Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Tài liệu Luận văn " duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư " doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 15 trang )













Luận văn



Đề tài " duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư "







1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Trước đây các nhà XHCN không tưởng chỉ có thể nói về
sự bóc lột của TBCN, chỉ mở ra được một xã hội mà hầu như
mọi cái chưa thực tế, nhưng khi Mác và Anghen cho ra đời
hai phát triển vĩ đại là "Chủ nghĩa duy vật lịch sử và "học
thuyết giá trị thặng dư" mà XHCN từ không tưởng trở thành


hiện thực. Chính nhờ các học thuyết đó mà sau này các nhà
thừa kế xuất sắc như Lê nin đã tiếp thu và phát triển thêm,
tiến tới đoàn kết các giai cấp trong xã hội để xây dựng một
nhà nước XHCN đầu tiên, không phải là không tưởng, mà là
hiện thực, mở ra một thời đại mới, một kỷ nguyên mới của xã
hội loài người, đó là xã hội XHCN, lật đổ chế độ TBCN, tư
bản nửa phong kiến.
Trong bài viết này, ta chỉ giải thích tại sao nói rằng nhờ
hai phát hiện vĩ đại của Mác, Anghen duy vật lịch sử và học
thuyết giá trị thặng dư mà chủ nghĩa xã hội từ không tưởng
trở thành có tưởng.

2
GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
Trước thời kỳ XHCN ra đời, xã hội luôn làm sự đấu tranh
giai cấp, đấu tranh công nông có sự phân hoá sâu sắc, cụ thể
là sau khi cộng đồng nguyên thuỷ tan rã, trong các giai cấp
tầng lớp bị áp bức bóc lột đã xuất hiện những tư tưởng muốn
phủ định xã hội đương thời, những tư tưởng đó khát vọng đó
tuy chưa thực sự rõ rệt và đồng nhất với nhau nhưng điều đó
có điểm chung là muốn có một xã hội công bằng bình đẳng,
bác ái, nhưng đó cũng là một điểm sáng, một khát vọng nhỏ
nhoi là những mớ giả thuyết chưa thực tế còn yêu sách. Biện
pháp để đạt được những mơ ước khát vọng đó còn rất mơ hồ.
Sau khi CNTB ra đời, để tích luỹ tư bản và tạo ra những
đội quân lao động làm thuê, giai cấp tư sản dùng mọi biện
pháp để bóc lột giá trị thặng dư, để chiếm đoạt tài sản, mang
quân đội đi đánh chiếm những vùng đất khác để biến nó thành
thuộc địa của mình để có những nguồn nhân công rẻ mạt biến
tài nguyên của nước đó thành của mình. Trong bối cảnh lịch

sử đó đã xuất hiện những nhà nước XHCN không tưởng, các
ông cho rằng phải có một xã hội thực sự bác ái, phải kết hợp
những nguyên tắc của CN nhân đạo với nguyên tắc cộng đồng
dựa theo lòng mong muốn và trí tưởng tượng của mình.
Những tư tưởng ở thời kỳ này tuy vẫn chỉ là ước mơ nhưng đã
được kết tinh thành những học thuyết mang tính chặt chẽ hơn,
đã phê phán ngày càng sâu sắc những hạn chế của CNTB và
phần nào là tiếng nói của những người lao động trước tình
trạng bị áp bức bóc lột ngày càng nặng nề.
Tuy nhiên, những tư tưởng, những học thuyết này ngày
càng mang tính chặt chẽ hơn mà sau này các nhà sáng lập

3
CNXH - KH đã thừa kế một cách có chọn lọc và chứng minh
chúng trên cơ sở khoa học vì đã nêu được những luận điểm có
giá trị về sự phát triển của xã hội trong tương lai. Hơn nữa, đã
nêu được những giá trị nhân đạo, nhân văn, lòng yêu thương,
thông cảm và bênh vực đại đa số người lao động, muốn giúp
đỡ và giải phóng họ trong các tác phẩm và hành động của
mình. Ngoài ra, nó cũng góp phần làm thức tỉnh tinh thần đấu
tranh của giai cấp bị bóc lột.
Tuy vật, CNXH không tưởng còn có những hạn chế của
nó là chưa khai phá ra hết bản chất và quy luật vận động của
CNTB, chưa phát hiện ra vai trò lịch sử của giai cấp công
nhân - một lực lượng xã hội có đủ khả năng xoá bỏ CNTB để
xây dựng thành công CNXH. Lênin từng viết: "CNXH không
tưởng không thể vạch ra được lối thoát thực sự. Nó không thể
giải thích được bản chất của chế độ nô lệ làm thuê trong
XHCNTB, cũng không phát hiện ra những quy luật phát triển
của chế độ TBCN và cùng không tìm thấy lực lượng xã hội có

khả năng trở thành người sáng tạo xã hội mới".
Nhờ hai phát triển vĩ đại của Mác - Ănghen đó là chủ
nghĩa duy vật lịch sử và học thuyết giá trị thặng dư mà CNXH
từ không tưởng trở thành hiện thực. Ta lần lượt xét hai phát
kiến đó:
Chủ nghĩa duy vật lịch sử.
Dựa trên những kết quả lý luận và tổng kết lịch sử, Mác
và Ănghen đã nêu ra quan điểm duy vật lịch sử của mình.
Mác đã từng viết :"Những quan hệ xã hội đều gắn liền với
những lực lượng sản xuất. Do có lực lượng sản xuất mới mà
loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình và do thay

4
đổi các phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài
người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối
xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay
chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công
nghiệp".
Mác đã dùng một tổng thể các quan hệ sản xuất làm tiêu
chuẩn trực tiếp phân biệt những giai đoạn phát triển đặc thù
trong lịch sự nhân loại, tức là trực tiếp phân biệt những hình
thái khác nhau của xã hội. Về sau Anghen viết:"Trong mỗi
thời đại lịch sử, phương thức chủ yếu của sản xuất kinh tế và
trao đổi, cùng với cơ cấu xã hội do phương thức đó quyết định
đã cấu thành cơ sở cho lịch sử chính trị của thời đại và lịch sử
phát triển trí tuệ của thời đại, cái cơ sở mà chỉ xuất phát từ đó
mới cắt nghĩa được lịch sử".
Trong học thuyết của mình, Mác đã nhấn mạnh vai trò
quyết định của nhân tố kinh tế, song không bao giờ coi kinh
tế là nhân tố quyết định duy nhất trong lịch sử. Chứng minh

luận điểm này của Mác, Anghen đã cho rằng "Theo quan điểm
duy vật lịch sử, nhân tố quyết định trong lịch sử, xét đến cùng
là sự sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực. Do đó,
nếu ai coi kinh tế là nhân tố quyết định duy nhất trong lịch
sử, khiến cho nó có nghĩa là nhân tố quyết định duy nhất thì
như vậy là họ đã biến thành một câu nói trống rỗng, trìu
tượng và vô nghĩa. Tình hình kinh tế là cơ sở nhưng mọi yếu
tố khác của thượng tầng kiến trúc, sự phát triển về mặt chính
trị, pháp luật, triết học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật... là dựa
trên sự phát triển kinh tế. Hoàn toàn điều kiện kinh tế không
phải là nguyên nhân duy nhất chủ động, còn mọi thứ khác chỉ

5
có tác dụng thụ động". Mác đã nhìn thấy động lực của lịch sử
do hoạt động thực tiễn của con người dưới tác động của các
quy luật khách quan. Trong học thuyết của mình Mác đã bác
bỏ cách miêu tả một xã hội nói chung một xã hội cấu thành
chỉ bởi con người. Quan điểm phi lịch sử về xã hội phải
nhường chỗ cho quan điểm lịch sử. Mác đã làm nổi bật những
quan hệ xã hội vật chất, tức là quan hệ hình thành mà không
thông qua ý thức. Đó là quan hệ sản xuất mà Mác đã coi
những quan hệ cơ bản ban đầu và quyết định mọi quan hệ
khác. Mác đã đánh đổ mọi quan niệm cho rằng xã hội là một
tổ hợp có tính chất máy móc, có thể tuỳ ý kiến thay đổi theo
đủ kiểu, một tổ hợp sinh ra và biến hoá một cách ngẫu nhiên.
Như vậy, quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển xã
hội chẳng diễn ra bằng con đường phát triển tuần tự mà còn
bao hàm cả trường hợp bỏ qua một hình thái kinh tế xã hội
nhất định trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể nhất định. Vì
vậy những quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử đã làm

sáng tỏ tính chất lịch sử của hình thái kinh tế xã hội TBCN,
tính tất yếu và những tiền đề khách quan, chủ quan của cuộc
cách mạng XHCN.
Học thuyết giá trị thặng dư.
Bắt đầu từ việc nghiên cứu hình thái tế bào của xã hội
CNTB, tức là hình thái hàng hoá, Mác đã nói rõ lên đời sống
kinh tế - xã hội của CNTB. ở đây, Mác đã phát hiện ra tính
hai mặt của lao động sản xuất hàng hoá: lao động cụ thể và
lao động trừu tượng. Giải thích tính hai mặt này, Mác đã nêu
ra mâu thuẫn cơ bản của sản xuất hàng hoá (là mâu thuẫn giữa
lao động tư nhân với lao động xã hội). Nhờ đó, chính Mác là

×