TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ DẦU MỘT
KHOA LỊCH SỬ
ĐỀ TÀI
SỬ LIỆU HỌC: NỘI DUNG, CHƯƠNG TRÌNH
VÀ TỔ CHỨC GIẢNG DẠY Ở TRƯỜNG ĐẠI HỌC
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Chuyên đề
HỆ THỐNG KHÁI NIỆM, QUAN ĐIỂM
VÀ THUẬT NGỮ SỬ LIỆUC HỌC
CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI
TS. Nguyễn Văn Hiệp
NGƯỜI THỰC HIỆN
TS. Nguyễn Đình Thống
BÌNH DƯƠNG - THÁNG 12 NĂM 2014
Chuyên đề
HỆ THỐNG KHÁI NIỆM, QUAN ĐIỂM
VÀ THUẬT NGỮ SỬ LIỆU HỌC
1. Khái niệm Sử liệu học
Xét về mặt thuật ngữ, cụm từ “Sử liệu học” hầu như ít xuất hiện trong từ
điển của các nước. Cho đến nay trên phạm vi cả thế giới mới chỉ có cụm từ
Историческая школа trong từ điển tiếng Nga và cụm từ Quellen kunde trong từ
điển tiếng Đức có nghĩa là “Sử liệu học”, riêng ở các nước phương Tây khác chỉ
có cụm từ critique des sources, hay historical source research mang nghĩa
nghiên cứu, phê phán các nguồn sử liệu.
Vậy sử liệu học là gì? Từ khi khoa học lịch sử hình thành, các nhà sử học
đã quan tâm đến sử liệu, coi sử liệu là thành tố không thể thiếu trong việc tái
dựng hiện thực lịch sử khách quan. Do vậy, để tái dựng hiện thực lịch sử, nghiên
cứu, biên soạn các cơng trình, tác phẩm lịch sử, các nhà sử học phải trả lời các
câu hỏi đại loại như, Sử liệu là gì? Tìm sử liệu ở đâu? Cơng việc sưu tầm sử liệu
được tiến hành như thế nào?...
Sau khi có sử liệu, các nhà sử học lại phải tiến hành chọn lọc, phân loại sử
liệu nhằm khai thác thông tin một cách thuận lợi nhất có hiệu quả nhất.
Sự lựa chọn sử liệu tùy thuộc vào sự nhận định, đánh giá chủ quan của
nhà sử học đối với các sử liệu; và sự phân loại sử liệu cũng được thực hiện tùy
theo cách nghĩ, cách làm của từng nhà sử học. Có nhà sử học chọn lọc, phân loại
theo thời kỳ lịch sử của sử liệu, theo địa bàn tồn tại, theo đặc điểm hình thức,
theo tính chất thơng tin, theo đặc điểm ngôn ngữ, theo đặc trưng vật chất hay tư
tưởng, theo sử liệu thành văn và không thành văn, theo khả năng cung cấp thông
tin trực tiếp hay thông tin gián tiếp... của sử liệu.
Trước khi khai thác thơng tin từ sử liệu phục vụ mục đích nghiên cứu biên
soạn các cơng trình, tác phẩm lịch sử, việc xác định giá trị đích thực của sử liệu
là việc làm mang tính nguyên tắc đối với các nhà sử học. Nghĩa là, các nhà sử
học phát hiện được quy luật hình thành và chi phối nội dung của sử liệu. Trong
hệ thống sử liệu, có sử liệu đúng, có sử liệu sai, có những sử liệu khơng được
1
tạo ra bởi các hiện tượng, biến cố lịch sử mà được tạo ra vì mục đích nào đó của
một cá nhân, của một nhóm người, của một cộng đồng, hay của một giai cấp,...
Thơng qua q trình hình thành, vận động, phát triển của ngành khoa học
lịch sử, sử liệu nghiễm nhiên trở thành đối tượng nghiên cứu của các nhà sử học.
Sử liệu không những được các nhà sử học đề cập đến những công tác thực tiễn
như sưu tầm, chọn lọc, phân loại, phê phán,... của sử liệu, mà còn được bàn
nhiều về mặt lý luận như khái niệm, những dấu hiệu bản chất, thuộc tính, những
quy luật chi phối đến quá trình hình thành, vận động, phát triển và những quy
luật chi phối nội dung của sử liệu...; đồng thời hình thành nên hệ thống phương
pháp luận, phương pháp,... nghiên cứu và đề xuất các biện pháp, cách thức sử
dụng sử liệu trong việc nghiên cứu lịch sử, tái dựng hiện thực lịch sử, tiếp cận
chân lý lịch sử.
Có thể nói, những vấn đề về sử liệu lý luận và sử liệu thực tiễn đã được
các nhà sử học đề cập, giải quyết trong suốt từ lịch sử cổ đại cho đến ngày nay,
đó chính là tiền đề hình thành nên ngành Sử liệu học.
Như vậy, sử liệu học là ngành khoa học nghiên cứu sử liệu, với hệ thống
khái niệm riêng, thuật ngữ riêng, đối tượng nghiên cứu riêng, phương pháp
nghiên cứu riêng, mục đích ứng dụng riêng và có một lịch sử phát triển lâu dài.
2. Đối tượng của Sử liệu học
Là ngành khoa học chuyên nghiên cứu về sử liệu, tuy nhiên đối tượng của
sử liệu học không phải bản thân sử liệu mà là nguồn thông tin chứa trong sử
liệu. Chúng ta cũng đã biết rằng, nguồn thông tin phản ánh của từng sử liệu lại
khác nhau, mức độ chuẩn xác của thơng tin cũng khác nhau; thậm chí có nhiều
sử liệu phản ánh thơng tin sai lệch, thiếu chính xác,... về hiện thực lịch sử, do
vậy việc nghiên cứu qui luật hình thành, vận động, phát triển của sử liệu và các
yếu tố chi phối nội dung thông tin của sử liệu cũng chính là đối tượng nghiên
cứu của sử liệu học. Như vậy, đối tượng của ngành Sử liệu học là:
- Bản thân sử liệu (thông tin và kênh thông tin),
- Các qui luật chi phối quá trình vận động, phát triển của sử liệu,
- Các yếu tố ảnh hưởng, chi phối nội dung thơng tin của sử liệu.
Mục đích của các nhà sử học là thông tin từ sử liệu, khi tiếp cận với các
nguồn sử liệu là để khai thác thơng tin. Nếu sử liệu khơng có thơng tin, thì các
nhà sử học khơng có lý do gì để tiếp cận sử liệu, do vậy, các thông tin chứa
trong sử liệu là đối tượng chính mà các nhà sử học mong muốn được tiếp cận,
nghiên cứu.
2
Trong nhiều tường hợp, nguồn thông tin trong sử liệu đặt ra các nhiệm vụ
cụ thể tiếp theo buộc các nhà sử học, nhà nghiên cứu phải thực hiện. Đơn cử
như, khi tiếp cận với các nguồn sử liệu về thành Cổ Loa, có nhiều ý kiến khác
nhau về vị trí của thành. Có ý kiến cho rằng, “Cái thành mà An Dương Vương
đắp ở Việt Thường chính là Việt Vương thành, có tên dân gian và thành Ốc (chữ
là Loa Thành), chứ không phải là thành Phong Khê, nằm trên đất Cổ Loa”1. Mà
Việt Vương thành, hay Loa Thành, lại ở Cao Xá, tổng Cao Xá, ngày nay thuộc
xã Diễn An, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Nếu như chúng ta công nhận thành Cổ Loa được đắp ở Việt Thường chính
là thành Phong Khê, ngày nay thuộc địa bàn Cổ Loa, Đơng Anh, Hà Nội thì niên
đại của ba vịng thành Cổ Loa cũng có nhiều ý kiến khác nhau. Có ý kiến cho
rằng, cả ba vịng thành có niên đại trước khi nhà Hán xâm lược, cai trị nước ta;
nhưng cũng có ý kiến cho rằng, các vịng thành, đặc biệt là vịng thành trong có
sự pha trộn niên đại trước thời nhà Hán, thuộc thời nhà Hán, hoặc các thời đại
tiếp sau đó.
Các thơng tin mà sử liệu cung cấp đã đặt ra cho các nhà sử học những vấn
đề cần phải nghiên cứu, làm rõ về thành Cổ Loa của An Dương Vương, thật sự
thành Cổ Loa được ở đâu, Nghệ An hay Hà Nội? Được xây dựng và hoàn thành
vào thời gian nào?
Để xác định độ tin cậy của thơng tin có từ sử liệu, các nhà sử học, nhà
nghiên cứu phải tìm hiểu quá trình hình thành, vận động, phát triển của sử liệu.
Sử liệu lại do con người tạo ra, nên nó khơng những bị chi phối bởi các quan hệ
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội của thời đại sinh ra nó, mà cịn bị chi phối bởi
tư tưởng, quan điểm, mục đích, động cơ và trình độ,... của tác giả sử liệu. Do
vậy, để sử dụng sử liệu vào việc tái dựng hiện thực lịch sử, đối tượng của sử liệu
mà các nhà sử học phải tiến hành nghiên cứu là các qui luật chi phối quá trình
hình thành, vận động, phát triển của sử liệu; và các quy luật chi phối nội dung
thông tin của sử liệu.
3. Nhiệm vụ của Sử liệu học
Với tư cách là một ngành khoa học, khoa học nghiên cứu về sử liệu,
nhiệm vụ đặt ra cho ngành Sử liệu học là nghiên cứu sử liệu cả về phương diện
lý luận lẫn về phương diện thực tiễn.
1
. Đỗ Văn Ninh, Thành cổ Việt Nam, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1983, tr 31.
3
Về lý luận, Sử liệu học tổng hợp toàn bộ tri thức của con người về sử liệu,
làm rõ sử liệu là gì, vai trị vị trí của sử liệu đối với việc nghiên cứu lịch sử. Tìm
hiểu quá trình hình thành, vận động phát triển của sử liệu, tìm ra các qui luật,
các yếu tố chi phối đến quá trình hình thành, vận động, phát triển của sử liệu và
các chi phối nội dung phản ánh của sử liệu.
Sau khi giải quyết xong các vấn đề trên, sử liệu học có nhiệm vụ đề xuất
hệ thống phương pháp luận, hệ thống phương pháp nghiên cứu sử liệu và đề
xuất các nguyên tắc, cách thức khai thác thông tin từ sử liệu, sử dụng thông tin
sử liệu phục vụ cho việc tái dựng hiện thực quá khứ khách quan, đưa nhận thức
của con người tiệm cận với sự thật lịch sử, tìm ra chân lý lịch sử.
Về thực tiễn, Sử liệu học có nhiệm vụ hướng dẫn thực hành cơng tác sử
liệu, bao gồm, công tác sưu tầm, phân loại, chọn lọc, xác minh, phê phán sử
liệu; công tác khai thác thông tin từ các nguồn sử liệu phục vụ việc nghiên cứu,
biên soạn các cơng trình, tác phẩm sử học.
Cũng như các ngành khoa học khác, các nhiệm vụ của Sử liệu học có mối
quan hệ mật thiết với nhau.
Nghiên cứu sử liệu về mặt lý luận, nghĩa là sử liệu học được trang bị hệ
thống lý luận, phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu,... nhằm định hướng
cho các hoạt động thực tiễn của sử liệu. Ngược lại, các hoạt động thực tiễn của
sử liệu giúp sử liệu học hoàn thiện hơn về hệ thống lý luận, từ việc chuẩn hóa
khái niệm sử liệu, tìm ra các đặc điểm, các thuộc tính của sử liệu,... đến việc đề
xuất hệ thống phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu, cách thức sử dụng sử
liệu, khai thác thông tin từ sử liệu...
4. Quá trình hình thành, phát triển của ngành khoa học sử
liệu
Từ thời kỳ cổ đại, các nhà sử học bắt đầu nhận biết được giá trị của sử
liệu, dùng sử liệu để nghiên cứu biên soạn thành các cơng trình, tác phẩm sử
học.
Ở phương Đông, Khổng Tử đã biết sử dụng Kinh thi làm sử liệu để biên
soạn nên bộ Kinh Xuân Thu,... ở Phương Tây, các nhà sử học như Hérodot,
Thucydides, Polibius,... đã đi khắp các thành phố, làng mạc, vùng quê,... để sưu
tầm sử liệu trên các lĩnh vực chính trị, qn sự, kinh tế, văn hóa, xã hội,... nhằm
dựng lên lịch sử Hi lạp, Atxiri, Balilon, Ba Tư, Ai Cập, Cuộc chiến tranh Hy Lạp
- Ba Tư,...
4
Từ thực tiễn công tác sưu tầm sử liệu, các nhà sử học thời cổ đại nhận
thấy, trong nhiều thời kỳ, giai đoạn lịch sử, trên nhiều bình diện, lĩnh vực của
đời sống kinh tế, văn hóa, xã hội,... Kết quả nguồn sử liệu sưu tầm được không
giống nhau, đặc biệt là những thời kỳ, giai đoạn lịch sử càng xa dần so với hiện
tại, thì sử liệu càng trở nên thiếu vắng. Do vậy, các nhà sử học phải sử dụng
nhiều phương pháp, biện pháp, cách thức sưu tầm sử liệu khác nhau nhằm đạt
được kết quả tốt nhất.
Khi đã có sử liệu, do các các nguồn sử liệu rất đa dạng, nhiều thể loại, nên
nhà sử học phải tiến hành chọn lọc, phân loại và tìm kiếm phương pháp nhằm
khai thác thông tin. Tuy nhiên, hệ thống thông tin có trong sử liệu khơng phải
thơng tin nào cũng trung thực, phản ánh đúng hiện thực lịch sử. Nghĩa là trong
hệ thống sử liệu, có sử liệu đúng, có sử liệu sai; có sử liệu được tạo ra bởi các sự
kiện lịch sử, cũng có sử liệu được tạo ra vì mục đích nào đó của cá nhân, nhóm
người, cộng đồng, giai cấp... Do vậy, trước khi sử dụng sử liệu vào mục đích tái
dựng sự kiện lịch sử, các sử gia buộc phải tiến hành công tác phê phán sử liệu.
Thucydides - nhà sử học Hy Lạp (460-399 trước công nguyên) đã lưu ý “không
thể tin vào tất cả các tài liệu mà khơng kiểm tra”, cịn Khổng Tử - nhà sử học
Trung Quốc (551-479 trước công nguyên) thì cho rằng “cốt sao sự tích kỹ mà
đúng”...
Như vậy, từ thời cổ đại, công tác thực tiễn về sử liệu hầu như đã được các
nhà sử học thực hiện khá đầy đủ, dù các thuộc tính về thời gian, không gian, tác
giả sử liệu,... không được các nhà sử học chú ý.
Bước vào thời đại phong kiến, sử học bị che phủ bởi vương quyền và thần
quyền, dù vậy, sử liệu cũng được chú trọng, đặc biệt ở phương Đông. Các thể
loại biên niên, tiểu sử, thánh truyện... được biên soạn trên cơ sở sử liệu do các sử
quan hay các nhà sử học ghi chép lại đời sống sinh hoạt của vua chúa, của giáo
hội.
Đến thế kỷ XV, khoa học thực nghiệm bắt đầu phát triển đã ảnh hưởng
xấu đến vai trò của vương quyền và thần quyền. Ở phương Tây, các nhà sử học
mong muốn đưa sử học quay về với sử học nhân văn thời cổ đại. Đặc biệt, tư
tưởng của F. Bacon và R. Descartes về việc coi trọng sử liệu gốc, khôi phục sự
kiện lịch sử qua lời kể nhằm đạt tới tính chính xác, tính trong sáng, tính phê
phán... chứ khơng phải theo ý của vua, của chúa lan tỏa mạnh mẽ.
Ở Pháp, năm 1566, luật gia, nhà triết học chính trị Jean Bodin (1530 1596) cho xuất bản tác phẩm “Methodusad facilem historiaum coguitionem” vốn
5
là kết quả của cuộc bút chiến nổ ra mạnh mẽ giữa các nhà sử học với Giáo hội,
nhằm khẳng định sự cần thiết phải tiến hành phê phán sử liệu.
Trong những thập niên cuối thời kỳ Phục hưng, Jean Mabillon – nhà sử
học người Pháp (1632-1707) từ các nguồn sử liệu gốc, tiến hành phương pháp
xác định niên đại, phê phán tính chân thực của sử liệu, nhằm phục vụ việc
nghiên cứu biên soạn cuốn sách về văn bản học, đặt nền móng cho ngành văn
bản học xuất hiện.
Đến thế kỷ XVIII, trào lưu sử học khai sáng xuất hiện, đây chính là trào
lưu tư tưởng tiến bộ của giai cấp tư sản về việc truyền bá rộng rãi tri thức khoa
học cho nhân dân nhằm chống lại sự kiêm tỏa của vương quyền là thần quyền.
Năm 1713, nhà sử học Nocolas Lenglet Du Fresnoy (1674 - 1755) trong
cuốn Methode pour l'histore, đã đề cập đến các tiêu chuẩn của sử liệu đáng tin
cậy bao gồm sự quan sát của tác giả và tính trung thực, trong sáng của lời phát
biểu,.. Đặc biệt, các nhà sử học khai sáng đã có những bước tiến dài trong việc
coi sử liệu là ngun liệu chính để tạo nên các cơng trình, tác phẩm sử học.
Ngoài việc phê phán sử liệu được đặc biệt chú trọng, các nhà sử học còn
xây dựng các tiêu chí phục vụ cho việc phê phán sử liệu, nhằm bảo đảm tính
chân thực của sử liệu với mục đích “phụng sự chân lý”.
Nhà sử học người Pháp - Voltaire (1694-1778) đã viết “Chúng tôi viết nên
những tác phẩm lịch sử này dựa trên chuyện kể của các nhân vật nổi tiếng đã
nhiều năm ở bên cạnh Charles VII và Pie đại đế. Những người này sau khi
hoàng đế mất đã lui về nước tự do và không hề có ý định che dấu sự thật”2.
Cơng tác phê phán sử liệu ngày càng trở nên thông dụng và được định
hình rõ ràng hơn từ giữa thế kỷ XVIII, khi nhà bác học người Đức G.B. Niburu
(1776 - 1831) đề ra phương pháp phê phán sử liệu tựa như giải một bài toán với
hai ẩn số, bao gồm phê phán các nguồn sử liệu với mục đích phát hiện thông tin
đáng tin cậy và phục dựng lại hiện thực lịch sử trên cơ sở các dữ liệu thu nhận
được.
Cũng trong thế kỹ XVIII, sự phát triển mạnh mẽ của các ngành Văn bản
học, Niên đại học, Văn kiện học, Cổ tự học, Khảo cổ học, Dân tộc học – những
ngành khoa học địi hỏi sự chính xác cao của các nguồn sử liệu càng làm sáng
thêm niềm tin của các nhà học về vai trị, vị trí của sử liệu trong nghiên cứu sử
2
. Guy Bourde’ - Hevre’ martin, Les ecoles, historiques, Pari, 1983, tr 129.
6
học. Lúc bấy giờ, trong các cơng trình, tác phẩm sử học, các nhà sử học bắt đầu
bàn nhiều về sử liệu, khái niệm sử liệu.
Sang đầu thế kỷ XIX, nhà sử học Nga Bestyghep – Riumin (1829 - 1897)
cho rằng, phê phán sử liệu tương đồng với quá trình nghiên cứu so sánh các sử
liệu và bằng cách đó, các nhà sử học dùng sử liệu này để kiểm chứng sử liệu
khác.
Trong những năm 1842 - 1849, cơng trình gồm 20 tập “Cours d’études
historiques”3 của nhà sử học Claude Francois Daunon (1761 - 1840), được xuất
bản4, trong đó tác giả đã dành toàn bộ tập một để định nghĩa về phương pháp
phê phán sử liệu cùng với cách phân chia sử liệu.
Năm 1858, với cơng trình “Grundriss der Historik”5, nhà sử học I. G.
Droysen (1808 - 1884) đã đưa ra phương pháp phê phán đối với từng nhóm sử
liệu riêng biệt.
Năm 1876, Giáo sư sử học Ad. Tardif xuất bản cơng trình “Notions
élémentaires de critique historique”6, trong đó, ngồi việc liệt kê hàng loạt
phương pháp cơ bản, cần thiết để phê phán sử liệu, còn đưa ra những lời khuyên
hữu ích đối với những người mới bắt đầu nghiên cứu khi làm việc với sử liệu.
Năm 1883, nhà sử học Сh. De Smedt trong tác phẩm “Các nguyên tắc phê
phán sử liệu” (Principes de la critique historique)7, đã trình bày những nguyên
tắc phê phán đối với sử liệu viết và chỉ ra những phương pháp bổ trợ cơ bản để
thực hiện quá trình phê phán sử liệu.
Đến nửa cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX, các nhà sử học thuộc khuynh
hướng sử học thực chứng thực sự đề cao vai trò của sử liệu. Họ cho rằng “các
nhà sử học không cần vượt quá sự hiểu biết về sử liệu”8, hay “lịch sử được tạo
ra bởi các tài liệu”9. Fustel de Coulanges - nhà sử học người Pháp còn khuyên
các đồng nghiệp rằng, “Cần phải đọc tất cả các loại tài liệu, khơng bỏ sót dù chỉ
một tài liệu. Bởi vì, khơng một loại tài liệu nào, nếu sử dụng một cách đơn lẻ, lại
cho một ý tưởng chính xác về xã hội. Các tài liệu tự bổ sung hay đính chính lẫn
3
. Tạm dịch từ tiếng Pháp là "Bài giảng về nghiên cứu lịch sử".
. Xuất bản sau khi Claude Francois Daunon đã mất.
5
. Tạm dịch từ tiếng Đức là "Sơ đồ phân tầng sử liệu".
6
. Tạm dịch từ tiếng Pháp là "Các khái niệm của phê phán sử liệu".
7
. Tạm dịch từ tiếng Pháp là "Nguyên tắc phê phán sử liệu".
8
. Phan Ngọc Liên, Đỗ Thanh Bình (đồng chủ biên), Lịch sử sử học thế giới, NXB Đại học sư phạm, 2008, tr 99.
9
. Trích theo Phan Ngọc Liên, Đỗ Thanh Bình (đồng chủ biên), Lịch sử sử học thế giới, NXB Đại học sư phạm,
2008, tr 100.
4
7
nhau”10. Đặc biệt hơn, các nhà sử học còn cố gắng chứng minh sử học như một
ngành khoa học thực nghiệm, họ chú ý đến việc khôi phục sử liệu, chọn lọc sử
liệu, xử lý, phê phán sử liệu, coi việc nghiên cứu sử liệu như một ngành khoa
học độc lập.
Hai nhà sử học Pháp: Sharle Victor Langlois (1863 - 1929) và Sharle
Seignobos (1854 - 1942) cho công bố công trình “Nhập mơn nghiên cứu sử học”
(1897)11, trong đó hai ông đã đưa ra những quy tắc phê phán sử liệu, “đặc biệt
nhấn mạnh tới vấn đề tổng hợp các sự vật rời rạc thu được và xây dựng chuỗi
các qui tắc cần thiết để nhóm hóa các sự vật rời rạc thành chỉnh thể khoa
học”12.
Cũng từ cuối thế kỷ XIX, đóng góp quan trọng cho sự phát triển của
phương pháp phê phán sử liệu phải kể đến nhà sử học lỗi lạc người Nga A.S.
Lappo – Danilevxki (1863 - 1919) với cuốn giáo trình “Phương pháp luận sử
học” (1910 - 1913), trong đó tác giả đã coi sử liệu là đối tượng của nhận thức
lịch sử, đồng thời nêu lên cấu trúc của tư liệu và công nhận khả năng trừu tượng
hóa của con người khi nghiên cứu các nguồn sử liệu13. Tác giả cũng xác định
cách thức, nguyên tắc phân loại sử liệu, các phương pháp diễn giải và phê phán
nguồn sử liệu.
Về căn bản, phương pháp phê phán sử liệu đã được hình thành trong khoảng
thời gian từ thế kỷ XVIII - XIX. Hầu hết những nhà sử học (cả những nhà nghiên
cứu đặt nền móng cho phương pháp phê phán sử liệu, cũng như những người
phát triển phương pháp này trong những giai đoạn tiếp theo) đều coi mục đích
chính của phê phán sử liệu là xác định mức độ tin cậy của sử liệu trên mọi
phương diện, tức giám định sử liệu.
Đến những năm 50 của thế kỷ XX, các nhà sử học tên tuổi như A.I.
Gubobski, B.B. Phasobin, Kovachenco,… bàn nhiều đến sử liệu, coi sử liệu lịch
sử xuất hiện như những hiện tượng xã hội, là dấu vết của hoàn cảnh lịch sử cụ
thể đã qua, là kết quả của các mối quan hệ xã hội và phản ánh các mối quan hệ
xã hội.
10
.Trích theo TS. Đặng Đức Thi, Nhập mơn sử học, phương pháp luận sử học, NXB trẻ, 2011, tr 172.
. Một thời dài, tác phẩm này được coi đại loại như "Kinh phúc âm của lý luận sử học Thực chứng". Các chú
thích từ 1 đến 6 ở trang này dẫn theo Nguyễn Thị Mai Hoa và Nguyễn Văn Khánh, Phương pháp phân tích –
phê khảo sử liệu trong nghiên cứu lịch sử (Qua trường hợp tìm hiểu quan hệ Việt Nam - Trung Quốc thời kỳ hiện
đại).Nguồn:
12
. Nguyễn Thị Mai Hoa và Nguyễn Văn Khánh, Tlđd.
13
. Phan Ngọc Liên (chủ biên), Phương pháp luận sử học, NXB Đại học sư phạm, 2007, tr 267.
11
8
Các nhà sử học thời kỳ này còn chỉ rõ các quy luật chi phối đến quá trình
hình thành vận động phát triển của sử liệu, các quy luật chi phối nội dung của sử
liệu.
Trong thời gian này, nhiều khái niệm về sử liệu ra đời, các nhà sử học coi
sử liệu chính là di tồn của các sự kiện hiện thực diễn ra trong những không gian,
thời gian nhất định; trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể do con người tạo ra
nên chúng chịu sự chi phối của các quy luật xã hội.
Con người tạo ra lịch sử của chính mình, tuy nhiên “con người khơng phải
làm theo ý muốn tùy tiện của mình, trong những điều kiện tự mình chọn lựa lấy,
mà là trong những điều kiện trực tiếp đã cho sẵn, có trước mắt và do q khứ để
lại”14.
J. Topolski có viết “khơng thể nói là một cái gì đó tĩnh tại, cho sẵn và sẵn
có” 15, nó cũng giống như các sự kiện, sử liệu có quan hệ biện chứng với các sử
liệu ra đời trước đó, đồng thời và sau đó, chúng tuân theo luật nhân quả,... Đặc
biệt, năm 1961, trong cơng trình Sử liệu học của Mark Block xuất bản tại Paris,
ông đã đề cập hầu hết các phạm trù, khái niệm, và những nguyên tắc cơ bản
trong việc sử dụng sử liệu.
Như vậy đến những năm 50, 60 của thế kỷ XX, những vấn đề về lý luận,
cũng như công tác thực tiễn về sử liệu đã được các nhà sử học đề cập, giải quyết,
ngành sử liệu học thực sự ra đời và phát triển mạnh mẽ cho đến ngày nay.
Xuyên suốt tiến trình lịch sử, về sử liệu, sử liệu học có rất nhiều ý kiến
khác nhau, nhưng tựu trung, các nhà sử học từ cổ tới kim đều công nhận vai trị
quan trọng khơng thể thiếu của sử liệu đối với việc nhận thức lịch sử. Hoạt động
thực tiễn về sử liệu từ thời cổ đại đến nay xét trên bình diện thế giới đã chứng
minh nhận định trên. Tuy nhiên, hầu như các cơng trình, tác phẩm sử học là mục
tiêu mà các nhà sử học vươn tới, nên các nhà sử học hầu như ít quan tâm đến sử
liệu lý luận, đó là lý do giải thích tại sao ngành sử liệu học ra đời muộn hơn rất
nhiều so với khoa học lịch sử, dù rằng có sử liệu mới có sử học.
Ra đời dựa trên cơ sở tổng kết tri thức của con người về quá trình nhận
thức lịch sử, do vậy sử liệu học chịu sự chi phối của quan điểm, tư tưởng, giai
cấp... nên nó mang những đặc điểm, điều kiện và hạn chế của mỗi thời đại.
14
. Trích theo TS. Đặng Đức Thi, Nhập môn sử học, phương pháp luận sử học, NXB trẻ, 2011, tr 114.
.Một số vấn đề về phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu các khoa học lịch sử, UBKHXHVN, Viện
thông tin khoa học xã hội, hà Nội, 1982, tr 7.
15
9
Trong xư hướng phát triển của sử học hiện nay, vai trò của Sử liệu học trở
nên cực kỳ quan trọng, sự thật lịch sử, chân lý lịch sử không chỉ các nhà khoa
học đang hướng tới và đó là kỳ vọng của cả nhân loại. Do vậy, Sử liệu học đã và
đang từng bước khẳng định mình và trưởng thành cùng với Khoa học lịch sử.
Ngay từ thời cổ đại, các nhà sử học đã đặt ra yêu cầu về tính chân xác của
lịch sử.
Hérodote, nhà sử học lớn đầu tiên đã nghiên cứu sự kiện chủ yếu thời bấy
giờ là Cuộc chiến tranh Hi – Ba và với kiến thức uyên bác, ông đã đề cập đến
nhiều mặt thuộc đời sống xã hội và miêu tả những dân tộc khác nhau. Ơng đi sâu
vào các hiện tượng, tìm hiểu nguyên nhân của cuộc chiến tranh, đối chiếu hai
nền văn minh Hi Lạp và phương Đông. Cho nên ông được người đời sau gọi
“thủy tổ của SH” ở phương Tây.
Thucydide, tác giả của Cuộc chiến tranh Péloponèse, đi xa hơn một bước
để đặt lên hàng đầu tính chân xác và chân thật của các câu chuyện và đặt cho
mình một u cầu là “chỉ ghi chép những gì tơi mục kích và những gì mà tơi
nghe được từ người khác sau khi nghiên cứu được chính xác đến mức độ có thể,
mỗi sự kiện riêng biệt đã được tiếp nhận”.
Polybe, nhà sử học tên tuổi thứ ba thuộc Hi Lạp, đã chú ý đến tính chính
xác của những câu chuyện, cố tìm nguyên nhân của các sự kiện, trong 40 tập
lịch sử của ông cho rằng, “việc miêu tả những gì đã diễn ra cũng rất hay, nhưng
khơng thể là lời giáo huấn; việc nghiên cứu lịch sử chỉ có thể có kết quả khi mà
những câu chuyện đó được bổ sung bằng việc trình bày các nguyên nhân của
LS”.
Ở phương Đơng, thời cổ đại, các triều đình từ hơn 3.000 năm về trước đã
đặt chức Sử quan để ghi chép những sự việc của triều đình. Lịch sử cổ đại Trung
Hoa để lại những tác phẩm lớn như Sử ký của Tư Mã Thiên với một khối lượng
tư liệu khổng lồ và sự tiêu biểu của đòi hỏi sự chân xác của sử liệu.
Cùng với sự phát triển của Sử học, công tác sử liệu cũng đạt được những
tiến bộ đáng kể. Song vấn đề nảy sinh là không thể chất đống tài liệu mà cần
phải hệ thống và phân loại nó để sử dụng có hiệu quả hơn. Từ đầu thế kỷ XIX, J.
Levewel trong tác phẩm Historyka (1815) đã phân chia các nguồn tài liệu lịch sử
thành: nguồn tài liệu truyền thống (những thông tin truyền miệng); nguồn tài
liệu khơng được viết ra (những di tích câm) và những nguồn tài liệu thành văn.
J. Levewel cũng lưu ý rằng hai nhóm đều có thể chuyển thành nguồn thành văn
(viết báo cáo, ghi lại các nguồn vật chất). Có lẽ đây được xem là một trong
10
những đóng góp cơ bản có tính chất mở đầu cho sự hình thành ngành khoa học
mới: Sử liệu học. Từ đó về sau, nhiều nhà khoa học đã khá tập trung cho việc
phân tích, hình thành lý luận cho việc phân loại các nguồn sử liệu.
Các nhà sử học phương Tây đặc biệt quan tâm đến việc đào tạo các thế hệ
sử gia trẻ với sự trang bị một hệ thống lý luận nghiêm chỉnh. Từ cuối thế kỷ
XIX, hai nhà sử học Pháp Ch. Langlois et Ch. Seignebos đã viết cuốn
Introduction à l’histoire (Nhập môn sử học, Paris, 1894) cho sinh viên Trường
Đại học Paris (Pháp). Trong đó, hai tác giả đã dành một phần quan trọng để đề
cập đến sử liệu và công tác sử liệu trong nghiên cứu và học tập lịch sử.
Đầu thế kỷ XX, vấn đề Phương pháp luận sử học càng được quan tâm
nhiều hơn. Sử liệu và một số vấn đề về Sử liệu học được xem là một trong
những nội dung cơ bản của Phương pháp luận sử học. Bên cạnh việc phân tích
những quy luật lịch sử, quy luật hình thành và phát triển của sử liệu, các nhà
khoa học rất quan tâm đến các nguồn sử liệu và cách phân loại nó. Nhà sử học
người Ba Lan Hendensman từ năm 1928 đã đưa ra những cách phân loại sử liệu
tạo sự chú ý đối với các nhà nghiên cứu. Đến giữa thế kỷ XX, một số tác phẩm
bàn về phương pháp luận và công việc của nhà sử học, tiêu biểu như tác phẩm
The Historian’s Craft của Marc Bloch (Manchester University Press, 1954), J.
Topolski với Methodology of History (Phương pháp luận sử học, 2 tập, đã được
Nxb. Bộ ĐH và THCN, dịch và xuất bản năm 1968, 1970). Trong Methodology
of History, J. Topolski rất quan tâm đến tính xác thực của sử liệu. Khi đánh giá
độ xác thực, độ tin cậy của tư liệu lịch sử, J. Topolski cho rằng, “Nghiên cứu
những đặc tính bên ngồi của nguồn (tức là tất cả trừ nội dung những thông tin
do các nguồn truyền đạt) cũng như xác định một cách tổng qt sự phê phán bên
ngồi – những cơng việc này có thể xem xét theo nghĩa rộng và nghĩa hẹp, và
ông phân biệt thành 4 khái niệm: Xác thực 1: tri thức về thời gian hình thành và
địa điểm xuất phát về nguồn tài liệu. Xác thực 2: được tương đối hóa theo tính
chất của thơng tin mà chúng ta tìm trong nguồn tài liệu (với vấn đề này thì là xác
thực, vấn đề khác là không xác thực). Xác thực 3: vấn đề giả mạo tài liệu. Xác
thực 4: tính nguyên thủy của nguồn tài liệu. Theo Topolski, việc lưỡng phân
nguồn thành nguồn thành văn và không thành văn “mà chúng tôi gọi là khoa học
về nguồn lưu ý đến tầm quan trọng lớn lao (đối với các nhà sử học theo nghĩa
chính xác nhất) của các nguồn thành văn. Tiêu chuẩn phân loại là sự tồn tại của
bản chữ viết. Không cần phải nhấn mạnh rằng, phần lớn các lý giải của chúng ta
trước đây về cái gọi là những khoa học hỗ trợ cho sử học đều liên quan với việc
11
nghiên cứu văn tự (cổ văn học, tân văn học)”. Có lẽ đây là bước ngoặt quan
trọng trong q trình hình thành Sử liệu học.
Những thập niên cuối thế kỷ XX, Sử liệu học đã tiến thêm một bước mới
khi các vấn đề về tầm quan trọng của sử liệu trong nghiên cứu lịch sử; quy lật
chi phối và tính xác thực của sử liệu; nguyên tắc phân loại các nguồn sử liệu;
phương pháp phân tích – phê khảo sử liệu,… đã được tranh luận một cách sổi
nổi và hình thành nên các trường phái Sử liệu học. Eropheev viết Lịch sử là gì?
(Tài liệu dịch, Nxb. Giáo dục, 1981, Hà Nội) đã góp phần giải quyết các vấn đề
trên.
Năm 1985, Jan Vansina cho xuất bản cuốn Oral Tradition as History
(First Pubished, James Currey (London) and Heinemann Kenya (Nairobi) Press,
1985), trong đó ơng đã tâm đắc với D. Henige khi nhà khoa học này đưa ra khái
niệm “tính hồi tiếp” giữa các nguồn sử liệu – hay tính khơng hồn toàn độc lập
của các nguồn. Đây là khái niệm mà D. Henige – người đã dành sự quan tâm
mạnh mẽ nhất tới sự cung cấp của tài liệu viết trong các truyền thống truyền
miệng – đưa ra để chỉ quá trình vay mượn giữa các nguồn tài liệu. Bản thân Jan
Vansina khi nghiên cứu các truyền thống truyền miệng cũng lưu ý rằng, nhà sử
học nên ý thức về những sự lan truyền hịa trộn có thể có và những sự vay mượn
giữa các nguồn với nhau.
Nhà sử học người Nga Chi-khơ-mi-rốp cho rằng tư liệu lịch sử là tất cả
những gì cịn lại của cuộc sống đã qua. Ơng đã góp tiếng nói rất quan trọng giúp
mọi người hiểu đúng hơn về Thế chiến thứ hai khi đặt ra yêu cầu phải xác minh
tư liệu trước khi công bố về các sự kiện lịch sử. Còn trong phương diện triết
học, Lapađanhiepxki định nghĩa: Tư liệu lịch sử là khái niệm phản ánh đặc tính
của hiện vật có thể được để thu nhận tri thức của hiện vật khác.
Nhà sử học người Pháp thế kỷ XX Lucien Fevre (1878 - 1956), đã gọi “tư
liệu thư tịch” là “những bông hoa quen thuộc”cũng xác nhận một cách hình
tượng rằng: “Khi khơng có những bơng hoa quen thuộc, nhà sử học vẫn có thể
hái mật cho mình từ tất cả những gì mà tuệ của anh ta đưa vào tầm ngắm” và
“tất cả những gì”mà Lucien Fevre ám chỉ chính là “những gì thuộc về con
người, phụ thuộc con người, phục vụ con người, thể hiện sự hiện hữu, hoạt
động, sở thích và các phương thức sinh sống của con người”. Nhà sử học kiêm
triết gia người Anh R. Jh. Collingwood cũng như A. Ia. Gurevich trong Con
người trong lịch sử (Moscow, 1997) diễn đạt một cách đơn giản, dễ hiểu, song
12
không kém phần khoa học: “Mọi thứ trên đời đều là chứng cứ tiềm tàng của cái
gì đó”.
M.I. Paramonova với Lịch sử nhận thức sử học (Nxb. Khoa học, M. 2000,
bản tiếng Nga). Trong một thời gian khá dài đã tồn tại quan niệm cho rằng, chỉ
có nguồn sử liệu chữ viết (thư tịch) mới có thể coi là nguồn sử liệu và là nguồn
sử liệu có giá trị, cịn những nguồn sử liệu khác đều không đáng tin cậy. Quan
niệm này khá phổ biến đối với trường phái sử học Thực chứng (positivisme), mà
đại diện điển hình là nhà sử học người Pháp Numa Denis Pustele De Coulage
(1830 - 1889) – người được mệnh danh là “kẻ sùng bái thư tịch”, khi ông tuân
thủ và chỉ hành động theo một phương châm duy nhất: “Văn bản, chỉ có văn
bản, khơng có gì khác ngồi văn bản”.
Gần đây, Martha Howell và Walter Frevenier cho xuất bản cuốn From
Reliable Sources: An Introduction to Historical Methods (Từ những nguồn đáng
tin cậy: Nhập môn các phương pháp sử học, Bản dịch của Trường Đại học Khoa
học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2002). Trong đó, hai nhà
khoa học đã nhận thấy thực tế các nhà lý thuyết thường tập trung vào nguồn chữ
viết và cũng đồng quan điểm coi nguồn văn tự là “bà hoàng” của các nguồn: “…
Đây là những dạng câu hỏi được các nhà sử học thế kỷ XX tập trung tới, và
những học giả này đã phát triển những công cụ tinh vi để viết về các nguồn. Tất
cả họ tập trung vào bản thân nguồn, chủ yếu là nguồn chữ viết, văn bản, và đặc
biệt là những nguồn được coi là bà hoàng của các nguồn, những điều lệ hay văn
bản”. John Tosh, The Pursuit of History: Aims, Methods and new Directions in
the Study of Modern History (revised third edition, 2002). Trong đó, ông đánh
giá tính xác thực của tư liệu lịch sử. “Trước khi nhà sử học có thể đánh giá chính
xác ý nghĩa của một văn bản, họ cần phải tìm ra được khi nào, tại sao và bằng
cách nào nó lại xuất hiện”. Theo ông, nhà sử học làm việc với tài liệu viết tay
cần phải có chút gì đó giống nhà cổ tự học để xác định liệu chữ viết đó có đúng
với địa điểm và thời gian đó không, lại giống với nhà ngữ văn học đánh giá
phong cách và ngôn ngữ của một văn bản đáng nghi và cho rằng “…, sẽ là sai
lầm khi gợi ý rằng các nhà sử học liên tục phát hiện ra những sự giả mạo hoặc
họ kiểm tra về mặt phương pháp tính xác thực của mọi tài liệu mà họ gặp. Ông
chủ trương cấp độ thứ nhất của phê phán bên trong là diễn giải nội dung của văn
bản: “Cứ cho là tác giả, thời gian và địa điểm của tài liệu là như nó được cho là,
chúng ta làm gì từ những từ ngữ ở trước mặt? Ở một cấp độ thì đây là câu hỏi về
ý nghĩa. Điều này không chỉ đơn thuần liên quan đến việc dịch nghĩa từ một
13
ngôn ngữ cổ hoặc một ngoại ngữ,… Nhà sử học địi hỏi khơng chỉ phải thơng
thạo ngơn ngữ mà phải tinh thông bối cảnh lịch sử, điều sẽ cho biết các từ ngữ
trong văn bản thực sự nói gì”.
M.G. Lebedev trong Phương pháp luận sử học (Nxb. Khoa học xã hội, Moscow. 2005)
đã dẫn lời nhà sử học Ba Lan Topolski với một định nghĩa khá đầy đủ rằng: “Nguồn sử liệu là
mọi thông tin về đời sống con người trong quá khứ cùng với các kênh thông tin”.
Một vấn đề quan trọng góp phần đáng kể trong sự phát triển của Sử liệu
học là việc phân tích và phê phán sử liệu. Với tư cách là một phương pháp cơ
bản của Sử liệu học, quá trình phát triển của nó gắn với q trình hình thành và
phát triển của Sử liệu học. Phương pháp phân tích – phê khảo sử liệu (analysiscriticizing historical documents method) ra đời nhờ công sức, sự cố gắng, nỗ lực
của nhiều nhà nghiên cứu. Phương pháp này có nguồn gốc từ phương pháp phê
phán sử liệu, mà người sáng lập ra phương pháp này là nhà bác học người Đức
G.B.Niburu (1776 - 1831). Ông quan niệm hoạt động của nhà sử học tựa như
giải một bài tốn hai ẩn số: Thứ nhất, phân tích – phê phán các nguồn sử liệu với
mục đích phát hiện thông tin đáng tin cậy; thứ hai, phục dựng lại hiện thực lịch
sử trên cơ sở các dữ liệu, thông tin thu nhận được. Phương pháp phê phán sử
liệu trở nên thơng dụng và được định hình rõ ràng hơn từ giữa thế kỷ XVIII.
Nhà sử học Nga Bestyghep - Riumin (1829 - 1897) cho rằng, phê phán sử liệu
tương đồng với quá trình nghiên cứu so sánh các sử liệu và bằng cách đó, dùng
tư liệu này để kiểm chứng tư liệu khác. Trong những năm 1842 - 1849, cơng
trình gồm 20 tập “Cours d’études historiques” (Tạm dịch từ tiếng Pháp là “Bài
giảng về nghiên cứu lịch sử”) của nhà sử học Claude Francois Daunon (1761 1840), được xuất bản (sau khi Claude Francois Daunon đã mất), trong đó tồn
bộ tập thứ nhất được giành để định nghĩa về phương pháp phê phán sử liệu cùng
với cách phân chia sử liệu. Vào năm 1858, với cơng trình “Grundriss der
Historik” (Tạm dịch từ tiếng Đức là “Sơ đồ phân tầng sử liệu”), nhà sử học I. G.
Droysen (1808 - 1884) đưa ra phương pháp phê phán từng nhóm sử liệu riêng
biệt. Năm 1876, giáo sư sử học Ad. Tardif xuất bản cơng trình “Notions
élémentaires de critique historique” (Tạm dịch từ tiếng Pháp là “Các khái niệm
của phê phán sử liệu”), trong đó, ngồi việc liệt kê hàng loạt phương pháp cơ
bản, cần thiết để phê phán sử liệu, còn đưa ra những lời khuyên hữu ích khi làm
việc với sử liệu cho những người mới bắt đầu nghiên cứu. Năm 1883, nhà sử
học Сh. De Smedt trong tác phẩm Các nguyên tắc phê phán sử liệu (Principes
de la critique historique), đã trình bày những nguyên tắc phê phán đối với sử
14
liệu viết và chỉ ra những phương pháp bổ trợ cơ bản để thực hiện quá trình phê
phán sử liệu. Sau đó một thời gian dài, hai nhà sử học Sharle Victor Langlois
(1863 - 1929) và Sharle Seniobos (1854 - 1942) trong cơng trình “Nhập mơn
nghiên cứu sử học” (1897) đã đưa ra những quy tắc phê phán sử liệu, trong đó
đặc biệt nhấn mạnh tới vấn đề tổng hợp các sự vật rời rạc thu được và xây dựng
chuỗi các qui tắc cần thiết để nhóm hóa các sự vật rời rạc thành chỉnh thể khoa
học. Đóng góp quan trọng cho sự phát triển của phương pháp phê phán sử liệu
phải kể đến nhà sử học lỗi lạc người Nga A.S. Lappo - Danilevxki (1863 - 1919)
với cuốn giáo trình “Phương pháp luận sử học” (1910 - 1913), đã xác định cách
thức, nguyên tắc phân loại sử liệu, các phương pháp diễn giải và phê phán nguồn
sử liệu. Như vậy, trong khoảng thời gian từ thế kỷ XVII - XVIII, phương pháp
phê phán sử liệu được hình thành về căn bản.
Thơng thường, những nhà nghiên cứu đặt nền móng cho phương pháp phê
phán sử liệu, cũng như những người phát triển phương pháp này trong những
giai đoạn tiếp theo, đều coi mục đích chính của phê phán sử liệu là xác định mức
độ tin cậy của sử liệu trên mọi phương diện, và đã chia quá trình phê – khảo sử
liệu thành hai giai đoạn: Phê phán bên ngoài (làm rõ tất cả các dữ liệu bên ngoài
của sử liệu, xác định xuất xứ – tác giả, thời gian, địa điểm và mục đích việc sáng
tạo, tính xác thực của nguồn sử liệu) và phê phán bên trong (xác định tính đầy
đủ, tính xác thực của các thơng tin chứa trong nguồn sử liệu – suy đốn kín),
mỗi giai đoạn có nhiệm vụ riêng, và vì thế, cần sử dụng những cách thức,
phương pháp nghiên cứu riêng. Quan điểm này thịnh hành đến trước những năm
1970 và rất nhấn mạnh đến vai trò, tầm quan trọng của phê phán bên trong, vì
cho rằng, đây là giai đoạn quyết định; đồng thời, khi thực hiện thao tác này,
dưới ảnh hưởng của cuộc đấu tranh ý thức hệ và Chiến tranh lạnh, ở rất nhiều
quốc gia trên thế giới, cách tiếp cận xã hội – giai cấp được coi là quan trọng
nhất, chủ chốt nhất. Việc xác định nguồn gốc giai cấp, vị trí xã hội của tác giả sử
liệu được xem là quan trọng hàng đầu.
Vào những năm 80 - 90 của thế kỷ XX, cách chia quá trình phê phán sử
liệu một cách cứng nhắc thành phê phán bên trong và bên ngoài được xem xét
lại. Điều này thể hiện khá rõ nét trong Phương pháp luận sử học Xô viết – lĩnh
vực mà Phương pháp luận sử học Việt Nam có mối liên hệ gắn bó, gần gũi, kế
thừa. Các nhà sử học Nga và thế giới cùng chung quan điểm: (1) Không phải tất
cả mọi nguồn sử liệu phục vụ mục đích nghiên cứu đều có giá trị cao, vì thế,
việc sàng lọc sử liệu được coi là công việc quan trọng thứ hai sau khi xác định
15
vấn đề nghiên cứu. Tuy rằng, để lựa chọn, sàng lọc đúng đắn sử liệu, nhà sử học
đã cùng lúc sử dụng thủ pháp phân tích – phê phán; (2) một khi mục đích và nội
dung của cả hai hình thức phê phán sử liệu bên ngoài và bên trong gắn bó logic,
chặt chẽ trong một thể thống nhất, và ranh giới giữa chúng rất mờ nhạt, mong
manh, thì việc phân chia quá trình làm việc với sử liệu thành hai giai đoạn như
vậy đã bộc lộ sự vô lý, mang nặng tính hình thức và khơng cần thiết.
Kovalchenko I.D. Istoricheskij istochnik v sele uchenija ob informacii (Sử
liệu qua lý thuyết thông tin) trong Istorija, SSSR, 1982, số 2.
Nhà sử học người Nga E.M. Giukov – Viện sĩ Viện Khoa học Nga đã rất
xác đáng cho rằng: “Trên thực tế, rất khó khăn và hầu như khơng thể chia một
cách tuyệt đối, hoàn toàn phê phán sử liệu thành phê phán bên trong và bên
ngoài trong một chuỗi các hoạt động nghiên cứu. Giải mã sử liệu và định vị nó –
là những nhiệm vụ liên quan vơ cùng chặt chẽ và thường diễn ra cùng lúc”.
Đúng như nhà sử học A. Ya. Gurevich đã kết luận: “Nhà nghiên cứu lịch sử luôn
luôn đơn độc vật lộn với nguồn sử liệu, bởi vì nguồn sử liệu vừa là cơng cụ duy
nhất của nhận thức, vừa là trở lực” (A. Ia. Gurevich, Lãnh địa của nhà sử học,
Odissei, 1996).
CHỦ NHIỆM ĐỀ TÀI
TS. Nguyễn Văn Hiệp
NGƯỜI THỰC HIỆN
TS. Nguyễn Đình Thống
16