Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Hòa giải trong các vụ án tranh chấp đất đai từ thực tiễn xét xử sơ thẩm tại tòa án nhân dân huyện định hóa, tỉnh thái nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI ĐỨC NGHĨA

HÒA GIẢI TRONG CÁC VỤ ÁN TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TỊA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN ĐỊNH HĨA, TỈNH THÁI NGUYÊN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội, năm 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI ĐỨC NGHĨA

HÒA GIẢI TRONG CÁC VỤ ÁN TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
TỪ THỰC TIỄN XÉT XỬ SƠ THẨM CỦA TỊA ÁN NHÂN DÂN
HUYỆN ĐỊNH HĨA, TỈNH THÁI NGUYÊN

Ngành

: Luật Kinh tế

Mã số

: 8.38.01.07


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS NGUYỄN QUANG TUYẾN

Hà Nội, năm 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tơi. Các số liệu,
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được ai cơng bố trong bất kỳ cơng trình
nào khác.

TÁC GIẢ

Bùi Đức Nghĩa


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI TRANH CHẤP
ĐẤT ĐAI VÀ PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TẠI
TÒA ÁN ..................................................................................................................... 8
1.1. Một số vấn đề lý luận về hòa giải tranh chấp đất đai .................................... 8
1.2. Một số vấn đề lý luận về pháp luật hòa giải tranh chấp đất đai tại tòa án... 23
Chương 2: THỰC TRẠNG VÀ THỰC TIỄN THI HÀNH PHÁP LUẬT
VỀ HÒA GIẢI TRONG GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TẠI
TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỊNH HÓA, TỈNH THÁI NGUYÊN .............. 34
2.1. Quy định về phạm vi các vụ việc tranh chấp đất đai mà Tòa án tiến
hành hòa giải ....................................................................................................... 34
2.2. Quy định về các chủ thể trong hòa giải ....................................................... 41

2.3. Quy định về thủ tục hòa giải tranh chấp đất đai trước khi mở phiên tòa
sơ thẩm................................................................................................................ 42
2.4. Quy định về thủ tục hồ giải tranh chấp đất đai tại phiên tịa sơ thẩm .............. 50
2.5. Thực tiễn thi hành các quy định về hòa giải tranh chấp đất đai tại Tòa
án nhân dân huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. .............................................. 50
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2 ........................................................................................ 68
Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ THI HÀNH PHÁP
LUẬT VỀ HÒA GIẢI TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TỪ THỰC TIỄN GIẢI
QUYẾT TẠI TÒA ÁN NHÂN DÂN HUYỆN ĐỊNH HÓA, TỈNH THÁI
NGUYÊN.................................................................................................................. 70
3.1. Các yêu cầu cần đặt ra nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động hịa giải
tranh chấp đất đai ................................................................................................ 70
3.2. Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về hòa giải
tranh chấp đất đai từ thực tiễn tại Tòa án nhân dân huyện Định Hóa, tỉnh
Thái Nguyên. ...................................................................................................... 72
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 80


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc, đất đai chiếm vị trí rất quan trọng đối
với đời sống kinh tế - xã hội. Quả đúng như Lời nói đầu của Luật Đất đai năm 1993
đã khẳng định: “Đất đai là tài nguyên quốc gia vô cùng quý giá, là tư liệu sản xuất
đặc biệt, là thành phần quan trọng hàng đầu của môi trường sống, là địa bàn phân
bố các khu dân cư, xây dựng các cơ sở kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh và quốc
phòng”. Kể từ khi chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, Nhà nước đổi mới cơ chế
quản lý đất đai: Thừa nhận khung giá đất; giao đất, cho tổ chức, hộ gia đình, cá
nhân sử dụng ổn định lâu dài (gọi chung là người sử dụng đất); người sử dụng đất
được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác

gắn liền với đất (sau đây gọi là GCNQSDĐ) và họ được chuyển quyền sử dụng đất
… Như vậy, đất đai còn được xác định với vai trị, vị trí mới là tài sản đặc biệt, là
nguồn lực, nguồn vốn to lớn để phát triển đất nước. Trong xã hội nói chung và trong
lĩnh vực đất đai nói riêng, tranh chấp là điều khó tránh khỏi. Nó phản ánh những bất
đồng, mâu thuẫn giữa các bên về quyền và nghĩa vụ sử dụng đất trong quan hệ đất
đai. Chúng ta khơng thể đi tìm giải pháp để hạn chế, tiến tới loại bỏ tranh chấp đất
đai trong xã hội; bởi vì, “Mâu thuẫn là động lực phát triển xã hội” (Các Mác) mà
quan trọng hơn là con người ứng xử, hành xử như thế nào để hóa giải các bất đồng,
mâu thuẫn về đất đai. Khoa học pháp lý định danh hoạt động này là hoạt động giải
quyết tranh chấp đất đai. Để giải quyết tranh chấp đất đai có nhiều phương thức giải
quyết như giải quyết thơng qua thương lượng, hịa giải, trọng tài; thơng qua cơ quan
tài phán Tịa án; thơng qua cơ quan quản lý nhà nước về đất đai … Trong các
phương thức giải quyết tranh chấp này, hòa giải tranh chấp đất đai là phương thức
giải quyết được các bên đương sự ưu tiên lựa chọn đầu tiên; bởi nó phù hợp với tâm
lý, thị hiếu của người dân, văn hóa truyền thống, tinh thần đoàn kết của cộng đồng
xã hội. Mặt khác, hòa giải tranh chấp đất đai được thực hiện linh hoạt, đơn giản, dễ
áp dụng, tiết kiệm thời gian, cơng sức, chi phí vật chất của Nhà nước và của các bên
đương sự trong giải quyết tranh chấp đất đai … Vì vậy, Luật Đất đai năm 2013 quy
định: “1. Nhà nước khuyến khích các bên tranh chấp đất đai tự hòa giải hoặc giải

1


quyết tranh chấp đất đai thơng qua hịa giải ở cơ sở; 2. Tranh chấp đất đai mà các
bên tranh chấp khơng hịa giải được thì gửi đơn đến Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có
đất tranh chấp để hòa giải” (Điều 202). Tầm quan trọng của hòa giải tranh chấp đất
đai cịn được thể hiện trong trình tự, giải quyết các vụ án tranh chấp đất đai thuộc
thẩm quyền của Tòa án nhân dân. Để tạo hành lang pháp lý và nâng cao hiệu quả
hòa giải các vụ án tranh chấp đất đai tại Tịa án thì việc nghiên cứu tìm hiểu nội
dung các quy định của pháp luật trong lĩnh vực này là việc làm cần thiết. Với ý

nghĩa đó, học viên lựa chọn đề tài “Hịa giải trong các vụ án tranh chấp đất đai từ
thực tiễn xét xử sơ thẩm tại Tòa án nhân dân huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên”
làm luận văn thạc sĩ luật học chuyên ngành Luật Kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Qua tìm hiểu cho thấy, thời gian qua đã có một số cơng trình nghiên cứu
khoa học về hòa giải tranh chấp đất đai được cơng bố, bao gồm: i) Phạm Thị Hương
Lan (2014), Hịa giải trong giải quyết tranh chấp đất đai ở Việt Nam hiện nay, luận
án tiến sĩ luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội
Việt Nam, Hà Nội; ii) Trần Văn Quảng (2004), Chế định hòa giải trong pháp luật
tố tụng dân sự Việt Nam - Cơ sở lý luận và thực tiễn, luận án tiến sĩ luật học,
Trường Đại học Luật Hà Nội; iii) Nguyễn Thị Hải Thanh (2016), Giải quyết tranh
chấp đất đai bằng Tòa án từ thực tiễn quận Hải Châu, thành phố Đà Nẵng, luận
văn thạc sỹ luật học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội; iv) Nguyễn Quang Tuyến
(2015), Chuyên đề: Kỹ năng giải quyết tranh chấp đất đai và hòa giải tranh chấp
đất đai, Hội thảo tập huấn Hòa giải viên, già làng, trưởng bản, người có uy tín trong
cộng đồng dân cư tại Phú n và Sóc Trăngdo Vụ Phổ biến giáo dục pháp luật, Bộ
Tư pháp tổ chức; v) Nguyễn Minh Hằng (2008), Thủ tục hòa giải ở cấp cơ sở đối
với tranh chấp đất đai theo quy định của Luật Đất đai 2003, Tạp chí Kiểm sát, số 3;
vi) Phạm Thái Qúy (2009), Về hịa giải tranh chấp đất đai, Tạp chí Dân chủ và
Pháp luật số 11;vii) Nguyễn Vinh Hưng (2020), Vai trị của hịa giải trong tố tụng
dân sự, Tạp chí Kiểm sát số 18; viii) Mai Thị Tú Oanh (2012), Hòa giải tranh chấp
đất đai theo Điều 135 Luật Đất đai năm 2003 và một số vấn đề đặt ra, Tạp chí Tịa

2


án nhân dân, số 21; ix) Phạm Thái Qúy (2013), Những bất cập từ thực tiễn hòa giải
tranh chấp đất đai, Tạp chí Nghiên cứu Lập pháp ngày 01/09 v.v.
Các cơng trình nghiên cứu nêu trên đã giải quyết một số vấn đề lý luận về
hòa giải tranh chấp đất đai và pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai; phân tích nội

dung pháp luật về hịa giải tranh chấp đất đai và đánh giá thực tiễn thi hành lĩnh vực
pháp luật này; đề xuất định hướng, giải pháp hồn thiện pháp luật về hịa giải tranh
chấp đất đai và nâng cao hiệu quả thi hành. Tuy nhiên, nghiên cứu bài bản, hệ
thống, chuyên sâu về hòa giải trong các vụ án tranh chấp đất đai tại tòa án và tham
chiếu với thực tiễn xét xử sơ thẩm của Tịa án nhân dân huyện Định Hóa, tỉnh Thái
Ngun thì dường như cịn ít các cơng trình thực hiện. Trên cơ sở kế thừa các kết
quả nghiên cứu của những cơng trình liên quan đến đề tài đã cơng bố, luận văn đi
sâu tìm hiểu vấn đề “Hịa giải trong các vụ án tranh chấp đất đai từ thực tiễn xét xử
sơ thẩm tại Tòa án nhân dân huyện Định Hóa, tỉnh Thái Ngun”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là luận giải những vấn đề lý luận cơ bản
về hòa giải và pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai; đánh giá thực tiễn thi hành
pháp luật về hòa giải các vụ án tranh chấp đất đai nhìn từ thực tiễn xét xử sơ thẩm
tại Tịa án nhân dân huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. Trên cơ sở đó, luận văn
đưa ra định hướng, giải pháp hồn thiện pháp luật về hòa giải các vụ án tranh chấp
đất đai và nâng cao hiệu quả thi hành thông qua hoạt động xét xử sơ thẩm tại Tòa án
nhân dân huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu, luận văn xác định các nhiệm vụ nghiên cứu
cụ thể sau:
- Phân tích lý luận về hịa giải tranh chấp đất đai thơng qua việc giải mã khái
niệm, đặc điểm; ý nghĩa và nguyên tắc của hòa giải tranh chấp đất đai …
- Phân tích lý luận pháp luật về hịa giải tranh chấp đất đai thông qua việc
luận giải khái niệm, đặc điểm; cấu trúc nội dung; các điều kiện đảm bảo thực thi …

3


- Tìm hiểu thực trạng pháp luật về hịa giải trong các vụ án tranh chấp đất đai

thông qua việc phân tích các quy định về thẩm quyền, nguyên tắc; trình tự, thủ tục
về hịa giải trong các vụ án tranh chấp đất đai …
- Đánh giá thực tiễn thi hành lĩnh vực pháp luật này thông qua thực tiễn hoạt
động xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên để chỉ
ra những kết quả đạt được; những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân.
- Đề xuất định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về hòa giải trong các vụ
án tranh chấp đất đai và nâng cao hiệu quả thi hành từ thực tiễn xét xử sơ thẩm của
Tòa án nhân dân huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên v.v
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu, luận văn xác định đối tượng nghiên cứu
khu trú vào một số nội dung cụ thể sau:
- Các quan điểm, đường lối của Đảng về xây dựng, hồn thiện pháp luật đất
đai nói chung và pháp luật về hịa giải tranh chấp đất đai nói riêng trong nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
- Các quy định về hòa giải tranh chấp đất đai của Luật Đất đai năm 2013, Bộ
luật Tố tụng Dân sự 2015 (BLTTDS năm 2015) và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Hệ thống lý thuyết, trường phái học thuật về hòa giải tranh chấp đất đai và
pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai.
- Hệ thống lý thuyết về thực hiện pháp luật nói chung và pháp luật về hịa
giải tranh chấp đất đai nói riêng.
- Thực tiễn thi hành pháp luật về hòa giải tranh chấp đất đai trong các vụ án
được thụ lý, giải quyết tại Tòa án nhân dân huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên ….
4.2. Phạm vi nghiên cứu
“Hòa giải trong các vụ án tranh chấp đất đai từ thực tiễn xét xử sơ thẩm tại
Tòa án nhân dân huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên” là đề tài có phạm vi nghiên
cứu rộng, liên quan đến nhiều đạo luật chuyên ngành. Tuy nhiên, trong khuôn khổ
một bản luận văn thạc sĩ, luận văn giới hạn phạm vi nghiên cứu vào một số vấn đề
cụ thể sau:


4


- Giới hạn về nội dung: Theo pháp luật hiện hành, hòa giải tranh chấp đất đai
bao gồm hòa giải ngoài tố tụng do các bên đương sự hoặc tổ hòa giải ở cơ sở; Ủy
ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất (gọi chung là UBND cấp xã nơi có đất)
thực hiện; hịa giải trong tố tụng là hòa giải do Tòa án nhân dân thực hiện khi thụ lý
xét xử các vụ án tranh chấp đất đai. Trong khuôn khổ luận văn này chỉ đi sâu tìm
hiểu về vấn đề hịa giải trong tố tụng là hòa giải do Tòa án nhân dân thực hiện khi
thụ lý xét xử các vụ án tranh chấp đất đai.
Luận văn nghiên cứu các quy định về hòa giải tranh chấp đất đai (do Tòa án
nhân dân thực hiện khi thụ lý xét xử các vụ án tranh chấp đất đai) của Luật Đất đai
năm 2013, BLTTDS năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Giới hạn về phạm vi: Thực tiễn thi hành pháp luật về hòa giải trong các vụ
án tranh chấp đất đai từ hoạt động xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân huyện Định
Hóa, tỉnh Thái Nguyên.
- Giới hạn về thời gian: Luận văn nghiên cứu “Hòa giải trong các vụ án
tranh chấp đất đai từ thực tiễn xét xử sơ thẩm tại Tịa án nhân dân huyện Định Hóa,
tỉnh Thái Ngun” lấy mốc thời gian từ năm 2013 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu, luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu
chủ yếu sau:
- Phương pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch
sử của Chủ nghĩa Mác - Lê nin nghiên cứu bản chất, nguồn gốc, khái niệm của hòa
giải trong các vụ án tranh chấp đất đai từ thực tiễn xét xử sơ thẩm của Tịa án nhân
dân; q trình hình thành và phát triển của pháp luật về hòa giải trong các vụ án
tranh chấp đất đai từ thực tiễn xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân đặt trong mối
quan hệ gắn bó, tương tác với các chế định khác của pháp luật đất đai, pháp luật tố
tụng dân sự …
- Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng một số phương pháp nghiên cứu cụ thể sau:

i) Phương pháp lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp diễn giải …
được sử dụng nghiên cứu Chương 1. Những vấn đề chung về hòa giải trong các vụ
án tranh chấp đất đai và pháp luật về hòa giải trong các vụ án tranh chấp đất đai.

5


ii) Phương pháp đánh giá, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích,
phương pháp đối chiếu … được sử dụng nghiên cứu Chương 2. Thực trạng pháp
luật về hòa giải trong các vụ án tranh chấp đất đai và thực tiễn thi hành từ hoạt động
xét xử sơ thẩm tại Tịa án nhân dân huyện Định Hóa, tỉnh Thái Ngun.
iii) Phương pháp tổng hợp, phương pháp quy nạp … được sử dụng nghiên
cứu Chương 3. Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về hòa giải trong các vụ
án tranh chấp đất đai và nâng cao hiệu quả thi hành từ hoạt động xét xử sơ thẩm tại
Tòa án nhân dân huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần làm sáng tỏ, hồn thiện hệ thống cơ sở lý luận về hòa giải
trong các vụ án tranh chấp đất đai và pháp luật về hòa giải trong các vụ án tranh
chấp đất đai ở Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn đánh giá thực trạng pháp luật về hòa giải trong các vụ án tranh
chấp đất đai và thực tiễn thi hành từ hoạt động xét xử sơ thẩm tại Tòa án nhân dân
huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên. Trên cơ sở đó, luận văn đưa ra giải pháp hồn
thiện pháp luật về hịa giải trong các vụ án tranh chấp đất đai và nâng cao hiệu quả
thi hành từ thực tiễn hoạt động xét xử sơ thẩm tại Tòa án nhân dân huyện Định Hóa,
tỉnh Thái Ngun.
7. Kết cấu của luận văn
Ngồi lời cam đoan, mục lục, danh mục các từ viết tắt, phần mở đầu, kết luận
và danh mục tài liệu tham khảo; luận văn được kết cấu gồm 3 chương:

- Chương 1. Những vấn đề chung về về hòa giải trong các vụ án tranh chấp
đất đai và pháp luật về hòa giải trong các vụ án tranh chấp đất đai.
- Chương 2. Thực trạng pháp luật về hòa giải trong các vụ án tranh chấp đất
đai và thực tiễn thi hành từ hoạt động xét xử sơ thẩm tại Tòa án nhân dân huyện
Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.

6


- Chương 3. Định hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về hòa giải trong
các vụ án tranh chấp đất đai và nâng cao hiệu quả thi hành từ hoạt động xét xử sơ
thẩm tại Tòa án nhân dân huyện Định Hóa, tỉnh Thái Nguyên.

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HÒA GIẢI TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI
VÀ PHÁP LUẬT VỀ HÒA GIẢI TRANH CHẤP ĐẤT ĐAI TẠI TÒA ÁN
1.1. Một số vấn đề lý luận về hòa giải tranh chấp đất đai
1.1.1. Khái niệm và đặc điểm của hòa giải tranh chấp đất đai
1.1.1.1. Khái niệm tranh chấp đất đai
Trong suốt chiều dài lịch sử, đất đai luôn là vấn đề thiêng liêng của mỗi quốc
gia, dân tộc. Đất đai có vai trị đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội. Đối với
mỗi người Việt Nam, đất đai luôn gắn liền với các nhu cầu về kinh tế, chính trị, văn
hóa, xã hội... Hiện nay, kinh tế - xã hội đất nước ta đang có những bước phát triển
khá nhanh, nhu cầu sử dụng đất của con người ngày càng lớn, càng phong phú và đa
dạng. Vì rất nhiều nguyên nhân, các tranh chấp đất đai trong nhân dân hiện nay
ngày càng nhiều, đa dạng và phức tạp.
Theo quy định tại Điều 53, 54 Hiến pháp 2013, đất đai là một trong những tài

sản cơng thuộc sở hữu tồn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất
quản lý. Đất đai là tài nguyên đặc biệt của quốc gia, là nguồn lực vô cùng quan
trọng phát triển đất nước, được quản lý theo pháp luật. Với tư cách là đại diện chủ
sở hữu về đất đai, Nhà nước được nhân dân trao các quyền quan trọng như: Quyết
định quy hoạch sử dụng đất, kế hoạch sử dụng đất, quyết định mục đích sử dụng
đất, quy định hạn mức sử dụng đất, quyết định thu hồi đất, trưng dụng đất, quyết
định giá đất, quyết định trao quyền sử dụng đất cho người sử dụng đất, quyết định
giao đất, cho thuê đất, quyết định chính sách tài chính về đất đai ... Với tư cách chủ
thể quản lý đất đai, Nhà nước phải tiến hành nhiều biện pháp thực hiện quyền của
mình như: Ban hành văn bản quy phạm pháp luật về quản lý, sử dụng đất đai và tổ
chức thực hiện; thanh tra, kiểm tra, giám sát, theo dõi, đánh giá việc chấp hành quy
định của pháp luật về đất đai và xử lý vi phạm pháp luật về đất đai; Phổ biến, giáo
dục pháp luật về đất đai; giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố
cáo trong quản lý và sử dụng đất đai...

8


Nhà nước quản lý đất đai trên cơ sở các quy định của pháp luật nhằm điều
chỉnh các quan hệ đất đai phù hợp, giúp cho các hoạt động khai thác và sử dụng đất
có hiệu quả, để đất đai phát huy hết vai trị của nó trong đời sống xã hội. Hoạt động
quản lý và sử dụng đất trong nền kinh tế thị trường diễn ra rất đa dạng, phong phú
với việc sử dụng đất vào nhiều mục đích khác nhau, với diện tích, nhu cầu sử dụng
khác nhau. Trong nền kinh tế thị trường, việc quản lý và sử dụng đất không đơn
thuần chỉ là việc quản lý và sử dụng một tư liệu sản xuất. Quyền sử dụng đất của
các chủ thể (gồm cá nhân, cơ quan, tổ chức) được pháp luật ghi nhận và bảo hộ,
trong đó xác định quyền sử dụng đất là một dạng tài sản. Trên thực tế, quyền sử
dụng đất là dạng tài sản phổ biến trong nhiều giao dịch dân sự. Hiện nay, đất đai đã
trở thành một loại hàng hóa đặc biệt, có giá trị thương mại, giá đất lại biến động
theo quy luật cung cầu trên thị trường, nên việc quản lý và sử dụng đất không đơn

thuần chỉ là việc khai thác giá trị sử dụng mà còn bao gồm cả giá trị sinh lời của đất
(thông qua các hành vi kinh doanh quyền sử dụng đất. Chính vì lẽ đó, khi nội dung
quản lý và sử dụng đất phong phú và phức tạp hơn thì những mâu thuẫn, bất đồng
xung quanh việc quản lý và sử dụng đất đai sẽ xuất hiện, rất dễ trở nên gay gắt và
trầm trọng hơn, nảy sinh tranh chấp đất đai.
Theo Luật Đất đai năm 2013, tranh chấp đất đai là tranh chấp về quyền,
nghĩa vụ của người sử dụng đất giữa hai hoặc nhiều bên trong quan hệ đất đai. Tại
Việt Nam trong những năm gần đây, tranh chấp đất đai có các dạng phổ biến như:
Tranh chấp xác định chủ thể có quyền sử dụng đất, tranh chấp liên quan đến các
giao dịch về quyền sử dụng đất, tranh chấp thừa kế quyền sử dụng đất, tranh chấp
về tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất. Tranh chấp đất đai là sự không thống nhất
giữa các chủ thể trong việc xác định ai là người có quyền quản lý, quyền chiếm hữu,
quyền sử dụng đối với phần đất đai cụ thể, nó phát sinh trực tiếp hoặc gián tiếp
trong quá trình quản lý và sử dụng đất.
Chủ thể của tranh chấp đất đai chỉ có thể là chủ thể của quyền quản lý và
quyền sử dụng đất mà không phải là chủ thể của quyền sở hữu đất đai. Quyền sử
dụng đất của các chủ thể được xác lập dựa trên quyết định giao đất, cho thuê đất của
Nhà nước hoặc được Nhà nước cho phép nhận chuyển nhượng từ các chủ thể khác,

9


hoặc được Nhà nước thừa nhận quyền sử dụng đất hợp pháp đối với diện tích đất
đang sử dụng. Như vậy, chủ thể của tranh chấp đất đai là các tổ chức, hộ gia đình,
cá nhân tham gia với tư cách là người quản lý hoặc người sử dụng đất.
Đối tượng của tranh chấp đất đai là quyền quản lý và quyền sử dụng đất đối
với một diện tích đất cụ thể. Đất đai là loại tài sản đặc biệt không thuộc quyền sở
hữu của các bên tranh chấp mà thuộc quyền sở hữu của Nhà nước.
Trên phương diện quản lý nhà nước đối với đất đai, để xảy ra tình trạng tranh
chấp đất đai như hiện nay, các nguyên nhân chủ yếu là: Việc quản lý đất đai còn

nhiều thiếu sót, sơ hở do trình độ quản lý yếu kém và do các yếu tố lịch sử để lại;
Việc giao đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tiến hành chậm; Việc lấn
chiếm đất đai diễn ra ngày càng phổ biến nhưng không được phát hiện, ngăn chặn
và xử lý kịp thời...
Tranh chấp đất đai phát sinh sẽ ra gây hậu quả xấu về nhiều mặt của đời sống
xã hội: Gây mất ổn định về chính trị, phá vỡ mối quan hệ xã hội, các giá trị đạo đức
và truyền thống tốt đẹp, làm mất đoàn kết trong nội bộ nhân dân, phá vỡ trật tự quản
lý đất đai, gây thiệt hại về kinh tế, đình trệ sản xuất. Tranh chấp đất đai không chỉ
ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích các bên tranh chấp mà cịn gây thiệt hại đến lợi ích
của Nhà nước và xã hội. Nhà nước – với tư cách là đại diện chủ sở hữu và quản lý
đất đai - phải có nhiều cơ chế về mặt pháp lý tương ứng, giải quyết một cách linh
hoạt các tranh chấp cho hiệu quả, đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước trong giai đoạn hiện nay.
Để giải quyết các tranh chấp đất đai có hiệu quả, Nhà nước phải sử dụng
nhiều cơ chế khác nhau như hòa giải, yêu cầu Ủy ban nhân dân các cấp giải quyết hoặc
khởi kiện ra Tịa án... Trong đó, hịa giải các tranh chấp đất đai là một giải pháp được
ưu tiên đặc biệt, nó xuất hiện ở tất cả các cơ chế giải quyết tranh chấp đất đai. Hòa giải
tranh chấp đất đai là cơ chế giải quyết hết sức phù hợp với truyền thống của người Việt
Nam cũng như thực tiễn quản lý, sử dụng đất ở nước ta hiện nay.
1.1.1.2. Khái niệm hòa giải tranh chấp đất đai
Để hiểu rõ về khái niệm hòa giải tranh chấp đất đai, chúng ta cần hiểu tường
tận về hòa giải.

10


Về bản chất của hòa giải, theo từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Đà Nẵng
(năm 1996), thì "hịa giải là thuyết phục các bên đồng ý chấm dứt xung đột hoặc
xích mích một cách ổn thỏa". Theo Từ điển tiếng Việt của Nhà xuất bản Khoa học
xã hội (năm 1995), thì "hịa giải cũng là giải quyết tranh chấp, bất đồng giữa hai hay

nhiều bên tranh chấp bằng việc các bên dàn xếp, thương lượng với nhau, có sự tham
gia của bên thứ ba (không phải là bên tranh chấp)". Theo từ điển Luật học của Nhà
xuất bản Từ điển bách khoa và Nhà xuất bản Tư pháp Hà Nội (năm 2006), thì "Hịa
giải: Thuyết phục các bên tranh chấp tự giải quyết tranh chấp của mình một cách ổn
thỏa. Thơng thường, việc hịa giải được tiến hành sau khi thương lượng (khiếu nại)
giữa các bên không đạt được kết quả"...
Các định nghĩa về hòa giải nêu trên đều đề cập đến hòa giải ở nhiều phương
diện khác nhau. Thơng qua việc nêu và phân tích những khái niệm trên về hòa giải,
ta thấy hòa giải về cơ bản phải có năm yếu tố:
Một là, phải có tranh chấp giữa các bên. Tức là ít nhất phải có có hai bên,
mỗi bên đều xác định những thứ, những quyền lợi nhất định thuộc về mình và thể
hiện ý chí của mình với các bên trong quan hệ tranh chấp. Việc xác định những thứ,
những quyền lợi đó ban đầu không nhận được sự đồng ý của các bên cịn lại.
Hai là, có sự thống nhất ý chí giữa các bên để giải quyết tranh chấp. Mỗi bên
sau khi xác định những thứ hoặc những quyền lợi thuộc về mình nhưng khơng nhận
được thừa nhận của bên hoặc các bên còn lại, đã xuất hiện ý định tạm nhượng bộ
lẫn nhau và đi đến thống nhất sẽ cùng hướng đến việc giải quyết tranh chấp.
Ba là, trong quá trình hịa giải phải có sự tham gia của bên thứ ba trung lập
để cho ý kiến tư vấn, đưa ra các lời khuyên hoặc các ý kiến về đường lối giải quyết hợp
tình, hợp lý cho các bên tranh chấp. Trong nhiều trường hợp, bên thứ ba trung lập có
thể là cơ quan, là người có thẩm quyền luật định để công nhận hoặc đề nghị, yêu cầu
công nhận kết quả hòa giải giữa các bên tranh chấp, khi việc hịa giải thành cơng. Nếu
khơng có yếu tố bên thứ ba trung lập tham gia giải quyết tranh chấp, thì q trình này
khơng được gọi là hịa giải, mà đơn thuần chỉ là sự thương lượng giữa các bên.
Bốn là, tất cả các chủ thể tham gia vào hoạt động hòa giải (các bên tranh
chấp và bên thứ ba trung lập) đều phải tôn trọng sự tự nguyện của các bên. Mọi

11



hành vi của các chủ thể tham gia vào việc hịa giải đều mang tính tự nguyện, hồn
tồn khơng có sự áp đặt của bất kỳ bên nào trong quá trình phân tích, thảo luận và
thống nhất hướng giải quyết việc tranh chấp.
Năm là, các chủ thể tham gia hoạt động hịa giải đều phải có thiện chí, hướng đến
việc thỏa thuận giữa các bên tranh chấp, giúp các bên tranh chấp đi đến thống nhất giải
quyết được một phần hoặc tồn bộ các xung đột giữa các bên.
Hịa giải luôn được coi là một trong những phương thức giải quyết tranh
chấp quan trọng và có hiệu quả. Hịa giải có ý nghĩa lớn trong việc giải quyết những
tranh chấp, giúp cho các mâu thuẫn, xích mích được dập tắt hoặc không vượt qua
giới hạn sự nghiêm trọng, giúp cho các bên tránh được sự xung đột, hiểu biết lẫn
nhau, giữ gìn cục diện ổn định…
Trong thực tiễn đời sống xã hội, hòa giải đã thể hiện những ưu điểm đặc biệt
trong giải quyết tranh chấp. Cụ thể là:
Thứ nhất, hòa giải là biện pháp giải quyết rất linh hoạt về thủ tục. Hịa giải
có thể được tiến hành trong nhiều mơi trường khác nhau, hình thức có thể do các
bên lựa chọn, điều chỉnh cho phù hợp với thực tiễn hoạt động tranh chấp cụ thể giữa
các các bên. Do đó, hoạt động giải quyết tranh chấp trở nên nhanh, gọn.
Thứ hai, hịa giải có tính thân mật giữa các bên tranh chấp, từ góc độ trang
phục ăn mặc, địa điểm tổ chức, không gian và môi trường, ngôn ngữ sử dụng và
thời gian tham dự. Tính thân mật góp phần làm cho q trình hịa giải gần gũi và
thân thiện với các bên tranh chấp hơn, hoạt động giải quyết tranh chấp trở nên nhân
văn hơn.
Thứ ba, sự tham gia của các bên vào q trình hịa giải ln ln chủ động.
Trong hịa giải, các bên tranh chấp có thể nói chuyện, trao đổi, đàm phán và thảo
luận về các giải pháp trong suốt quá trình giải quyết. Hòa giải làm cho các bên nhận
thấy rằng họ làm chủ q trình giải quyết, do đó sẽ chủ động đưa ra các quan điểm,
các ý kiến giải quyết một cách có trách nhiệm.
Thứ tư, hịa giải đặt con người ở vị trí trung tâm của giải quyết tranh chấp,
cho phép các bên giải quyết vụ việc dựa trên lợi ích mong muốn của các bên, không
đề cao việc tranh luận dựa trên các chứng cứ đưa ra.


12


Thứ năm, hịa giải hướng đến mục tiêu duy trì mối quan hệ giữa các bên sau
khi xảy ra tranh chấp. Q trình hịa giải, các bên được thể hiện tình cảm, bày tỏ
mối quan tâm đến các quan hệ trong tương lai, chia sẻ với nhau những quan tâm
chung liên quan đến vấn đề có tranh chấp.
Thứ sáu, hịa giải sẽ đảm bảo sự kín đáo và tính bảo mật. Phiên họp hịa giải
được tổ chức kín, người ngồi chỉ có thể biết được về nội dung cụ thể của tranh
chấp và kết quả giải quyết nếu được các bên đồng ý. Điều này giúp các bên tránh
được thiệt hại cho các bên sau khi giải quyết tranh chấp.
Chính vì vai trị to lớn và những ưu điểm nối bật như vậy nên các nước trên
thế giới đều quy định việc hòa giải trong giải quyết các tranh chấp. Ở góc độ quốc
tế, hịa giải cũng là một trong những nguyên tắc hàng đầu trong việc giải quyết
tranh chấp quốc tế được quy định tại Hiến chương Liên Hiệp quốc.
Trên thế giới, ở nhiều quốc gia, về mặt lập pháp, hịa giải ngày càng được
quan tâm thể chế hóa trên cả bình diện quốc gia, khu vực và quốc tế. Điển hình là
sự ra đời của “Cơng ước Singapore về Hòa giải” ngày 07/8/2019, với tổng số 46
nước đã ký kết Cơng ước, trong đó có các nền kinh tế lớn trên thế giới như: Mỹ,
Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc và năm nước trong khu vực gồm: Brunei, Malaysia,
Lào, Philippines và Singapore. Cơng ước Singapore về Hịa giải là một bước ngoặt
phát triển của hòa giải thương mại quốc tế, là nền tảng cho hợp tác đa phương và
thương mại quốc tế hiện nay. Bên cạnh đó, pháp luật của hầu hết các nước trên thế
giới đều có quy định về hòa giải và tổ chức hòa giải nhằm giúp các tổ chức, cá nhân
trong xã hội giải quyết tranh chấp một cách nhanh chóng và hiệu quả. Các mơ hình
trung tâm hịa giải nổi tiếng trên thế giới như Trung tâm hòa giải CIETAC (Trung
Quốc), Trung tâm hòa giải Delhi (Ấn Độ), Trung tâm hòa giải Hồng Kơng, Trung
tâm hịa giải Indonesia, Trung tâm hịa giải cộng đồng Singapore, Trung tâm hòa
giải Thái Lan… đều đã và đang thể hiện những ưu điểm rõ rệt về thời gian, chi phí

và hiệu quả với tỷ lệ hịa giải thành cao, góp phần giải quyết tận gốc các tranh chấp,
mâu thuẫn phát sinh trong đời sống cộng đồng, nhằm ổn định trật tự xã hội.
Đối với Việt Nam, hòa giải là một nét văn hóa của dân tộc, thể hiện qua
truyền thống đoàn kết, tương thân tương ái, "bầu bí thương nhau", "Một điều nhịn,

13


chín điều lành", "xóm giềng tối lửa tắt đèn có nhau"... Về mặt chính trị, hịa giải là
một phương thức để cơ quan nhà nước tiếp cận với người dân, thơng qua việc hịa
giải, người tiến hành hịa giải và cơ quan tiến hành hịa giải có thể tun truyền và
phổ biến các quy định pháp luật, đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước để
người dân cũng như các bên tham gia tranh chấp nắm được các chủ trương, chính
sách của Đảng, các quy định pháp luật. Trên phương diện kinh tế, trong thời gian
gần đây, hòa giải ngày càng thể hiện là một giải pháp giải quyết tranh chấp hiệu
quả, mang lại nhiều lợi ích, giảm thiểu các thiệt hại cho các bên, đồng thời làm
giảm áp lực giải quyết của các cơ quan Nhà nước. Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ
Chính trị ngày 2/6/2005 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đã khẳng
định: “khuyến khích việc giải quyết một số tranh chấp thơng qua thương lượng, hòa
giải, trọng tài; Tòa án hỗ trợ bằng quyết định cơng nhận việc giải quyết đó”. Đây là
chủ trương rất quan trọng để thể chế hoá thành các quy định pháp luật về các
phương thức giải quyết tranh chấp thơng qua hịa giải.
Từ những những phân tích trên về tranh chấp đất đai và hòa giải, ta xác định
được: Hòa giải tranh chấp đất đai là biện pháp giải quyết về mặt pháp lý đối với
các tranh chấp liên quan đến quyền sử dụng đất, theo đó bên thứ ba trung lập giữ
vai trò trung gian trong việc giúp các bên có tranh chấp tự nguyện tìm kiếm, lựa
chọn những giải pháp thích hợp cho việc giải quyết các tranh chấp về quyền, lợi ích
liên quan đến quyền sử dụng đất, giúp các bên thương lượng với nhau về việc giải
quyết quyền lợi của mình.
1.1.1.3. Đặc điểm của hòa giải tranh chấp đất đai

Tranh chấp đất đai lại loại tranh chấp dân sự đặc biệt, có đối tượng tranh
chấp là quyền sử dụng đất, gắn liền với quyền sử dụng đối với một diện tích đất tại
một địa phương cụ thể, nên để đảm bảo có hiệu quả, hoạt động hòa giải phải do các
chủ thể nơi có đất đai bị tranh chấp tiến hành. Đất đai ở nước ta trải qua rất nhiều
biến động về chính trị, kinh tế, xã hội với các chính sách quản lý và quá trình sử
dụng rất khác nhau nên các nội dung của tranh chấp thường phức tạp, các chủ thể
tiến hành hịa giải phải có những kiến thức, những hiểu biết nhất định liên quan đến

14


đối tượng tranh chấp. Hoà giải tranh chấp đất đai ở nước ta có những đặc điểm cụ
thể như sau:
Một là, hòa giải tranh chấp đất đai phải dựa trên quan điểm, đường lối, chính
sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về đất đai, đồng thời còn áp dụng phong
tục, tập quán truyền thống, hương ước, quy ước, luật tục của địa phương… để vận
động, thuyết phục các bên tranh chấp.
Đây là đặc trưng cơ bản của hòa giải tranh chấp đất đai, xuất phát từ đối
tượng của tranh chấp là quyền sử dụng đối với một diện tích đất cụ thể. Đất đai
thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý bằng
pháp luật. Do đó, các nội dung hịa giải phải phù hợp với các quy định của pháp luật
về đất đai nói chung, cũng như các quy định cụ thể về quy hoạch, kế hoạch, mục
đích, hạn mức... được áp dụng đối với thửa đất đang xảy ra tranh chấp quyền sử
dụng. Tuy nhiên, với đặc trưng của hịa giải là tính thân mật và linh hoạt, hịa giải
tranh chấp đất đai cùng không thể là hoạt động áp dụng pháp luật một cách cứng
nhắc, dập khuôn. Đối với từng tranh chấp đất đai cụ thể, hòa giải còn phải dựa vào
các phong tục, tập quán, truyền thống, hương ước, quy ước luật tục của địa phương.
Tranh chấp đất đai cũng là mầm mống, chứa đựng nguy cơ sụp đổ của các mối quan
hệ anh em, họ hàng, dịng họ và bạn bè hàng xóm láng giềng... Vì vậy, chủ thể tiến
hành hòa giải phải lưu ý sử dụng phong tục, tập quán tốt đẹp của địa phương trong

q trình giải quyết.
Hai là, chủ thể tiến hành hịa giải tranh chấp đất đai đòi hỏi phải là những người
am hiểu pháp luật về đất đai, nắm vững nguồn gốc, q trình sử dụng đối với đất có tranh
chấp, đồng thời cùng cần nắm được nguyên nhân tranh chấp giữa các bên.
Đất đai là tài sản có giá trị kinh tế và giá trị tinh thần rất lớn. Quyền sử dụng
đất có thể được xác lập với nhiều phương thức khác nhau như nhận thừa kế, được
tặng cho, được nhận chuyển nhượng, chuyển đổi, đền bù,... Diện tích các thửa đất
cũng có sự thay đổi theo thời gian với rất nhiều yếu tố tác động. Tranh chấp đất đai
động chạm đến những vấn đề rất phức tạp và nhạy cảm, nếu giải quyết khơng đúng
đắn có thể đẩy mâu thuẫn lên cao, ảnh hưởng xấu đến nhiều mặt của đời sống xã
hội. Vì vậy, chủ thể trung gian tiến hành hòa giải đòi hỏi phải là người nắm vững

15


nguồn gốc, quá trình sử dụng đất của thửa đất có tranh chấp và các thửa đất khác
khác xung quanh hoặc gần đó, hiểu được phong tục tập quán của địa phương, nắm
được nguyên nhân tranh chấp giữa các bên cũng như có những am hiểu nhất định về
pháp luật đất đai và các ngành luật có liên quan,
Thứ ba, hòa giải tranh chấp đất đai được tiến hành dựa trên những ngun
tắc của hoạt động hịa giải như: tơn trọng quyền định đoạt của các đương sự có
tranh chấp; kịp thời và nhanh chóng; giữ bí mật thơng tin đời tư của các bên tranh
chấp; tôn trọng quyền, lợi ích hợp pháp của người khác; không xâm phạm lợi ích
của nhà nước, lợi ích công cộng...
Chủ thể tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai phải tuân thủ các ngun tắc
này trong q trình giải quyết. Tơn trọng quyền tự định đoạt của các bên tranh chấp
bởi hòa giải là do chính họ lựa chọn, tham gia hịa giải trước hết vì quyền lợi của
chính họ và quyền quyết định cuối cùng cũng thuộc về các bên tranh chấp. Hòa giải
tranh chấp đất đai cần được thực hiện kịp thời và nhanh chóng để tránh những va
chạm, tranh chấp nhỏ trở thành những mâu thuẫn lớn, gây mất đoàn kết ảnh hưởng

đến an ninh, trật tự an toàn xã hội. Trong q trình hịa giải, hịa giải viên phải giữ bí
mật thơng tin về đời tư của các bên tranh chấp. Tuy nhiên, cũng cần phân biệt giữa bí
mật thơng tin đời tư cá nhân và thơng tin bí mật của các bên tranh chấp về hành vi bất
hợp pháp mà họ đã thực hiện. Một trong những ưu điểm của hòa giải mà được các bên
tranh chấp lựa chọn là đảm bảo bí mật, vì vậy, chủ thế hịa giải phát tn thủ ngun
tắc này trong q trình giải quyết. Bên cạnh đó, việc hịa giải về tranh chấp đất đai chắc
chắn sẽ có ảnh hưởng nhất định đến những người liên quan đến diện tích đất có tranh
chấp, đòi hỏi chủ thể tiến hành hòa giải phải tơn trọng quyền và lợi ích của họ, đồng
thời khơng xâm phạm đến các lợi ích chung.
1.1.1.4. Mục đích, ý nghĩa của hịa giải tranh chấp đất đai
Q trình phát triển đất nước cũng như kinh nghiệm quốc tế cho thấy, hịa
giải có ý nghĩa quan trọng, là nhu cầu và đòi hỏi của xã hội để giải quyết các tranh
chấp phát sinh trong đời sống xã hội. Tranh chấp đất đai là vấn đề có liên quan trực
tiếp đến các yếu tố kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội, do đó hịa giải tranh chấp đất đai
là giải pháp giải quyết tranh chấp có nghĩa đặc biệt quan trọng. Vì vậy, Luật đất đai

16


năm 2003 và đến Luật đất đai năm 2013 đều đã quy định hòa giải là thủ tục đầu tiên
của quá trình giải quyết tranh chấp đất đai.
Ý nghĩa đối với Nhà nước:
Nhiều tranh chấp đất đai xuất phát từ lý do quản lý nhà nước về đất đai kém
hiệu quả. Vì nhiều lý do, sự lỏng lẻo trong quản lý nhà nước về đất đai diễn ra trong
thời gian dài, để lại hậu quả, những hệ lụy đến nay rất khó khắc phục, sửa chữa.
Nhiều hồ sơ quản lý đất đai bị mất mát, hư hỏng, nội dung quản lý thiếu khoa học,
không phản ánh được hoặc phản ánh khơng chính xác q trình quản lý, sử dụng đất
của các chủ thể. Trong khi đó, hệ thống quy phạm pháp luật đất đai ở nước ta hiện
nay vẫn tồn tại khơng ít những hạn chế, như một số quy định cịn chung chung,
thiếu cụ thể và khơng thống nhất; một số quy định không phù hợp với thực tiễn, mỗi

giai đoạn lịch sử lại có những quy phạm khác nhau để điều chỉnh... Do đó, việc giải
quyết tranh chấp đất đai gặp nhiều khó khăn. Thực tế cho thấy tranh chấp đất đai ở
Việt Nam trong những năm gần đây tiếp tục gia tăng và quyết liệt. Nhiều vụ việc
khi giải quyết tranh chấp gặp rất nhiều khó khăn kéo dài, nhiều cơ quan nhà nước
phải giải quyết. Đặc biệt khi vụ việc đưa ra Tòa án phải qua nhiều cấp, nhiều lần xét
xử nhưng vẫn không giải quyết được dứt điểm.
Nếu tranh chấp đất đai được hòa giải thành công sẽ giúp các cơ quan Nhà
nước giảm bớt được nhiều thời gian, công sức, áp lực... cho việc giải quyết, tránh
lãng phí cho Nhà nước, đồng thời làm tăng uy tín cho các cơ quan Nhà nước. Thơng
qua hòa giải với những cơ chế hợp lý, chặt chẽ, Nhà nước sẽ tạo ra một môi trường
giao tiếp thân thiện, để tuyên truyền hiệu quả, lan tỏa những điểm ưu việt của các
chủ trương, chính sách về đất đai của Đảng và Nhà nước đến đông đảo các tầng lớp
nhân dân.
Ý nghĩa đối với các bên tranh chấp:
Đối với tranh chấp đất đai, giữa các bên tranh chấp thường có những mối
quan hệ nhất định như quan hệ huyết thống, hơn nhân, họ hàng, làng xóm láng
giềng, bạn bè, đối tác truyền thống... Hòa giải tranh chấp đất đai giúp các bên đương
sự giải quyết được các bất đồng, mâu thuẫn phát sinh, đồng thời bảo vệ quyền cho
các chủ thể có quyền sử dụng đất hợp pháp. Các văn bản quy phạm pháp luật về đất

17


đai rất nhiều và có những thay đổi theo thời gian, trong khi đó nhiều người dân
khơng được tiếp cận đầy đủ nên việc hiểu biết pháp luật về đất đai rất hạn chế.
Thơng qua hịa giải, sự phân tích của những người tiến hành hòa giải, các bên tranh
chấp sẽ phần nào hiểu được quy định của pháp luật về vấn đề mà họ đang tranh
chấp. Từ đó, các bên có thể hiểu và tự quyết định về việc giải quyết tranh chấp,
không trái quy định của pháp luật.
Ý nghĩa đối với xã hội:

Hòa giải tranh chấp đất đai là hoạt động giải quyết mâu thuẫn trong một lĩnh vực
xảy ra nhiều và phức tạp, diễn ra trên địa bàn cả nước. Hòa giải tranh chấp đất đai là giải
quyết mâu thuẫn trong nhân dân, góp phần vào việc giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an
tồn xã hội, trật tự, tạo môi trường xã hội ổn định, phát triển hài hịa, đề cao tinh thần
cảm thơng, tương thân tương ái giữa người với người. Mặt khác, thông qua hòa giải,
nhận thức pháp luật đất đai của người dân cũng được nâng lên, qua đó tăng cường ý thức
pháp luật cho các bên, trong nhân dân, ngăn ngừa các vi phạm luật.
1.1.1.5. Các hình thức hịa giải tranh chấp đất đai
Pháp luật Việt Nam hiện hành xác định hịa giải tranh chấp đất đai có hai
hình thức: Hịa giải trong tố tụng và hịa giải ngồi tố tụng. Hòa giải tranh chấp đất
đai trong tố tụng là hoạt động hòa giải tại Tòa án nhân dân. Hòa giải tranh chấp đất
đai ngồi tố tụng là hoạt động hịa giải tại cơ sở, hòa giải tại Ủy ban nhân dân xã,
phường, thị trấn. Hai hình thức hịa giải này độc lập với nhau và được tiến hành
theo những trình tự, thủ tục khác nhau. Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả tập
trung nghiên cứu đối với hình thức hòa giải tranh chấp đất đai tại Tòa án nhân dân.
Hồ giải tranh chấp đất đai tại Tịa án là hình thức hịa giải tiến hành tại Tịa
án nhân dân khi cơ quan này giải quyết tranh chấp đất đai. Theo đó, Tịa án nhân
dân trong q trình tiến hành tố tụng phải thực hiện nguyên tắc hoà giải của Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2014 để tiến hành hòa giải đối với các tranh chấp đất đai.
1.1.2. Đặc điểm và các nguyên tắc hòa giải tranh chấp đất đai tại tòa án:
1.1.2.1. Các đặc điểm của hòa giải tranh chấp đất đai tại tòa án:
Là một phương thức giải quyết tranh chấp đất đai, trong đó, bên thứ ba trung
lập hướng các bên tranh chấp đi đến thống nhất, thỏa thuận với nhau để chấm dứt

18


các bất đồng, xung đột một cách tự nguyện, hòa giải tranh chấp đất đai tại tịa án có
đầy đủ các đặc điểm của hoạt động hòa giải tranh chấp đất đai. Ngồi ra, hịa giải
tranh chấp tại tịa án cịn có thêm các yếu tố sau:

Một là, chủ thể trung gian tiến hành hòa giải tranh chấp đất đai tại Tịa án chỉ
có duy nhất một thành phần là thẩm phán.
Đối với hòa giải tranh chấp đất đai ở cơ sở, hịa giải viên có thể tiến hành hịa
giải cùng với sự tham gia của những người khác được hịa giải viên mời và có sự
nhất trí của các bên tranh chấp. Những người này là những cá nhân có uy tín, có
hiểu biết về lịch sử thửa đất hoặc có kiến thức về pháp luật đất đai, tham gia cùng
hòa giải viên đưa ra các ý kiến để việc hịa giải đạt được mục đích đề ra. Đối với
hòa giải tranh chấp đất đai tại Ủy ban nhân dân xã được tiến hành với chủ thể hòa
giải là Hội đồng hòa giải tranh chấp đất đai với các thành phần gồm: Chủ tịch hoặc
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân là Chủ tịch Hội đồng; đại diện Ủy ban Mặt trận Tổ
quốc xã, phường, thị trấn; tổ trưởng tổ dân phố đối với khu vực đô thị; trưởng thôn,
ấp đối với khu vực nông thôn; đại diện của một số hộ dân sinh sống lâu đời tại xã,
phường, thị trấn biết rõ về nguồn gốc và quá trình sử dụng đối với thửa đất đó; cán
bộ địa chính, cán bộ tư pháp xã, phường, thị trấn. Tùy từng trường hợp cụ thể, có
thể mời đại diện Hội Nơng dân, Hội Phụ nữ, Hội Cựu chiến binh, Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh. Đối với hoạt động hịa giải tranh chấp đất đai theo Luật
Hòa giải, đối thoại tại Tòa án (tiến hành trước khi thụ lý đơn khởi kiện) thì chủ thể
hịa giải là hịa giải viên và những người khác được mời đến để tham gia hồ giải.
Trong khi đó, đối với hoạt động hịa giải tranh chấp đất đai tại Tòa án, chủ
thể trung gian giúp đỡ các bên tranh chấp trong suốt quá trình giải quyết vụ việc dân
sự để các bên đạt được sự thỏa thuận, duy nhất chỉ có Thẩm phán và được phân
cơng hịa giải vụ việc. Trong trường hợp cần thiết, Thẩm phán yêu cầu cá nhân, tổ
chức có liên quan tham gia, không xét đến sự đồng ý của các bên tranh chấp hay
khơng. Q trình hịa giải, bên cạnh các hiểu biết về thực tiễn địa phương và thửa
đất có tranh chấp, thẩm phán phải có đủ các kiến thức pháp luật, sử dụng các kỹ
năng và kinh nghiệm giải quyết tranh chấp đất đai của mình để phục vụ hoạt động
hòa giải. Như vậy, hòa giải tranh chấp đất đai tại Tòa án và hòa giải tranh chấp đất

19



đai ngồi tố tụng đều ln đề cao việc sử dụng kiến thức về pháp luật đất đai, còn
đề cao các yếu tố đạo đức, văn hóa – xã hội. Tuy nhiên, hòa giải tranh chấp đất đai
tại Tòa án chỉ do thẩm phán tiến hành, đề cao vai trò cá nhân của người thẩm phán,
cịn hịa giải ngồi tố tụng thì đề cao vai trị của các cá nhân có uy tín trong cộng
đồng cũng như vai trị to lớn của của các đoàn thể quần chúng trong thuyết phục các
bên khi tiến hành hòa giải.
Hai là, hòa giải tranh chấp đất đai tại Tòa án được tiến hành theo những trình
tự, thủ tục chặt chẽ.
Hịa giải tranh chấp đất đai tại Tòa án là một thủ tục, một giai đoạn tố tụng.
Quy trình hịa giải được quy định rất cụ thể tại Bộ luật tố tụng dân sự và được các
Tòa án áp dụng thống nhất. Sau khi nhận và xem xét đơn khởi kiện tranh chấp đất
đai, khi thấy đủ căn cứ để thụ lý, Tòa án sẽ quyết định thụ lý và phân công thẩm
phán giải quyết. Thẩm phán sẽ xem xét các tài liệu chứng cứ mà các bên cung cấp,
thu thập thêm chứng cứ, lấy lời khai của các đương sự... sau đó sẽ tiến hành hòa giải
trước khi xét xử. Các hoạt động trước, trong và sau khi hòa giải tranh chấp đất đai
của Tòa án như: nhận và xem xét đơn khởi kiện, thụ lý, phân công thẩm phán, thông
báo, triệu tập các bên đương sự, tiếp nhận, thu thập chứng cứ, lấy lời khai... cho đến
việc thực hiện các hoạt động hòa giải, thẩm phán và các bên đường sự đều phải tuân
thủ theo các trình tự thủ tục chặt chẽ do Bộ luật tố tụng dân sự quy định. Vì vậy,
hòa giải tranh chấp đất đai tại tòa án mang tính thủ tục nghiêm túc, kém linh hoạt và
thân thiện hơn so với hịa giải tranh chấp đất đai ngồi tố tụng. Bởi vì, đối với thẩm
phán, khi tiến hành các hoạt động tố tụng để chuẩn bị hòa giải, thì cũng đồng thời là
các hoạt động chuẩn bị cho hoạt động xét xử và đưa ra phán quyết khi các bên
không thỏa thuận được các tranh chấp đất đai. Do đó, các hoạt động hịa giải phải
được tiến hành thận trọng, chặt chẽ.
Ba là, hòa giải tranh chấp đất đai tại tòa án đa số là là hoạt động hòa giải lại.
Đối với các tranh chấp đất đai theo quy định của Luật đất đai (ai là người có
quyền sử dụng đất), trước khi được Tòa án thụ lý, giải quyết, vụ việc đã được hịa
giải ít nhất một lần ở cơ sở hoặc tại Ủy ban nhân dân cấp xã và đã khơng hịa giải

được. Vì vậy, khi vụ tranh chấp đất đai đượ đưa đến Tòa án thì tính chất của vụ việc

20


đã chứa đựng những yếu tố phức tạp nhất định. Để tiến hành hòa giải đối với vụ
việc, thẩm phán phải nắm được cách thức, nội dung và kết quả hịa giải của các chủ
thế trước đó, xem xét lại xác định được những điểm hoạt động hòa giải chưa đề cập
đến, hoặc xác định lại những điểm mấu chốt, quan trọng mà các bên tranh chấp
đang quan tâm, giải quyết, từ đó có những ý kiến có giá trị để các bên lựa chọn và
quyết định. Các ý kiến của thẩm phán trong hoạt động hòa giải các tranh chấp đất
đai phải dựa trên các tài liệu chứng cứ đã nhận và thu thập được và dưa trên các
kiến thức pháp luật có liên quan đến vụ tranh chấp.
Bốn là, hoạt động hòa giải tranh chấp đất đai tại tịa án được tiến hành nhiều lần
trong suốt q trình giải quyết vụ án ở nhiều giai đoạn tố tụng khác nhau.
Hòa giải tranh chấp đất đai tại tòa án được tiến hành sau khi tòa án đã thu
thập được những tài liệu chứng cứ cần thiết liên quan đến vụ việc. Việc hòa giải
được tiến hành sau khi thẩm phán công khai các tài liệu chứng cứ và tổ chức phiên
hịa giải. Trong trường hợp khơng hịa giải được phải đưa ra xét xử sơ thẩm, Tòa án
vẫn tiếp tục hòa giải tranh chấp đất đai. Nếu tại phiên tịa xét xử sơ thẩm khơng hịa
giải được, tịa án tuyên án và các bên kháng cáo, thì tại phiên tịa phúc thẩm, các
bên vẫn có quyền thương lượng, thỏa thuận với nhau và được Tòa án chấp nhận.
Năm là, Tòa án vừa là chủ thể tiến hành hòa giải, vừa là chủ thể đảm bảo tính
pháp lý của hịa giải.
Đối với hịa giải tranh chấp đất đai ngồi tố tụng, các chủ thể hòa giải chỉ
tập trung hướng dẫn, giúp đỡ các bên thương lượng, chủ động giải quyết và hướng đến
việc đưa ra thỏa thuận. Khi đó chủ thể hòa giải đơn thuần là trung gian trong suốt q
trình hịa giải. Trong trường hợp tranh chấp đất đai được hịa giải thành ở cơ sở, ở cấp xã
thì các các chủ thể tiến hành hòa giải sẽ lập biên bản hòa giải thành và các bên tự nguyên
thực hiện các thỏa thuận mà các bên đã đưa ra, nêu sau đó các bên khơng thực hiện thỏa

thuận thì tiếp tục khởi kiện ra Tòa án.
Đối với hòa giải tranh chấp đất đai tại tịa án, ngồi việc được thực hiện theo
những trình tự thủ tục theo luật định, các bên cịn được thẩm phán chỉ ra và phân
tích một cách sâu sắc các vấn đề của vụ tranh chấp dưới góc độ pháp lý để các bên
cân nhắc và đưa ra thỏa thuận. Kết quả thỏa thuận không trái với quy định của pháp

21


×