi vấn đề liên quan đến đất đai và
sử dụng tài nguyên [22], [9], [5]. Cách tiếp cận tổng hợp và toàn diện này phù


10

hợp với xu thế chung của thế giới hiện nay về áp dụng các phương pháp quy
hoạch tổng hợp.
Giai đoạn năm 1996 và 1997, trong quá trình triển khai dự án Quản lý
nguồn nước hồ Yên Lập có sự tham gia của người dân tại Hoành Bồ-Quảng
Ninh, tác giả thử nghiệm phương pháp lập kế hoạch có sự tham gia của người
dân để QHLN cho 3 xã: Bằng Cả, Quảng La và Dân Chủ. Phương pháp PRA
được sử dụng để QHLN và xây dựng dự án cấp xã, thôn cho 5 lĩnh vực:
QHLN và cây ăn quả cho quản lý rừng phịng hộ, quy hoạch trồng trọt, quy
hoạch chăn ni và đồng cỏ, quy hoạch phát triển thuỷ lợi và quy hoạch mạng
lưới tín dụng thơn bản [10]. Sau 3 năm thực hiện cho thấy bản quy hoạch phù
hợp với tình hình hiện tại. Tuy nhiên, những hạn chế do thiếu nghiên cứu về
đất, phân tích hệ thống canh tác dẫn đến việc lựa chọn cây trồng chưa hợp lý.

Kinh nghiệm này đang được đúc rút cho giai đoạn tiếp theo của dự án được
triển khai trên 4 xã mới.
Từ những căn cứ trên cho thấy xã có một vai trị, vị trí và chức năng
rất lớn đối với cơng tác quy họach phát triển lâm nghiệp.
Do vị trí đặc thù của xã so với các cấp hành chính cao hơn, nên luận án
tiến sĩ của tác giả Nguyễn Bá Ngãi[17] đã đưa nêu: Trong quy họach phát
triển lâm nông nghiệp cấp xã có 3 chức năng cơ bản sau đây:
+ Thể hiện định hướng và chiến lược phát triển của Đảng và Nhà nước
thông qua việc coi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, quy họach
phát triển lâm nông nghiệp cấp trên là những căn cứ cho quy họach phát triển
quy họach lâm nông nghiệp cấp xã;
+ Phát huy quyền dân chủ của người dân địa phương thơng qua sự tham
gia của họ vào q trình quy họach và đáp ứng nhu cầu, nguyện vọng của
cộng đồng.
+ Là cơng cụ quản lý q trình tổ chức sản xuất lâm nông nghiệp cấp xã.
Chức năng thứ nhất và thứ hai thể hiện vị trí của quy họach phát triển
lâm nông nghiệp xã được coi là địa điểm mà ở đó kết hợp hài hịa giữa quy
họach vĩ mơ và quy họach vi mô, giữa định hướng phát triển và nhu cầu,
nguyện vọng của nhân dân, giữa lãnh đạo và quyền làm chủ, nguyên tắc tập


11

trung dân chủ trong sản xuất được thể hiện một cách đầy đủ. Như vậy quyền
lãnh đạo và quyền dân chủ trong sản xuất được xác lập ngay trong quá trình
quy họach phát triển sản xuất lâm nơng nghiệp. Chức năng thứ ba xác định
một trong những quyền quản lý Nhà nước cơ bản của cấp xã đối với sản xuất
lâm nơng nghiệp.
Trong giáo trình Quy họach sử dụng đất của Trần Hữu Viên [37] có đề
cập đến chức năng của cấp xã trong công tác QHSD đất như sau: “ Giải quyết

các tồn tại về ranh giới hành chính, ranh giới sử dụng đất, quy họach xác
định ranh giới các thôn bản, các đơn vị quản lý sử dụng đất trên địa bàn xã.
Phản ánh các cân đối trong việc phân bổ đất đai để các ngành sử dụng đất xây
dựng và phát triển, vừa phù hợp với nhiệm vụ chung vừa không chồng chéo
ảnh hưởng lẫn nhau, đảm bảo sử dụng đất hợp lý, đầy đủ, có hiêu quả cao
nhất mọi tài nguyên đất đai cả trong giai đọan trước mắt và tương lai. Giúp
chính phủ và UBND các cấp thực hiện việc thống nhất quản lý đối với đất đai,
trước hết và trực tiếp là UBND cấp xã. QHSD đất cấp xã chi tiết tới từng đơn
vị sử dụng làm cơ sở cho việc giao đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất”.
Theo điều 118 hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Viêt Nam năm
1992[8] cấp xã là cấp hành chính thấp nhất, là đơn vị hành chính cơ sở có
quan hệ trực tiếp với nhân dân. theo luật tổ chức HĐND và UBND (sửa đổi),
chính quyền cấp xã là cấp cơ sở gồm HĐND xã do nhân dân bầu và UBND
xã do HĐND bầu, có chức năng quản lý Nhà nước trong phạm vi xã. Như vậy
dưới góc độ quản lý Nhà nước, xã là cấp có chức năng hành pháp và quản lý
Nhà nước về đất đai, sản xuất: lâm nghiệp, nông nghiệp, là cấp quản lý về kế
họach sử dụng đất và sản xuất lâm nông nghiệp cấp xã.


12

CHƯƠNG 2
MỤC TIÊU, NỘI DUNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Mục tiêu nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nhằm đạt được các mục tiêu sau:
-Xác định các cơ sở và phân tích, đánh giá q trình QHSD đất sản
xuất nơng nghiệp, quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng đã triển khai tại địa
phương để rút ra những thành công, tồn tại và nguyên nhân.
- Đề xuất phương án quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng tại địa

phương.
2.2 Nội dung nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu nêu trên đề tài tập trung vào nghiên cứu các
nội dung chủ yếu sau:
- Nghiên cứu những cơ sở QHSD đất sản xuất lâm nghiệp, quy hoạch
bảo vệ và phát triển rừng tại địa phương.
- Phân tích q trình QHSD đất, quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng
đã áp dụng tại địa phương.
- Đề xuất phương án quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng tại địa
phương.
2.3 Phương pháp nghiên cứu
2.3.1 Chọn điểm nghiên cứu
Để giải quyết những nội dung trên, đề tài tiến hành chọn điểm nghiên
cứu theo những tiêu chuẩn chọn mẫu nghiên cứu mà Donovan ( 1997) đã đưa
ra.
- Chọn xã nghiên cứu: Với mục tiêu nghiên cứu những cơ sở khoa học và
thực tiễn cho quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã. Xã nghiên cứu phải
có đầy đủ các hoạt động sản xuất lâm nông nghiệp để phục vụ cho việc
nghiên cứu. Vì vậy đề tài chọn xã Ân Tình là một xã đáp ứng được các tiêu
chí trên.
- Chọn thơn nghiên cứu: chọn thơn có cơ cấu đất đai đặc trưng cho toàn
xã gồm: rừng tự nhiên, rừng trồng, đất trống, đồi núi trọc đồng thời thôn phải
tham gia trong vùng dự án quy hoạch. Có mật độ dân cư, trình độ dân trí, phát


13

triển kinh tế ở mức trung bình so với các thôn khác trong xã. Qua phỏng vấn
lãnh đạo xã kết hợp với phân tích những thơng tin về điều kiện dân sinh, kinh
tế, đề tài chọn thôn Thẳm Mu là thơn đáp ứng các tiêu chí trên làm đối tượng

để nghiên cứu.
- Chọn HGĐ; chọn 15 HGĐ phỏng vấn, là những hộ trực tiếp tham gia
vào các hoạt động lâm nơng nghiệp. Phương pháp lựa chọn theo các nhóm hộ,
trong đó 1/3 số hộ khá, 1/3 số hộ trung bình và 1/3 số hộ nghèo để tiến hành
phỏng vấn. Danh sách các nhóm hộ do trưởng thơn cung cấp.
2.3.2 Thu thập và phân tích các tài liệu có sẵn tại địa phương
Các tài liệu có sẵn liên quan đến địa bàn nghiên cứu được thu thập trực
tiếp từ xã, huyện và các cơ quan liên quan như chi cục lâm nghiệp, chi cục
kiểm lâm, hạt kiểm lâm và các cơ quan hữu quan khác.
Các tài liệu đã có ở địa phương được thu thập gồm:
- Thu thập các văn bản Nhà nước của trung ương và địa phương có liên
quan đến QHSD đất, quy hoạch bảo vệ và phát triển rừng cấp xã.
- Các tài liệu về đặc điểm tự nhiên, kinh tế – xã hội ở địa phương gồm:
đặc điểm địa hình, đất đai, khí hậu thủy văn, dân cư, lao động, tình hình sản
xuất lâm nơng nghiệp của xã, tình hình thực hiện các chính sách của Nhà
nước và của địa phương. Các số liệu được chọn lọc và tổng hợp trong báo cáo
tình hình kinh tế - xã hội, báo cáo về tình hình sản xuất lâm nghiệp hàng năm
của UBND xã Ân Tình.
2.3.3 Điều tra ngoại nghiệp
2.3.3.1 Phương pháp điều tra nhanh
Phương pháp điều tra nhanh trong 2 đợt bằng các công cụ: phỏng vấn
và tiếp xúc lãnh đạo các ban ngành liên quan tại tỉnh và huyện, gặp lãnh đạo
xã, thôn và nông dân để thu thập những thông tin cơ bản, xác định các vấn đề
để xây dựng đề cương nghiên cứu và phương pháp thu thập số liệu.
2.3.3.2 Phương pháp điều tra chuyên đề
Điều tra chuyên đề được thực hiện trực tiếp tại xã và thơn theo mẫu
biểu của các lĩnh vực chính: trồng trọt, lâm nghiệp do cán bộ xã trực tiếp điều
tra. Hệ thống mẫu biểu và phương pháp điều tra được thiết kế để điều tra bổ
sung các thông tin khơng có trong tài liệu PRA như:



14

Lĩnh vực trồng trọt điều tra theo các chỉ tiêu: các thông tin chung về
cây trồng; năng suất cây trồng của xã; mức độ thâm canh cây trồng ở thôn;
tổn thất cây trồng của xã; đầu tư của xã; thông tin về khuyến nơng khuyến
lâm thơn bản; tình hình giao đất nông nghiệp.
Điều tra lĩnh vực lâm nghiệp theo các chỉ tiêu: tình hình sử dụng đất
lâm nghiệp; tình hình giao đất lâm nghiệp; tình hình quản lý rừng; tình hình
đầu tư và phát triển rừng; tình hình lợi dụng rừng; tình hình bảo vệ rừng.
2.3.3.3 Sử dụng cơng cụ đánh giá nơng thơn có sự tham gia của người dân
(PRA)
Công cụ PRA được lựa chọn để điều tra bổ sung cho các nghiên cứu
chuyên đề được mô tả trong biểu 2.1
Bảng 2.1: Công cụ PRA cho điều tra tại các điểm nghiên cứu
Các công cụ
PRA áp dụng
Xây dựng sa bàn
và vẽ sơ đồ
thơn
Biểu đồ hướng
thời gian
Phân tích lịch
mùa vụ
Khảo
sát
điểm/đi lát cắt
Phân loại kinh tế
HGĐ
Phỏng vấn HGĐ


Mục đích điều tra cho các lĩnh vực
Trồng trọt
Cây ăn quả và lâm nghiệp
Xác định, đánh giá các khu Đánh giá hiện trạng và
canh tác
khả năng phát triển
Diễn biến diện tích canh tác
và năng suất
Xác định lịch gieo trồng và
thu hoạch
Phân tích các loại hình canh
tác chính

Diễn biến về đất lâm
nghiệp
Xác định lịch thu hái lâm
sản
Phân tích các mơ hình cây
ăn quả, trồng, khoanh
ni bảo vệ rừng
Xác định các nhóm hộ gia đình theo tiêu chuẩn giầu nghèo
dựa trên nhận thức của người dân
Phân tích tình hình sản xuất, kinh tế hộ và nhu cầu tín
dụng của nhóm hộ gia đình
Phân tích và xác định giống Phân tích các giống cây
lúa và hoa màu
ăn quả và lâm nghiệp
Phân tích các tổ chức liên quan đến phát triển sản xuất


Phân loại xếp
hạng cho điểm
Phân tích tổ
chức
Thảo luận nhóm Dự kiến các hoạt Dự kiến các hoạt Dự kiến các hoạt
động và ưu tiên
động và ưu tiên động và ưu tiên
Họp dân
Nối ghép các hoạt động và dự thảo kế hoạch hành động
thôn, thống nhất kế hoạch phát triển xã.


15

+ Điều tra và lập kế hoạch lâm nghiệp
- Thảo luận nhóm nơng dân bên sơ đồ về các vấn đề hiện trạng sử dụng
đất và ranh giới các loại hình sử dụng đất, nhu cầu về sản xuất và sử dụng đất,
những khó khăn và thách thức.
- Điều tra tuyến (đi lát cắt) xác minh lại trên bản đồ, đánh giá bổ sung
về tài nguyên và khoanh vùng hệ thống canh tác. Tại mỗi điểm khảo sát tiến
hành thảo luận với cán bộ kỹ thuật của địa phương và nông dân để xác định
và khoanh vùng các kiểu sử dụng đất, phân tích các đặc điểm được thực hiện
trên phạm vi xã và đề xuất giải pháp.
- Họp dân trình bày kết quả và thống nhất kế hoạch của thôn.
2.3.3.4 Phương pháp đánh giá đất đai
Tài nguyên đất của xã được thu thập và đánh giá dựa trên bản đồ tài
nguyên đất tỷ lệ 1:10.000, kết hợp với điều tra khảo sát bổ sung trên thực địa.
2.3.3.5 Phương pháp phân 3 loại rừng và phân cấp phòng hộ
Phân chia 3 loại rừng được thực hiện theo phương pháp chia 3 loại rừng
của Bộ Lâm nghiệp (cũ). Nội dung phân 3 loại rừng là xác định ranh giới 3

loại rừng: xác định vị trí giữa bản đồ và thực địa để đóng mốc sau này, tính
tốn và tổng hợp diện tích các loại rừng và xác định các giải pháp kĩ thuật lâm
sinh xây dựng rừng, chuyển họa ranh giới lên bản đồ phân chia 3 loại rừng.
2.3.3.6 Phương pháp điều tra xã hội học
Trong một xã chọn 1 thôn đại diện đặc trưng cho xã để điều tra như:
dân cư và phân bố dân cư, dân tộc, vị trí thơn, điều kiện về tự nhiên, có đầy
đủ hoặc gần đủ các kiểu sử dụng đất. Tiến hành phỏng vấn 15 hộ gia đình để
bổ sung vào kết quả PRA thực hiện trước đây. Phỏng vấn hộ gia đình tập
trung vào các thơng tin kinh tế, xã hội và chính sách. Một số cuộc thảo luận
nhóm nơng dân được tổ chức để đánh giá các yếu tố về chính sách, tổ chức và
văn hoá được thực hiện. Kỹ thuật phỏng vấn bán định hướng được sử dụng
trong phỏng vấn hộ gia đình và thảo luận nhóm.


16

2.3.4 Nội nghiệp
2.3.4.1 Tổng hợp, phân tích thơng tin cơ bản về tự nhiên và kinh tế-xã hội
Các thông tin về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội được tổng hợp và
phân tích theo nhóm sau:
Các thơng tin liên quan đến các điều kiện tự nhiên như: vị trí địa lý, địa
hình, khí hậu thuỷ văn, thổ nhưỡng, thực vật tự nhiên được thu thập từ các
bản tài liệu gốc của địa phương. Các thông tin về điều kiện kinh tế xã hội như:
dân cư (dân số, dân tộc, cơ cấu xã hội: xã, thơn, xóm, nhóm hộ, hộ gia đình);
nghề nghiệp và việc làm; các dịch vụ xã hội và cơ sở hạ tầng (y tế, giáo dục,
cấp nước, giao thông và thông tin liên lạc, thị trường và các dịch vụ xã hội
khác) được tổng hợp theo mục đích của đề tài theo hệ thống mẫu biểu quy
định.
Hệ thống thông tin liên quan đến tổ chức và thể chế được tổng hợp và
phân tích bằng các phương pháp SWOT, phương pháp phân tích thể chế và tổ

chức theo các chỉ tiêu về: tổ chức cộng đồng, dịch vụ khuyến nông, bảo vệ và
quản lý rừng, dịch vụ thú y và chăn ni, tín dụng cộng đồng.
2.3.4.2 Tổng hợp và phân tích thơng tin điều tra chun đề
Thông tin thu thập được để phục vụ cho quy hoạch, bảo vệ và phát triển
rừng được tổng hợp theo phương pháp tối ưu hố mục tiêu và phân tích đa
tiêu chuẩn áp dụng cho xây dựng kế hoạch. Những bài tốn phân tích kinh tế
được sử dụng cho việc lựa chọn các phương án.
2.3.4.3 Phân tích chi phí và lợi ích (CBA)
Phương pháp CBA được vận dụng phân tích hiệu quả kinh tế các mơ
hình sản xuất, trên cơ sở đó để lựa chọn các mơ hình sử dụng đất có hiệu quả
kinh tế nhất để làm cơ sở tiến hành quy hoạch phát triển sản xuất. Các số liệu
được tập hợp và tính bằng các hàm kinh tế trong chương trình EXEL. Các chỉ
tiêu kinh tế sau đây được vận dụng trong phân tích CBA.
+ Giá trị hiện tại của thu nhập ròng (NPV)
NPV là hiệu số giữa giá trị thu nhập và chi phí thực hiện các hoạt động
sản suất sau khi đã tính chiết khấu để quy về thời điểm hiện tại. Cơng thức
tính như (2.1):


17

Bt  Ct

n

NPV =

 (1  i)
t 0


t

( 2.1)

Trong đó:
NPV: Giá trị hiện tại của thu nhập ròng (đồng)
Bt: Giá trị thu nhập ở năm t (đồng)
Ct : Giá trị chi phí ở năm t (đồng)
i : Tỷ lệ chiết khấu hay lãi xuất (%)
t : Thời gian thực hiện các hoạt động sản xuất (năm)
n



:Tổng giá trị hiện tại của thu nhập ròng từ năm thứ 0 đến năm

1 0

thứ n
NPV dùng để đánh giá hiệu quả kinh tế các hoạt động sản xuất. Hoạt
động sản xuất nào có NPV càng lớn thì hiệu quả kinh tế càng cao.
+ Tỷ suất giữa thu nhập và chi phí (BCR)
BCR là hệ số sinh lãi thực tế, phản ánh chất lượng đầu tư và cho biết
mức thu nhập trên một đơn vị chi phí sản xuất. Cơng thức tính như sau:
n

BCR =

Bt


 (1  i)
t 0
n

t

Ct

t
t  0 (1  i )

=

BPV
CPV

( 2.2)

Trong đó:
- BCR : Tỷ suất giữa thu nhập và chi phí (đồng/đồng)
- BPV : Giá trị hiện tại của thu nhập (đồng)
- CPV : Giá trị hiện tại của chi phí (đồng)
- Các ký hiệu khác được giải thích ở cơng thức (2.1)
Nếu hoạt động sản xuất nào có BCR>1 thì có hiệu quả kinh tế, BCR càng
lớn thì hiệu quả kinh tế càng cao. Ngược lại, BCR<1 thì sản xuất khơng có
hiệu quả.
+ Tỷ lệ thu hồi nội bộ (IRR)
n

Bt  Ct


 (1  i)
t 0

t

= 0 ( 2.3)


18

IRR là chỉ tiêu đánh giá khả năng thu hồi vốn. IRR chính là tỷ lệ chiết
khấu i khi tỷ lệ này làm cho NPV=0, khi đó tỷ lệ chiết khấu i được xác định
là tỷ lệ thu hồi nội bộ IRR.
- IRR được tính theo tỷ lệ %
- Các ký hiệu khác được giải thích ở cơng thức (2.1)
IRR dùng để đánh giá hiệu quả kinh tế và khả năng thu hồi vốn của các
hoạt động sản xuất. Nếu IRR càng lớn thì hiệu quả càng cao, khả năng thu hồi
vốn càng sớm.


19

CHƯƠNG 3
ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN - KINH TẾ - XÃ HỘI
CỦA KHU VỰC NGHIÊN CỨU
3.1 Điều kiện tự nhiên, tài nguyên và cảnh quan môi trường
3.1.1 Điều kiện tự nhiên
3.1.1.1 Vị trí địa lý
Ân Tình là xã miền núi cao, nằm xa trung tâm huyện Na Rì với tổng diện

tích tự nhiên là 2232,70 ha, bao gồm 04 xóm. Vị trí tiếp giáp của xã như sau:
- Phía bắc giáp xã Lạng San, Lương Thượng;
- Phía đơng giáp xã Lương Thành, Văn Minh;
- Phía tây giáp xã Kim Hỷ;
- Phía nam giáp xã Cơn Minh.
3.1.1.2 Địa hình, địa mạo
Ân Tình là xã vùng núi nên địa hình khá phức tạp, đồi núi là chủ yếu
(chiếm trên 70 % tổng diện tích tự nhiên) độ dốc lớn, độ cao từ 230m đến
930m phân bố trên toàn xã, xen kẽ giữa những dãy núi là các đồi thấp, những
cánh đồng nhỏ hẹp và các ruộng bậc thang. Do đặc điểm của địa hình nên đất
đai của Ân Tình được chia thành các loại chính như sau:
+ Đất đồi gị (đất đỏ vàng) được hình thành do sự phong hố của đá mẹ.
Loại đất này phù hợp với việc phát triển rừng, cây ăn quả và phát triển kinh tế
vườn đồi nói chung.
+ Đất ruộng (sản phẩm của dốc tụ) chiếm (tỷ lệ rất nhỏ) khoảng 3,54%
tổng diện tích tự nhiên tồn xã, các cánh đồng chạy dọc theo các con suối nhỏ
và ven đường liên xã. Do đặc điểm địa hình nên việc canh tác chịu ảnh hưởng
rất lớn của chế độ thuỷ văn nhất là vào mùa khơ.
Nhìn chung đất đai của xã Ân Tình khơng màu mỡ, hàm lượng mùn thấp,
lân dễ tiêu nghèo, độ chua trung bình, đất ruộng có tầng canh tác mỏng nên
cần có biện pháp cải tạo phù hợp như: bón phân chuồng, phân xanh ... Đất
rừng có tầng đất mặt trung bình phù hợp với việc phát triển cây lâm nghiệp và
cây ăn quả.


20

3.1.1.3 Khí hậu
Theo trung tâm dự báo khí tượng thuỷ văn tỉnh Bắc Kạn, xã Ân Tình
mang đặc điểm chung của khí hậu vùng miền núi phía bắc chia hai mùa rõ rệt,

mùa nóng và mùa lạnh. Bên cạnh đó do nằm ở vĩ độ cao nên khí hậu có pha
trộn tính nhiệt đới và ơn đới.
Theo số liệu thống kê của trạm Khí tượng thuỷ văn Bắc Kạn cho biết:
nhiệt độ trung bình trong năm là 21,10C, nhiệt độ tối thấp tuyệt đối -20C
(tháng 12/1958), nhiệt độ tối cao tuyệt đối 39,50C (tháng 6/1958). Lượng mưa
trung bình trong năm là 1253 mm, cao nhất là 2038 mm, thấp nhất là 1068
mm, lượng mưa phân bố không đều giữa các mùa trong năm. Mùa mưa
thường bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10, lượng mưa khá lớn nhưng không đều
thường tập trung vào tháng 7, 8, 9 chiếm tới 80 - 85% lượng mưa cả năm,
mưa lớn tập trung thường tạo nên lũ quét gây rất nhiều thiệt hại cho sản xuất,
đời sống và sinh hoạt. Mùa khô thường bắt đầu từ tháng 11 đến tháng 4 năm
sau. Mùa này thường có gió mùa đơng bắc, tiết trời khơ hanh, ít mưa, gây hạn
hán, rét đậm kéo dài, xuất hiện băng giá và sương muối gây rất nhiều khó
khăn cho sản xuất. Độ ẩm khơng khí bình qn là 84,6%, cao nhất là 91% và
thấp nhất là 75%, lượng nước bốc hơi bình quân trong năm là 830 mm, tổng
số giờ nắng khoảng 242,4 giờ, năng lượng bức xạ đạt 110 kcal/cm2.
Tổng tích ơn hàng năm trung bình khoảng 7500 - 80000C.
Với đặc điểm khí hậu như trên, trong quy hoạch bố trí sử dụng đất cần
lợi dụng chế độ nhiệt cao, độ ẩm khá để bố trí nhiều vụ trong năm ở những
vùng đất sản xuất nông nghiệp. Đồng thời để hạn chế rửa trơi xói mịn đất
trong mùa mưa và hạn chế bốc hơi nước vật lý trong mùa khơ làm chai cứng
đất, cần bố trí hệ thống cây trồng có độ che phủ quanh năm, giữ đất, giữ
nước tốt, có như vậy mới đảm bảo sử dụng đất bền vững.
3.1.1.4 Thuỷ văn
Trên địa bàn xã Ân Tình có hệ thống suối, khe rạch khá dày đặc. Những
ngày mưa to, nước lớn thường xảy ra hiện tượng lụt cục bộ tại những khu vực
quanh suối. Một phần nguồn nước này phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt và sản
xuất của nhân dân.



21

3.1.2 Các nguồn tài nguyên
+ Tài nguyên đất
Đất đai của xã được hình thành từ đá mẹ như: Phiến thạch sét, đá mácma
axit, một số ít là đá mác ma trung tính và đá biến chất. Do đó có thể chia
thành các loại đất chủ yếu sau:
- Đất phù sa sông suối.
- Đất thung lũng do sản phẩm dốc tụ.
- Đất đỏ vàng biến đổi do trồng lúa.
- Đất nâu đỏ phát triển trên đá mác ma bazơ và trung tính.
- Đất đỏ vàng phát triển trên đá phiến sa thạch.
- Đất đỏ vàng phát triển trên đá biến chất.
Nhìn chung phần lớn đất đai có hàm lượng mùn, lân, kali ở mức nghèo,
mùn tổng số nhỏ hơn 1,0 %. Chính vì vậy qua phân hạng thuế nơng nghiệp
đất đai của xã chủ yếu là các hạng 4, 5 và hạng 6, Khơng có hạng 1 và 2.
+ Tài ngun nước
Tồn xã có 36.00 ha sơng suối và mặt nước chuyên dùng, 3,06 ha đất mặt
nước nuôi trồng thuỷ sản. Đây là nguồn nước mặt tự nhiên quý giá phục vụ
cho một phần nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của nhân dân, nhưng chưa được
khai thác một các triệt để và có hiệu quả để đưa vào sản xuất và sinh hoạt.
Qua khảo sát và đánh giá sơ bộ, nguồn nước ngầm ở độ sâu trung bình từ 10 15 m, đây là nguồn tương đối sạch cung cấp nước sinh hoạt cho nhân dân trong xã.
+ Tài nguyên rừng
Tài nguyên rừng của Ân Tình đa dạng và phong phú, có nhiều chủng loại
cây gỗ với tổng diện tích đất lâm nghiệp có rừng là 1661.82 ha chiếm 74,43%
tổng diện tích đất tự nhiên. Số diện tích rừng hiện nay chủ yếu là các hộ gia
đình, cá nhân quản lý. Diện tích rừng sản xuất là 637,82 ha chủ yếu bao gồm
các loại cây bản địa. Ngồi ra cịn có 1024,00 ha rừng đặc dụng, chiếm
45,86% tổng diện tích đất tự nhiên.
Mặc dù diện tích rừng sản xuất tương đối lớn nhưng chủ yếu là rừng non

mới tái sinh. Điều đặc biệt cần được quan tâm hiện nay là khu rừng tự nhiên
đang bị khai thác không đúng chu kỳ và kỹ thuật, chặt phá không xin phép.


22

Do đó trong thời gian tới cần có biện pháp quản lý chặt chẽ nhằm bảo vệ tốt
quỹ rừng hiện có này.
+ Tài ngun nhân văn
Tính đến năm 2008 tồn xã có 1030 khẩu và 220 hộ, gồm các dân tộc
Kinh, Tày, Nùng, Dao nhưng chủ yếu là người Tày. Trong đó dân số làm
nơng nghiệp là 100%
Theo số liệu thống kê tổng số lao động xã Ân Tình là 497 người, chiếm
48,25 % tổng dân số. Trong đó 100% là lao động nơng .
Như vậy Ân Tình là nơi tập trung dân số làm nông nghiệp. Mật độ dân
cư thấp so với các xã của huyện Na Rì, bình quân là 46,23 người/ 1 km2. ở
đây có nguồn nhân lực hạn chế, trình độ dân trí khơng đồng đều, người dân
chưa thật cần cù, chịu khó, số cán bộ có trình độ khoa học kỹ thuật và năng
lực cịn ít.
3.1.3 Thực trạng mơi trường
Ân Tình có địa hình, đất đai, khí hậu đa dạng, phong phú, có thể trồng
được nhiều loại cây trồng với năng suất cao và ổn định đặc biệt là cây lâm
nghiệp và một số loại cây ăn quả khác...
Tuy nhiên ruộng đất của xã đang ở trong tình trạng manh mún, thiếu
nước đã gây cản trở cho nền sản xuất. Đặc điểm của Ân Tình mà trước hết là
đất đai và thảm thực vật rừng mặc dù có bị xói mịn nhưng đã và đang được
cải thiện, phục hồi, mặt khác xét về toàn cục thì mơi trường sinh thái cịn khá
trong lành, thế nhưng trong những năm tới nếu khơng có biện pháp tun
truyền và quản lý tốt thì sẽ bị ơ nhiễm mơi trường bởi tàn dư của thuốc bảo vệ
thực vật trên đồng ruộng. Hiện tại diện tích đất hoang hố cịn nhiều và có

nguy cơ tăng lên, trong những năm tới nên cần có những biện pháp cụ thể để
ngăn chặn nguy cơ này, giữ độ che phủ bảo vệ môi trường.
3.2 Thực trạng phát triển kinh tế - xã hội
3.2.1 Tăng trưởng kinh tế
Từ khi thực hiện đường lối đổi mới, tốc độ tăng trưởng kinh tế của xã
tăng ở mức khá, cụ thể:


×