Tải bản đầy đủ (.pdf) (21 trang)

Tài liệu SÁNG KIẾN - MỘT SỐ KINH NGHIỆM RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN ĐIỂN HÌNH Ở LỚP 4 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (462.86 KB, 21 trang )

 
 



Sáng kiến kinh nghiệm

Đề Tài

MỘT SỐ KINH NGHIỆM RÈN KỸ NĂNG
GIẢI TOÁN ĐIỂN HÌNH Ở LỚP 4

1
SÁNG KIẾN
MỘT SỐ KINH NGHIỆM RÈN KỸ NĂNG
GIẢI TOÁN ĐIỂN HÌNH Ở LỚP 4
PHẦN THỨ NHẤT
ĐẶT VẤN ĐỀ

Trong chương trình toán ở tiểu học, việc giải các bài toán chiếm
một vị trí rất quan trọng. Được thể hiện qua các khái niệm toán học, các quy
tắc toán học đều được giảng dạy thông qua giải toán. Việc giải toán giúp học
sinh củng cố vận dụng các kiến thức, rèn luyện kĩ năng tính toán . Đồng thời
qua việc giải toán cho học sinh mà giáo viên có thể dễ dàng phát hiện những
mặt mạnh, mặt yếu của từng em về kiến thức, kĩ năng và tư duy để từ đó giúp
học sinh phát huy được tính chủ động sáng tạo trong học tập.
Hướng dẫn học sinh tìm ra lời giải đúng và hay là rất khó. Đại đa
số giáo viên chỉ hướng dẫn học sinh giải các bài toán trong sách giáo khoa, ít
khi đề cập đến các bài toán khác trong các tài liệu tham khảo. Chính vì thế
việc rèn kĩ năng giải toán điển hình còn có phần hạn chế. Để dạy tốt các dạng
toán này điều trước tiên mỗi giáo viên phải thực sự yêu nghề mến trẻ, thực sự


quan tâm đến học sinh từ đó phải đầu tư nghiên cứu đề ra những biện pháp cụ
thể cho từng tiết dạy. Từ những điều này tôi thấy việc cần phải rèn kĩ năng
giải toán điển hình cho học sinh là quan trọng. Song bản thân tôi không có
tham vọng lớn mà chỉ cố gắng nghiên cứu tìm tòi nhằm đáp ứng được phần
nào trong việc đổi mới và nâng cao chất lượng dạy học. Vì lẽ đó năm học

2
2005-2006 này tôi đã chọn nội dung “ Rèn kỹ năng giải toán điển hình ở lớp
4” để nghiên cứu và áp dụng vào công tác giảng dạy của mình.
PHẦN THỨ HAI
NỘI DUNG
I.CƠ SỞ LÝ LUẬN
1.Cơ sở khoa học.
Trong hoạt động dạy và học thì không thể không nói đến phương
pháp dạy và phương pháp học, hai hoạt động đó diễn ra song song. Nếu chỉ
chú ý đến việc truyền thụ kiến thức cho học sinh mà không chú ý đến việc
tiếp thu và hình thành kỹ năng và kỹ xảo như thế nào thì quá trình dạy học sẽ
không mang lại kết quả cao. Khi học sinh không nhận thức được tri thức khoa
học thì sẽ không hình thành được kỹ năng kỹ xảo. Từ đó không nhận thức
đúng đắn, đáp ứng yêu cầu thực tiễn sảy ra những tình huống mà học sinh sẽ
không xử lý được, cho dù giáo viên có những phương pháp giảng dạy hay đến
đâu đi chăng nữa, mà học sinh không có học tập khoa học thì không giải
quyết được nhiệm vụ dạy học.
2.Cơ sở thực tiễn.
Đối với môn Toán là môn học tự nhiên nhưng rất trìu tượng, đa
dạng và lôgic, hoàn toàn gắn với thực tiễn cuộc sống hàng ngày. Bởi vậy nếu
học sinh không có phương pháp học đúng sẽ không nắm được kiến thức cơ
bản về Toán học và đối với các môn học khác nhận thức gặp rất nhiều khó
khăn.
Môn Toán là môn học quan trọng trong tất cả các môn học khác.

nó là chìa khoá để mở ra các môn học khác. Đồng thời nó có khả năng phát

3
triển tư duy lôgic, phát triển trí tuệ cần thiết giúp con người vận dụng vào
cuộc sống hàng ngày.
Trong giờ Toán, bên cạnh việc tìm tòi và sáng tạo phương pháp
giảng dạy phù hợp với yêu cầu bài học và đối tượng học sinh. Mỗi giáo viên
cần phải giúp các em có phương pháp lĩnh hội tri thức Toán học. Học sinh có
phương pháp học Toán phù hợp với từng dạng bài Toán thì việc học mới đạt
kết quả cao. Từ đó khuyến khích tinh thần học tập của các em cao hơn.
II.THỰC TRẠNG :
1. Đối với giáo viên:
Trong quá trình dạy học có thể nói người giáo viên còn chưa có sự chú
ý đúng mức tới việc làm thế nào để đối tượng học sinh nắm vững được lượng
kiến thức, đặc biệt là các bài toán điển hình. Nguyên nhân là do giáo viên phải
dạy nhiều môn, thời gian dành để nghiên cứu, tìm tòi những phương pháp dạy
học phù hợp với đối tượng học sinh trong lớp còn hạn chế. Do vậy, chưa lôi
cuốn được sự tập trung chú ý nghe giảng của học sinh. Bên cạnh đó nhận thức
về vị trí, tầm quan trọng của các bài toán điển hình trong môn Toán cũng
chưa đầy đủ. Từ đó dẫn đến tình trạng dạy học chưa trọng tâm, kiến thức còn
dàn trải.
2. Đối với học sinh:
Còn nhiều gia đình học sinh chưa thực sự quan tâm tới việc học
tập của con cái. Do điều kiện kinh tế còn khó khăn và trình độ học vấn chưa
cao nên chưa chú ý đến việc học hành của con cái.Đặc biệt chưa nhận thức
đúng vai trò của môn Toán. Học sinh chưa ý thức được nhiệm vụ của mình,
chưa chịu khó, tích cực tư duy suy nghĩ tìm tòi cho mình những phương pháp
học đúng để biến tri thức của thấy thành của mình. Cho lên sau khi học xong

4

bài, các em chưa nắm bắt được lượng kiến thức thầy giảng rất nhanh quên và
kĩ năng tính toán chưa nhanh. Nhất là đối với kỹ năng giải toán điển hình
Số liệu điều tra học lực đầu năm:

Khá giỏi Trung bình yếu
L
ớp
T
ổng số
H
S
S
L
%
S
L
%
S
L
%
4
A
29 8
27
,6
1
6
55,
2
5

1
7,2
4
B
29 9
31
,0
1
6
55,
2
4
1
3,8
III. KINH NGHIỆM RÈN KỸ NĂNG GIẢI TOÁN ĐIỂN HÌNH.
1. Xác định các bước giải toán điển hình:
a) Bước 1:
Cho học sinh giải các bài toán có tính chất chuẩn bị cơ sở việc
giải loại toán sắp học. Các bài toán có tích chất chuẩn bị này nên có số liệu
không lớn lắm để học sinh có thể tính miệng được dễ dàng nhằm tạo điều kiện
cho các em tập trung suy nghĩ váo các mối quan hệ toán học và các từ mới
chứa trong đầu bài toán.

5
VD1: Để chuẩn bị cho việc học loại toán “Tìm số trung bình
cộng” có thể cho học giải bài toán đơn sau: “Anh Hải điều khiển máy xay lúa.
Trong 8 giờ anh xay được 72 tạ lúa. Hỏi trung bình mỗi giờ anh xay được
mấy tạ thóc?”.
VD2: Để chuẩn bị cho việc học loại toán “ Tìm hai số biết tổng
và tỉ số của chúng”. Có thể cho học sinh giải bài toán sau: “ Mẹ có 30 cái kẹo,

chia thành 3 gói bằng nhau. Mẹ cho chị 1 gói, cho em 2 gói. Hỏi chị được
mấy cái kẹo?”
b) Bước 2:
Cho học sinh phân tích và giải bài mẫu về loại toán điển hình đó.
Những bài toán được chọn làm mẫu này nên có số liệu không lớn quá và có
dạng tiêu biểu nhất chứa dựng tất cả những đặc điểm chung của loại toán điển
hình cần học để học sinh có thể tập trung chú ý được vào khâu nhận dạng loại
toán và rút ra được cách giải tổng quát.
VD3: Dạy phần bài mới của tiết: “Bài toán tìm 2 số biết tổng và
hiệu của chúng”- lớp 4.
* Giáo viên đọc đề toán “ Mẹ cho hai anh em tất cả 10 cái kẹo,
em được nhiều hơn anh 2 cái. Hỏi số kẹo của anh và số kẹo của em?”
* Tổ chức làm việc trên đồ dùng học tập.
- Mỗi học sinh lấy 10 nắp bia ( tượng trưng cho 10 cái kẹo )
khoanh phần trên mặt bàn thành 2 vòng: vòng lớn chứa số kẹo của em, vòng
nhỏ chứa số kẹo của anh.
- Em được nhiều hơn anh 2 cái kẹo. Vậy ta lấy 2 cái kẹo cho em
trước rồi chia đôi phần còn lại. Hãy lấy 2 cái kẹo cho em trước (học sinh đặt 2
nắp bia vào vòng lớn).

6
+ “Còn lại mấy cái kẹo?” (10 - 2 = 8 cái)
+ Bây giờ chia đều cho 2 anh em. Mỗi phần được mấy cái? (8 : 2
= 4 cái). Học sinh bỏ vòng, mỗi vòng 4 nắp bia.
- Vậy anh được mấy cái kẹo? (4 cái).
- Còn em được mấy cái kẹo? (2 + 4 = 6 cái)
*Giáo viên hướng dẫn nhận dạng trên sơ đồ tóm tắt.
- Bài toán yêu cầu tìm 2 số: trong này có 1 số lớn (số kẹo của
em) và 1 số bé (số kẹo của anh). Ta biểu thị số lớn bằng một đoạn thẳng dài,
số bé bằng một đoạn ngắn hơn.

Số lớn:
Số bé:
- Bài toán cho biết gì? ( có tất cả 10 cái kẹo, em được nhiều hơn anh 2
cái).
- Đúng vậy: Có tất 10 cái kẹo, nghĩa là tổng của 2 số là 10. Em
được nhiều hơn 2 cái nghĩa là hiệu của 2 số đó là 2 (giáo viên vẽ tiếp vào tóm
tắt để có)

2


Giáo viên nêu: ta có bài toán tìm 2 số biết tổng của chúng là 10,
hiệu của chúng là 2.
*Hướng dẫn học sinh giải trên sơ đồ.

10

7
Giáo viên lấy thước che “đoạn 2” đi rồi hỏi: Nếu bớt 2 ở số lớn
thì 2 số như thế nào?(... bằng nhau).
- Vậy 2 lần số bé là bao nhiêu? (10 - 2 = 8).
- Tìm số bé bằng cách nào? (8 : 2 = 4).
- Tìm số lớn bằng cách nào? (4 + 2 = 6).
Giáo viên lần lượt ghi từng phần bài giải lên bảng làm mẫu cho
học sinh.
*Hướng dẫn rút ra quy tắc giải.
Cách giải này gồm mấy bước: (3 bước).
- Bước 1: Tìm 2 lần số bé bằng cách lấy tổng trừ hiệu.
- Bước 2: Tìm số bé bằng cách chia đôi kết quả trên.
- Bước 3: Tìm số lớn bằng cách lấy số bé + số hiệu..

Song song với việc hướng dẫn giáo viên có thể ghi thêm vào lời
giải như sau.
Hai lần số bé là: 10 - 2 = 8
tổng hiệu
Số bé là; 8 : 2 = 4
(Tổng - hiệu): 2
Số lớn là: 4 + 2 = 6
số bé hiệu

×