Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

Phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.82 MB, 118 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM QUANG MẪN

PHỊNG NGỪA TÌNH HÌNH TÁI PHẠM TỘI VỀ
MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI, năm 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHẠM QUANG MẪN

PHỊNG NGỪA TÌNH HÌNH TÁI PHẠM TỘI VỀ
MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành : Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm
Mã số
: 8.38.01.05

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. TRẦN HỮU TRÁNG

HÀ NỘI, năm 2021



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn này là cơng trình nghiên cứu của cá nhân tơi,
khơng trùng lặp, khơng sao chép bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào; những tài liệu,
số liệu, dẫn chứng sử dụng trong Luận văn là trung thực và chính xác.
Tơi xin chịu trách nhiệm về nội dung cam đoan trên./.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN

Phạm Quang Mẫn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHỊNG NGỪA TÌNH
HÌNH TÁI PHẠM TỘI VỀ MA TÚY .....................................................................8
1.1. Khái niệm tái phạm tội về ma túy ........................................................................8
1.2. Phịng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy ....................................................16
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHỊNG NGỪA TÌNH HÌNH TÁI PHẠM
TỘI VỀ MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG .........................31
2.1. Thực tiễn cơ sở phịng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng....................................................................................................31
2.2. Kết quả đạt được trong phịng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng ............................................................................................. 38
2.3. Hạn chế, yếu kém trong phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên
địa bàn thành phố Đà Nẵng .......................................................................................51
2.4. Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém trong phịng ngừa tình hình tái
phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng ................................................59
CHƯƠNG 3. GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHỊNG NGỪA TÌNH HÌNH
TÁI PHẠM TỘI VỀ MA TÚY TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
TRONG THỜI GIAN TỚI .....................................................................................64
3.1. Dự báo tình hình và các u cầu phịng ngừa tình hình tái phạm tội về ma

túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng .........................................................................64
3.2. Tăng cường phịng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng .............................................................................................................67
KẾT LUẬN ..............................................................................................................80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
ANCT

: An ninh chính trị

ANTQ

: An ninh Tổ quốc

ANTT

: An ninh trật tự

ANQG

: An ninh quốc gia

BLHS

: Bộ luật Hình sự

BLTTHS


: Bộ luật Tố tụng hình sự

CAND

: Công an nhân dân

CSCN

: Cộng sản chủ nghĩa

CSĐTTP

: Cảnh sát Điều tra tội phạm

CS QLHC

: Cảnh sát Quản lý hành chính

CS THSHS & HTTP

: Cảnh sát Thi hành án hình sự và Hỗ trợ tư pháp

HĐND

: Hội đồng nhân dân

NXB

: Nhà xuất bản


TNHS

: Trách nhiệm hình sự

TTATXH

: Trật tự an toàn xã hội

TTXH

: Trật tự xã hội

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân

VPHC

: Vi phạm hành chính

UBND

: Ủy ban nhân dân

XHCN

: Xã hội chủ nghĩa

XDPT & QLBVDP


: Xây dựng phong trào và quản lý bảo vệ dân phố


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thành phố Đà Nẵng là đơ thị trung tâm của miền Trung, có vị trí chiến lược
về kinh tế, chính trị và an ninh quốc phòng. Trong những năm qua, cùng với sự phát
triển vượt bậc về kinh tế so với các đô thị khác trong khu vực, thành phố Đà Nẵng
cũng được đánh giá là điểm đến an toàn, “thành phố đáng sống” cho du lịch, học
tập, làm việc. Bên cạnh sự phát triển về kinh tế - xã hội, tình hình tội phạm và tệ
nạn ma túy ở thành phố Đà Nẵng cũng diễn biến phức tạp.
Theo thống kê của Ban chỉ đạo thực hiện Chỉ thị số 37-CT/TU của Thành ủy
Đà Nẵng [50], trong 5 năm từ 2016 đến 2020, các lực lượng chuyên trách phòng
chống ma túy đã phát hiện, bắt giữ 1.119 vụ/1.586 đối tượng phạm tội về ma túy;
thu giữ 79,5kg ma túy, 3 súng, 3 lựu đạn, 18 ô tô, 388 xe máy, 884 điện thoại, 3 tỷ
đồng cùng nhiều tang vật khác. Trong đó, đã triệt phá nhiều đường dây vận chuyển,
mua bán ma túy với số lượng lớn vào thành phố, đã khởi tố xét xử 1.119 vụ/1.586 bị
can, nhiều hơn 476 vụ/671 đối tượng (tăng 117%), 65,1kg ma túy (tăng 452%) so
với giai đoạn 2010 - 2015. Qua các đợt ra quân kiểm tra, Công an thành phố Đà
Nẵng đã phát hiện 14.904 trường hợp sử dụng trái phép chất ma túy, nhiều hơn
9.970 trường hợp (tăng 202%) so với giai đoạn 2010 - 2015. Trong đó, số tái nghiện
chiếm 20,7%; số nghiện mới chiếm 11,2%; số mới phát hiện chiếm 54% và số ngoại
tỉnh chiếm 14,1%. Thành phố Đà Nẵng đã tổ chức cai nghiện bắt buộc cho 3.791
lượt người, có 884 lượt người đi cai nghiện tự nguyện; có 56/56 xã, phường thành
lập Tổ cai nghiện ma túy.
Tuy nhiên theo Thành ủy Đà Nẵng đánh giá, cơng tác phịng chống ma túy
trên thực tế vẫn còn nhiều tồn tại, hạn chế. Cụ thể: Việc phòng, chống ma túy chủ
yếu giao cho lực lượng Công an nên kết quả chưa cao; công tác cai nghiện tại gia
đình, cộng đồng chưa được quan tâm đúng mức nên số người cai nghiện còn hạn

chế, chưa hiệu quả; công tác quản lý sau cai nghiện cịn nhiều khó khăn. Đặc biệt,
tỷ lệ tái phạm tội và tái nghiện ma túy còn khá cao.

1


Tái phạm tội và tái nghiện ma túy là chỉ số quan trọng đánh giá hiệu quả
cơng tác phịng ngừa tình hình tội phạm về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Để nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình tội phạm về ma túy nói chung, cần
nghiên cứu, đánh giá về tình hình tái phạm tội, tái nghiện ma túy trên cơ sở khoa
học chuyên ngành. Muốn phịng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy có hiệu quả
thì cần nhận thức đúng đắn, sâu sắc về khái niệm, mục đích, ý nghĩa, cơ sở, chủ thể,
nội dung, biện pháp của phòng ngừa tái phạm tội để xác định thực trạng tình hình
tái phạm tội về ma túy tại địa phương. Từ đó, xây dựng các giải pháp phòng ngừa
một cách hiệu quả. Đây là cơ sở quan trọng để xét xử các vụ án một cách chính xác;
đồng thời, cũng là cơ sở đề ra các biện pháp giáo dục, cải tạo hiệu quả đối với người
phạm tội về ma túy cũng như phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy.
Việc nghiên cứu về phịng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng một cách toàn diện, sâu sắc cần xuất phát từ các vấn đề lý luận
về phịng ngừa tái phạm tội nói chung để đánh giá thực trạng phịng ngừa tình hình
tái phạm tội về ma túy gắn với các yếu tố tự nhiên - kinh tế - xã hội cụ thể, đánh giá
đúng các kết quả và xác định rõ các hạn chế, yếu kém trong hoạt động này. Từ đó,
tìm ra ngun nhân của hạn chế, yếu kém để xây dựng các giải pháp tăng cường
hiệu quả phịng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng. Việc này là cần thiết, vừa có ý nghĩa lý luận vừa có tính thực tiễn.
Vì vậy, đề tài “Phịng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng” đã được tác giả chọn làm Luận văn Thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Phịng ngừa tái phạm tội và tái phạm tội về ma túy ở nước ta hiện nay đang là
vấn đề cấp thiết cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Trong thời gian qua, đã có

một số cơng trình khoa học và bài viết liên quan đến phòng ngừa tái phạm tội và
phòng ngừa tội phạm về ma túy như:
* Các cơng trình, bài viết từ cách tiếp cận của Tội phạm học
- Lê Tuấn Anh (2019) “Phòng ngừa tái phạm tội trên địa bàn tỉnh Thanh
Hóa”, Luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm, Học
viện Khoa học xã hội.
2


- Đào Công Chức (2020) “Hoạt động của lực lượng Cơng an cơ sở các tỉnh,
thành phố phía Nam trong phòng ngừa tội phạm do người nghiện ma túy thực
hiện”, Luận án Tiến sĩ, chuyên ngành Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm, Đại
học Cảnh sát nhân dân.
- Võ Như Huy (2019) “Phịng ngừa tình hình tái phạm trong trại giam tại
Tây Nguyên”, Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Tội phạm học và Phòng ngừa tội
phạm, Học viện Khoa học xã hội.
- Lê Tuấn Anh (2017) “Trao đổi một số vấn đề về phòng ngừa tái phạm tội”,
“Nguyên nhân, điều kiện, biện pháp và một số giải pháp phòng ngừa tái phạm tội”,
Tạp chí Nghề Luật, Học viện Tư pháp, số tháng 1, 3/2017.
* Các cơng trình, bài viết từ cách tiếp cận của khoa học Luật hình sự
- Đinh Thị Hường (2014) “Tái hòa nhập xã hội đối với người phạm tội của
thành phố Hải Phòng”, Luận văn Thạc sĩ, chuyên ngành Luật Hình sự, Đại học
Quốc gia Hà Nội.
- Nguyễn Văn Bường (2016) “Hoàn thiện pháp luật về án treo - cần tính tới
các nhân tố làm cho người bị kết án tái phạm hoặc phạm tội mới”, Tạp chí Nghề
luật, Học viện Tư pháp, số tháng 3/2016.
- Phan Duy Chiến - Bùi Duy Võ (2018) “Tòa ma túy và nghiên cứu về khả
năng áp dụng tại Việt Nam”, Tạp chí Kiểm sát, VKSND tối cao, số 24/2018.
- Trương Đức Thuận (2018) “Một số giải pháp nâng cao chất lượng áp dụng
hình phạt ở Việt Nam hiện nay”, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, Học viện Khoa

học xã hội, số 6-2018.
- Võ Thị Kim Oanh - Trịnh Duy Thuyên (2018) “Góp ý dự thảo Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Thi hành án hình sự về tái hịa nhập cộng đồng”,
Tạp chí Khoa học pháp lý, Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, số 08(120)/2018.
* Các cơng trình từ cách tiếp cận của một số chuyên ngành khác
- Võ Thùy Linh (2016) “Thực hiện chính sách phịng, chống ma túy từ thực
tiễn quận Thanh Khê, thành phố Đà Nẵng”, Luận văn Thạc sĩ, chun ngành Chính
sách cơng, Học viện Khoa học xã hội.

3


- Nguyễn Thành Long (2019) “Quản lý nhà nước đối với người sau cai
nghiện ma túy từ thực tiễn quận Cẩm Lệ, thành phố Đà Nẵng”, Luận văn Thạc sĩ,
chuyên ngành Luật Hiến pháp và Luật Hành chính, Học viện Khoa học xã hội.
- Nguyễn Văn Huy (2019) “Ứng xử của cộng đồng đối với người sau cai
nghiện ma túy (nghiên cứu tại quận Phú Nhuận, thành phố Hồ Chí Minh)”, Luận
văn Thạc sĩ, chuyên ngành Xã hội học, Học viện Khoa học xã hội.
Trên cơ sở nghiên cứu, tiếp thu có chọn lọc những kết quả nghiên cứu của
những cơng trình, bài viết nói trên, tác giả nhận thấy:
Một là, các cơng trình, bài viết nói trên đã nghiên cứu về tình tình tái phạm
tội của những người chấp hành xong án phạt tù và hoạt động phòng ngừa của các
lực lượng chức năng ở địa bàn cơ sở (đặc biệt là lực lượng Công an). Kết quả
nghiên cứu đã chỉ ra: Thực tế, người sau khi chấp hành xong án phạt tù, người hoàn
thành cai nghiện ma túy trở về địa phương tái phạm tội, tái nghiện chiếm tỷ lệ cao.
Vấn đề tái hồ nhập cộng đồng cịn nhiều hạn chế, thiếu đồng bộ, chưa hiệu quả
trong việc tiếp nhận, quản lý, giáo dục, giúp đỡ người chấp hành xong án phạt tù,
người hoàn thành cai nghiện trở về địa phương.
Hai là, các cơng trình, bài viết đã nêu rõ nguyên nhân tái phạm tội của những
người sau khi chấp hành xong án phạt tù không chỉ ở những thiếu sót của bản thân

những người đó, gia đình, xã hội mà ngay cả thiếu sót trong cơng tác giáo dục ở các
trại giam, cơ sở cai nghiện. Vì vậy, khi phạm nhân đang chấp hành án cần phải cảm
hóa, giáo dục, giúp họ nhận ra lỗi lầm để tự giác cải tạo.
Ba là, hầu hết các tác giả đều có quan điểm chung về phịng ngừa tái phạm
tội cần phải phối hợp các chủ thể phòng ngừa với nhau, thơng qua đó phát động
tồn dân tham gia phong trào bảo vệ ANCT và TTATXH tạo điều kiện cho người
từng phạm tội sửa chữa lỗi lầm, không tái phạm tội.
Tuy nhiên, đến nay chưa có cơng trình nào nghiên cứu về phịng ngừa tình
hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Vì thế, đây là luận văn
hồn tồn mới và khơng trùng lặp với bất kỳ cơng trình khoa học nào trước đây
cũng như hiện nay.

4


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về thực trạng hoạt động phịng ngừa tình hình tái phạm
tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Từ đó, đề xuất các giải pháp cụ thể,
thiết thực góp phần nâng cao hiệu quả phịng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy
trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục tiêu trên, luận văn tập trung thực hiện những nhiệm
vụ sau:
Thứ nhất, làm sáng tỏ các vấn đề lý luận về phịng ngừa tình hình tái phạm
tội về ma túy: Khái niệm tái phạm tội; khái niệm tình hình tái phạm tội; đặc trưng
của phịng ngừa tình hình tái phạm tội; các cơ sở, nội dung, chủ thể, biện pháp
phịng ngừa tình hình tái phạm tội.
Thứ hai, đánh giá tình hình tái phạm tội, thực trạng phịng ngừa tình hình tái
phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

Thứ ba, dự báo tình hình tái phạm tội về ma túy, hoạt động phịng ngừa tình
hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng thời gian tới. Từ đó, đề
xuất giải pháp nâng cao hiệu quả phịng ngừa.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các vấn đề lý luận về phịng ngừa tình
hình tái phạm tội nói chung và lý luận về phịng ngừa tình hình tái phạm tội về ma
túy nói riêng; thực tiễn phịng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng giai đoạn 2016 - 2020.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: Luận văn nghiên cứu dưới góc độ Tội phạm học trong phạm
vi chuyên ngành “Tội phạm học và Phòng ngừa tội phạm”.
- Về thời gian: Luận văn sử dụng số liệu nghiên cứu trong phạm vi 5 năm từ
năm 2016 đến năm 2020.

5


- Về địa bàn: Luận văn nghiên cứu hoạt động phịng ngừa tình hình tái phạm
tội về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
- Về tội danh: Luận văn nghiên cứu tình hình tái phạm tội về ma túy quy định
tại Chương XVII (từ Điều 192 đến Điều 201) BLHS 1999, sửa đổi bổ sung năm
2009 và Chương XX (từ Điều 247 đến Điều 259) BLHS 2015, sửa đổi bổ sung năm
2017.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các nguyên lý của Chủ nghĩa Duy vật biện
chứng; quan điểm của Đảng và Nhà nước về vấn đề tội phạm và tái phạm tội trong
xã hội, vấn đề đấu tranh phòng, chống tái phạm tội; các tri thức khoa học của Tội

phạm học, Pháp luật hình sự, khoa học Điều tra hình sự (trong đó, tri thức của Tội
phạm học là chủ yếu).
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của Tội phạm học, cụ
thể như sau: Phương pháp thống kê; phương pháp mô tả bằng bảng, biểu; phương
pháp so sánh, quy nạp, diễn dịch; phương pháp phân tích tổng hợp; phương pháp
nghiên cứu bản án; phương pháp nghiên cứu điển hình; phương pháp phỏng vấn
chuyên gia.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ hơn lý luận Tội phạm học
về phịng ngừa tình hình tội phạm nói chung và phịng ngừa tình hình tái phạm tội
về ma túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng nói riêng.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Dựa trên kết quả nghiên cứu của luận văn, những người làm cơng tác pháp
luật có thể tham khảo, vận dụng vào việc tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức
cho nhân dân, góp phần đẩy mạnh phong trào “Toàn dân bảo vệ ANTQ” trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng.
6


Luận văn có thể sử dụng trong đấu tranh phịng, chống tội phạm về ma túy;
nâng cao hiệu quả hoạt động phịng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng. Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng tham khảo
cho hoạt động phịng ngừa tình hình tái phạm các tội phạm khác và phịng ngừa tình
hình tái phạm tội nói chung trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Từ đó, góp phần thực
hiện có hiệu quả “Chiến lược phịng, chống tội phạm giai đoạn 2016 - 2025 và định
hướng đến năm 2030 trên địa bàn thành phố Đà Nẵng” theo Quyết định số
5393/QĐ-UBND ngày 10/8/2016 của UBND thành phố Đà Nẵng [57].
Ngồi ra, luận văn cịn có thể được sử dụng như một nguồn tài liệu tham

khảo cho hoạt động nghiên cứu, giảng dạy và học tập.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận chương, kết luận, bảng chữ viết tắt, danh mục
tài liệu tham khảo và phụ lục, phần nội dung của luận văn được cấu trúc thành 3
chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về phịng ngừa tình hình tái phạm tội.
Chương 2: Thực trạng phịng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng.
Chương 3: Giải pháp tăng cường phịng ngừa tình hình tái phạm tội về ma
túy trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới.

7


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHỊNG NGỪA
TÌNH HÌNH TÁI PHẠM TỘI VỀ MA TÚY
1.1. Khái niệm tái phạm tội về ma túy
1.1.1. Khái niệm tái phạm tội
1.1.1.1. Khái niệm tái phạm tội
Trong khoa học pháp lý và hệ thống văn bản pháp luật ở Việt Nam, thuật ngữ
“tái phạm tội” xuất hiện khá ít. Một khái niệm khác gần gũi với nó là “tái phạm”
được sử dụng phổ biến hơn. Vì vậy, trước khi xem xét thuật ngữ “tái phạm tội”,
chúng ta cần hiểu rõ về “tái phạm”.
Trong các nghiên cứu quốc tế, từ “tái phạm” xuất hiện tương đối nhiều, cụ
thể: Trong tiếng Nga, “повторять ошибку” nghĩa là “tái phạm sai lầm”; trong
tiếng Pháp “récidive” và tiếng Anh “recidivism” có nguồn gốc từ cùng một từ
trong tiếng Latin là “recidivus” nghĩa là “xâm phạm lại”; trong tiếng Trung Quốc
“累犯” (lěifàn) nghĩa là “nhiều lần phạm tội” hàm chứa từ “lũy” (累, lěi) nghĩa là
“liên tục, nhiều lần” và từ “phạm” (犯, fàn) nghĩa là “xâm phạm” [63, tr.338,

733]. Như vậy trong nhiều trường hợp, thuật ngữ “tái phạm” bao hàm nghĩa “tái
phạm tội” chứ không phân biệt cụ thể. Điển hình cho sự khơng phân biệt cụ thể này
là: Trong khi TS. G.V. Đa-Scốp nhận định “Tái phạm là một khái niệm pháp lý và
rất có ý nghĩa trong tội phạm học… Tái phạm là phạm tội từ hai lần trở lên - kẻ tái
phạm là kẻ phạm tội mới trong khi án tích về tội cũ chưa được xóa bỏ” [48, tr.77]
thì nhà Tội phạm học người Mỹ Michael D. Maltz lại cho rằng “Người tái phạm là
người sau khi mãn hạn tù (vì đã thực hiện một tội phạm) khơng hồn lương mà thay
vào đó họ lặp lại lối ứng xử cũ và tiếp tục phạm tội” [38, tr.54].
Trong những nghiên cứu ở Việt Nam, thuật ngữ “tái phạm” cũng xuất hiện
thường xuyên, chẳng hạn như: Theo từ điển tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học “tái
phạm” nghĩa là “phạm lại tội cũ, sai lầm cũ” [64, tr.885]; theo từ điển Việt Nam
của tác giả Thanh Nghị thì “tái phạm” nghĩa là “phạm tội lần nữa” [29, tr.1165];

8


còn theo từ điển Hán Việt của tác giả Đào Duy Anh thì “tái phạm” nghĩa là “phạm
tội lần thứ hai” [1, tr.225].
Ngồi ra, “tái phạm” cịn được nhiều ngành luật trong hệ thống pháp luật
Việt Nam điều chỉnh. Với mỗi ngành luật, quy định về “tái phạm” cũng có điểm
khác nhau, cụ thể: Khoản 3 Điều 125 Bộ luật Lao động năm 2019 quy định: “Tái
phạm là trường hợp người lao động lặp lại hành vi vi phạm đã bị xử lý kỷ luật mà
chưa được xóa kỷ luật…”. Khoản 5 Điều 2 Luật Xử lý VPHC năm 2012 quy
định: “Tái phạm là việc cá nhân, tổ chức đã bị xử lý VPHC nhưng chưa hết thời
hạn được coi là chưa bị xử lý VPHC… mà lại thực hiện hành vi VPHC đã bị xử lý”.
Khoản 1 Điều 49 BLHS 1999 quy định: “Tái phạm là trường hợp đã bị kết án,
chưa được xố án tích mà lại phạm tội do cố ý hoặc phạm tội rất nghiêm trọng, tội
đặc biệt nghiêm trọng do vô ý”. Khoản 1 Điều 53 BLHS 2015 quy định: “Tái phạm
là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội
do cố ý hoặc thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc

biệt nghiêm trọng do vô ý”.
Mặc dù thuật ngữ “tái phạm” theo quy định của các ngành luật nêu trên đã
thể hiện “sự lặp lại của hành vi” với những dấu hiệu khác nhau nhưng việc định
nghĩa “tái phạm vi phạm” dưới góc độ pháp luật lao động, hành chính, hình sự là
khơng đồng nhất với khái niệm “tái phạm tội” trong Tội phạm học. TS. Vũ Đức
Trung có quan điểm: “Hồn tồn có nội dung của tái phạm được quy định tại Điều
49 BLHS năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009. Việc sử dụng cụm từ tái phạm tội
nhằm phân biệt với tái phạm vi phạm pháp luật khác” [51, tr.18]. Theo tác giả,
quan điểm này chưa nêu đúng bản chất của “tái phạm tội” mà chỉ đề cập đến một
khía cạnh nhỏ nhất của nó là phân biệt tái phạm tội với tái phạm vi phạm pháp luật.
Điều này khiến người đọc nhầm lẫn khái niệm “tái phạm tội” trong Tội phạm học
với khái niệm “tái phạm” trong Luật hình sự. TS. Lê Tuấn Anh cho rằng: “Tái
phạm tội là trường hợp đã bị kết án về một tội mà lại phạm tội mới” [2, tr.36]. Tác
giả thống nhất với khái niệm này vì mặc dù ngắn gọn nhưng lại khá chính xác khi
nêu được bản chất của “tái phạm tội” chính là trường hợp một chủ thể đã bị kết án

9


bằng một bản án có hiệu lực pháp luật, lại tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội mới,
không kể đó là tội gì cũng như khơng kể chủ thể đã được xóa án tích hay chưa.
1.1.1.2. Bản chất của tái phạm tội
Tái phạm tội về bản chất là tiếp tục phạm tội, sau khi đã có bản án có hiệu
lực pháp luật. Tái phạm tội thể hiện tính xu hướng coi thường pháp luật, coi thường
các giá trị đạo đức, thể hiện bản chất khó có thể giáo dục, cải tạo để trở thành người
có ích cho xã hội. Thời điểm người phạm tội tiếp tục phạm tội có thể ngay sau khi
có bản án có hiệu lực pháp luật, cũng có thể rất lâu sau khi thi hành xong bản án
(thậm chí đã xóa án tích) tùy thuộc vào từng nguyên nhân, điều kiện cụ thể. Mặc dù
xóa án tích là quy định thể hiện tính nhân văn của Nhà nước đối với những người đã
bị kết án hình sự, giúp họ làm lại cuộc đời và hịa nhập với cộng đồng. Tuy nhiên,

việc xóa án tích chỉ làm “trong sạch” về lý lịch tư pháp của người phạm tội chứ
không làm triệt tiêu những nguyên nhân, điều kiện cụ thể dẫn đến việc tái phạm tội.
Việc người phạm tội được xóa án tích khơng loại trừ khả năng người đó sẽ khơng
tiếp tục phạm tội trong tương lai. Nghiên cứu những trường hợp tái phạm tội vì vậy
sẽ giúp cho việc làm rõ nguyên nhân dẫn đến tình trạng này để có thể đề ra những
biện pháp hữu hiệu nhất nhằm phòng ngừa khả năng tái phạm tội.
Không thể coi một người là tái phạm tội nếu trước đó, người này chưa từng
phạm tội. Khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Người bị buộc tội được
coi là khơng có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản
án kết tội của Tịa án đã có hiệu lực pháp luật”. Điều 13 BLTTHS 2015 quy định:
“Người bị buộc tội được coi là khơng có tội cho đến khi được chứng minh theo
trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của Tịa án đã có hiệu
lực pháp luật”. Theo đó, một người chỉ bị coi là phạm tội khi đã có bản án có hiệu
lực pháp luật. Như vậy, “tái phạm tội” chỉ xảy ra khi một người đã từng thực hiện
một hành vi phạm tội, đã bị kết án bằng bản án có hiệu lực pháp luật mà lại tiếp tục
thực hiện một hành vi phạm tội khác. Để làm rõ hơn khái niệm tái phạm tội, cần
xem xét một số trường hợp sau:
- Trường hợp người được miễn trách nhiệm hình sự sau đó lại phạm tội
Miễn TNHS là trường hợp người đã thực hiện tội phạm nhưng do đáp ứng
10


các điều kiện nhất định mà không phải chịu hậu quả của việc thực hiện tội phạm đó.
BLHS 2015 quy định các trường hợp miễn TNHS tại Điều 16, Điều 29, khoản 2
Điều 91, khoản 4 Điều 110, khoản 4 Điều 247, đoạn 2 khoản 7 Điều 364, khoản 6
Điều 365 và khoản 2 Điều 390. Bản chất pháp lý của miễn TNHS là chế định nhân
đạo được áp dụng đối với người mà hành vi của người đó đã thỏa mãn các dấu hiệu
của một cấu thành tội phạm cụ thể trong BLHS nhưng do người này có các điều
kiện nhất định nên được miễn TNHS. Ví dụ: Khi tiến hành điều tra, truy tố hoặc xét
xử, do có sự thay đổi chính sách, pháp luật làm cho hành vi phạm tội khơng cịn

nguy hiểm cho xã hội nữa hoặc khi có quyết định đại xá thì người đã thực hiện hành
vi phạm tội được miễn TNHS (quy định tại khoản 1 Điều 29 BLHS 2015).
Miễn TNHS chỉ áp dụng cho người mà hành vi của họ đã có đủ yếu tố cấu
thành tội phạm. Bản chất của miễn TNHS là miễn các hậu quả pháp lý bất lợi cho
một người đã thực hiện hành vi phạm tội khi có đầy đủ các điều kiện theo quy định.
Như vậy, về nguyên tắc, người được miễn TNHS là người đã 1 lần thực hiện hành
vi phạm tội. Theo quy định hiện hành của BLTTHS 2015 thì thẩm quyền áp dụng
miễn TNHS do Cơ quan điều tra (với sự phê chuẩn của Viện kiểm sát), Viện kiểm
sát và Tòa án quyết định trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Như vậy, nếu việc
miễn TNHS do Cơ quan điều tra hoặc Viện kiểm sát tiến hành (trong giai đoạn khởi
tố, điều tra, truy tố), người được miễn TNHS không bị tuyên bằng bản án của Tòa.
Trường hợp này, người được miễn TNHS không được coi là tái phạm tội khi thực
hiện hành vi phạm tội 1 lần nữa. Nếu việc miễn TNHS do Tòa án thực hiện trong
giai đoạn xét xử (bị tuyên án nhưng miễn TNHS) thì người được miễn TNHS được
coi là tái phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội 1 lần nữa. Nhận thức như vậy vẫn
chưa thật hợp lý, vì như trên đã nói, miễn TNHS chỉ áp dụng cho người đã thực
hiện hành vi có đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, căn cứ vào Hiến pháp và
BLTTHS thì một người chỉ bị coi là có tội khi có bản án có hiệu lực pháp luật.
- Trường hợp người được miễn hình phạt sau đó lại phạm tội
Điều 59 BLHS 2015 quy định: “Người phạm tội có thể được miễn hình phạt
nếu thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 của Bộ luật này mà
đáng được khoan hồng đặc biệt nhưng chưa đến mức được miễn TNHS”. Bản chất
11


pháp lý của miễn hình phạt là chế định nhân đạo được áp dụng đối với người mà
hành vi của người đó đã thỏa mãn các yếu tố cấu thành tội phạm cụ thể trong BLHS
và bị xử phạt bằng bản án của Tịa án nhưng do người này có các điều kiện nhất
định nên được miễn hình phạt (quy định tại Điều 59 BLHS). Người được miễn hình
phạt vì vậy là người đã từng một lần thực hiện hành vi phạm tội và khi họ lại thực

hiện hành vi phạm tội thì được coi là tái phạm tội.
1.1.1.3. Phân biệt tái phạm tội với tái phạm, tái phạm nguy hiểm, phạm tội
nhiều lần, phạm nhiều tội
- Phân biệt tái phạm tội với tái phạm, tái phạm nguy hiểm
Điều 53 BLHS 2015 quy định: “1) Tái phạm là trường hợp đã bị kết án,
chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý hoặc thực hiện
hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do
vô ý. 2) Những trường hợp sau đây được coi là tái phạm nguy hiểm: a) Đã bị kết án
về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được
xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội
phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; b) Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại
thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.”
“Tái phạm tội” giống “tái phạm” và “tái phạm nguy hiểm” ở chỗ: Đều là
người đã bị kết án mà lại thực hiện hành vi phạm tội đủ yếu tố cấu thành tội phạm.
Tuy nhiên, “tái phạm tội” khác “tái phạm”, “tái phạm nguy hiểm” ở 2 điểm sau:
Thứ nhất, trường hợp được coi là “tái phạm tội” là trường hợp đã bị kết án lại tiếp
tục phạm tội khơng phân biệt đã được xóa án tích hay chưa được xóa án tích; cịn
trường hợp “tái phạm”, “tái phạm nguy hiểm” là trường hợp đã bị kết án, chưa
được xóa án tích mà lại phạm tội mới. Thứ hai, về hành vi phạm tội mới: Trường
hợp “tái phạm tội” không phân biệt hành vi phạm tội mới với lỗi cố ý hay vô ý,
thuộc loại tội phạm ít nghiêm trọng hay tội phạm nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm
trọng; còn trường hợp “tái phạm” đòi hỏi hành vi phạm tội mới phải là tội phạm
được thực hiện với lỗi cố ý hoặc tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng với lỗi vô ý; “tái phạm nguy hiểm” đòi hỏi đã bị kết án về tội rất
nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại
12


thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm
trọng do cố ý; đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội

do cố ý. Điều này cho thấy sự khác biệt giữa khái niệm “tái phạm tội” với khái
niệm “tái phạm”, “tái phạm nguy hiểm” trong BLHS chính là: “Tái phạm tội” chỉ
quan tâm tới số lần phạm tội mà không cần quan tâm đến yếu tố án tích, lỗi và loại
tội phạm mà chủ thể đã thực hiện sau khi đã có bản án có hiệu lực pháp luật về một
tội phạm đã thực hiện.
Khái niệm “tái phạm tội” trong Tội phạm học rộng hơn và bao hàm các
trường hợp của “tái phạm”, “tái phạm nguy hiểm”.
- Phân biệt tái phạm tội với phạm tội nhiều lần
Theo BLHS 1999, “phạm tội nhiều lần” được xác định là một trong những
tình tiết tăng nặng TNHS quy định tại điểm g khoản 1 Điều 48 BLHS (phần chung)
và là tình tiết định khung tăng nặng của 48 điều luật ở phần các tội phạm cụ thể (khi
không là tình tiết tăng nặng TNHS - khoản 2 Điều 48). Tuy nhiên, BLHS 2015 (sửa
đổi, bổ sung năm 2017) khơng cịn quy định tình tiết “phạm tội nhiều lần” mà sửa
thành “phạm tội 2 lần trở lên” và được xác định là một trong những tình tiết tăng
nặng TNHS quy định tại điểm g khoản 1 Điều 52 BLHS (khi khơng là dấu hiệu định
tội hoặc định khung hình phạt - khoản 2 Điều 52), tình tiết định khung tăng nặng tại
80 điều luật cụ thể ở phần các tội phạm (trong đó có 2 điều luật quy định “phạm tội
2 lần trở lên” là tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 3 Điều 337, Điều 382).
Qua so sánh, tác giả nhận thấy phần lớn các điều luật của BLHS 1999 có quy
định “phạm tội nhiều lần” là tình tiết định khung tăng nặng vẫn được giữ nguyên
trong BLHS 2015, tuy nhiên có sự thay đổi thuật ngữ “phạm tội nhiều lần” bằng
thuật ngữ “phạm tội 2 lần trở lên” và ghi rõ trong điều luật. Tóm lại, “phạm tội 2
lần trở lên” được xác định: 1) Là tình tiết tăng nặng TNHS được quy định tại phần
chung của BLHS. 2) Là tình tiết định khung tăng nặng được quy định tại một số
điều luật cụ thể trong phần các tội phạm của BLHS. 3) Chỉ khi phạm tội nhiều lần
hoặc phạm tội 2 lần trở lên không được quy định là tình tiết định khung tăng nặng
trong điều luật cụ thể thì mới được xác định là tình tiết tăng nặng TNHS.

13



Với đặc trưng trên, có thể thấy giữa “phạm tội nhiều lần” (BLHS 1999),
“phạm tội 2 lần trở lên” (BLHS 2015) với “tái phạm tội” giống ở chỗ chủ thể đã
nhiều lần thực hiện hành vi phạm tội, có nghĩa là chủ thể đó đã phạm tội từ 2 lần trở
lên mà mỗi lần hành vi đều thỏa mãn đầy đủ các dấu hiệu của cấu thành tội phạm.
Tuy nhiên, “phạm tội nhiều lần” khác “tái phạm tội” ở 2 điểm: Thứ nhất, hành vi
của chủ thể có đầy đủ các dấu hiệu của 2 tội phạm trở lên mà những tội ấy quy định
tại cùng 1 điều hoặc 1 khoản của điều luật. Cịn tái phạm tội thì hành vi phạm tội
sau này có thể là hành vi phạm vào 1 tội quy định tại cùng 1 điều luật hoặc phạm 1
tội mới khác với tội đã phạm trước đó; Thứ hai, “phạm tội nhiều lần” khác tái
phạm tội là người thực hiện hành vi phạm tội ở lần thứ nhất chưa bị xử lý bằng 1
bản án đã có hiệu lực pháp luật. Cịn “tái phạm tội” tuy cũng nhiều lần phạm tội,
nhưng lần phạm tội đầu tiên đã bị kết án bằng 1 bản án có hiệu lực pháp luật.
- Phân biệt tái phạm tội với phạm nhiều tội
“Phạm nhiều tội” là khái niệm của Pháp luật hình sự có liên quan trực tiếp
đến vấn đề quyết định hình phạt. Phạm nhiều tội là trường hợp (chủ thể) có nhiều
hành vi phạm tội độc lập hoặc chỉ thực hiện một hành vi phạm tội nhưng hành vi đó
thỏa mãn nhiều cấu thành tội phạm khác nhau (phạm nhiều tội khác nhau). BLHS
1985 đã quy định rõ cách quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội
nhưng lại khơng có quy định cụ thể về trường hợp phạm nhiều tội. BLHS 1999,
BLHS 2015 cũng khơng có quy định này. Từ thực tế xét xử, phạm nhiều tội có 2
trường hợp: 1) Người phạm tội có nhiều hành vi phạm tội khác nhau và mỗi hành vi
này cấu thành một tội riêng. Những hành vi phạm tội này có thể có mối liên quan
với nhau hoặc khơng. Ví dụ: Thủ kho có hành vi tham ơ tài sản, sau đó lại đốt kho
để che giấu hành vi tham ô của mình (phạm tội huỷ hoại tài sản). 2) Người phạm tội
có một hành vi phạm tội nhưng hành vi này lại cấu thành nhiều tội khác nhau. Ví
dụ: Hành vi dùng vũ lực cố ý tước đoạt tính mạng của chủ tài sản để chiếm đoạt tài
sản sẽ cấu thành 2 tội khác nhau: Tội giết người và Tội cướp tài sản.
Cũng có trường hợp người phạm tội thực hiện nhiều hành vi phạm tội quy
định tại các điều luật khác nhau nhưng bị xử lý theo tội danh của một điều luật,

gồm: 1) Một người thực hiện nhiều hành vi phạm tội quy định tại các điều luật khác
14


nhau mà các hành vi đó có liên quan chặt chẽ với nhau (hành vi phạm tội này là
điều kiện để thực hiện hoặc là hệ quả tất yếu của hành vi phạm tội kia) nếu các tội
phạm đó khơng bằng nhau thì người phạm tội bị truy cứu TNHS về hành vi phạm
tội theo điều luật có quy định tội nặng hơn. 2) Một người thực hiện nhiều hành vi
phạm tội quy định tại các điều luật khác nhau mà các hành vi đó có liên quan chặt
chẽ với nhau (hành vi phạm tội này là điều kiện để thực hiện hoặc là hệ quả tất yếu
của hành vi phạm tội kia) nếu các tội phạm đó bằng nhau thì người phạm tội bị truy
cứu TNHS về hành vi phạm tội được thực hiện đầu tiên theo tội danh tương ứng
(quy định tại Thông tư liên tịch số 08-2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTCBTP). Những trường hợp này không được coi là “phạm nhiều tội”.
Như vậy so với “tái phạm tội”, “phạm nhiều tội” khác ở chỗ trường hợp
phạm nhiều tội, chủ thể tội phạm chỉ thực hiện “1 lần” đã cấu thành nhiều tội và
người phạm tội chưa bị xét xử, chưa bị kết án về tội nào trong số các tội trên, còn
“tái phạm tội” là trường hợp người phạm tội đã bị xét xử về 1 tội phạm bằng 1 bản
án đã có hiệu lực pháp luật mà cịn tiếp tục phạm tội “lần thứ 2”.
1.1.2. Tái phạm tội về ma túy
- Khái niệm tội phạm về ma túy
Tội phạm về ma túy các hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người có năng lực
TNHS thực hiện với lỗi cố ý, xâm phạm chế độ độc quyền quản lý của Nhà nước về
các chất ma túy được quy định trong BLHS tại Chương XX, từ Điều 247 đến Điều
259. Tội phạm về ma tuý bao gồm nhiều loại hành vi phạm tội khác nhau nhưng
đều có chung 2 đặc điểm cơ bản: 1) Tính nguy hiểm cho xã hội của các tội phạm về
ma tuý thể hiện ở sự đe dọa nghiêm trọng đến sức khoẻ và sự phát triển bình thường
của con người cũng như đến hạnh phúc gia đình và trật tự cơng cộng nói chung; 2)
Các tội phạm về ma tuý đều có chung đối tượng là các chất ma tuý (hoặc liên quan
đến các chất ma tuý). Đó là các chất có khả năng gây nghiện cao cho người sử dụng
làm cho người nghiện không chỉ bị lệ thuộc vào chất đó mà cịn làm cho họ bị tổn

hại về nhiều mặt và thậm chí cịn có thể đẩy họ vào con đường phạm tội để có tiền
thoả mãn cơn nghiện.

15


- Khái niệm tái phạm tội về ma túy
Tái phạm tội về ma túy là một hiện tượng xã hội tiêu cực thể hiện sự thất bại
trong giáo dục, cải tạo người đã từng phạm tội về ma túy trở thành người có ích cho
xã hội. Hiện tượng này đi ngược lại lợi ích xã hội, gây ra thiệt hại về nhiều mặt cho
xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình ANCT và TTATXH. Từ khái niệm về tái phạm
tội, có thể định nghĩa tái phạm tội về ma túy như sau: Tái phạm tội về ma túy là
trường hợp đã bị kết án về một trong các tội phạm về ma túy quy định trong BLHS,
mà lại phạm một tội mới thuộc một trong các tội phạm về ma túy.
- Đặc trưng của tái phạm tội về ma túy
Khác với tái phạm tội nói chung, tái phạm tội về ma túy có điểm đặc thù:
Người bị coi là tái phạm tội về ma túy là người mà trước đó đã bị Tòa án kết án về
một trong các tội phạm về ma túy quy định tại Chương XX của BLHS, sau đó lại
thực hiện hành vi phạm tội mới về một trong các tội phạm về ma túy (thuộc Chương
XX BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017).
1.2. Phòng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy
1.2.1. Khái niệm, mục đích, ý nghĩa của phịng ngừa tình hình tái phạm tội
về ma túy
1.2.1.1. Khái niệm phịng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy
Nghiên cứu về phịng ngừa tái phạm tội, GS.TS. Nguyễn Xuân Yêm và đồng
nghiệp cho rằng “hoạt động phòng ngừa tái phạm tội đối với người đã chấp hành
xong bản án hình sự là hình thức phịng ngừa cá biệt của các biện pháp phịng
ngừa tội phạm” [67, tr.1511]. TS. Nguyễn Văn Hồng cũng cho rằng “phòng ngừa
tái phạm tội thực chất là một bộ phận, một nội dung của hoạt động phòng ngừa tội
phạm nói chung” [32, tr.32]. TS. Vũ Đức Trung thì khẳng định phịng ngừa tình

trạng tái phạm tội là “hướng vào việc thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện tình trạng
tái phạm tội nhằm từng bước ngăn chặn, hạn chế, đẩy lùi tình trạng tái phạm tội
trong xã hội” [51, tr.39]. Tuy có những khác biệt song các nhà nghiên cứu trên đều
khẳng định phòng ngừa tái phạm tội là một bộ phận của hoạt động phịng ngừa tội
phạm nói chung, được tiến hành bởi các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội và mỗi

16


cơng dân nhằm mục đích ngăn chặn tội phạm, hạn chế, loại trừ nguyên nhân, điều
kiện làm phát sinh tội phạm.
Theo đó, mục tiêu cơ bản của phịng ngừa tái phạm tội là áp dụng đồng bộ
các biện pháp nhắm đến những người đã bị từng một lần thực hiện hành vi phạm tội
để họ không phạm tội trở lại, khắc phục và loại trừ nguyên nhân, điều kiện của tái
phạm tội. Nếu phòng ngừa tái phạm là áp dụng các biện phạm nhắm đến những
người đã bị kết án (quy định tại khoản 1 Điều 53 BLHS 2015) để họ khơng phạm
tội mới thì phịng ngừa tái phạm tội là tác động đến tất cả những người đã từng 1 lần
thực hiện hành vi phạm tội, đã bị kết án (kể cả người này đã được xóa án tích) để họ
không thực hiện một lần nữa hành vi phạm tội. Vì vậy, biện pháp phịng ngừa tái
phạm tội khơng chỉ hướng đến người có nguy cơ tái phạm (quy định tại khoản 1
Điều 53 BLHS 2015) mà kể cả người đã xóa án tích hoặc người khơng thuộc trường
hợp tái phạm tội (người được miễn TNHS) và người được miễn hình phạt.
Như vậy, có thể định nghĩa: Phịng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy là
việc áp dụng tổng hợp nhiều biện pháp khác nhau nhằm hướng tới việc thủ tiêu
nguyên nhân và điều kiện tái phạm tội về ma túy, ngăn ngừa người đã bị kết án về
ma túy lại tiếp tục phạm một trong các tội phạm về ma túy.
Phịng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy có những đặc điểm sau:
- Về chủ thể phòng ngừa: Chủ thể thực hiện phòng ngừa tình hình tái phạm
tội về ma túy tương đồng với chủ thể phịng ngừa tội phạm, đó là các cơ quan Nhà
nước, cá nhân có thẩm quyền, các tổ chức xã hội, mỗi người dân và chính bản thân

người phạm tội. Trong đó, chủ thể quan trọng và trước tiên là các cơ quan ban hành
chính sách, pháp luật; cơ quan chuyên trách phòng, chống tội phạm và tái phạm tội;
gia đình và cơ quan, chính quyền địa phương trong việc giáo dục, cải tạo, giám sát,
động viên người từng phạm tội và bị kết án về ma túy không tái phạm tội.
- Về đối tượng phòng ngừa: Đối tượng phịng ngừa tình hình tái phạm tội về
ma túy là những người đã có hành vi phạm tội về ma túy và đã bị kết án (bao gồm:
Người chấp hành xong án phạt tù trở về địa phương; người đang chấp hành các hình
phạt khác tại địa phương như: Cải tạo không giam giữ, án treo...; người đang chấp
hành án trong trại giam…; kể cả người đã được xóa án tích).
17


1.2.1.2. Mục đích, ý nghĩa phịng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy
- Về mục đích
Mục đích phịng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy là hướng đến việc hạn
chế đến mức thấp nhất tình trạng tái phạm tội về ma túy. Tức là, áp dụng các biện
pháp để làm cho một người đã từng thực hiện hành vi phạm tội về ma túy sẽ không
tiếp tục thực hiện hành vi phạm tội về ma túy. Phịng ngừa tình hình tái phạm tội về
ma túy cần sử dụng các biện pháp phù hợp để tác động làm thay đổi nhận thức của
những người đang hoặc sẽ có ý định tái phạm tội về ma túy, để họ từ bỏ ý định và
hành vi phạm tội; sử dụng tổng hợp các biện pháp không để tiếp tục hình thành và
tồn tại các nguyên nhân, điều kiện tái phạm tội về ma túy, hạn chế, cô lập, tiến tới
triệt tiêu các nguyên nhân, điều kiện dẫn đến tái phạm tội về ma túy.
- Về ý nghĩa
+ Ý nghĩa chính trị: Tái phạm tội về ma túy là một hiện tượng đặc biệt của
tội phạm, vừa thể hiện sự kém hiệu quả trong cơng tác phịng ngừa tội phạm, vừa
thể hiện sự không phù hợp của các biện pháp tác động đến người đã từng phạm tội
về ma túy. Hiện tượng này đi ngược lợi ích xã hội, gây ra thiệt hại về nhiều mặt cho
xã hội, ảnh hưởng xấu đến tình hình ANCT và TTATXH. Tội phạm về ma túy
thường liên quan đến nhiều loại tội phạm khác, như: Tội trộm cắp tài sản, tội cướp

giật tài sản… và các tệ nạn xã hội, như: Mại dâm, sử dụng trái phép chất ma túy…
Phòng ngừa nhằm giảm thiểu tình hình tái phạm tội về ma túy nói riêng và tái phạm
tội nói chung sẽ góp phần đảm bảo ANCT, TTATXH, tạo niềm tin của nhân dân
vào chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
+ Ý nghĩa kinh tế: Cơng tác phịng, chống tái phạm tội về ma túy có liên hệ
mật thiết với cơng tác cai nghiện, chữa bệnh cho người sử dụng ma túy; giáo dục,
dạy nghề cho người từng phạm tội về ma túy; tuyên truyền phòng, chống ma túy…
đòi hỏi huy động nguồn lực con người, tài chính to lớn, lâu dài. Làm tốt cơng tác
phịng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy, sẽ giảm áp lực cho các công tác nói
trên, Nhà nước sẽ tập trung được nguồn lực đầu tư cho những lĩnh vực khác và tận
dụng được nguồn nhân lực từ chính những người từng phạm tội về ma túy. Bên
cạnh đó, số tiền hàng năm được người nghiện trên khắp cả nước chi tiêu cho ma túy
18


rất lớn. Làm tốt cơng tác phịng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy, số tiền trên
có thể được sử dụng vào mục đích khác tích cực hơn, góp phần cải thiện cuộc sống
của bản thân, gia đình họ. Ngoài ra, để một người tái phạm tội về ma túy, Nhà nước
sẽ phải chi một khoản kinh phí không nhỏ cho việc điều tra, truy tố, xét xử và thi
hành án đối với những người này. Khi người này phải chấp hành hình phạt, nhất là
hình phạt tù thì gia đình và xã hội lại mất đi một nguồn lao động có thể làm ra kinh
tế giúp cho đời sống của chính gia đình họ và đỡ gánh nặng cho xã hội.
+ Ý nghĩa xã hội: Ma túy và tệ nạn ma túy có tác hại to lớn, lâu dài không
chỉ đối với bản thân người nghiện mà còn đối với xã hội. Người nghiện ma tuý bị
suy giảm sức lao động, giảm hoặc mất khả năng lao động và khả năng tập trung trí
óc, dễ mắc các bệnh truyền nhiễm (HIV/AIDS, HPV…) do dùng chung dụng cụ
tiêm chích ma túy. Người tái phạm tội về ma túy, người nghiện ma túy có độ tuổi từ
18 đến 30, đây là nguồn lực chính đóng góp vào phát triển kinh tế - xã hội đất nước
và đảm bảo giống nịi. Làm tốt cơng tác này góp phần bảo đảm nguồn lực xã hội,
bảo đảm sức khỏe con người khỏi hủy hoại của ma túy. Mặt khác, để phòng ngừa

tái phạm tội về ma túy đòi hỏi người đã từng phạm tội về ma túy, sau khi chấp hành
xong hình phạt, trở về học tập, sinh sống và làm ăn cần tích cực sửa chữa lỗi lầm
ngay trong mơi trường sống hàng ngày dưới sự giám sát, giáo dục, động viên, tạo
điều kiện của cơ quan, tổ chức, đoàn thể, xã hội, gia đình nơi người đó làm việc,
cơng tác, học tập hoặc cư trú. Vai trò của các cơ quan có thẩm quyền, gia đình và
nhân dân tham gia trong việc giúp đỡ, giám sát, giáo dục những người này là rất
quan trọng, góp phần họ có điều kiện lao động, tu dưỡng, rèn luyện tại địa phương
để hoàn lương và sớm hoà nhập với cộng đồng.
1.2.2. Cơ sở phịng ngừa tình hình tái phạm tội về ma túy
1.2.2.1. Cơ sở chính trị
Cơ sở chính trị trong phịng ngừa tình hình tái phạm chính là những chủ
trương, đường lối của Đảng về phịng ngừa tình hình tội phạm nói chung, phịng
ngừa tái phạm tội về ma túy nói riêng được thể hiện tại các văn kiện Đại hội Đảng,
các Nghị quyết của Bộ Chính trị và các văn bản triển khai của cấp ủy Đảng, chính
quyền địa phương. Nội dung của các văn kiện này chính là kim chỉ nam để Đảng ủy
19


các cấp triển khai chỉ đạo, lãnh đạo các hoạt động phòng, chống tội phạm tại từng
địa phương. Trên cơ sở các đường lối chủ trương của Đảng, chính quyền các cấp sẽ
hiện thực hóa bằng các chiến lược, kế hoạch, chương trình hành động cụ thể nhằm
đấu tranh phịng, chống có hiệu quả đối với tình hình tội phạm nói chung và tình
hình tái phạm tội về ma túy nói riêng.
1.2.2.2. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của phịng ngừa tái phạm tội về ma túy chính là tồn bộ nền
tảng lý luận về phịng ngừa tình hình tội phạm mà trước hết là những nền tảng lý
luận của Chủ nghĩa Mác - Lê nin về phòng ngừa tội phạm. C. Mác (Karl Marx) và
Ph. Ăngghen (Friedrich Engels) cho rằng: Phương hướng cơ bản nhất của đấu
tranh phòng, chống tội phạm là hoạt động phòng ngừa. Điểm xuất phát là phải tổ
chức lại xã hội, thực hiện tốt chính sách xã hội vì con người, giáo dục con người

mới trong xã hội, giải phóng con người ra khỏi các thói xấu của những hình thái
kinh tế - xã hội cũ thì sẽ giải phóng tận gốc rễ ngun nhân làm phát sinh tội phạm.
V.I. Lênin (Vladimir Ilyich Lenin) đã tiếp tục phát triển học thuyết “phòng
ngừa xã hội” của C. Mác và Ph. Ăngghen. V.I. Lênin cho rằng: Muốn phịng ngừa
tội phạm trong điều kiện XHCN thì phải tăng cường công tác giáo dục và nâng cao
đời sống vật chất, văn hoá cho nhân dân, tạo điều kiện cho việc thủ tiêu tội phạm.
V.I. Lênin nhấn mạnh: “Sẽ rơi vào Chủ nghĩa không tưởng nếu nghĩ rằng sau khi
lật đổ Chủ nghĩa tư bản, người ta có thể làm việc ngay trong xã hội mà không cần
một chuẩn mực pháp luật nào…” [36, tr.122, 405].
- Quan điểm phòng ngừa tội phạm của Tội phạm học Việt Nam
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền móng cho lý luận về phòng, chống
tội phạm ở Việt Nam. Người đã chỉ ra: “Phòng ngừa tội phạm ở Việt Nam phải
được coi là nhiệm vụ của toàn xã hội. Phải đề phòng và ngăn chặn những hoạt
động phạm pháp khác của bọn trộm cướp và những phần tử tội phạm khác” [33,
tr.22]. Người cho rằng, khi tội phạm xảy ra thì phải tìm mọi cách hạn chế, khơng để
cho tội phạm tái diễn gây ra tội ác cho xã hội.
Trong các nghiên cứu của mình, GS.TS. Đào Trí Úc cho rằng: Nguyên nhân
và điều kiện của tình hình tội phạm được hiểu là những mâu thuẫn của những quá
20


×