Tải bản đầy đủ (.pdf) (17 trang)

(Sáng kiến kinh nghiệm) một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục học sinh cá biệt THPT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (388.98 KB, 17 trang )

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HOÁ

TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG TRIỆU SƠN 4

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
GIÁO DỤC HỌC SINH CÁ BIỆT THPT

Người thực hiện: Lê Thị Phượng
Chức vụ: Giáo viên
SKKN thuộc lĩnh vực (mơn): Cơng tác chủ nhiệm

THANH HỐ, NĂM 2018


MỤC LỤC
Nội dung
Trang
I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
2. Mục đích nghiên cứu
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
II. NỘI DUNG CỦA SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm
2. Thực trạng của vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm.
3. Nguyên nhân của vấn đề.
3.1. Nguyên nhân khách quan.
3.2. Nguyên nhân chủ quan.
4. Giải pháp thực hiện giáo dục.


4.1. Giáo dục bằng tâm lí.
4.2. Giáo dục bằng tập thể lớp.
4.3. Phối hợp với các giáo viên bộ môn.
4.4. Phối hợp với các ban ngành đoàn thể trong trường
4.5. Phối hợp với phụ huynh học sinh.
5. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ.
1. Kết luận
2. Kiến nghị

Trang
1
1
1
2
2
2
2
3
4
4
5
6
6
8
8
9
11
11
13

13
14


I. Mở đầu.
1. Lí do chọn đề tài
Ở các cở sở giáo dục, các trường học, các cấp học nói chung và cấp THPT
nói riêng, giáo viên chủ nhiệm có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc giáo dục
nhân cách, đạo đức, tấc phong, lối sống cho học sinh. Để thực hiện được công
việc này, giáo viên chủ nhiệm cần phải có những kiến thức cơ bản về tâm lí học,
giáo dục học cũng như cần có hàng loạt các kĩ năng mềm trong sư phạm như: kĩ
năng tiếp cận các đối tượng học sinh khác nhau, nghiên cứu tâm lí lứa tuổi.
Ngồi ra, giáo viên chủ nhiệm cũng cần có những nhạy cảm sư phạm để có thể
dự đốn đúng, chính xác sự phát triển nhân cách của học sinh. Định hướng, giúp
đỡ các em lường trước những khó khăn, và những dự định để các em có thể tự
hoàn thiện bản thân.
Giáo viên là những người được đào tạo không những kiến thức về chuyên
môn, nghiệp vụ mà còn được trang bị các kĩ năng sư phạm trong việc giáo dục
nhân cách cho học sinh, nhất là thông qua công tác chủ nhiệm lớp. Giáo dục đạo
đức cho học sinh cá biệt là một trong những nhiệm vụ thiết yếu trong nhà
trường, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện cho nhà trường.
Qua nhiều năm giảng dạy và trực tiếp làm công tác chủ nhiệm lớp, bản thân
tơi đã gặp khơng ít các học sinh có các biểu hiện cá biệt, trong số đó các em có
biểu hiện cá biệt ở những mặt khác nhau, địi hỏi trong q trình thực hiện giáo
dục phải có nhiều sáng tạo mới có thể có nhiều hiệu quả. Ở học kì II năm học
2017 – 2018 tơi được phân công tiếp nhận làm công tác chủ nhiệm lớp 11B4 –
là một lớp có tỉ lệ học sinh yếu kém nhiều, có đối tượng học sinh phong phú, tỉ
lệ học sinh cá biệt không nhỏ. Đây là vấn đề gây khơng ít khó khăn trong cơng
tác quản lí học sinh của tơi. Từ những lí do trên với chút kinh nghiệm nhỏ nhoi
tích lũy được của bản thân, tơi mạnh dạn viết sáng kiến kinh nghiệm với đề tài:

“Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục học sinh cá biệt
THPT”. Với đề tài này hi vọng tôi chia sẻ được chút kinh nghiệm trong công tác
chủ nhiệm lớp của mình với các thầy cơ.
2. Mục đích chọn đề tài.
Với đề tài này bản thân tôi ngày đêm trăn trở làm thế nào để giúp cho những
học sinh chưa ngoan từng bước thay đổi tư tưởng, thái độ của mình trong học
tập cũng như trong lối sống. Với mong muốn giúp đỡ các em biết tự tôn trọng
bản thân mình cũng như tơn trọng những người xung quanh. Giúp các em ý thức
được việc học sẽ phục vụ cho chính bản thân các em, góp phần nâng cao chất
lượng cho lớp, cho trường và góp phần xây dựng quê hương đất nước.
1


Giúp các em thấy được công lao to lớn của cha mẹ - những người có cơng
sinh thành và ni dưỡng. Chỉ cho các em thấy được những vất vả mà thầy cô
từng ngày trực tiếp truyền đạt tri thức, kĩ năng sống cho các em. Từ đó, các em
có thể dần thay đổi và trở thành những người có ích cho xã hội.
Từ đây, tôi đã ý thức được vai trị trách nhiệm của mình đối với nghề nghiệp,
đặc biệt là công tác chủ nhiệm lớp, công tác giáo dục học sinh cá biệt. Nghề dạy
học là một nghề cao cả, thiêng liêng, không phải ai cũng làm được như cố thủ
tướng Phạm Văn Đồng đã từng nói: “ Nghề dạy học là nghề cao quý nhất trong
những nghề cao quý”. Cũng qua đây, giúp cho một số ít thầy cơ xóa đi những tư
tưởng kì thị, phân biệt đối xử với những học sinh chưa ngoan mà chúng ta cần
xác định “ Tất cả vì học sinh thân yêu”.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu là những học sinh các lớp tôi đã từng chủ nhiệm trước
đây và đặc biệt là lớp chủ nhiệm bây giờ tại trường THPT Triệu Sơn 4, cụ thể là
lớp 11B4 ở học kì 1 năm học 2017 – 2018 làm lớp đối chứng, và học kì 2 năm
2017 – 2018 làm lớp thực nghiệm.
4. Cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu

Nghiên cứu về tâm lí, thực trạng, nguyên nhân của các học sinh cá biệt
Nghiên cứu thực tiễn, quan sát, trò chuyện, trao đổi với các em để hiểu thêm
về tâm tư của các em
Phương pháp phân tích tổng hợp lí thuyết để xác định cơ sở lí luận của đề tài.
Phương pháp phân tích thực tiễn để rút kinh nghiệm trong công tác giáo dục
học sinh cá biệt của mình.
Gặp gỡ, trao đổi thêm với phụ huynh để hiểu thêm về tính cách của các em.
II. Nội sung của sáng kiến kinh nghiệm.
1. Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm.
Khái niệm về học sinh cá biệt chưa được xác định một cách nhất quán trong
lí luận cũng như trong thực tiễn giáo dục. Mỗi người có cách lập luận khác nhau
về sự sa sút vè đạo đức của một số ít học sinh nhất định trong trường học.
Thiết nghĩ rằng đạo đức là một hiện tượng xã hội, giáo dục đạo đức, nhân
cách cho học sinh phải gắn liền với gia đình, xã hội, với các giáo viên khác
trong trường và với các ban ngành, đoàn thể trong nhà trường. Phải xác định
được nguyên nhân tình trạng sa sút đạo đức ở các em, cần mơ tả, phân tích, và
so sánh đối chiếu để tìm ra biện pháp giáo dục phù hợp. Khơng chỉ qua các số
2


liệu học lực, hạnh kiểm, mà cịn cần tìm ra nguyên nhân và giải pháp cho vấn
đề.
2. Thực trạng của vấn đề
Cùng với sự phát triển của xã hội, nhiều trị chơi giải trí mới, lạ đã mọc lên
như: Games online, bi-a, … Những trò chơi này đã thu hút khơng ít học sinh
tham gia. Từ đó, kéo theo các hiện tượng như lừa dối cha mẹ để xin tiền đi chơi,
lấy cắp tiền, đồ dùng, dụng cụ học tập của bạn,….Khi đã bị cuốn theo các trò
chơi trên, đến trường các em thường lơ là việc học tập, không học, không chú
nghe giảng, ghi chép và làm bài tập mà thay vào đó là tinh thần uể oải, mệt mỏi
hoặc là ngồi gục mặt lên bàn để ngủ. Thậm chí có em cịn tỏ ra là “ sành điệu”

và thích làm “ đại ca”… . Thực trạng trên gây ra những băng hoại về đạo dức,
lối sống, phá hoại mọi hiệu quả của giáo dục. Nếu không ngăn chặn kịp thời thì
có thể gây hậu quả khơn lường vì chính những hành động này sẽ tạo ra các tiền
đề cho các ảnh hưởng xấu từ bên ngoài dội vào, tạo nên những sự lệch lạc trong
các em và từ đó các em trở thành học sinh “ cá biệt”.
Nói đến học sinh cá hiệt thì có lẽ trường học nào cũng có, cấp học nào cũng
có nhưng có lẽ cấp THPT là thời gian mà các em chưa thành người lớn nhưng
cũng khơng cịn là trẻ con nên có thể có những học sinh dễ sa ngã hơn hết. Học
sinh cá biệt khơng nhiều , song đó lại là “rào cản” lớn trong công tác giáo dục
của giáo viên chủ nhiệm lớp. Dưới đây là kết quả thực trạng của lớp 11B4 ở học
kì 1 năm học 2017 – 2018.
a. Hạnh kiểm:
Nội
Tổn Loại Tốt
dung g số SL
TL (%)
38

29

76.31

Loại Khá

Loại TB

Loại Yếu

SL


TL (%) SL

TL (%)

SL

TL (%)

2

5.26

7.89

4

10.52

3

b. Học lực:
Nội
dun
g

Tổn
g số
38

Loại

Giỏi

Loại Khá

Loại TB

Loại Yếu

Loại Kém

SL

TL
(%
)

SL

TL(%
)

SL

TL(%
)

SL

TL(%
)


S
L

TL(%
)

0

0

4

10.52

20

52.63

14

36.84

0

0

3



Qua bảng số liệu học lực và hạnh kiểm của lớp ở học kì 1 ta thấy số học sinh
được xếp loại hạnh kiểm có rải khắp ở các loại. Cịn về học lực thì loại khá chỉ
có ít (4 học sinh = 10,52%) và loại yếu chiếm rất nhiều (14 học sinh = 36,84%) .
Vậy từ đó, tơi tìm hiểu nguyên nhân , phân loại học sinh trong lớp để hiểu rõ
những học sinh chưa ngoan. Sau đó tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến cá biệt. Vì
sao các em lại trở nên như vậy? Bản chất của con người vốn tốt đẹp cơ mà, vậy
ai, cái gì đã làm cho các em trở nên như vậy? Đây là công việc khơng hề đơn
giản, địi hỏi rất nhiều cơng phu và hơn hết là phải cần đến cái tâm của người
thầy. Từ đây, tơi cần phải tìm hiểu kỹ càng, gặp gỡ nhiều người để tìm ra
nguyên nhân sâu xa và có biện pháp phù hợp nhất để giáo dục.
3. Nguyên nhân
3.1 Nguyên nhân khách quan
a. Nguyên nhân về phía gia đình.
Thời gian các em ở nhà, bên gia đình là nhiều nhất, chính vì thế mơi trường
sống của gia đình có ảnh hưởng rất lớn đối với các em. Những thái độ, hành vi,
cách cư xử của các thành viên trong gia đình sẽ hình thành cho các em nền
móng để các em tiếp xúc ngồi xã hội. Có những em sinh ra trong gia đình mà
cha mẹ bất hịa, cách cư xử của cha mẹ thơ bạo, rượu chè bê tha… đã tạo ra cho
các em một ấn tượng khơng tốt và điều này có thể dẫn đến tình trạng học sinh
trở nên lầm lì, ít nói. Cũng có những em ảnh hưởng những thói quen khơng tốt
đó và cũng sẽ có những hành vi cư xử khơng tốt với mọi người.
Hoặc có những em sống trong mơi trường cha mẹ ly hôn hoặc vướng vào các
tệ nạn xã hội, Có những em có đời sống gia đình cịn khó khăn, tệ nạn xã hội
nhiều mà cha mẹ lại chưa ý thức được hết vai trò, trách nhiệm gia đình của
mình. Hoặc cũng có những em được sinh ra trong gia đình khá giả, có điều kiện
nhưng bố mẹ chỉ mải mê làm việc và cung phụng cho các em ấy những gì mà
các em ấy yêu cầu, không dành thời gian quan tâm đến con, cũng đưa các em
đến sự buồn chán.
b. Nguyên nhân về phía nhà trường
Nhà trường được xem là ngôi nhà thứ hai của các em học sinh, ở đây các bậc

cha mẹ đã gửi gắm niềm tin vào việc giáo dục con em của họ. Từ nơi đây các
em còn được học tập, được hiểu biết được nuôi dưỡng ước mơ và được lớn lên
về mọi mặt. Nhưng để đạt được những điều này thì khơng hề dễ một chút nào.
Trong thực tế vẫn cịn đâu đó có những thầy,cơ chưa nhiệt tình, chưa thực sự
yêu nghề, chưa nhiệt huyết với nghề, chưa nhiệt huyết với các em và chưa thật
sự là nơi đáng tin cậy để các em có thể chia sẻ những tâm tư của mình. Đâu đó
4


vẫn cịn những thầy cơ chưa có cách giáo dục phù hợp, vẫn còn xúc phạm học
sinh đối xử thiếu cơng bằng, thiếu tơn trọng học sinh, và thậm chí là ép các em
làm những điều không thể ( như vụ việc đau lòng đã xảy ra trong ngành giáo
dục cô giáo bắt học sinh uống nước giẻ lau bảng). Vẫn cịn có những thầy cơ
ngại khó khi phải giáo dục những học sinh cá biệt, còn cáu giận, sỉ nhục học
sinh. Chính những điều này đã làm mất đi lòng tin của các em, ở các bậc phụ
huynh. Cũng chính từ những điều này đã tạo ra một khoảng cách khơng đáng có
giữa thầy và trị, dẫn đến có những biểu hiện chống đối lại thầy cơ của mình từ
phía học sinh.
Ngồi những ngun nhân này ra, tơi thiết nghĩ cịn ngun nhân từ phía
chính các thầy cơ giáo viên chủ nhiệm như: Trong giáo dục học sinh cá biệt còn
sử dụng tùy tiện các biện pháp giáo dục khơng phù hợp và chưa khoa học. Xử lí
học sinh vi phạm trong lớp khơng cơng bằng làm mất lịng tin ở các em. Không
xây dựng được kế hoạch, nội quy, quy định riêng của lớp. Đặc biệt là khi lớp có
học sinh vi phạm, giáo viên đã khơng xử lí đến nơi đến chốn, chỉ nhắc nhở mà
khơng có biện pháp giáo dục hiệu quả. Chưa thông báo kịp thời đến phụ huynh,
chưa phối hợp tốt với họ. Vẫn cịn thái độ kì thị với học sinh yếu kém. Không
bám lớp thường xuyên để theo dõi mà cứ giao hết cho ban cán sự lớp. Còn một
lỗi nữa mà giáo viên chủ nhiệm mắc phải đó là đơi khi chỉ nói mà khơng thực
hiện hoặc thực hiện khơng đến nơi đến chốn, hoặc ngược lại là khi có học sinh
vi phạm thường phạt các em quá nặng.

c. Nguyên nhân từ phía mơi trường xã hội.
Ngồi mơi trường gia đình và nhà trường ra, học sinh còn phụ thược rất lớn
vào môi trường xã hội. Hiện nay do sự phát triển kinh tế - xã hội, sự phát triển
mạng lưới thơng tin hiện đại, các loại hình văn hóa khác, các loại trị chơi vơ
bổ… đã lơi kéo khơng ít học sinh đam mê vào chúng. Hiện tượng học sinh bỏ
học để đi chơi điện từ, bi-a, đánh bài, đánh bạc… là chuyện thường ngày. Cũng
chính từ đây các em nảy sinh hành động trộm cắp, cướp giật…
3.2 Nguyên nhân chủ quan từ phía chính học sinh.
Bên cạnh nguyên nhân khách quan từ phía gia đình, nhà trường, mơi trường
và xã hội nó cịn đến từ ngun nhân chủ quan từ phía học sinh.
Do đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi, suy nghĩ cịn chưa chín chắn, nhận thức cịn
chưa cao nên nhiều em sống khơng có mục đích, khơng có lí tưởng, khơng ước
mơ, hồi bão thì việc các em có những hành vi thiếu chuẩn xác là điều khó tránh
khỏi.
5


Đa số các em học sinh cá biệt thường là những em có khả năng học tập cịn
yếu kém chính vì vậy việc tiếp thu kiến thức của các em ấy còn hạn chế dẫn đến
lười biếng, chán học hành, thích đua bạn đua bè và cịn muốn phá phách và có
những hành động trái với quy định.
Từ việc nghiên cứu, tìm hiểu các học sinh cá biệt tơi đã tìm ra một số giải
pháp để từng bước giáo dục các em mà tôi muốn chia sẻ cùng các thầy cô qua đề
tài này.
4. Giải pháp thực hiện giáo dục.
Bên cạnh việc tăng cường các hoặt động giáo dục thông qua các tiết sinh
hoạt tập thể, sinh hoạt cuối tuần hay trong sinh hoạt 15 phút đầu giờ thì đối với
các học sinh cá biệt tơi cũng cần có những biện pháp giáo dục đặc thù, phù hợp
với từng em.
4.1 Giáo dục bằng tâm lí

Từ xưa đến nay, quan hệ thầy trị là quan hệ tình cảm, thân mật, gắn bó. Từ
đó tơi thường có những cuộc nói chuyện cởi mở với các em ấy thì mới biết được
những tâm tư, nguyện vọng của các em và rồi để có những biện pháp giáo dục
thích hợp, kịp thời. Đối với những học sinh cá biệt khơng nên thường xun phê
bình và dùng những lời nói nặng đến các em. Nếu làm vậy thì khơng những
khơng đạt được kết quả của mình mong muốn, mà thậm chí cịn nhận được kết
quả trái ngược lại. Nếu ta cứ mãi phê bình các em ấy trước lớp thì các em ấy sẽ
có những hành động phản lại và trở nên xa lánh chúng ta.
Chính vì thấy được các cá tính của các em như vậy nên tôi đã tạo được mối
quan hệ gần gũi với các em chưa ngoan. Tôi thực sự phải là chỗ dựa đáng tin
cậy nhất cho các em. Khi nói chuyện với các em tơi ln cởi mở, chân tình, vui
vẻ thì mới có thể dễ dàng cảm hóa được các em. Cho đến khi mối quan hệ cô trị
gần gũi, tốt đẹp hơn thì lúc này các em sẽ thổ lộ những tâm tư, tình cảm riêng
của mình mà không một chút ngần ngại. Lúc này những lời khuyên, răn dạy của
chúng ta sẽ có tác dụng rất lớn đối với các em ấy.
Ví dụ 1:
Trong lớp tơi chủ nhiệm có em Lê Văn Quang – một học sinh có ý thức học
tập cịn yếu kém. Em chỉ thích đi chơi, giao du với bạn xấu ngồi trường, hoặc
đi chơi games onlie. Em thường chơi đến khuya nên mỗi sáng mai đến lớp em
thường gục mặt lên bàn, không chú ý nghe giảng và ghi chép bài như các bạn
khác trong lớp. Chính vì vậy đến khi thầy cô kiểm tra em thường nhận được
điểm kém. Em tỏ ra chán nản, khơng muốn đi học, lầm lì ít nói và ương bướng,
6


em cịn xa lánh bạn bè, thầy cơ và em đã có ý định bỏ học. Kết quả học kì một
em bị xếp loại hạnh kiểm yếu, học lực yếu.
Thấy vậy tơi đã tìm cách gần gũi và trị chuyện với em. Sang những tuần đầu
học kì hai, những lần em mắc lỗi điểm kém hoặc hững lỗi thuộc về nề nếp, tơi
thường khơng phê bình em nặng nề trước lớp nữa mà thay vào đó tơi tìm ra

điểm tốt của em để biểu dương như là : “ Ở buổi lao động chiều thứ năm vừa
qua, lớp ta đã làm tốt công việc được giao. Đặc biệt bạn Quang đã làm việc rất
năng nổ, nhiệt tình. Cơ thấy tất cả các em đều nên tham gia lao động một cách
nhiệt tình như bạn ấy. Cơ đã nhìn thấy sự cố gắng rất nhiều ở bạn Quang”.
Biết được tâm tư, nguyện vọng của em, biết được nguyên do đâu mà em đã
trở nên như thế, tôi đã động viên em, thường xuyên quan tâm đến em nhiều hơn
trong các giờ học. Tôi đã xếp một em học sinh khác ngoan và học khá hơn ngồi
cạnh em để giúp đỡ em trong học tập. Từ những việc như vậy, nên ngay từ
những tuần đầu của học kì hai, em đã có những tiến bộ rõ nét ở cả hai mặt học
tập và đạo đức. Ở đợt thi đua chào mừng ngày thành lập đồn thanh niên cộng
sản Hồ Chí Minh 26/03/2018 vừa qua em cùng một số bạn khác đã tham gia rất
nhiệt tình và kết quả là chi đồn 11B4 đã được khen và nhận được giải khuyến
khích trong cuộc thi “ Hội chợ ẩm thực” do Đoàn trường tổ chức.
Ví dụ 2:
Một trường hợp khác trong lớp tơi nữa đó là em Nguyễn Quang Nam – một
học sinh mồ côi cha từ rất sớm, cũng là một trong những học sinh cá biệt của
lớp.
Cũng có những biểu hiện như em Quang, nhưng em Nam còn thường xuyên vi
phạm các lỗi về nề nếp như đi học muôn, không thực hiện đồng phục theo quy
định, thường xuyên đổi chỗ trong các giờ học để nói chuyện và chơi. Em c ̣n có
những hành vi như lấy cắp tiền và máy tính cầm tay của các bạn trong lớp để lấy
tiền đi chơi, đã được nhắc nhở nhiều lần nhưng em không tiến bộ. Một hôm tôi
biết được tin mẹ em bị ốm nặng phải nằm viện. Tôi đã động viên em rất nhiều.
Tơi đã dùng tình cảm của người mẹ để tâm sự cùng em: “ Em là niềm an ủi duy
nhất đối với mẹ em lúc này, cũng như mẹ là chỗ dựa duy nhất của em. Bố mất
sớm, mẹ sớm hôm tảo tần nuôi em ăn học, mong muốn em trở thành người tốt,
người có ích cho xã hội. Bao vất vả nặng nhọc mẹ đều gánh chịu để em có cơ
hội, điều kiện học tập tốt bằng bạn, bằng bè. Vậy mà em không nhận ra điều đó
sao?. Gần đây cơ nghe nói mẹ em bị ốm do biết tin em không chịu học hành, lấy
trộm tiền của các bạn, theo các bạn xấu đi chơi. Thấy mẹ vậy em khơng thương,

xót mẹ mình sao ?”. Lúc này đây tôi thấy em đã hiểu ra vấn đề nên tôi thường
xuyên trao đổi riêng và động viên em. Em đã phần nào hiểu được những gì tơi
đã dành cho em và đã có những thay đổi tiến bộ dần dần.
7


4.2. Giáo dục bằng tập thể lớp
Ở cấp THPT là thời điểm mà bạn bè có vị trí quan trọng trong đa số các
em, đặc biệt là đối với những học sinh cá biệt, các em lại càng coi trọng tình
bạn. Chính vì nắm bắt và hiểu được điều này nên bên cạnh giáo dục học sinh cá
biệt bằng tình cảm, bằng tâm lí tơi cịn dùng biện pháp lấy tập thể ra để giáo dục
cá nhân. Khi tôi muốn tìm hiểu về những học sinh chưa ngoan của lớp mình, tơi
thường trao đổi với một số học sinh khác của lớp về các em ấy. Và tất nhiên tôi
cũng hướng dẫn các em trong lớp mình gần gũi, giúp đỡ và động viên bạn.
Hướng dẫn các em là phải tạo được mối quan hệ tốt và phải cho bạn thấy đặt
niềm tin ở nơi mình. Một khi bạn bè đã có niềm tin với nhau thì các em sẽ thoải
mái bộc lộ tâm tư với bạn mà khơng cịn phải ngần ngại. Lúc này tôi đã thường
xuyên giữ mối liên lạc với một số học sinh khác trong lớp để biết được những
khó khăn mà các em học sinh cá biệt đang gặp phải. Từ đó hướng dẫn cho học
sinh lớp mình biết cách sẻ chia, tháo gỡ khó khăn với bạn, giúp bạn vượt lên
chính mình.
4.3. Phối hợp với các giáo viên bộ mơn.
Có học sinh lại có biểu hiện cá biệt ở chỗ mối quan hệ với thầy cơ của mình
chưa tốt, nhưng tơi nghĩ là chúng ta cần tạo mối quan hệ gần gũi, không quá
khắt khe, nên bao dung độ lượng, thể hiện sự quan tâm của chúng ta để các em
thấy được thầy cô như cha mẹ mình. Ln dìu dắt, nâng đỡ các em khi các em
vấp ngã trong học tập cũng như trong cuộc sống hàng ngày.
Ví dụ
Em Nguyễn Văn Minh lớp tôi, là một học sinh yếu. Ở môn Tiếng Anh em
được thầy gọi lên bảng kiểm trai bài cũ vài lần nhưng em vẫn khơng học bài,

khơng thuộc bài. Chính vì vậy đã có lần thầy dùng những lời nhận xét nặng nề
với em, và từ đó em đã nghĩ thầy khơng cơng bằng với mình nên thường xun
phá rối lớp trong giờ học.
Biết được nguyên do như vậy tôi đã yêu cầu em viết một bản kiểm điểm
với thầy về hành vi không học bài, quấy phá lớp trong giờ học. Từ đây tôi cũng
đã gặp, trao đổi và nhắc nhở em cố gắng chú ý học tập. Phân tích, chỉ ra những
hành động chưa đúng của em. Mong muốn em hứa với tôi từ nay sẽ chú ý học
hơn đặc biệt là trong giờ học Tiếng anh.
Sau đó tôi đã trao đổi với giáo viên bộ môn về tính cách cá biệt của em,
đồng thời mong muốn có sự phối hợp để giáo dục em được tốt hơn. Mong muốn
thầy thường xuyên quan tâm đến em hơn. Trong giờ học hãy luôn gọi em trả lời
8


bài trước lớp, ưu tiên chọn những câu hỏi dễ phù hợp với khả năng của em để
em có thể trả lời được. Thầy cũng nên khen em trước lớp và cho điểm em trả lời
đúng để khích lệ tinh thần học ở em. Mong thầy bỏ qua những lỗi mà em đã mắc
phải.
Với biện pháp trên, cuối năm, em Minh đã tiến bộ rõ rệt, đặc biệt là ở mơn
Tiếng anh mà em từng khơng thích. Mối quan hệ thầy trị trở nên gần gũi hơn.
Cũng từ đó em khơng cịn “ghét” mơn Tiếng anh nữa. Em đã làm bài kiểm tra
học kì 2 đạt điểm khá, thầy rất vui và chính thầy đã có phần thưởng riêng tặng
em.

Các em nhận phần thưởng mà thầy dạy môn Tiếng anh tặng
4.4. Phối hợp với các ban ngành đoàn thể trong trường
Không bao che cho những học sinh vi phạm trong lớp mình, tơi thường
phối hợp với đội thanh niên xung kích, đội cờ đỏ và đồn thanh niên bằng cách
9



cung cấp danh sách những học sinh cá biệt của lớp mình để kịp thời hỗ trợ theo
dõi, nhắc nhở, xử lí vi phạm của các em. Phối hợp với Ban giám hiệu nhà
trường, đề xuất, xin ý kiến về biện pháp giáo dục, đề nghị Ban giám hiệu cùng
phối hợp để kịp thời phát hiện và xử lí những học sinh vi phạm. Ngồi ra tơi cịn
phối kết hợp với tổ bảo vệ, nhân viên y tế, nhân viên thư viện để giáo dục học
sinh, đánh giá nhìn nhận học sinh một cách khách quan nhất. Hơn nữa, lấy
phong trào thi đua làm đòn bẩy nên biện pháp phối hợp này ln đạt hiệu quả
cao.
Ngồi ra, tơi cũng đã đưa, giới thiệu với đoàn thanh niên, với ban nề nếp
những cá nhân điển hình của lớp để biểu dương, khen ngợi, khích lệ tinh thần
các em, làm động lực cho các em phấn đấu hơn nữa.

Hai em nhận giấy khen trong phong Đoàn
10


4.5. Phối hợp với phụ huynh học sinh
Ngoài những biện pháp mà tơi đã nêu trên thì một biện pháp nữa khơng thể
thiếu được đó là phối kết hợp chặt chẽ với các bậc phụ huynh học sinh. Bên
cạnh việc họp phụ huynh chung của cả lớp để báo cáo kết quả học tập, tu dưỡng
đạo đức của các em, tơi cịn mời những phụ huynh của những học sinh cá biệt ở
lại gặp riêng để trao đổi. Việc gặp trao đổi riêng là để tránh đi sự mặc cảm, xấu
hổ của các bạc phụ huynh có con chưa ngoan. Có những phụ huynh khi được
giáo viên chủ nhiệm mời đến trường để rao đổi riêng nhưng đã không đến. Vậy
tơi đã phải tìm đến nhà của những học sinh này để thăm gia đình, tìm hiểu thêm
về điều kiện gia đình, về các em để nắm được tình hình của các em và trao đổi
với bố mẹ các em về những sai phạm mà các em đang mắc phả. Cũng đề nghị là
bố mẹ các em hãy quan tâm hơn chút nữa đến các em. Từ đó các em sẽ dần dần
thay đổi và tiến bộ.

5. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm
Qua nhiều năm làm công tác chủ nhiệm, kết hợp với sự cố gắng nổ lực của
bản thân, tôi luôn vận dụng linh hoạt các biện pháp trên và cũng đã thu được
những kết quả khả quan. Cụ thể là lớp chủ nhiệm của tôi bây giờ đã có những
thay đổi, tiến bộ rõ nét ở học kỳ hai năm học 2017-2018.
- 100% học sinh trong lớp tích cực tham gia các hoạt động phong trào do nhà
trường, đồn trường tổ chức.
- Khơng có học sinh nào nghỉ học, bỏ học dở chừng
- Khơng có học sinh nào vi phạm nội quy, nề nếp, phải đưa lên hội đồng kỉ
luật nhà trường.
- 100% học sinh trong lớp được xếp loại hạnh kiểm tốt, khá, khơng có em
nào bị xếp loại trung bình, yếu.
- Quan hệ thầy trị ngày càng thêm gần gũi.
- Uy tín nhà giáo được nâng cao, tạo niềm tin cao trong học sinh và cha mẹ
học sinh
* Kết quả kiểm nghiệm:
a. Kết quả lớp đối chứng : Lớp 11B4 ( Học kỳ 1 _ năm học 2017-2018)

Học
kì 1

Hạnh kiểm
Tốt
Khá
TB
29=
2
= 3=
76,31
5,26% 7,89%

%

Học lực
Yếu
Giỏi Khá
4 =
4
=
10,52 0
10,52
%
%

TB
20 =
52,63
%

Yêú
14 =
36,84
%
11


b. Kết quả lớp thực nghiệm : Lớp 11B4 ( Học kỳ 2 _ năm học 2017-2018) thể
hiện ở bảng xếp loại học lực, hạnh kiểm sau

Học
kì 2


Hạnh kiểm
Tốt
Khá
TB
32=
6
=
84,21 15,78 0
%
%

Yếu
0

Học lực
Giỏi Khá
9
=
0
23,68
%

TB
Yêú
29 =
76,31 0
%

GVCN trao giấy khen và phần thưởng cho những học sinh đạt HSTT cả năm

- Qua hai bảng thống kê học lực, hạnh kiểm của cùng một lớp ở học kỳ 1 và
học kỳ 2 ta thấy được học sinh đã có những tiến bộ rõ rệt ở cả hai mặt chất
lượng.
12


- Nề nếp của lớp cũng đã thay đổi đáng kể. Ở học kỳ 1, lớp thường xuyên
xếp thứ 19, 20 trong xếp loại thi đua hàng tuần do đoàn trường, đội cờ đỏ và đội
thanh niên xung kích theo dõi. Sơ kết kỳ 1, lớp xếp thứ 20/20 lớp. Nhưng sang
kỳ 2 khi tôi áp dụng các biện pháp trên, lớp tôi không tuần nào phải xếp thứ 17
trở đi nữa, mà lớp chủ yếu xếp thứ 11,12, thậm chí đã có nhiều tuần lớp vươn
lên xếp thứ 3,4 trên toàn trường và đã được biểu dương trong những buổi sinh
hoạt dưới cờ. Tổng kết thi đua kỳ II, lớp tơi xếp thứ 11/20 lớp của tồn trường
( Vượt 9 bậc so với học kỳ 1 )
- Mặt khác đa số học sinh trong lớp đã có ý thức chủ động tích cực hơn trong
giờ học, khơng cịn học sinh nào nằm gục mặt trên bàn trong các giờ học. Và ý
thức tu dưỡng đạo đức của đa số học sinh trong lớp cũng như của một vài học
sinh cá biệt đã có những bước tiến đáng ghi nhận, kết quả đã thể hiện ở bảng xếp
loại học lực, hành kiểm kỳ 2 bên trên.
Qua quá trình thực hiện tôi rút ra được một số kinh nghiệm như sau: Muốn
giáo dục tốt các các học sinh cá biệt giáo viên chủ nhiệm cần phải:
- Tìm hiểu, điều tra nắm rõ nguyên nhân cá biệt của học sinh.
- Hiểu rõ tâm lý của từng học sinh cá biệt để có thể tìm ra biện pháp giáo dục
phù hợp.
- Khi tiến hành các biện pháp giáo dục cần tránh việc nêu tất cả những khuyết
điểm của học sinh ra cùng một lúc. Khơng được nơn nóng muốn giải quyết được
tất cả những sai phạm của các em cùng một lúc mà nên phân thời gian và chọn
ra những sai phạm nào thì nên giải quyết trước, lỗi sai nào giải quyết sau.
- Không nên yêu cầu quá cao đối với những học sinh ấy, nên có sự thơng cảm
chia sẻ với các em.

- Ln tạo mối quan hệ thầy trị gần gũi để dễ cảm hoá các em.
- GVCN nên dùng nhiều biện pháp giáo dục cùng một lúc để đạt hiệu quả
cao hơn.
III. Kết luận và kiến nghị
1. Kết luận
Giáo dục học sinh cá biệt là một việc làm khó khăn và phức tạp, địi hỏi
người giáo viên ln có sự nhiệt tình, năng động, sáng tạo. Tất cả sự cố gắng và
nỗ lực của chúng ta sẽ là cái chìa khố cho các em bước sang một cuộc đời mới
với sự nhìn nhận tích cực về thực tế và có ý thực rèn luyện để đạt tiêu chuẩn của
con người mới xã hội mới. Tương lai của đất nước phụ thuộc nhiều vào thế hệ
trẻ mà hôm nay chúng ta đang trực tiếp dạy dỗ. Nếu chúng ta chung tay, góp sức
làm giảm số lượng học sinh cá biệt nghĩa là chúng ta đang góp phần làm tăng sự
bình n cho các gia đình nói riêng và cho xã hội nói chung. Chính vì vậy mà
13


chúng ta, những người thầy đang công tác trong ngành giáo dục phải ra sức
nghiên cứu, học tập hơn nữa để tạo ra những con người có ích cho xã hội.
2. Kiến nghị
- Đối với nhà trường:
+ Tăng cường các tiết ngoại khóa về giáo dục đạo đức học sinh. Tạo sân chơi
lành mạnh cho học sinh bằng cách tổ chức nhiều hơn các hoạt động vui chơi,
giải trí cho các em.
+ Tăng cường công tác giáo dục kĩ năng sống cho học sinh để các em hiểu
thêm về vai trị, trách nhiệm của mình ở lứa tuổi học đường.
+ Nhà trường kết hợp với chính quyền địa phương để giáo dục học sinh cá biệt
+ Đoàn thanh niên, Ban giám hiệu, phụ huynh kết hợp với giáo viên chủ nhiệm
để cùng giáo dục các em đạt hiệu quả cao hơn.
- Đối với giáo viên: Bên cạnh công tác chuyên môn, cũng cần coi công tác chủ
nhiệm là một nhiệm vụ quan trọng và ý nghĩa của một người giáo viên. Người

giáo viên cần ln ln tự học, tìm tịi những phương pháp chủ nhiệm mới để áp
dụng vào quá trình chủ nhiệm. Đồng thời giáo viên ln phải học hỏi, rút kinh
nghiệm để ngày càng hồn thiện mình hơn, làm tốt công tác chủ nhiệm hơn.
Trên đây là một vài kinh nghiệm nhỏ của tơi trong q trình chủ nhiệm
lớp. Tơi hy vọng đề tài này có thể góp thêm một phần nhỏ để nâng cao hiệu quả
của công tác chủ nhiệm trong những năm học tới . Trong phần trình bày chắc
hẳn khơng tránh khỏi sai sót, rất mong nhận được sự góp ý của q thầy cơ. Xin
chân thành cảm ơn.

XÁC NHẬN CỦA
THỦ TRƯỞNG ĐƠN VỊ

Thanh Hóa, ngày 28 tháng 05 năm 2018.
Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết,
khơng sao chép nội dung của người khác.
(Ký và ghi rõ họ tên)

Lê Thị Phượng

14


15



×