Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Chính sách thu hút FDI hậu COVID-19 nhằm phát triển bền vững nền kinh tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (374.04 KB, 8 trang )

KỶ YẾU HỢI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

21.

CHÍNH SÁCH THU HÚT FDI HẬU COVID-19
NHẰM PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG NỀN KINH TẾ
ThS. Nguyễn Thị Diệu*
Đồng Thị Huệ**
Tóm tắt
Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã ngày càng khẳng định được vị trí của mình trong sự
phát triển, tăng trưởng kinh tế Việt Nam. Vai trò của FDI được thể hiện rất rõ qua việc đóng
góp vào các yếu tố quan trọng của tăng trưởng như bổ sung nguồn vốn đầu tư, tăng thu ngân
sách, đẩy mạnh xuất - nhập khẩu, chuyển giao công nghệ, phát triển nguồn nhân lực và giảm
tỷ lệ thất nghiệp...
Trong bối cảnh hiện nay, đại dịch COVID-19 diễn ra từ cuối năm 2019 đến nay, gây ảnh
hưởng toàn diện, sâu rộng đến các quốc gia trên thế giới, trong đó có Việt Nam. Dịng vốn đầu tư
trực tiếp nước ngoài (FDI) do tác động của dịch bệnh cũng bị sụt giảm đạt 86,3% so với trước khi
xảy ra đại dịch. Mặt khác, khủng hoảng kinh tế do đại dịch COVID-19 gây ra cũng là cơ hội để
kiểm tra lại phương pháp, chính sách thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI sao cho hiệu quả, đồng
thời tạo sự liên kết giữa các khu vực kinh tế trong nước. Bài viết nêu rõ kết quả thu hút FDI đã
đạt được trong thời kỳ dịch bệnh bùng phát, từ đó đưa ra những cơ hội và thách thức cho việc thu
hút FDI, đồng thời đưa ra một số giải pháp phù hợp trong bối cảnh kinh tế toàn cầu.
Từ khóa: Đại dịch COVID-19, thu hút FDI, kinh tế, bền vững
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Năm 2020 là năm cuối của kế hoạch 05 năm 2016 - 2020, năm tổ chức Đại hội Đảng các cấp
tiến tới Đại hội toàn quốc lần thứ XII của Đảng và diễn ra nhiều sự kiện trọng đại của đất nước.
Sau hơn 30 năm đổi mới, những kế hoạch trong giai đoạn 2016 - 2020 và năm 2020 cơ bản đã đạt
và vượt các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội đề ra, trong đó có 2 năm liên tiếp là 2018 và 2019
đạt và vượt toàn bộ các chỉ tiêu Quốc hội giao, đất nước ổn định, kinh tế - xã hội phát triển toàn
diện, trên đà tăng mạnh. Mặc dù năm 2020 là năm đại dịch COVID-19, trong bối cảnh phải đối
mặt với nhiều khó khăn, thách thức to lớn, nhưng nhờ sự nỗ lực của Chính phủ trong chỉ đạo đã


* Trung tâm Phục vụ Hành chính cơng tỉnh Bắc Giang
** Phịng Kinh tế tổng hợp - Văn phòng UBND tỉnh Bắc Giang

248


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

thực hiện thành công “mục tiêu kép”, tổng quan nền kinh tế tăng trưởng dương, tốc độ tăng GDP
đạt 2,91% quy mô kinh tế đạt 271,2% tỷ USD, bình quân đầu người đạt 2.779 USD. Kinh tế vĩ
mơ ổn định, lạm phát được kiểm sốt, CPI bình quân tăng 3,23% (số đã báo cáo là dưới 4%) đảm
bảo các nhu cầu thanh khoản, ổn định và thông suốt thị trường tiền tệ, ngoại hối... Khu vực có
vốn đầu tư nước ngồi FDI ngày càng khẳng định được vai trị của mình đối với phát triển kinh
tế đất nước, làm tăng thu ngân sách, chuyển dịch cơ cấu vốn nền kinh tế, nâng cao khả năng cạnh
tranh của các doanh nghiệp trong nước, giúp các doanh nghiệp trong nước học hỏi kinh nghiệm
quản lý, chuyển giao công nghệ, giải quyết việc làm, tăng thu nhập... Tuy nhiên, do ảnh hưởng
của dịch bệnh COVID-19 đến toàn cầu, do đó tất cả các nước đều bị ảnh hưởng, kéo theo sự sụt
giảm của các dòng vốn FDI vào Việt Nam, và các dự án đang triển khai bị tạm dừng. Vì vậy, để
thời kỳ hậu COVID-19, đảm bảo phát triển kinh tế bền vững, bài viết tác giả dựa trên trên cơ sở
quan sát thực tế, tham khảo các tài liệu, đánh giá những ảnh hưởng của dịch bện COVID-19 đến
chính sách thu hút FDI, trong đó có cả cơ hội và thách thức, từ đó đề xuất, kiến nghị với Việt
Nam một số giải pháp để thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI có hiệu quả.
2. TÌNH HÌNH DỊCH BỆNH COVID-19 TẠI VIỆT NAM
“Đại dịch COVID-19 là một đại dịch bệnh truyền nhiễm với tác nhân là virus SARS-CoV-2,
đang diễn ra trên phạm vi toàn cầu. Khởi nguồn vào cuối tháng 12 năm 2019 với tâm dịch đầu
tiên được ghi nhận tại thành phố Vũ Hán thuộc miền Trung Trung Quốc, bắt nguồn từ một nhóm
người mắc viêm phổi không rõ nguyên nhân. Giới chức y tế địa phương xác nhận rằng, trước
đó họ đã từng tiếp xúc chủ yếu với những thương nhân buôn bán và làm việc tại chợ bán buôn

hải sản Hoa Nam. Các nhà khoa học Trung Quốc đã tiến hành nghiên cứu và phân lập được một
chủng coronavirus mới, được Tổ chức Y tế Thế giới lúc đó tạm thời gọi là 2019 – nCoV, có trình
tự gen giống với SARS-Cov-2 trước đây với mức tương đồng lên tới 79,5%.
Các ca nghi nhiễm đầu tiên ở Vũ Hán được báo cáo vào ngày 31 tháng 12 năm 2019. Trường
hợp tử vong do SARS-Cov-2 đầu tiên xảy ra ở Vũ Hán vào ngày 9 tháng 1 năm 2020. Các ca
nhiễm virus đầu tiên được xác nhận bên ngoài Trung Quốc bao gồm hai người phụ nữ ở Thái Lan
và một người đàn ông ở Nhật Bản. Sự lây nhiễm virus từ người sang người đã được xác nhận
cùng với tỷ lệ bùng phát dịch tăng nhanh vào giữa tháng 1 năm 2020. Ngày 23 tháng 1 năm 2020,
chính phủ Trung Quốc quyết định phong tỏa Vũ Hán, tồn bộ hệ thống giao thơng công cộng và
hoạt động xuất - nhập khẩu đều bị tạm ngưng. Ngày 11 tháng 3 năm 2020, tổ chức Y tế thế giới
(WHO) ra tuyên bố gọi “COVID-19 là đại dịch toàn cầu”(Đại dịch COVID-19, 2021).
Cho đến nay, dịch bệnh COVID-19 vẫn đang diễn biến phức tạp tại nhiều quốc gia trên thế
giới, tác động tiêu cực đến các nền kinh tế lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nhật Bản, Liên minh châu
Âu... Theo thống kê trên thế giới, đến cuối tháng 2/2021 có 117 triệu ca nhiễm, trong đó có hơn
66,3 triệu ca đã được chữa trị khỏi, gần 2,6 triệu ca tử vong, còn lại là số ca đang được điều trị.
Tại Việt Nam, cơn bão COVID-19 đã đi qua các tỉnh thành như Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Quảng
Nam và lan ra các tỉnh khác trong cả nước (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Dương, Đắc
Lắc) với tổng số ca là 2.512 ca nhiễm, số đã bình phục 1.920 ca, tử vong 35 ca. COVID-19 đã
tác động nên nền kinh tế nói chung, làm cho tăng trưởng kinh tế nước ta rơi xuống mức tháp nhất
trong vòng 10 năm qua. Kéo theo dòng vốn FDI cũng đang chịu tác động tiêu cực. Dòng vốn
đầu tư nước ngoài (FDI) toàn cầu ước giảm từ 30% đến 40% (Theo Hội nghị Liên Hiệp Quốc
249


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

về thương mại và phát triển (UNTAC), do tác động của dịch bệnh COVID-19 kéo dài suốt trong
năm 2020 và sang năm 2021, tất cả các dòng vốn FDI trong các lĩnh vực như hàng không, khách
sạn, nhà hàng, các ngành sản xuất và lĩnh vực năng lượng. Đầu tư trực tiếp nước ngồi có vai trị
quan trọng trong phát triển kinh tế xã hội. Vốn FDI thực hiện bình quân giai đoạn 2016 - 2020

chiếm trên 25% trong tổng vốn đầu tư thực hiện tồn xã hội; tỷ trọng bình qn GDP của khu
vực có vốn đầu tư nước ngồi giai đoạn 2016 - 2020 chiếm 19,8% trong tổng GDP của toàn bộ
nền kinh tế, thu hút gần 5 triệu lao động, tạo ra lợi nhuận cao nhất khi chiếm tới trên 42% trong
toàn bộ khu vực doanh nghiệp, hiệu quả đầu tư kinh doanh.
Trong chiến lược phát triển kinh tế giai đoạn mới, vẫn phải đối phó với dịch bệnh COVID-19,
FDI toàn cầu bị ảnh hưởng, giảm sụt trong thời gian dài sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến nền kinh
tế của nước ta. Vì vậy, với bối cảnh kinh tế, xã hội chính trị thay đổi do ảnh hưởng của đại dịch
COVID-19, việc thu hút FDI ở nước ta trong thời gian tới cần có những thay đổi về chiến lược,
chính sách phù hợp.
3. KẾT QUẢ THU HÚT FDI TRONG GIAI ĐOẠN BỊ ẢNH HƯỞNG BỞI DỊCH BỆNH
COVID-19
Tổng vốn đầu tư nước ngồi vào Việt Nam tính đến cuối năm 2020 bao gồm cả vốn đăng ký
cấp mới, vốn đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đạt
28,5 tỷ USD, giảm gần 25% so với năm 2019. Trong đó, có 2.523 dự án được cấp phép mới với
số vốn đăng ký đạt 14,6 tỷ USD, giảm 35% về số dự án và giảm 12,5% về số vốn đăng ký so với
năm trước; có 1.140 lượt dự án đã cấp phép từ các năm trước đăng ký điều chỉnh vốn đầu tư với
số vốn tăng thêm đạt 6,4% tỷ USD, tăng 10,6%; có 6.141 lượt góp vốn mua cổ phần của nhà đầu
tư nước ngồi với tổng giá trị góp vốn 7,5 tỷ USD, giảm 51,7%.
Trong tổng số lượt góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngồi, có 1.695 lượt góp vốn,
mua cổ phần làm tăng vốn điều lệ của doanh nghiệp với giá trị góp vốn là 3,2 tỷ USD và 4.446
lượt nhà đầu tư nước ngoài mua lại cổ phần trong nước mà không làm tăng vốn điều lệ v ới giá
trị 4,3 tỷ USD. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện năm 2020 ước tính đạt gần 20 tỷ USD,
giảm 2% so với năm trước, trong đó cơng nghiệp chế biến, chế tạo đạt 14,1 tỷ USD, chiếm 70,6%
tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài thực hiện; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 3 tỷ USD,
chiếm 14,8%; sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hịa khơng khí đạt
gần 1,4 tỷ USD, chiếm 6,9%.
Trong năm 2020, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo được cấp phép mới đầu tư trực tiếp
nước ngoài lớn nhất với số vốn đăng ký đạt 7,2 tỷ USD, chiếm 49,1% tổng số vốn đăng ký cấp
mới; ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hịa khơng khí đạt
5,1% tỷ USD, chiếm 34,7%; các ngành cịn lại đạt 2,3 tỷ USD, chiếm 16,2%. Nếu tính cả vốn

đăng ký điều chỉnh của các dự án đã cấp phép từ các năm trước thì vốn đầu tư trực tiếp nước
ngồi vào ngành cơng nghiệp chế biến, chế tạo đạt 11,8 tỷ USD, chiếm 56% tổng vốn đăng ký
cấp mới và tăng thêm; ngành sản xuất, phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hịa
khơng khí đạt 4,9 tỷ USD, chiếm 23,5%; hoạt động kinh doanh bất động sản đạt 2,3 tỷ USD,
chiếm 10,6%; các ngành còn lại đạt 2,1 tỷ USD, chiếm 26% giá trị góp vốn; ngành cơng nghiệp
chế biến, chế tạo đạt 1,8 tỷ USD, chiếm 24,3%; các ngành còn lại đạt 3,7 tỷ USD, chiếm 49,7%.

250


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

Trong số 79 quốc gia và vùng lãnh thổ có dự án đầu tư được cấp phép mới tại Việt Nam trong
năm 2020, Singapore là nhà đầu tư lớn nhất với 6,2 tỷ USD, chiếm 42% tổng vốn đăng ký cấp
mới; tiếp đến là Trung Quốc 1,6 tỷ USD, chiếm 10, 8%; Đài Loan 1,5 tỷ USD, chiếm 10,3%; Đặc
khu hành chính Hồng Cơng 1,3 tỷ USD, chiếm 8,7%; Hàn Quốc 1,2 tỷ USD, chiếm 8,2%; Nhật
Bản 786 triệu USD, chiếm 5,4%.
4. NHỮNG ẢNH HƯỞNG CỦA DỊCH BỆNH COVID-19 ĐẾN THU HÚT FDI
Dịch COVID-19 không chỉ ảnh hưởng như các quyết định đầu tư mới và mở rộng quy mơ dự
án đầu tư nước ngồi tiếp tục bị ảnh hưởng.
Thứ nhất, COVID-19 ảnh hưởng đến môi trường sống và làm việc yếu tố đầu tiên trong việc
ra quyết định của các nhà đầu tư nước ngoài với Việt Nam. Môi trường sống và làm việc thể
hiện qua các yếu tố về văn hóa, giáo dục, y tế, chất lượng môi trường, vui chơi sinh hoạt... Khi
mà dịch bệnh COVID-19 bùng phát tại Việt Nam, thì tất cả các tố cấu thành nên môi trường
sống đều bị ảnh hưởng nghiêm trọng, y tế thì phải tập trung cao nhân lực nguồn lực, các trường
học, khu vui chơi giải trí trên cả nước phải đóng cửa, tạm dừng cho việc phòng chống dịch bệnh
Thứ hai, việc lấy mẫu xét nghiệm của người lao động nước ngoài tại Việt Nam để nhằm bảo
đảm an toàn cho người dân và người lao động, kể cả những người khơng có lịch sự tiếp xúc với

ca nhiễm COVID-19, trong khi đó doanh nghiệp FDI phải chi trả tồn bộ chi phí xét nghiệm.
Trong bối cảnh nền kinh tế thế giới gặp khó khăn vì đại dịch, doanh thu của các doanh nghiệp
cũng giảm, nên gánh nặng lớn về chi phí xét nghiệm, đồng thời gặp khó khăn trong việc tiếm
kiếm cơ sở y tế có thể thực hiện xét nghiệm trên diện rộng trong một thời gian ngắn.
Thứ ba, COVID-19 gây ảnh hưởng trực tiếp tới giao thông, làm cho việc di chuyển của người
lao động nước ngồi gặp khó khăn, hay việc vận chuyển hàng hóa nhiên liệu của các doanh
nghiệp bị hạn chế, gây ứ đọng vốn, không kịp tạo sản phẩm, các quy trình sản xuất khơng được
thơng suốt.
Thứ tư, COVID-19 gây ra khó khăn đối với người lao động trong nước, sẽ ảnh hưởng trực
tiếp đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp FDI. Nguồn lao động là một trong những nhân tố
để thu hút FDI, nhưng khi đại dịch COVID-19 bùng phát, người lao động trong những vùng dịch
phải cách ly tập trung, việc tìm kiếm nguồn nhân lực để thay thế là vơ cùng khó khăn. Do vậy,
các nhà đầu tư mới không muốn đầu tư vào những vùng dịch, còn những dự án FDI đang triển
khai thì phải tạm dừng vì khơng có người lao động để làm việc
5. NHỮNG CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI THU HÚT FDI TRONG THỜI GIAN HẬU
COVID-19
5.1. Cơ hội đối với thu hút FDI trong thời gian hậu COVID-19
Với diễn biến phức tạp của dịch bệnh COVID-19, trong thời gian tới vẫn chưa chấm dứt được
triệt để dịch bệnh thì trên tồn thế giới và cả Việt Nam nói chung vẫn phải tiếp tục phải đối mặt
với dịch bệnh bằng cách thực hiện nhiệm vụ kép, vừa chống dịch, vừa phát triển kinh tế - xã hội.
Tuy nhiên, sau tất cả thì sự nhìn nhận của các nhà đầu tư nước ngồi đối với Việt Nam lại có
điều tích cực, gợi mở, ví Việt Nam như một “thiên đường” sản xuất mới ở Đông Nam Á, đúng

251


KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

như nhận định của Hãng giá thương hiệu Brand Finance (Anh), khi mà liên tiếp các nhà sản xuất
nước ngoài đã chọn Việt Nam làm điểm đến. Hãng định giá này đã định giá thương hiệu quốc gia

Việt Nam lên tới 319 tỷ USD trong năm 2020, tăng 29% so với năm 2019, và đây là mức tăng rất
mạnh, trái ngược với xu hướng sụt giảm trên toàn cầu do COVID-19.
Việt Nam trong thời gian tới sẽ trở thành một điểm đến hấp dẫn với nhà đầu tư, đặc biệt do
ảnh hưởng của cuộc chiến tranh Mỹ - Trung mà nhiều nhà đầu tư nước ngoài đã thực hiện di dời
chuỗi sản xuất ra khỏi Trung Quốc nhằm đảm bảo hoạt động kinh doanh được ổn định và phát
triển. Trong đó, 20% doanh nghiệp ngoại rời Trung Quốc vì do dịch bệnh COVID-19 còn lại là
do cuộc chiến tranh thương mại.
Nhờ đưa ra những chính sách hợp lý để ngăn chặn, đối phó kịp thời với dịch bệnh và có
những chính sách kinh tế hỗ trợ về vốn, thuế, thuế đất, lao động, giảm 10% giá bán lẻ điện cho
các ngành sản xuất kinh doanh... cho doanh nghiệp tại các văn bản pháp luật cụ thể như Chỉ thị số
11/CT-TTg ngày 4/3/2020 về nhiệm vụ, giải pháp cấp bách tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh
doanh, đảm bảo an sinh xã hội ứng phó với dịch bệnh COVID-19; Cơng văn số 897/TCT-QLN
ngày 3/3/2020 về gia hạn nộp thuế, miễn tiền chậm nộp do ảnh hưởng bởi dịch bệnh COVID-19;
Nghị định số 41/2020/NĐ-CP về gia hạn nộp thuế và tiền thuế đất; Công văn số 1511/LĐTBXHBHXH hướng dẫn việc tạm dừng đóng vào quỹ hưu trí, tử tuất; Cơng văn số 245/TLĐ ngày
18/3/2020 về việc lùi thời điểm đóng kinh phí cơng đồn đối với các doanh nghiệp bị ảnh hưởng
bởi dịch COVID-19... Do vậy, theo thông tin của Đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam, đã có tới
37 doanh nghiệp Nhật Bản nhận sự hỗ trợ của Chính phủ để dịch chuyến sản xuất sang Việt Nam.
Trong khi đó, chỉ có 19 doanh nghiệp lựa chọn Thái Lan, một địa điểm đầu tư đang là “đối thủ
cạnh tranh” lớn của Việt Nam.
Luật Đầu tư được sửa đổi, tạo thuận lợi hơn cho các nhà đầu tư bằng cách giảm các thủ tục
hành chính tạo thuận lợi cho đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Việt Nam đã phê chuẩn Hiệp định
EVFTA, từ tháng 7/2020, EU đã dỡ bỏ 85% các thuế quan đối với hàng hóa Việt Nam và dần cắt
bỏ phần còn lại trong 7 năm tới.
Mặt khác, người lao động và hộ gia đình ở Việt Nam nhìn chung ít bị ảnh hưởng hơn so với
các quốc gia khác ở khu vực Đơng Á
Hình 1. Tỷ trọng người lao động mất việc từ khi đại dịch bùng phát (%)
100
90
80
70

60
50
40
30
20
10
0

Nguồn: Báo cáo tác động của dịch bệnh COVID-19 đến tình hình lao động, việc làm
quý IV và năm 2020

252


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

5.2. Thách thức đối với thu hút FDI trong thời gian hậu COVID-19
Bên cạnh những cơ hội thì việc thu hút FDI cịn nhiều thách thức nhất là trong tình cảnh đại
dịch COVID-19 thì các thách thức đó càng lớn. Thứ nhất, các nước châu Á hay trong vùng Đông
Nam Á như Ấn Độ, Indonesia, Thái Lan, Lào..... cũng có những hành động tích cực nhằm thu
hút vốn đầu tư nước ngoài như xây dựng khu cơng nghiệp với diện tích lớn, đảm bảo các nhu cầu
của nhà đầu tư, áp dụng giá đất cho thuê ưu đãi, áp dụng nhiều chính sách thuế...
Thứ hai, thị trường lao động đã bị khủng hoảng gây ảnh hưởng, mặc dù theo thống kê thì số
lao động phải nghỉ do ảnh hưởng của COVID-19 thì ít so với các nước trên thế giới, nhưng nhiều
doanh nghiệp đã phải giảm lương và giờ làm. Những diễn biến đó kéo dài dẫn đến thất nghiệp
tăng lên và khiến cho một số người lao động phải rời bỏ lực lượng lao động. Mặc dù tổng tỷ lệ
thất nghiệp nói chung đã quay lại mức gần như trước khủng hoảng nhưng đều chủ yếu là nam
giới có cơ hội quay lại làm việc. Ngược lại, tỷ lệ thất nghiệp của nữ giới tiếp tục tăng lên 3,9%

dẫn đến sự chênh lệch của nam và nữ rõ ràng. Cả nước có 32,1 triệu người từ 15 tuổi trở lên bị
ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, bao gồm người bị mất việc, phải nghỉ giãn cách luân phiên, giảm
thu nhập... trong đó có 69,2% người bị giảm thu nhập, 39,9% phải giảm giờ làm/ nghỉ giãn việc/
nghỉ luân phiên và khoảng 14,0% buộc phải tạm nghỉ hoặc tạm ngường hoạt động sản xuất kinh
doanh. Dịch bệnh COVID-19 đã đẩy nhiều lao động vào tình trạng khơng có việc làm, đồng thời
khiến cho nhiều người trong số họ buộc phải trở thành lao động có việc làm phi chính thức. Tính
chung cả năm 2020, số lao động có việc làm phi chính thức là 20,3 triệu người, tăng 119,1 nghìn
người, số lao động có việc làm chính thức là 15,8 triệu người giảm 21,1 nghìn người so với năm
2019. Tỷ lệ lao động có việc làm phi chính thức năm 2020 là 56,2% cao hơn 0,2 điểm phần trăm
so với năm 2019. Đại dịch COVID-19 không chỉ làm cho người lao động có việc làm chính thức
bị giảm mà cịn khiến họ rơi vào tình trạng thiếu việc làm, nhưng tỷ lệ này cũng có những chiều
hướng giảm vào cuối năm 2020.
Thứ ba, việc đẩy nhanh quá trình thu hút FDI mà khơng có chọn lọc trong thời gian qua cũng
dẫn đến nguồn vốn FDI vào Việt Nam có chất lượng thấp, quy mơ vốn nhỏ, ứng dụng công nghệ
thấp, không tập trung vào những ngành kinh tế trọng điểm.
6. NHỮNG GIẢI PHÁP THU HÚT FDI TRONG THỜI GIAN HẬU COVID-19
Đại dịch COVID-19 khiến cho nền kinh tế Việt Nam có nhiều biến động, kéo theo dịng vốn
FDI cũng có thay đổi, để phù hợp với thời gian tới, nền kinh tế số và vẫn phải chống dịch bệnh
thì tác giả có đưa ra một số giải pháp mang tính cấp bách và lâu dài để Việt Nam huy động được
vốn FDI và phát huy được những tiềm năng vốn của của đất nước để sử dụng dịng vốn FDI có
hiệu quả.
Thứ nhất, tiếp tục tập trung, phịng ngừa dịch bệnh, có những biện pháp mạnh để khoanh
vùng dịch bệnh, cách ly xã hội để tránh lây lan trong cộng đồng để phục hồi nền kinh tế sau đại
dịch để các nhà đầu tư có thể yên tâm tiếp cận, tìm hiểu thị trường Việt Nam. Đối với các doanh
nghiệp, tiếp tục tháo gỡ khó khăn, tuyên truyền để các doanh nghiệp tiếp cận các chính sách hỗ
trợ đơn giản, thuận tiện, kịp thời nhằm kích thích nền kinh tế phục hồi sau dịch bệnh.
Thứ hai, đối với các dự án FDI đang dở dang thì cần phải ưu tiên để tiếp tục đi vào quá trình
vận hành, hoạt động, nhằm củng cố niềm tin cho các nhà đầu tư.
253



KỶ YẾU HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC GIA

Thứ ba, đối với những dự án đầu tư mới, cần phải quy định rõ những ngành nào, lĩnh vực nào
cần ưu tiên thu hút FDI trên nguyên tắc những ngành và lĩnh vực mà doanh nghiệp trong nước đã
làm và làm tốt thì khơng kêu gọi để khơng gây sức ép cạnh tranh với doanh nghiệp trong nước.
Thứ tư, Việt Nam cần phải chuẩn bị chiến lược thu hút FDI mới, chuyển trọng điểm chính
sách thu hút, hợp tác đầu tư nước ngoài từ số lượng sang chất lượng, ưu tiên các dự án có giá
trị gia tăng cao, mơ hình quản lý hiện đại. Chủ động thu hút dự án FDI theo hướng có chọn lọc.
Hay chủ động đối với những dự án FDI đặc biệt như là nguồn vốn lớn, ngành nghề kinh doanh
tập trung vào những mục tiêu trọng điểm quốc gia thì nên có những chính sách riêng nhằm thu
hút được hiệu quả.
Thứ năm, dựa vào thực tế ngành cơng nghiệp phụ trợ cịn chưa phát triển để hỗ trợ các doanh
nghiệp FDI trong quá trình đi vào sản xuất, tạo ra sản phẩm để cung ứng cho xã hội, thì trong giai
đoạn 2021 - 2030, Việt Nam cần khuyến khích, tạo điều kiện của các dự án FDI đầu tư và sản
xuất tại Việt Nam theo hình thức liên doanh với doanh nghiệp trong nước để doanh nghiệp Việt
Nam có điều kiện tiếp cận với cơng nghệ, kỹ năng quản lý hiện đại của doanh nghiệp FDI, đồng
thời giúp doanh nghiệp FDI tập trung vào khâu trọng điểm để tạo ra sản phẩm.
Thứ sáu, trong việc quản lý sử dụng dòng vốn FDI cần phải rõ ràng, việc xác định ngưỡng
cho phép nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ cổ phần, hay trong việc mua bán và sát nhập các doanh
nghiệp FDI cần phải được quản lý theo khung pháp lý của Việt Nam và phù hợp với thơng lệ
quốc tế, tránh tình trạng các doanh nghiệp FDI sẽ lợi dụng những sơ hở để chốn thuế và thâu tóm
những ngành kinh tế trọng điểm của nước ta.
Thứ bảy, về cơ chế chính sách hành lang pháp lý cho việc làm thủ tục hành chính liên quan
đến thu hút đầu tư FDI, để thơng thống, nhanh chóng tạo điều kiện cho các nhà đầu tư nước
ngồi có thể hoạt động ngay trong thời gian ngắn nhất, Việt Nam cần phải cải cách thủ tục hành
chính, hồn thiện các văn bản hướng dẫn thi hành dễ hiểu, dễ thực hiện; quy định rõ thành phần
hồ sơ, thẩm quyền quyết định từng khâu.
Cuối cùng, nâng cấp chất lượng nguồn nhân lực, do nhận thấy nhóm đối tượng bị ảnh hưởng
bởi dịch bệnh COVID-19 đa số thuộc lao động không có tay nghề, trình độ, vì vậy trong thời gian

tới cần đẩy mạnh công tác đào tạo nhân lực tiếp tục chuyển biến theo hướng tập trung nâng cao
chất lượng, đào tạo gắn kết với nhu cầu lao động địa phương và phù hợp ngành nghề của mục
tiêu thu hút dòng vốn FDI.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đại dịch COVID-19 (2021), Wikipedia, truy cập ngày 7 tháng 3 năm 2021 từ https://
vi.wikipedia.org/wiki/%C4%90%E1%BA%A1i_d%E1%BB%8Bch_COVID-19
2. />3. Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2020), Báo cáo số 6219-BC/KHĐT ngày 22 tháng 9 năm 2020 về
đánh giá tình hình thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2020 và dự kiến Kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội năm 2021.

254


KINH TẾ VIỆT NAM NĂM 2020 VÀ TRIỂN VỌNG NĂM 2021

Ứng phó và vượt qua đại dịch COVID-19, hướng tới phục hồi và phát triển

4. Hà Chính (2020), Chặn làn sóng COVID-19, đón làn sóng FDI, Báo Chính phủ, truy cập lần
cuối ngày 6 tháng 3 năm 2020, từ />5. Lê Anh (2020), Trong COVID-19, Việt Nam vẫn được coi là điểm hấp dẫn đầu tư, dangcongsan.
vn, truy cập lần cuối ngày 8 tháng 3 năm 2020, từ />
255



×