Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Nghiên cứu một số đặc điểm tái sinh tự nhiên của cây sồi phảng lithocarpus fissus champ ex benth a camus tại một số vùng sinh thái ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.47 MB, 79 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LÂM NGHIỆP
----------

---------

NGUYỄN DUY BIÊN

NGHIÊN CỨU MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM TÁI SINH
TỰ NHIÊN CỦA CÂY SỒI PHẢNG (LITHOCARPUS FISSUS
(CHAMP. EX BENTH.) A.CAMUS) TẠI MỘT SỐ VÙNG
SINH THÁI Ở VIỆT NAM

CHUYÊN NGÀNH LÂM HỌC
MÃ SỐ: 60.62.02.01

LUẬN VĂN THẠC SỸ LÂM NGHIỆP

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. ĐÀO CÔNG KHANH


1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Sự cần thiết của đề tài
Tái sinh rừng là một q trình sinh học mang tính đặc thù của hệ sinh thái.
Nó bảo đảm cho nguồn tài nguyên rừng có khả năng tái sản xuất mở rộng, nếu nắm


được qui luật tái sinh, chúng ta sẽ điều khiển qui luật đó phục vụ cho các mục tiêu
kinh doanh. Vì vậy, tái sinh rừng trở thành vấn đề quan trọng trong việc xác định
các phương thức kinh doanh rừng.
Hiện nay trong nhiều vùng rừng tự nhiên của nước ta đã mất rừng do sử
dụng phương thức khai thác - tái sinh khơng đáp ứng được những lợi ích lâu dài của
nền kinh tế và bảo vệ môi trường. Các phương thức khai thác - tái sinh không hợp
lý đã và đang làm cho rừng tự nhiên suy giảm cả về số lượng và chất lượng. Ở Việt
Nam, năm 1943 diện tích rừng cịn khoảng 14,3 triệu ha, tỷ lệ che phủ khoảng 43%
trong đó chủ yếu là rừng tự nhiên, chất lượng tốt. Đến năm 1999, theo số liệu thống
kê chỉ cịn 10,9 triệu ha rừng, trong đó 9,4 triệu ha rừng tự nhiên và 1,5 triệu ha
rừng trồng với độ che phủ tương ứng là 33,2%.
Trong bối cảnh như vậy, cũng như nhận thức được tầm quan trọng của
ngành lâm nghiệp đối với sự ổn định xã hội, vấn đề đặt ra đối với ngành lâm nghiệp
hiện nay là làm thế nào để phát triển ngành lâm nghiệp theo hướng hiện đại, hiệu
quả và bền vững.
Qua hơn 40 năm nghiên cứu và sử dụng cây bản địa để trồng rừng trên các
vùng đã thu được nhiều kết quả nhưng cũng cịn khơng ít hạn chế. Thành quả chính
là sơ bộ chọn được gần 100 lồi cây kể cả 30 loài cây nhập nội, bước đầu đáp ứng
mục tiêu trồng rừng sản xuất và trồng rừng phòng hộ (theo quyết định 680/1986 của
Bộ Lâm nghiệp cũ) [5]. Tiếp theo đã chọn được 50 - 52 loài cây bản địa cho trồng
rừng sản xuất cung cấp gỗ lớn, gỗ nhỏ và lâm sản ngoài gỗ (theo quyết định
16/2005 của Bộ NN&PTNT) [7] bao gồm cả cây lá rộng, lá kim, tre mây và cây
thân thảo. Theo đó có 28 loài (11 loài gỗ lớn) đã được nghiên cứu tương đối có hệ
thống và 50 lồi đã được đưa vào sản xuất với quy mơ khác nhau. Gần 22 lồi cây
gỗ lớn được trồng trên diện tích hàng trăm đến hàng ngàn ha nhưng cũng chỉ mới


2

có 18 lồi có tiêu chuẩn ngành về quy trình hay quy phạm kỹ thuật trồng rừng. Hạn

chế chính của vấn đề này là tập đồn cây trồng rừng cịn quá nhiều chủng loài, dàn
rộng và thiếu tập trung cho những cây mũi nhọn. Phần lớn các loài được xác định
chủ yếu dựa trên cơ sở tổng kết kinh nghiệm và định tính, cịn thiếu những kết quả
nghiên cứu theo chiều sâu, theo định hướng căn cứ vững chắc để xây dựng kỹ thuật
một cách hệ thống và khép kín, đáng chú ý là là chưa tập trung ưu tiên nghiên cứu
một số lồi cây chủ lực có tính mũi nhọn cho sản phẩm có giá trị cao đối với xuất
khẩu.
Theo yêu cầu chung của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nơng thơn (2013)
[12] đã có Quyết định số 1565/QĐ-BNN-TCLN phê duyệt Đề án tái cơ cấu ngành
Lâm nghiệp và Quyết định số 774/QĐ-BNN-TCLN (2104) [13] về kế hoạch phát
triển và kinh doanh gỗ lớn giai đoạn 2014 – 2020.
Để kịp thời phục vụ Đề án và Kế hoạch nói trên ngày 17/11/2014 Bộ NN &
PTNT đã có Quyết định số 4961/QĐ-BNN-TCLN (2014) [14] ban hành danh mục
các loài cây chủ lực cho trồng rừng sản xuất và danh mục các loài cây chủ yếu cho
trồng rừng theo các vùng sinh thái lâm nghiệp.
Một trong những mục tiêu quan trọng nhất đặt ra là phải đẩy mạnh trổng
rừng cây bản địa để cung cấp gỗ lớn; do vậy trước hết phải khắc phục các hạn chế
trên, cần tập trung ưu tiên nghiên cứu một cách hoàn chỉnh theo chiều sâu, có hệ
thống cho 4 - 5 lồi cây chủ lực là lồi cây bản địa lá rộng có giá trị cao ví dụ như:
Giổi xanh, Lát hoa, Dầu rái, Sao đen, Sồi phảng. Đây cũng là những loài cây bản
địa đã được đưa vào danh lục các loài cây bản địa phục vụ trồng rừng do Bộ NN &
PTNT ban hành, nhưng phần lớn chưa được nghiên cứu từ đặc điểm sinh học, lâm
học quần thể, sinh lý hạt giống, kỹ thuật gieo ươm đến trồng, chăm sóc và ni
dưỡng rừng.
Sồi phảng (Lithocarpus fissus (Champ. ex Benth.) A.Camus) được biết đến
là loài cây gỗ lớn, đa tác dụng (lấy gỗ, phòng hộ, vỏ làm nguyên liệu chiết xuất ta
nin) và có phân bố rộng. Gỗ Sồi phảng rắn, khơng mối mọt, độ thon nhỏ thường
được dùng làm nhà, làm trụ mỏ và các đồ dùng hàng ngày (Lê Mộng Chân và Lê
Thị Huyền, 2006). Với đặc tính ưu việt là loài cây sinh trưởng nhanh, khả năng



3

chống chịu cao, tái sinh tự nhiên tốt,... Sồi phảng thường được lựa chọn trồng ở
những nơi điều kiện lập địa ít bị suy thối hoặc làm giàu rừng hay phục hồi rừng tự
nhiên bị suy thoái.
Trong những năm gần đây có một số cơng trình nghiên cứu về cây Sồi
phảng. Tuy nhiên, các cơng trình đó mới chỉ dừng lại ở mức độ khái quát, chưa
nghiên cứu sâu về đặc điểm tái sinh. Việc đánh giá, phân tích một số đặc điểm tái
sinh của rừng tự nhiên có Sồi phảng phân bố nhằm góp phần đề xuất biện pháp kỹ
thuật gây trồng, phục hồi rừng bằng cây Sồi phảng là cần thiết. Chính vì lý do đó đề
tài “Nghiên cứu một số đặc điểm tái sinh tự nhiên của cây Sồi phảng
(Lithocarpus fissus (Champ. ex Benth.) A.Camus) tại một số vùng sinh thái ở
Việt Nam” được đặt ra nghiên cứu nhằm góp phần đề xuất biện pháp kỹ thuật gây
trồng, phục hồi rừng bằng cây Sồi phảng. Đây cũng là cơ sở góp phần quản lý một
lồi cây bản địa đa tác dụng, có giá trị, bổ sung vào tập đoàn cây trồng cho các
vùng sinh thái của Viê ̣t Nam, nhằm khai thác tối ưu những giá trị của rừng Sờ i
phảng tự nhiên, góp phần phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập và xố đói giảm
nghèo cho người dân.
2. Mục đích nghiên cứu
- Xác định được một số đặc điểm tái sinh của cây Sồi phảng phân bố trong
rừng tự nhiên ở vùng Trung tâm Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và Tây Nguyên.
- Đề xuất được biện pháp kỹ thuật khoanh nuôi tái sinh rừng tự nhiên bằng
cây Sồi phảng.
3. Đố i tươ ̣ng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu là những lâm phần rừng tự nhiên có Sồi phảng là một
trong những loài chiếm ưu thế ở một số địa phương.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
3.2.1. Về không gian: Nghiên cứu tập trung ở Đoan Hùng - Phú Thọ đại diện

cho vùng Trung tâm Bắc Bộ, Con Cuông - Nghệ An đại diện cho vùng Bắc Trung
Bộ và K’Bang - Gia Lai đại diện cho vùng Tây Nguyên. Riêng nội dung theo dõi
vật hậu chỉ thực hiện ở Đoan Hùng – Phú Thọ.


4

3.2.2. Về thời gian: Thời gian nghiên cứu bắt đầu từ tháng 5/2015 và kết
thúc vào tháng 10/2015.
3.2.3. Về nội dung: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu một số đặc điểm lâm học
gồm: Phân bố tự nhiên, sinh thái, vật hậu, tái sinh, cấu trúc lâm phần.

Hình 1: Địa điểm điều tra đặc điểm lâm học tại các tỉnh


5

4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
Những kết quả nghiên cứu của đề tài đem lại những ý nghĩa sau đây:
(1) Về lý luận: Góp phần bổ sung một số đặc điểm lâm học cây Sồi phảng ở
Việt Nam.
(2) Về thực tiễn: Những kết quả nghiên cứu sẽ là cơ sở đề xuất biện pháp
khoanh nuôi tái sinh tự nhiên cho cây Sồi phảng ở Việt Nam.


6

Chương 1
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Trên thế giới

1.1.1. Phân loại, hình thái, cơng dụng.
1.1.1.1. Phân loại:
Cây Sồi phảng (Lithocarpus fissus (Champ. Ex Benth.) A. Camus) là cây
thuộc họ Dẻ (Fagaceae), chi Lithocarpus.
Tên chi Lithocarpus có nguồn gốc từ đặc điểm hạt có hình dạng tương tự
như quả đấu nhưng vỏ rất cứng, từ “Litho” trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là đá và từ
“capos” có nghĩa là hạt giống [22].
Trên thế giới, họ Dẻ (Fagaceae) có khoảng 900 lồi, phần lớn phân bố ở
vùng ơn đới Bắc bán cầu, chủ yếu ở vùng cận nhiệt đới và nhiệt đới, nhưng chưa
thấy ở Nam Phi. Phân bố tập trung nhiều nhất là ở Châu Á, đặc biệt là Việt Nam có
tới 216 lồi, ít nhất là Châu Phi và vùng Địa Trung Hải chỉ có 2 lồi (Khamleck,
2004) [15].
Nghiên cứu về phân loại, theo Bentham và Hooker (1862-1885) (dẫn theo
Nguyễn Tiến Bân, 1997) họ Dẻ chưa được coi là một taxon độc lập, các chi thuộc
họ Fagaceae được để trong họ Cupuliferae. Nhưng một trường phái khác coi họ Dẻ
là một họ riêng gồm 7 - 9 chi và chia làm 2 - 5 phân họ, như hệ thống của Milchior
(1964), hệ thống Menitsky (1984), Takhtajan A.L. (1987), Soepadmo (1972).
Năm 1996, Takhtajan A.L đã đưa ra một hệ thống phân loại riêng khác với
các hệ thống phân loại cũ, ông đồng ý với quan điểm của Kupriantova (1962) tách
chi Nothofagus ra khỏi họ Fagaceae thành một họ riêng (Khamleck, 2004) [15].
Ngoài ra một số tác giả như Lecomte H. (1929-1931) đã cơng bố họ Dẻ (Fagaceae)
ở Đơng Dương có 150 loài. Camus A. (1938) cũng nghiên cứu nhiều về họ Dẻ và
đặt tên khoa học cho nhiều loài thuộc họ này.
Nghiên cứu của Hickel. R.et Camus. A (1910) (dẫn theo Đỗ Văn Chính,
2005) [10] đã mơ tả tương đối đầy đủ về đặc điểm hình thái và phân loại đến chi,
loài thuộc họ Dẻ ở Việt Nam, Lào và Campuchia. Còn nghiên cứu của Eseepadmo
(1972) và của Liao, Jih-Ching (1996) (dẫn theo Đỗ Văn Chính, 2005) đã giới thiệu


7


khá chi tiết về phân loại, phân bố, giá trị sử dụng của các loài thuộc họ Dẻ ở
Malaysia và Đài Loan.
Theo Liu Maosong and Hong Bigong (1998) [50] họ Dẻ ở Trung Quốc là
một trong những họ quan trọng nhất ở khu vực ôn đới và cận nhiệt đới, có 7 chi,
trong đó có khoảng 352 lồi và các biến thể khác. Sự phân bố của loài phong phú
về chỉ số loài đặc hữu và các mối quan hệ của chúng với các đặc điểm khí hậu và
địa lý của họ Dẻ cũng đã được nghiên cứu.
Theo Huang Chengchiu, Chang Yongtian, Hsu Yongchun & Jen Hsienwei
(1998) [42] tại Trung Quốc có 7 chi và 294 lồi, trong đó có 163 lồi đặc hữu, ít
nhất có 3 lồi đã được giới thiệu. Tại Trung Quốc cây Sồi phảng ngoài tên khoa học
(Lithocarpus fissuss (Cham. Ex Benth.) A. Camus) còn được chấp nhận với tên
khác là (Castanopsis fissa (Champ. Ex Benth.) Rehd. Et Wils) [43].
Theo Chamlong Phengklai (2006) [38] tại Thái Lan họ Dẻ gồm có 4 chi với
119 lồi, 2 phân lồi và 2 giống bản địa.
1.1.1.2. Hình thái:
Sồi phảng được mơ tả khá kỹ về đặc điểm hình thái. Đây là cơ sở khoa học
cho việc định loại và phân biệt Sồi phảng với những loài khác, đặc biệt là với
những lồi cùng chi với nó. Việc mơ tả hình thái lồi nhìn chung có sự thống nhất
cao giữa các tác giả ở nhiều quốc gia và tổ chức nghiên cứu khoa học khác nhau.
Theo Manos, Paul S., Zhe-Kun Zhou anh Charles H. Canon, (2001) [51], Li
Shou Zhui [46] thì Sồi phảng là cây gỗ nhỡ, chiều cao khoảng 20m, thân thẳng,
phân cành cao, vỏ mỏng màu xám nhạt với các vết nứt dọc theo thân, vỏ dày 3 –
5mm, cây non có vỏ nhẵn. Lá đơn mọc cách, có là kèm sớm rụng, phiến lá có hình
trứng ngược hoặc mác ngược, dài 12 – 18cm, rộng 5 – 8cm, bề mặt trên nhẵn, bề
mặt dưới màu xám xanh được phủ lông ngắn mềm màu gỉ sắt, gân bên 14 – 20 rõ
ràng. Hoa đơn tính cùng gốc, hoa đực dạng bơng đi sóc ở cuối cành, hoa có dạng
bơng ngắn; bao hoa có 3 ơ, mỗi ơ có 2 noãn; cụm hoa dài 6 – 15cm, 1 hoa thường
có 5 – 7 quả tập trung trên một cuống. Quả hạch, khơng có cuống, dài 1,5cm và
rộng 0,8 – 1cm. Quả đơn hoặc 2 – 3 quả trong một đấu, quả hình trứng ngược, đầu

có mũi nhọn ngắn.


8

1.1.1.3. Cơng dụng:
Hầu hết các lồi trong họ Dẻ cho gỗ cứng, nặng, ít bị mối mọt, có thể dùng
làm nhà, đóng tàu xe, làm cầu, trụ mỏ, đồ gia dụng. Ngồi ra vỏ cây có nhiều tanin
dùng để thuộc da, nhuộm vải có giá trị. Đặc biệt, các lồi thuộc chi Castanopsis có
thể xếp vào loại cây đa tác dụng vừa cho gỗ, củi, hạt, tanin và thân cây dùng trồng
nấm. (Khamleck, 2004) [16][35].
1.1.2. Phân bố và sinh thái
Là lồi cây mọc nhanh, ưa sáng nên có phân bố rộng ở rừng nhiệt đới ẩm
thường xanh ở Trung Quốc, Thái Lan, Lào và Malaysia… thường gặp Sồi phảng ở
độ cao dưới 1.600m so với mực nước biển [51].
1.1.3. Sinh trưởng, tái sinh và trồng rừng
Chưa cập nhật được thông tin gì về sinh trưởng và tái sinh của lồi này ở
trên thế giới ngoại trừ một số kết quả trong các thí nghiệm về phương thức trồng,
bón phân, biện pháp canh tác ở Trung Quốc.
Theo Wang J, Wang ZH, Yang L, Ren H (2008) [52] khi nghiên cứu về tác
động của lớp đất phủ trên bề mặt hạt giống và số lần tưới nước đến tỷ lệ này mầm
của hạt giống và khả năng sinh trưởng của cây con Sồi phảng cho thấy rằng ảnh
hưởng của lớp đất phủ trên bề mặt tới sự nảy mầm của hạt giống phụ thuộc vào
điều kiện độ ẩm của lớp đất nền. Khi số lần tưới nước là 1 lần/ngày thì độ dày lớp
đất phủ bề mặt hạt giống có thể hạn chế tỷ lệ nảy mầm của hạt giống và làm tăng tỷ
lệ chết đối với cây con, trong khi tưới nước 2 – 3 lần/ngày, bao gồm cả cải thiện
điều kiện độ ẩm của lớp đất nền, sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự nảy mầm của hạt
giống và sinh trưởng của cây giống. Sinh trưởng của cây giống Sồi phảng đã được
tăng cường đáng kể bởi lớp đất phủ trên bề mặt. Thí nghiệm trên đã chỉ ra rằng việc
giữ một lớp đất phủ trên bề mặt có thể ảnh hưởng đến sự nảy mầm của hạt giống và

sự sống sót của cây giống Sồi phảng.
Theo Feng Sui-qi (2010) [40] khi nghiên cứu so sánh kết quả trồng rừng hỗn
giao giữa lồi Sổi phảng với Thơng mã vĩ theo các tỷ lệ hỗn giao khác nhau tại
trang trại Nam Bình tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, kết quả cho thấy tỷ lệ hỗn giao
khác nhau đã ảnh hưởng đáng kể đến khả năng sinh trưởng đường kính ngang ngực,


9

chiều cao vút ngọn, lượng tăng trưởng, suất tăng trưởng và trữ lượng của rừng trên
một đơn vị diện tích. Trồng rừng hỗn giao giữa lồi Sồi phảng với Thơng mã vĩ có
thể nâng cấp tính ổn định của rừng và năng suất của đất lâm nghiệp. Nghiên cứu tỷ
lệ hỗn giao khác nhau giữa các mơ hình bao gồm các cơng thức thí nghiệm: thuần
lồi Sồi phảng, tỷ lệ 7 Sồi phảng + 3 Thông mã vĩ, 5 Sồi phảng + 5 Thông mã vĩ, 3
Sồi phảng + 7 Thơng mã vĩ và thuần lồi Thơng mã vĩ. Kết quả cho thấy tỷ lệ hỗn
giao 7 Sồi phảng + 3 Thơng mã vĩ có lượng tăng trưởng cao nhất, tiếp theo là tỷ lệ 5
Sồi phảng + 5 Thông mã vĩ và thuần lồi Thơng mã vĩ cho lượng tăng trưởng thấp
nhất. Như vậy, tỷ lệ hỗn giao thích hợp là 7 Sồi phảng + 3 Thông mã vĩ giúp cho
tăng trưởng về đường kính và chiều cao cho cả hai loài này đạt cao nhất.
Theo Li Po Lin Shaohui (2001) [49] khi nghiên cứu về bón phân cho loài
cây Sồi phảng trồng được 1 năm tuổi tại huyện Tây An, tỉnh Quảng Đông, Trung
Quốc đã cho thấy khả năng sinh trưởng đáng kể so với khơng bón phân. Trong năm
đầu tiên sau khi bón phân chuồng, chăm sóc tổng hợp với phân bón Sồi phảng có
mức tăng trưởng chiều cao tăng 81% so với khơng bón phân, cịn với bón phân urê
có mức tăng trưởng 42% so với khơng bón. Trong năm thứ ba, tăng trưởng chiều
cao của cả hai thí nghiệm bón phân trên đều có sự tăng trưởng đáng kể so với
khơng bón phân, nhưng ở các năm tiếp theo sự khác biệt về tăng trưởng giảm dần.
Chen Bo, Jiang Zhurong, Zhang Jie, Wu Zhongqing, Xu Yingbao, Chen
Hongyue (2009) [39] khi nghiên cứu sinh trưởng của các biện pháp canh tác khác
nhau tới khả năng sinh trưởng của cây Sồi phảng, tác giả đã tiến hành trồng thử

nghiệm 12 công thức áp dụng các biện pháp canh tác khác nhau trên các vùng đất
đồi tại một huyện phía Bắc của tỉnh Quảng Đơng, Trung Quốc. Bằng cách thiết lập
12 ô mẫu cố định lâu dài (đánh số từ 1 đến 12) và thu thập số liệu sinh trưởng của
tất cả các cá thể của quần thể Sồi phảng, rồi tiến hành so sánh sinh trưởng của tất cả
các cá thể của quần thể Sồi phảng, sau đó tiến hành so sánh sinh trưởng của cây
theo các biện pháp: (i) chăm sóc khác nhau; (ii) mật độ trồng khác nhau (500
cây/ha, 800 cây/ha, 1.000 cây/ha, 1.200 cây/ha); (iii) kích thước hố khác nhau (30 x
30 x 30cm; 40 x 40 x 40cm; 50 x 40 x 30cm; 50 x 50 x 50cm). Kết quả cho thấy
khả năng sinh trưởng khác nhau khá rõ rệt giữa 12 ô mẫu, biện pháp chăm sóc ở ơ


10

số 12 cho khả năng sinh trưởng tốt nhất, mật độ trồng ở ô số 8 (800 cây/ha) cho khả
năng sinh trưởng tốt nhất, kích thước hố khác nhau ở ô số 6 (50 x 50x 50cm) cho
khả năng sinh trưởng tốt nhất. Trên cơ sở phân tích cụm, hiệu quả tăng trưởng của
12 ơ mẫu thí nghiệm các tác giả đã chia thành 3 loại: lô sinh trưởng nhanh, lơ sinh
trưởng trung bình và lơ sinh trưởng chậm.
1.2. Ở Việt Nam
1.2.1. Phân loại, hình thái và cơng dụng
1.2.1.1. Phân loại
Ở nước ta ngồi tên gọi phổ thơng, Sồi phảng còn được gọi với một số tên
khác như: Dẻ bốp [4], Cồng (dân tộc Đan Lai tại huyện Con Cuông, tỉnh Nghệ An),
Cà ổi đấu nẻ, Kha thụ chẻ [47]...
Về danh pháp quốc tế Sồi phảng cũng được nhiều nhà khoa học gọi với tên
khác nhau. Ở Việt Nam tên khoa học của Sồi phảng được sử dụng gồm có:
Lithocapus fissus (Champ. Ex Benth.) A. Camus; Castanopsis fissa (Champ. Ex
Benth.) Rehd. Et Wils [45]; Quercus fissa (Champ. Ex Benth.) [45]; Pasania
fissa(Champ. Ex Benth.) Oerst [45]; Castanopsis cerebrina Barnett [4].
Họ Dẻ (Fagaceae) là một trong 10 họ có số lồi lớn nhất (Nguyễn Tiến Bân,

1997; Viện địa lý, 1999) [1], [36]. Chính vì vậy, họ Dẻ là đối tượng nghiên cứu khá
phức tạp, khơng những chúng có số lồi lớn mà cịn có vùng phân bố rộng, chủ yếu
là cây gỗ lớn (Nông Văn Tiếp, Lương Văn Dũng, 2007) [29]. Hai nhà khoa học
người Pháp là Hickel. R và Camus. A là những người đầu tiên đã có nhiều cơng
trình nghiên cứu về họ Dẻ ở Việt Nam và Đông Dương. Theo các tác giả này, Họ
Dẻ có 3 chi: Quercus, Lithocarpus, Castanopsis, với tổng số 157 loài (Lecomte M.
H. (1993) [48].
Các kết quả nghiên cứu về số lượng loài trong họ Dẻ ở Việt Nam cũng rất
khác nhau. Tuy nhiên, các kết quả đều cho thấy họ Dẻ là một trong những họ có
nhiều lồi nhất nước ta. Theo Võ Văn Chi và Dương Đức Tiến (1978) về phân loại
thực vật học, tác giả cho rằng Fagaceae là họ duy nhất nằm trong bộ Fagales, ở Việt
Nam có 5 chi: Castanea, Castanopsis, Fagus, Lithocarpus và Quercus (dẫn theo
Nông Văn Tiếp và Lương Văn Dũng (2007) [29]. Trần Đình Lý và cộng sự (1993)


11

[20] nghiên cứu họ Dẻ ở Việt Nam đã nhận xét họ Fagaceae có 5 chi gồm 100 lồi.
Trong đó chủ yếu là các loài thuộc các chi Castanopsis, Lithocarpus và Quercus,
đây là những loài cung cấp gỗ và cho quả ăn được. Lê Trần Chấn và cộng sự (1999)
(dẫn theo Nguyễn Toàn Thắng, 2008) [26] đã chỉ ra họ Dẻ là một trong 10 họ lớn
nhất Việt Nam với 213 loài. Lê Mộng Chân và Lê Thị Huyên (2000) [4] đã chỉ ra
rằng trên thế giới họ Dẻ là một họ lớn gồm 7 chi có trên 600 lồi, ở Việt Nam có 5
chi và khoảng 120 lồi. Theo Phạm Hồng Hộ (1993, 2000) [13] [14] thì Việt Nam
có 215 loài thuộc họ Dẻ. Theo Trần Hợp (2002) [15] thì họ Dẻ là họ duy nhất thuộc
bộ Dẻ, và mơ tả khá chi tiết về hình thái, đặc điểm sinh thái và vùng phân bố của 5
chi Dẻ với 59 lồi. Theo Nguyễn Tiến Bân (2003) [2] thì họ Dẻ ở Việt Nam có 6
chi gồm: Castanea, Castanopsis, Fagus, Lithocarpus, Quercus và Trigonobalanus
với 216 loài. Hiện nay chúng ta vẫn sử dụng theo hệ thống phân loại này.
Về phân loại, do là họ có số lượng lồi rất lớn nên các nghiên cứu ở nước ta

mới chỉ tập trung vào phân loại các phân họ và chi, việc phân loại đến lồi cịn rất ít
nghiên cứu.
1.2.1.2. Hình thái
Sồi phảng hay Dẻ bốp đã được mô tả là cây gỗ lớn, cao 20 – 25m, đường
kính có thể tới 80cm, thân thẳng phân cành cao, gốc có bạnh vè nhỏ. Vỏ màu xám
nhạt. Cành thẳng, tỉa cành tự nhiên tốt, mỗi năm có 2 vịng cành. Lá đơn mọc cách,
có là kèm sớm rụng, lá hình trứng ngược hoặc ngọn giáo, dài 17 – 18 cm rộng 4 –
8cm đầu có mũi nhọn ngắn, đi hình nêm, mép lá ở 3/4 phía đầu có răng cưa
nhọn; gân bên 16 – 18 đôi kéo dài tới đỉnh răng cưa. Màu sắc 2 mặt lá phân biệt rõ,
mặt trên xanh thẫm, mặt dưới phủ lơng ngắn màu gỉ sắt óng ánh. Cuống lá dài 1,5 –
2cm. Hoa đơn tính cùng gốc; bơng đi sóc đực dựng đứng nghiêng, bao hoa 6, nhị
10 – 12; bơng đi sóc cái dài 5 – 6 cm, hoa cái thưa trải đều trên bơng. Đấu có
cuống ngắn 0,4 cm; đường kính 1,7 – 1,8 cm bọc 1/2 – 2/3 quả, phía trong phủ
nhiều lơng mịn, phía ngồi phủ lơng vàng óng ánh. Vảy trên đấu thưa, hình thn
dài, xếp thành nhiều hàng khơng đều. Quả hình trụ đầu có mũi nhọn ngắn, dễ rời
khỏi đấu, dài 2,5 cm, đường kính 1,5cm; sẹo phẳng hoặc hơi lồi, đường kính 0,6 –
0,7 cm. Khi chín quả màu nâu vàng. Rễ cọc ngắn không ăn sâu, hệ rễ bên thường


12

rộng hơn đường kính tán lá. Cây có khả năng liền rễ (Lê Mộng Chân và Lê Thị
Huyên, 2006) [5].
1.2.1.3. Cơng dụng:
Gỗ Sồi phảng có lõi mầu nâu đến vàng sẫm, vân hơi thẳng, kết cấu mịn,
mềm và hơi nặng, dễ chế biến nhưng kém chịu mục mọt. Được dùng làm gỗ xây
dựng, làm dụng cụ gia đình, hịm. Vỏ cây và đấu quả chứa nhiều tanin. Hạt dùng
làm thuốc trị đau họng, lá dùng ngồi trị địn, ngã tổn thương và ghẻ lở [47].
Theo Lê Mộng Chân và Lê Thị Huyên (2000) [4] thì gỗ Sồi phảng là gỗ
cứng, không mối mọt, độ thon nhỏ thường được dùng làm nhà, làm trụ mỏ và các

đồ dùng hàng ngày.
Theo Nguyễn Bá Chất (1999) [7], Sồi phảng là loài cây rất thích hợp để làm
gỗ trụ mỏ, là một trong những lồi cây dùng để trồng rừng bổ sung trong khoanh
ni, nhất là những vùng tạo rừng để cung cấp gỗ mỏ bởi khả năng cung cấp hạt
giống, sinh trưởng nhanh, có tính quần hợp cao.
1.2.2. Phân bố và sinh thái
Sồi phảng phân bố tự nhiên ở các rừng thứ sinh từ các tỉnh phía Bắc như
Quảng Ninh, Phú Thọ, Yên Bái đến các tỉnh miền Trung và Tây Nguyên. Thường
gặp Sồi phảng mọc ở độ cao 50 – 1.200m so với mực nước biển. Sồi phảng là cây
ưa sáng, lúc nhỏ thích hợp với độ tàn che 0,5 – 0,6; thường mọc ở sườn ngồi bìa
rừng hoặc ở những chỗ trống trong rừng tự nhiên. Do thân tròn thẳng, phân cành
cao, độ thon nhỏ nên Sồi phảng rất thích hợp cho việc trồng rừng cung cấp gỗ lớn
(Lê Mộng Chân, 2006) [5].
Kết quả nghiên cứu về nhóm lồi sinh thái của Viện Điều tra quy hoạch rừng
(1971) cho thấy Sồi phảng thường sống với các loài Lim xanh, Dẻ, Ràng ràng,
Chẹo tía, Re, Máu chó, Gội, Táu, Xoan đào,... Phần lớn gặp trong rừng thứ sinh, có
khi chúng chiếm tỷ lệ cao trong tổ thành. Một số nơi như ở Tiên Yên (Quảng Ninh),
Quỳ Châu (Nghệ An) có những quần thụ Sồi phảng chiếm 75-80% tổ thành loài.
Lập địa trồng thích hợp cho Sồi phảng là nơi đất ẩm mát, thoát nước, thành
phần cơ giới từ thịt nhẹ đến sét nhẹ, pH = 4-5, tầng đất 40-50cm, nhiệt độ bình quân


13

từ 18-250C và lượng mưa 1.500-2.000mm/năm, độ cao dưới 800m so với mực nước
biển (trang web Agriviet.com).
1.2.3. Sinh trưởng, tái sinh và trồng rừng
Nghiên cứu về đặc điểm sinh trưởng, Nguyễn Văn Huy (1990) [16] cho thấy
Sồi phảng là loài cây có sinh trưởng nhịp điệu, mỗi năm có hai mùa sinh trưởng, đó
là mùa Xuân và mùa Hạ, tạo thành hai vòng cành liền nhau. Mỗi năm Sồi phảng đổi

trục một lần, một chồi bên mọc thấp hơn, đỉnh sinh trưởng cũ ngừng sinh trưởng và
teo đi. Sồi phảng ở tuổi 2 và 3 có sự đổi ngọn đặc biệt, từ một vị trí nách lá sát đất,
một chồi phát triển mạnh, sau 1 năm cao hơn chồi cũ, sau đó thay thế chồi cũ.
Theo Nguyễn Bá Chất (1999) [2], lượng tăng trưởng hàng năm của Sồi
phảng khác nhau giữa cây tự nhiên và cây trồng, giữa các độ tàn che khác nhau. Sồi
phảng mọc tự nhiên có lượng tăng trưởng hàng năm cao nhất từ tuổi 8 đến tuổi 15,
còn ở rừng trồng cao nhất ở tuổi 6 đến tuổi 15. Sồi phảng trồng ln có lượng tăng
trưởng cao hơn cây mọc tự nhiên ở cùng độ tuổi.
Nghiên cứu khả năng tái sinh tự nhiên của Sồi phảng dưới một số trạng thái
rừng tự nhiên, Nguyễn Bá Chất (1999) [2] cũng cho thấy Sồi phảng có khả năng tái
sinh hạt và chồi rất mạnh. Tuy nhiên số lượng cây Sồi phảng tái sinh hạt có sự khác
biệt giữa các độ tàn che. Nơi độ tàn che nhỏ (0,3) thì số lượng cây tái sinh có chiều
cao lớn hơn 1m ln cao hơn ở nơi có độ tàn che cao (0,6).
Nghiên cứu về chọn giống Sồi phảng đến nay vẫn cịn ít được quan tâm.
Xuất phát từ nhu cầu sản xuất thực tiễn là hàng năm nước ta cần khoảng 800kg hạt
giống Sồi phảng để trồng khoảng 2.000hecta ở các vùng Tây Bắc, Trung Tâm,
Đông Bắc và Bắc Trung Bộ thì việc chọn giống Sồi phảng càng trở nên cấp thiết
hơn bao giờ hết. Chiến lược phát triển giống cây lâm nghiệp giai đoạn 2006 - 2020
đã được Bộ NN&PTNT ban hành theo số 62/2006/QĐ-BNN ngày 16/8/2006 thì
cây Sồi phảng là một trong những loài được ưu tiên phát triển giống phục vụ công
tác trồng làm giàu rừng và khoanh nuôi xúc tiến tái sinh.
Kết quả điều tra ban đầu của dự án “nâng cao chất lượng rừng giống một số
loài cây bản địa phục vụ làm giàu rừng và khoanh nuôi xúc tiến tái sinh” do Trung
tâm Nghiên cứu Lâm đặc sản – Viện KHLN Việt Nam thực hiện cho thấy tại các


14

tỉnh Yên Bái, Phú Thọ, Quảng Ninh và Nghệ An hiện có khoảng 39 hecta rừng cây
mẹ Sồi phảng có thể tuyển chọn và chuyển hóa thành rừng giống.

Trong thời gian qua Công ty lâm nghiệp Con Cuông (Nghệ An) đã ứng dụng
các tiến bộ khoa học kỹ thuật để tuyển chọn các cây trội từ 30 hecta rừng Sồi phảng
nhằm chuyển thành rừng giống Sồi phảng, lấy hạt giống và tạo cây con cung cấp
cho thị trường quanh vùng.
Như vậy, nghiên cứu chọn giống Sồi phảng tại một số địa phương mới chỉ
dừng lại ở mức độ chuyển hóa rừng giống từ rừng trồng sẵn có mà chưa có các
nghiên cứu hệ thống từ khâu khảo nghiệm xuất xứ, chọn lọc cây trội đến khảo
nghiệm hậu thế và nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật nhân giống để cung cấp giống
có chất lượng cao cho trồng rừng tại các vùng lâm nghiệp trọng điểm. Đây cũng là
vấn đề tồn tại cần nghiên cứu giải quyết trong thời gian tới.
Nghiên cứu xây dựng mơ hình trồng rừng hỗn lồi bằng các lồi cây lá rộng
bản địa trên đất rừng thối hố ở các tỉnh phía Bắc, Nguyễn Bá Chất và Hoàng Văn
Thắng (2004) [25] đã sử dụng cây Sồi phảng để trồng hỗn loài với các loài cây bản
địa khác như Lim xanh, Trám trắng, Vạng trứng và Re gừng tại Cầu Hai – Phú Thọ.
Trong 2 năm đầu Sồi phảng và các loài cây lá rộng bản địa đã được che bóng bởi
lớp cây phù trợ là Keo tai tượng và Cốt khí. Đến tuổi 3 và 4 đề tài đã tiến hành tỉa
cành và tỉa thưa lớp cây phù trợ, tạo điều kiện về không gian dinh dưỡng cho Sồi
phảng và các loài cây bản địa khác sinh trưởng, phát triển tốt hơn. Do được tác
động các biện pháp kỹ thuật lâm sinh phù hợp nên mặc dù được trồng trên đối
tượng đất rừng thoái hoá nhưng ngay trong những năm đầu Sồi phảng đã đạt mức
tăng trưởng là 1,6cm/năm về đường kính và 1,5m/năm về chiều cao. Đến tuổi 6 một
số cây Sồi phảng trong mơ hình đã ra hoa, kết quả. Sau 7 năm thực hiện mơ hình
cho thấy Sồi phảng cịn lại với tỷ lệ sống đạt 90 - 92% tuỳ theo từng công thức thí
nghiệm và hiện tại Sồi phảng đang sinh trưởng phát triển tốt và rất có triển vọng.
Kết quả nghiên cứu này cho thấy Sồi phảng có thể trồng hỗn lồi theo hàng với các
loài cây lá rộng bản địa khác trên đối tượng đất rừng đã thoái hoá ở các tỉnh phía
Bắc.


15


Nghiên cứu tạo rừng hỗn loài giữa Sồi phảng và Luồng ở Cầu Hai - Đoan
Hùng - Phú Thọ (Nguyễn Thị Nhung, 2004) [18] và ở Bình Thanh – Cao Phong –
Hồ Bình (Hồng Văn Thắng, 2008) [24], các tác giả cho thấy Sồi phảng trong mơ
hình hỗn lồi với Luồng sinh trưởng tương đối tốt và cũng rất có triển vọng.
Nghiên cứu làm giàu rừng bằng cây Sồi phảng cũng đã được một số tác giả
quan tâm. Sử dụng Sồi phảng và một số loài cây bản địa khác trồng làm giàu theo
rạch cho các đối tượng rừng thứ sinh nghèo tại Cầu Hai, Nguyễn Bá Chất (1995)
[3] cho thấy Sồi phảng có tỷ lệ sống cao (>85%), tăng trưởng bình qn chung về
đường kính là 1,3cm/năm và chiều cao 1,2m/năm, cây trồng sinh trưởng tốt và ít bị
sâu bệnh. Từ kết quả nghiên cứu về lâm nghiệp trang trại ở Phú Thọ, trong chương
trình hợp tác Lâm nghiệp Việt Nam – Thụy Điển, Nguyễn Bá Chất (1993) đã xây
dựng hướng dẫn kỹ thuật gây trồng Sồi phảng và một số loài cây bản địa khác. Đây
là cơ sở bước đầu để các địa phương miền Bắc áp dụng trồng rừng cho loài cây này,
nhưng chưa hoàn thiện, chưa sát thực tế.
Dự án nghiên cứu các biện pháp kỹ thuật phục hồi rừng tự nhiên bị suy thoái
ở miền Bắc Việt Nam (Dự án RENFODA – Rehabilitation of Natural Forest in
Degraded Watershed Area in the North of Vietnam) do Viện Khoa học Lâm nghiệp
Việt Nam [4] tiến hành đã sử dụng Sồi phảng và một số loài cây lá rộng bản địa
khác như Dẻ đỏ, Lim xanh, Trám trắng để trồng làm giàu rừng theo rạch và theo
đám cho đối tượng rừng thứ sinh nghèo kiệt tại Bình Thanh – Cao Phong – Hồ
Bình. Sau 4 năm thí nghiệm cho thấy trong các loài cây trồng làm giàu rừng, Sồi
phảng là lồi cây có tỷ lệ sống cao, đạt 95,4 - 96,3% và sinh trưởng tương đối tốt.
Tăng trưởng bình qn tại tuổi 4 về đường kính là 1,4cm/năm và về chiều cao là 1,5
m/năm, chưa có sự khác nhau về sinh trưởng giữa cây trồng theo rạch và trồng theo
đám ở tuổi này. Tuy nhiên, kết quả bước đầu này cho thấy Sồi phảng là lồi cây rất
có triển vọng trong việc trồng làm giàu rừng, nâng cao chất lượng rừng thứ sinh
nghèo kiệt của nước ta.
Năm 1993, đội sản xuất Lâm nghiệp Cộng Hoà, Lâm trường Cẩm Phả đã
phối hợp với Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam trồng được 2ha rừng Sồi phảng

thuần loài trên đối tượng đất rừng sau khi khai thác Bạch đàn, mật độ ban đầu là


16

500 cây/ha. Sau 7 năm trồng (1999), rừng đã khép tán, mật độ cịn lại 300 cây/ha,
chiều cao bình qn đạt 8 - 9m, đường kính ngang ngực bình qn đạt 10 - 11cm,
hình thành quần thụ Sồi phảng sinh trưởng tốt và rất có triển vọng.
Ngồi các khu rừng trồng thí nghiệm về biện pháp kỹ thuật gây trồng, Sồi
phảng còn được trồng trong các vườn sưu tập thực vật ở một số Vườn Quốc gia và
khu bảo tồn thiên nhiên. Điển hình như ở Vườn Quốc gia Bến En, Vườn quốc gia
Xuân Sơn, Khu di tích lịch sử đền Hùng, Khu vườn sưu tập thực vật của Trung tâm
Khoa học sản xuất Lâm nghiệp Đông Bắc Bộ (Đại Lải - Vĩnh Phúc), Khu vườn sưu
tập thực vật của Cầu Hai (Phú Thọ),... trong các mơ hình này Sồi phảng được trồng
thành các ô từ 20 - 40 cây. Kết quả theo dõi cho thấy Sồi phảng trồng ở các địa
phương đều có khả năng sinh trưởng tốt. Tuy nhiên mức độ tăng trưởng của chúng
phụ thuộc vào từng điều kiện lập địa cụ thể. Từ các kết quả trồng rừng bằng cây Sồi
phảng Bộ Nông nghiệp &PTNT đã ban hành danh mục các loài cây chủ yếu cho
trồng rừng sản xuất ở 9 vùng sinh thái lâm nghiệp theo quyết định số 16/2005/QĐBNN, trong đó Sồi phảng là cây trồng rừng thích hợp cho vùng Đơng Bắc và Bắc
Trung Bộ. Theo quyết định số 4961/QĐ-BNN-TCLN ngày 17/11/2014 của Bộ
NN&PTNT về danh mục các loài cây chủ lực cho trồng rừng sản xuất và danh mục
các loài cây chủ yếu cho trồng rừng theo các vùng sinh thái lâm nghiệp thì Sồi
phảng được xếp vào là 1 trong các lồi cây chủ yếu trồng rừng sản xuất ở vùng
Đơng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ.
Trên thực tế, việc trồng rừng bằng cây Sồi phảng ở các địa phương còn rất
hạn chế, các rừng Sồi phảng hiện có chủ yếu là do quá trình phục hồi tự nhiên được
bảo vệ tốt, mà hình thành.
1.3. Nhận xét chung.
Điểm qua các cơng trình nghiên cứu về các vấn đề liên quan, rút ra một số
nhận xét sau đây:

Mặc dù Sồi phảng là cây bản địa sinh trưởng nhanh, giá trị kinh tế cao nhưng
đến nay các cơng trình nghiên cứu về Sồi phảng chủ yếu là về mơ tả hình thái, phân
bố, đặc tính sinh thái. Các kết quả cịn rất ít mới chỉ tập trung nghiên cứu về một số
biện pháp kỹ thuật trồng rừng thuần tuý xây dựng các mô hình thực nghiệm nhưng


17

chưa có tổng kết đánh giá, chưa có cơng trình nào nghiên cứu toàn diện về cây Sồi
phảng. Các nghiên cứu về chọn giống và kỹ thuật trồng rừng thâm canh Sồi phảng
ở trong nước vẫn còn rất hạn chế, đặc biệt là nghiên cứu về đặc tính lâm học. Các
nghiên cứu về đặc điểm tái sinh loài cây này trong rừng tự nhiên cịn rất ít ỏi. Đây
là những vấn đề cần thiết phải nghiên cứu, góp phần làm căn cứ đểđề xuất biện
pháp kỹ thuật gây trồng, phục hồi rừng bằng cây Sồi phảng, một loài cây bản địa gỗ
lớn có triển vọng cho trồng rừng ở Việt Nam.


18

Chương 2
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Nội dung nghiên cứu:
Đề tài đặt ra nghiên cứu các nội dung sau đây:
2.1.1. Nghiên cứu một số đặc điểm hình thái và vật hậu của loài Sồi
phảng.
2.1.2. Nghiên cứu một số đặc điểm sinh thái nơi loài Sồi phảng phân bố.
2.1.3. Nghiên cứu một số đặc điểm cấu trúc quần xã thực vật rừng ảnh
hưởng đến TSTN của cây Sồi phảng.
2.1.3.1. Đặc điểm phân loại trạng thái rừng có Sồi phảng phân bố
2.1.3.2. Cấu trúc tổ thành tầng cây cao.

2.1.3.3. Cấu trúc tầng thứ.
2.1.3.4. Cấu trúc mật độ tầng cây cao
2.1.3.5. Thành phần loài cây đi kèm
2.1.3.6. Đặc điểm phân bố số cây n/D1.3, n/Hvn của Sồ i phảng.
2.1.3.7. Cấu trúc độ tàn che tầng cây cao.
2.1.4. Một số đặc điểm tái sinh của loài Sồi phảng
2.1.4.1. Cấu trúc tổ thành cây tái sinh.
2.1.4.2. Mật độ cây tái sinh.
2.1.4.3. Phân bố cây tái sinh theo cấp chiều cao và theo nguồn gốc.
2.1.4.4. Ảnh hưởng của tầng cây bụi, thảm tươi.
2.1.4.5. Phân bố tần suất cây tái sinh.
2.1.4.6. Chất lượng cây tái sinh.
2.1.5. Đề xuất biện pháp khoanh nuôi tái sinh rừng tự nhiên bằng cây Sồi
phảng.
2.2. Phương pháp nghiên cứu
2.2.1. Phương pháp nghiên cứu chung
Cây rừng luôn sinh trưởng, phát triển theo thời gian và phụ thuộc vào điều
kiện lập địa. Vì vậy, nghiên cứu đặc điểm lâm học của lồi cây là vấn đề rất phức
tạp địi hỏi phải có thời gian lâu dài thì mới có thể xác định được các đặc tính của


19

chúng. Chính vì vậy, phương pháp tiếp cận của đề tài dựa trên nguyên tắc “Lấy
không gian thay thế thời gian” để làm cơ sở nghiên cứu cho đối tượng Sồi phảng.
Sơ đồ các bước nghiên cứu như sau:

Thu thập, kế thừa các tài
liệu, số liệu đã có
Điều tra, thu thập số liệu tại hiện

trường nghiên cứu

Phân bố
Địa lý
Địa hình
Khí hậu

Hình thái

Cấu trúc tổ

vật hậu;

thành, tầng

Thời điểm

thứ, nhóm

ra hoa, kết

lồi sinh

quả, quả

thái cây

chín

tầng cao


Mật độ, tổ
thành, chất
lượng,
nguồn gốc
tái sinh

Biện
pháp
khoanh
ni tái
sinh

Tổng hợp, phân tích, đánh giá kết quả nghiên cứu

Đề xuất biện pháp kỹ thuật khoanh nuôi tái sinh rừng tự nhiên bằng
cây Sồi phảng

Hình 2.1. Sơ đồ nghiên cứu tổng quát
Đề tài luận văn áp dụng phương pháp kế thừa số liệu của đề tài cấp Bộ:
“Nghiên cứu chọn giống và kỹ thuật gây trồng cây Sồi phảng và Gáo trắng cung
cấp gỗ lớn ở một số vùng trọng điểm của Lê Minh Cường (2009 – 2013) chủ trì và
thực hiện”.
Đề tài kết hợp với điều tra khảo sát, bố trí thí nghiệm ngồi thực địa, phân
tích trong phịng, sử dụng thống kê toán học trong lâm nghiệp để xử lý và phân tích


20

số liệu với sự trợ giúp của phần mềm SPSS 13.0 và Excel trên máy vi tính (Nguyễn

Hải Tuất, Vũ Tiến Hinh và Ngô Kim Khôi, 2006) 41.
2.2.2. Phương pháp xác định vị trí nghiên cứu:
Qua tham khảo các tài liệu đã cơng bố về phân bố của lồi Sồi phảng, kết
hợp khảo sát hiện trường ở 3 vùng sinh thái Trung tâm Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ và
Tây Nguyên, phân chia làm 3 khu vực nghiên cứu gồm:
- Khu vực1: Kiểu rừng lá rộng thường xanh, trạng thái rừng phục hồi sau
khai thác kiệt tại Đoan Hùng - Phú Thọ.
- Khu vực 2: Kiểu rừng lá rộng thường xanh, trạng thái rừng nghèo sau khai
thác mạnh tại Con Cuông - Nghệ An.
- Khu vực 3: Kiểu rừng lá rộng thường xanh, trạng thái rừng nghèo sau khai
thác mạnh tại K’Bang - Gia Lai.
2.2.3. Phương pháp thu thập và xử lý số liệu:
2.2.3.1. Phương pháp kế thừa:
Thu thập tài liệu cơ bản về khu vực nghiên cứu có liên quan đến đề tài.
+ Tài liệu về điều kiện tự nhiên và dân sinh kinh tế trong khu vực nghiên
cứu.
+ Các loại bản đồ chuyên dùng của khu vực nghiên cứu.
+ Các tài liệu tham khảo về lĩnh vực nghiên cứu của các tác giả trong
vàngồi nước.
2.2.3.2. Lập ơ tiêu chuẩn (OTC) và dung lượng mẫu:
a) Điều tra sơ bộ:
Tiến hành nghiên cứu bản đồ hiện trạng rừng, tìm hiểu các trạng thái rừng.
Sau đó sơ thám, quan sát các hiện trạng rừng, tìm hiểu khái quát về sự phân bố của
Sồi phảng, tìm hiểu sơ bộ về tài nguyên thực vật rừng, đất đai, khí hậu … của khu
vực nghiên cứu để nắm được địa điểm, diện tích, khối lượng công việc phục vụ cho
việc xây dựng kế hoạch và thời gian điều tra ngoại nghiệp.
Điều tra được thực hiện trên ơ tiêu chuẩn. Diện tích ơ tiêu chuẩn là 2500 m2.
Số lượng ô tiêu chuẩn (09 OTC) căn cứ vào rừng điều tra. Cứ 10-15 ha chọn một ô



21

tiêu chuẩn. Diện tích ơ tiêu chuẩn nên chiếm tổng diện tích là 0,1 % - 0,5 % đối với
rừng tự nhiên. (theo TCVN 8927:2013 do Viện Khoa học Lâm nghiệp Việt Nam
biên soạn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề nghị, Tổng cục Tiêu chuẩn
Đo lường Chất lượng thẩm định, Bộ Khoa học và Công nghệ công bố).
b) Điều tra tỉ mỉ:
- Lập OTC:
Lập ô tiêu chuẩn điển hình để nghiên cứu đặc điểm cấu trúc rừng có Sồi
phảng tái sinh phân bố. Ơ tiêu chuẩn phải bố trí tại các vị trí có tính đại diện cao ở 3
khu vực nghiên cứu. Địa hình trong ơ phải tương đối đồng nhất, các loài cây phân
bố tương đối đều, cây sinh trưởng bình thường. Các ơ tiêu chuẩn khơng đi qua các
khe, qua đỉnh hoặc có đường mịn hay đường ơ tơ chạy qua.
+ Cơng cụ lập ô tiêu chuẩn (OTC): Sử dụng địa bàn, thước dây, sơn đỏ và
dao, cuốc …
+ Để thuận tiện cho việc đo đạc, tiến hành lập OTC với chiều dài cùng chiều
với đường đồng mức, chiều rộng vng góc với đường đồng mức. Diện tích mỗi
OTC là 2.500m2 (50m x 50m). Mỗi khu vực nghiên cứu điều tra 3 OTC, tổng số
là9OTC với tổng diện tích là 22.500m2.
- Lập ODB để điều tra cây tái sinh:
+ Phương pháp lập ô dạng bản (ODB): Trong ô tiêu chuẩn lập 5 ODB để
điều tra cây tái sinh theo vị trí: 1 ơ ở tâm, 4 ơ ở 4 góc của ơ tiêu chuẩn. Cụ thể như
hình vẽ sau:

Hình 2.2: Sơ đồ lập ODB để điều tra cây tái sinh


22

Lập ô dạng bản (ODB) để điều tra cây tái sinh. Diện tích mỗi ODB là 25m2

(5m x 5m). Số ODB ở mỗi khu vực là 3 x 5 = 15 ô,tổng số ODB ở cả 3 khu vực là
45 ô.
- Lập ô dạng bản (ODB) để điều tra cây Sồi phảng tái sinh xung quanh gốc
cây mẹ.
Chọn các cây mẹ có sinh trưởng tốt, khơng sâu bệnh, khơng cụt ngọn làm
tâm, từ tâm lập 4 tuyến điều tra theo 4 hướng Đ - T - N - B, trên tuyến lập các ODB
với diện tích là 4 m2 (2m x 2m), 4 ô ở trong tán, 4 ô ở mép tán, 4 ơ ở ngồi tán cây
mẹ. Mỗi khu vực tiến hành điều tra tái sinh xung quanh 4 gốc cây mẹ tương đương
với số ODB là 4 x 12 = 48 ODB.
Tổng số ô dạng bản cả 3 khu vực nghiên cứu là: 48 x 3 = 144 ODB.
Trên mỗi ô dạng bản tiến hành xác định các chỉ tiêu: Loài cây, chiều cao vút
ngọn, phẩm chất cây, nguồn gốc tái sinh của tất cả các cây có đường kính nhỏ hơn
6cm. Phẩm chất cây tái sinh phân làm 3 cấp:
+ Cây tốt (A): là cây sinh trưởng tốt, thân trịn thẳng, tán lá phát triển đều,
khơng sâu bệnh, khuyết tật.
+ Cây trung bình (B): là cây sinh trưởng bình thường, ít khuyết tật.
+ Cây xấu (C): là cây sinh trưởng kém, cong queo, khuyết tật, sâu bệnh.
Cây triển vọng là cây thuộc lồi mục đích, sinh trưởng tốt, chiều cao vượt
trên lớp cây bụi, thảm tươi xung quanh, và có phẩm chất trên trung bình.
2.2.3.3. Phương pháp thu thập số liệu ngoại nghiệp:
Nội dung thu thập số liệu cho từng nội dung, cụ thể như sau:
a. Nghiên cứu một số đặc điểm hình thái và vật hậu loài Sồi phảng
Đề tài sử dụng phương pháp quan sát thực địa, lấy mẫu về đo đếm đồng thời
thu thập các thơng tin từ cán bộ lâm nghiệp có kinh nghiệm trong vùng nghiên cứu
nhằm xác định được các nội dung sau:
- Đặc điểm hình thái: Mơ tả đặc điểm thân cây, tán cây, vỏ cây, cành cây, lá
cây, rễ và hoa, quả của cây Sồi phảng.
- Đặc điểm vật hậu: Xác định mùa ra lá, mùa ra hoa kết quả,…



23

Chọn 5 cây mẹ Sồi phảng làm cây tiêu chuẩn để nghiên cứu đặc điểm hình
thái và vật hậu tại Đoan Hùng – Phú Thọ. Cây được lựa chọn là cây sinh trưởng tốt,
thân thẳng, không cong queo, sâu bệnh, đã cho quả ổn định ít nhất là trong 3 năm.
Trên mỗi cây mẹ đánh dấu 3 cành tiêu chuẩn trung bình ở 3 vị trí tán: ngọn,
giữa và dưới tán. Các chỉ tiêu được quan sát và theo dõi gồm: Thời kỳ thay đổi lá;
Thời kỳ ra chồi, ra hoa, nở hoa, kết quả; Thời kỳ quả chín, rơi rụng; Mơ tả và chụp
ảnh hình thái, kích thước lá, hoa, quả, hạt; Chu kỳ sai quả. Các chỉ tiêu vật hậu
được theo dõi, quan sát trong 3 năm liên tục.
b. Nghiên cứu một số đặc điểm sinh thái nơi lồi Sồi phảng phân bố
* Đặc điểm nhân tố khí hậu:
Tiến hành thu thập tài liệu khí tượng của trạm khí tượng thủy văn của 3 khu
vực nghiên cứu. Kết quả được ghi vào bảng 2.1sau:
Bảng 2.1: Nhiệt độ (T) và lượng mưa (P) trung bình ở 3 khu vực
Tháng

1

2

....

12

TB

T(0C)
P(mm)
* Điều tra nhân tố đất đai:

Tiến hành đào 3 phẫu diện điển hình cho 3 khu vực nghiên cứu và lấy mẫu
về phân tích các chỉ tiêu như P205,Ca2+,.. kết hợp tham khảo tài liệu nghiên cứu về
đất của 3 khu vực nghiên cứu. Kết quả được ghi vào bảng 2.2 dưới đây:
Bảng 2.2: Đặc điểm đất nơi có Sồi phảng phân bố
Phẫudiện Tầng(độsâu
-cm)

pH

Mùn
(%)

Chất dễ tiêu
(ppm)
P205

K2 0

Cation trao
đổi
(me/100g)
Ca2+ Mg2+

Độ chua trao
đổi (me/g)
H+

c. Nghiên cứu một số đặc điểm tái sinh tự nhiên của cây Sồi phảng.
(1). Điều tra đặc điểm tái sinh của lâm phần:


Al3+


24

Cây tái sinh được điều tra trong các ODB, gồm các cây có đường kính < 6
cm. Các chỉ tiêu xác định là:
- Xác định tên loài cây theo tên phổ thơng và tên khoa học, lồi khơng biết
lấy tiêu bản để giám định, chiều cao vút ngọn, tình trạng sinh trưởng, nguồn gốc tái
sinh (theo hạt hay theo chồi).
- Đo chiều cao vút ngọn (Hvn) bằng thước sào, lấy đến cm.
- Xác định phẩm chất cây tái sinh với từng cá thể và phân chia làm 3 cấp
chất lượng là: Tốt, trung bình và xấu.
- Tỷ lệ % cây tái sinh tốt, trung bình, xấu được tính theo cơng thức:

N%=
Trong đó:

𝑛
𝑁

x 100

(2.1)

N% là tỷ lệ phần trăm cây tốt, trung bình, xấu
n là tổng số cây tốt, trung bình, xấu
N là tổng số cây tái sinh

- Xác định nguồn gốc cây tái sinh: Được xác định theo tái sinh hạt hoặc tái

sinh chồi.
- Xác định tần suất cây tái sinh lồi Sồi phảng được tính theo cơng thức:

Lx=

Số ODB có lồi Sồi phảng xuất hiện
Tổng số ODB đo đếm

x 100

Trong đó:

Lx là tần suất xuất hiện của lồi Sồi phảng

Nếu:

Lx > 70% cây tái sinh có phân bố đều.

(2.2)

Lx < 70% cây tái sinh có phân bố khơng đều.
Kết quả điều tra được ghi vào bảng 2.3 như sau:
Bảng 2.3: Bảng điều tra cây tái sinh tự nhiên
Khu vực:
STT
1
2
3

Tổng


Tên loài cây

OTC số:
Hvn
(m)

Nguồn gốc
Hạt
Chồi

ODB số:
Chất lượng sinh trưởng
Tốt
TB
Xấu


×