Tải bản đầy đủ (.doc) (84 trang)

Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của dân tộc chăm trên địa bàn tỉnh an giang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (334.06 KB, 84 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGƠ THỊ MAI

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ
PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA CỦA DÂN
TỘC CHĂM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN
GIANG

LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG

HÀ NỘI, 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGƠ THỊ MAI

THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ
PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA CỦA DÂN
TỘC CHĂM TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN
GIANG

Ngành: Chính sách cơng
Mã số: 8340402

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. CAO THU HẰNG


HÀ NỘI, 2021


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Có thể nói, An Giang là tỉnh duy nhất trong khu vực Tây Nam bộ có đồng bào
Chăm sinh sống, cũng là tỉnh có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số. Vì vậy, văn hóa
của An Giang ln mang nhiều dấu ấn đậm nét và phong phú sắc màu độc đáo của
các dân tộc cộng cư trên địa bàn. Phát triển văn hóa thì khơng thể nào bỏ qua việc
bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của dân tộc. Vì đó là thành tố không thể thiếu, là
một bộ phận trong hệ thống của văn hóa, là một phần quan trọng làm nên nét độc
đáo và bản sắc riêng của văn hóa tộc người.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, trong những năm qua, Tỉnh ủy, Ủy ban
Nhân dân tỉnh An Giang đã đề ra nhiều chính sách liên quan đến vấn đề bảo tồn và
phát huy di sản văn hóa Chăm. Nhờ đó, nhận thức về văn hóa của các cấp, các
ngành được nâng lên. Đời sống văn hóa của nhân dân ngày càng phong phú, văn hóa
truyền thống của dân tộc được phát huy. Sản phẩm văn hóa, văn học nghệ thuật ngày
càng phong phú hơn. Nhiều phong trào, hoạt động văn hóa đạt được những kết quả
cụ thể, thiết thực. Nhiều di sản văn hóa vật thể trong tỉnh được bảo tồn, tôn tạo. Đội
ngũ làm công tác văn hóa, văn nghệ có nhiều tiến bộ trong thực thi công vụ.
Tuy nhiên, theo đánh giá của tỉnh An Giang qua 05 năm thực hiện Nghị quyết
số 33-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương khóa XI, bên cạnh những kết quả
đáng ghi nhận thì việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa dân tộc Chăm cịn của
tỉnh vẫn còn những hạn chế nhất định. Một số di sản văn hóa của dân tộc Chăm, do
khơng thực hiện bảo tồn đúng, đã có nguy cơ bị mai một; văn hóa, ẩm thực của dân
tộc có nguy cơ bị lai căng. Đời sống văn hóa tinh thần của người dân Chăm ở cấp xã
còn nghèo nàn. Việc bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa chưa phủ đều, chưa
phát huy hiệu quả. Hệ thống thiết chế văn hóa và cơ sở vật chất, kỹ thuật cho hoạt
động văn hóa vẫn cịn thiếu, chưa đồng đều, hiệu quả sử dụng chưa cao. Công tác
đào tạo cán bộ lãnh đạo, quản lý văn hóa cấp tỉnh, huyện cịn hạn chế.

Trong bối cảnh phát triển hiện nay, phát triển du lịch được xem là ngành kinh
tế mũi nhọn của tỉnh. Việc nghiên cứu khai thác tài nguyên bản địa, đặc biệt là di


sản văn hóa dân tộc ln chứa đựng những tiềm năng khả thi để hình thành nên
những sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn.
Vì vậy, học viên chọn nghiên cứu đề tài “Thực hiện chính sách bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa của dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang” làm luận văn Thạc
sỹ chuyên ngành Chính sách cơng với mong muốn mang chút ý nghĩa đóng góp cho
việc bảo tồn và phát huy những vốn q của văn hóa dân tộc, gìn giữ và phát triển di
sản văn hóa dân tộc Chăm của tỉnh nhà như một trong những tài nguyên quý giá,
hấp dẫn, cốt lõi trong phát triển du lịch, góp phần xây dựng con người văn hóa An
Giang và phát triển kinh tế xã hội tỉnh An Giang.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong các đề tài nghiên cứu về văn hóa của tỉnh, chưa có nội dung nghiên cứu
rõ ràng, cụ thể về chính sách văn hóa như một thực thể của chính sách cơng. Và
cũng chưa có cơng trình nào nghiên cứu độc lập về việc thực hiện chính sách bảo
tồn và phát huy di sản văn hóa của dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang.
Các đề tài nghiên cứu về văn hóa dân tộc Chăm tại An Giang được quan tâm
nhiều vào chủ đề bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân gian Chăm để phát triển du
lịch. Như đề tài cấp tỉnh “Nghiên cứu bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa Chăm
trong phát triển du lịch tỉnh An Giang”, với mục tiêu nhằm xác định các giá trị văn
hóa của người Chăm tại An Giang; đồng thời xác định các yếu tố văn hóa có thể
khai thác để phục vụ du lịch nhằm góp phần bảo tồn các giá trị văn hóa truyền thống
của người Chăm nói riêng và phát triển du lịch văn hóa tỉnh An Giang nói chung.
Đề tài cấp tỉnh “Nghiên cứu và biên soạn bộ tài liệu dạy và học tiếng Chăm
(An Giang)” do TS. Phú Văn Hẳn chủ nhiệm, Viện Khoa học xã hội vùng Nam Bộ
đơn vị chủ trì đã hồn thành, chuyển giao và giới thiệu 5 bộ giáo trình dạy tiếng
Chăm từ tập 1 - tập 5 và tập hướng dẫn sử dụng bộ giáo trình, nhóm tác giả đã tổ
chức buổi tập huấn phương pháp giảng dạy bộ giáo trình tiếng Chăm cho các cán bộ

phụ trách công tác giáo dục dân tộc và các giáo viên dạy tiếng Chăm thuộc huyện
An Phú, huyện Châu Phú và thị xã Tân Châu. Triển khai thực hiện ứng dụng kết quả
nghiên cứu khoa học của nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh “Nghiên cứu và biên soạn bộ
tài liệu dạy và học tiếng Chăm (An Giang)”. Đề tài được xây dựng dựa trên cơ sở


vừa phát triển sinh kế vừa bảo vệ văn hóa bản địa, vừa phù hợp với quan điểm của
Đảng trong nghiên cứu bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa theo Nghị quyết 05 khóa
VII, Nghị quyết trung ương IX khóa XI và chủ trương phát triển ngành du lịch là
ngành kinh tế mũi nhọn theo Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh An Giang lần
thứ X, nhằm phát huy và bảo tồn văn hóa dân tộc Chăm An Giang và gắn với phát
triển du lịch [44, tr. 20].
Bên cạnh các nghiên cứu về người Chăm tại An Giang, nhiều nghiên cứu về
người Chăm sinh sống tại các vùng, miền khác nhau đã đượcnhiều tác giả thực hiện,
tiêu biểu là nghiên cứu về người Chăm ở miền Trung. Cơng trình “Văn hóa phi vật
thể người Chăm Ninh Thuận của nhóm tác giả Phan Văn Dốp, Phan Quốc Anh,
Nguyễn Thị Thu đã khái quát cơ sở lý luận về văn hóa phi vật thể người Chăm Ninh
Thuận, chính sách của Đảng và Nhà nước về văn hóa Chăm, thực tiễn cơng tác bảo
tồn văn hóa Chăm và miêu tả cụ thể các loại hình di sản văn hóa phi vật thể của
người Chăm ở Ninh Thuận, nhằm mục đích tư liệu hóa các di sản văn hóa phi vật
thể, đánh giá mức độ tồn tại của chúng trong cộng đồng người Chăm Ninh Thuận,
cũng là một biện pháp nỗ lực để bảo tồn văn hóa Chăm. Tương tự, cuốn “Văn hóa
Chăm H’Roi” của Trung tâm Văn hóa Chăm Ninh Thuận cũng là một tư liệu quý về
văn hóa Chăm ở các vùng miền của Việt Nam, góp phần bảo tồn di sản vật thể và
phi vật thể người Chăm H’Roi ở miền Trung. Tùy bút “Những cuộc đi và cái nhà”
của nhà nghiên cứu Inrasara kể những câu chuyện trong hành trình cuộc đời, cũng là
một tác phẩm thú vị để hiểu thêm về văn hóa người Chăm.
Nhìn chung, các nghiên cứu trên đây tương đối bao quát các khía cạnh văn hóa
dân gian của tộc người Chăm tại Việt Nam nói chung và tại An Giang nói riêng. Tuy
nhiên, nghiên cứu về người Chăm tại tỉnh An Giang thì chưa đề cập sâu đến việc

thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của cộng đồng dân tộc này
trên địa bàn tỉnh.
Nhiều đề tài luận văn về nghiên cứu chính sách văn hóa, về bảo tồn và phát huy di
sản văn hóa. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu ở các tỉnh, địa phương khác. Chưa có
nghiên cứu về chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa trên phạm vi tỉnh An
Giang. Sơ lược các cơng trình như: Luận văn thạc sĩ Chính sách cơng của tác giả


Nguyễn Thị Hồng Ngun với đề tài “Thực hiện chính sách bảo tồn, phát huy giá
trị văn hóa truyền thống dân tộc Xơ Đăng, tỉnh Quảng Nam” (2018), của tác giả
Trần Quỳnh Mai với đề tài “Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di
sản văn hóa trên địa bàn thành phố Tam Kỳ” (2020), tác giả Nguyễn Thanh Cường
với đề tài “Chính sách phát triển du lịch từ thực tiễn tỉnh Quảng Ngãi” (2016), tác
giả Dương Trung Việt với “Chính sách phát triển văn hóa từ thực tiễn huyện đảo Lý
Sơn, tỉnh Quảng Ngãi” (2016). Đây là những tài liệu nghiên cứu thực tiễn thực hiện
chính sách cơng để tác giả tham khảo trong q trình thực hiện luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận về việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy
di sản văn hóa của dân tộc; đánh giá thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa dân tộc Chăm, đề tài đề xuất giải pháp tăng cường hiệu quả thực
hiện chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của dân tộc Chăm trên địa bàn
tỉnh An Giang hiện nay, nhằm góp phần đáp ứng tốt hơn yêu cầu thực tiễn về phát
triển kinh tế, xã hội, văn hóa phù hợp với điều kiện của địa phương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nêu trên, luận văn xác định các nhiệm vụ:
Thứ nhất, làm rõ một số vấn đề lý luận về việc thực hiện chính sách bảo tồn và
phát huy di sản văn hóa dân tộc.
Thứ hai, đánh giá thực trạng kết quả tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn và
phát huy di sản văn hóa ở dân tộc Chăm tỉnh An Giang.

Thứ ba, đề xuất quan điểm,mục tiêu, một số giải pháp cơ bản nhằm nâng
caothực hiện chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa ở dân tộc Chăm trên địa
bàn tỉnh An Giang hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của dân tộc Chăm
trên địa bàn tỉnh An Giang.


4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tiến hành nghiên cứu, khảo sát số liệu, kết quả tình hình thực hiện
chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh
An Giang từ năm 2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của khoa học nghiên cứu về chính sách cơng;
quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách của nhà nước về văn hóa, bảo tồn, phát
huy giá trị di sản văn hóa.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hồn thành luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp cơ bản như sau:
- Phương pháp khảo sát, nghiên cứu tài liệu: tác giả đã thu thập thông tin từ
nhiều nguồn tài liệu thứ cấp như các văn bản quy phạm pháp luật, sách, báo, ấn
phẩm nghiên cứu khoa học, báo cáo nghiên cứu của địa phương và thực tiễn hoạt
động của bản thân… có các nội dung liên quan đến đề tài.
- Phương pháp nghiên cứu khoa học xã hội để thống kê, tổng hợp, phân tích,
…số liệu và dữ liệu, đối chiếu, so sánh, đưa ra những luận điểm, kết luận.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần hệ thống hóa về mặt lý luận chính sách cơng, làm rõ hơn
một số vấn đề lý luận về thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa

của dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn nhằm đánh giá thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy di
sản văn hóa của dân tộc Chăm trên địa bản tỉnh An Giang, trên cơ sở đó, đề tài có ý
nghĩa khuyễn nghị nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách này ở An Giang hiện nay.

Luận văn là tài liệu tham khảo hữu ích cho cơng tác nghiên cứu, giảng dạy về
những vấn đề liên quan đến việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn
hóa dân tộc Chăm và những ai quan tâm đến vấn đề này.


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, luận văn có kết cấu gồm
3 chương như sau:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy
di sản văn hóa ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Thực trạng thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
của dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang.
Chương 3: Quan điểm, mục tiêu, giải pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả
thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của dân tộc Chăm trên địa
bàn tỉnh An Giang.


Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY
DI SẢN VĂN HÓA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Một số khái niệm liên quan đến đề tài và tầm quan trọng của việc
thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
1.1.1. Khái niệm chính sách cơng

Trên thế giới có rất nhiều quan niệm khác nhau về chính sách cơng. Có thể kế
đến một số định nghĩa tiêu biểu sau:
Chính sách cơng theo Thomas Dye: “Chính sách cơng là bất kỳ những gì nhà
nước lựa chọn làm hoặc khơng làm” [14, tr. 8]; B. Guy Peter định nghĩa: "...chính
sách cơng là tồn bộ các hoạt động của Nhà nước có ảnh hưởng trực tiếp hay gián
tiếp đến cuộc sống của mọi công dân" [14, tr. 5]; theo Charle L. Cochran and Eloise
F. Malone thì : “Chính sách cơng bao gồm các quyết định chính trị để thực hiện các
chương trình nhằm đạt được những mục tiêu xã hội” [14, tr. 8];
Ở nước ta, cũng có nhiều quan niệm rất khác nhau về chính sách cơng. Có thể
kể ra đây một số định nghĩa đáng chú ý sau:
Tác giả Nguyễn Hữu Hải quan niệm rằng: “Chính sách cơng là kết quả ý chí
chính trị của nhà nước được thể hiện bằng một tập hợp các quyết định có liên quan
với nhau, bao hàm trong đó định hướng mục tiêu và cách thức giải quyết những vấn
đề công trong xã hội” [25, tr. 51]
Viện Chính trị học cho rằng: “...chính sách cơng là chương trình hành động
hướng đích của chủ thể nắm hoặc chi phối quyền lực công cộng” [55, tr. 235], một
tập thể các tác giả khác lại cho rằng: “Chính sách công là một tập hợp những quyết
định liên quan với nhau do nhà nước ban hành,bao gồm các mục tiêu và giải pháp
để giải quyết một vấn đề công nhằm đạt được các mục tiêu phát triển” [20, tr. 10]
Tác giả Lê Chi Mai phân tích về khái niệm chính sách cơng ở Việt Nam, có
chủ thể ban hành là Nhà nước, CSC là kết quả của các quyết định chính phủ nhằm
duy trì tình trạng của xã hội hoặc giải quyết các vấn đề của xã hội, trong đó là các


vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội theo mục tiêu tổng thể của Đảng đã vạch
ra từ trước. Vì vậy mà ở Việt Nam, chúng ta thường đề cập đến cụm từ “chính sách
của Đảng và Nhà nước” [14, tr9-11].
TS. Lê Văn Hịa trong cơng trình “Quản lý thực thi Chính sách cơng theo kết
quả” đã khái qt quan niệm về chính sách cơng cùng những đặc điểm rút ra như
sau: “Chính sách cơng là một tập hợp các quyết định liên quan với nhau do Nhà

nước ban hành, bao gồm các mục tiêu và giải pháp để giải quyết một vấn đề công
nhằm đạt được các mục tiêu phát triển.” [21, tr. 7]
Theo đó, học giả đã rút ra 07 đặc điểm cơ bản về chính sách cơng: Thứ nhất,
CSC bắt nguồn từ các quyết định do Nhà nước ban hành và nội dung của chính sách
được thể hiện trong các văn bản, quyết định của Nhà nước. Thứ hai, CSC bao gồm
một tập hợp các quyết định được ban hành qua một giai đoạn và kéo dài sang cả giai
đoạn thực thi chính sách. CSC luôn không được thể hiện rõ ràng trong một quyết
định đơn lẻ, mà có xu hướng được xác định dưới dạng một chuỗi các quyết định gắn
liền với nhau. Thứ ba, CSC hướng tới giải quyết vấn đề công và tác động đến lợi ích
của một hoặc nhiều nhóm dân số trong xã hội. Thứ tư, CSC bao gồm hai bộ phận
cấu thành là mục tiêu và giải pháp chính sách. Thứ năm, mục tiêu của CSC là tạo ra
những thay đổi và nhằm đạt được các mục tiêu phát triển của đất nước hoặc địa
phương. Thứ sáu, các CSC luôn thay đổi theo thời gian, bởi những quyết định sau
đó có thể có những điều chỉnh so với các quyết định trước đó, hoặc do có những
thay đổi trong định hướng chính sách ban đầu; hoặc là kinh nghiệm về thực thi
chính sách cơng được phản hồi vào quá trình ra quyết định; và do định nghĩa về các
vấn đề CSC cũng thay đổi qua thời gian. Cuối cùng, về cơ bản CSC được xem là
đầu ra của q trình quản lý nhà nước, là sản phẩm trí tuệ của đội ngũ cán bộ, công
chức nhà nước và của cả xã hội [21, tr.8]
Các định nghĩa trên cho thấy cách quan niệm của các học giả về chính sách
cơng có một số điểm lưu ý sau:
Thứ nhất, với tư cách chính sách của nhà nước, chính sách cơng chỉ xuất hiện
trong thời kỳ xã hội loài người đã có nhà nước.


Thứ hai, chủ thể chính sách cơng là nhà nước và nếu có mở rộng thì cũng chỉ
đến các chủ thể chính trị khác song cũng đặt mối quan hệ liên quan đến nhà nước..
Tuy nhiên, với đặc thù chính trị ở Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt Nam là lực
lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội (Điều 4, Hiến pháp). Đảng lãnh
đạo Nhà nước thông qua việc vạch ra cương lĩnh, chiến lược, các định hướng chính

sách – đó chính là những căn cứ để Nhà nước ban hành CSC. Như vậy, về thực chất,
các chính sách cơng ở Việt Nam là do Nhà nước, Chính phủ Việt Nam đề ra, trên cơ
sở cụ thể hóa đường lối, chiến lược và các định hướng chính sách của Đảng Cộng
sản Việt Nam nhằm phục vụ lợi ích nhân dân. Về cốt lõi, mục tiêu chinh sách đã
được Đảng định hướng, Nhà nước được trao quyền xây dựng chính sách để hiện
thực hóa các ý tưởng, mục tiêu tổng thể của Đảng.
Thứ ba, việc đề xuất thực hiện một chính sách cơng có thể là giải quyết những
vấn đề bức xúc, quan tâm chung của cộng đồng theo những mục tiêu nhất định.
Thứ tư, chính sách cơng bao gồm nhiều giai đoạn khác nhau; là một quá trình từ
khâu xác định ý tưởng, hoạch định, thực hiện đến đánh giá, điều chỉnh chính sách.

Như vậy, chính sách cơng có nhiều khái niệm từ những góc nhìn khác nhau.
Theo tác giả, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chính sách cơng có thể được hiểu
là tất cả quyết định làm hay không làm của chủ thể được trao quyền lực công nhằm
xử lý những vấn đề mang tính xã hội, cộng đồng trên mọi lĩnh vực của đời sống
nhằm đạt mục tiêu phát triển của quốc gia, của địa phương.
1.1.2. Khái niệm thực hiện chính sách cơng
Thực hiện hay thực thi chính sách cơng là q trình đưa chính sách cơng vào
thực tiễn đời sống xã hội thơng qua việc ban hành các văn bản, chương trình, dự án
thực hiện/thực thi chính sách cơng và tổ chức thực hiện chúng nhằm hiện thực hóa
mục tiêu chính sách cơng.[21 , tr. 12].
Như phân tích của các học giả, chu trình chính sách cơng là một chuỗi các giai
đoạn kế tiếp có liên quan với nhau từ khi lựa chọn được vấn đề chính sách đến khi
kết quả chính sách được đánh giá.
Thực hiện chính sách là một khâu hợp thành chu trình chính sách, nếu thiếu
vắng cơng đoạn này thì chu trình chính sách khơng thể tồn tại. Thực hiện chính sách


là một hệ thống nhất - nhất là với hoạch định chính sách. So với các khâu khác
trong chu trình chính sách, thực hiện chính sách có vị trí đặc biệt quan trọng, là

bước hiện thực hóa chính sách trong đời sống xã hội. Cũng có thể nhận định, đó là
khâu trung tâm của chu trình chính sách.
Chu trình rút gọn của chính sách cơng gồm 3 bước:
1. Xây dựng chính sách;
2. Tổ chức thức hiện chính sách;
3. Đánh giá chính sách.
Tổ chức thực hiện chính sách: là tồn bộ q trình chuyển ý chí của chủ thể
chính sách thành hiện thực tới đối tượng quản lý nhằm đạt mục tiêu định hướng. Tổ
chức thực hiện chính sách tốt khơng những mang lại lợi ích to lớn cho các nhóm đối
tượng thụ hưởng, mà cịn góp phần làm tăng uy tín của nhà nước trong q trình
quản lý xã hội. Để có được một chính sách tốt, các nhà hoạch định phải trải qua một
quá trình nghiên cứu, tìm kiếm cơng phu. Nhưng dù tốt đến đâu chính sách cũng trở
thành vơ nghĩa nếu nó khơng được đưa vào thực hiện.
Để đảm bảo chất lượng và hiệu quả tổ chức thực hiện chính sách cần phải bảo
đảm các 03 yêu cầu: (1) Thực hiện đúng trình tự các bước trong tổ chức thực hiện
chính sách cơng. (2) Thực hiện đúng và đầy đủ nội dung các bước tổ chức thực hiện
chính sách cơng.(3) Đề cao trách nhiệm của các chủ thể tham gia tổ chức thực hiện
chính sách cơng, chủ động đề xuất các biện pháp, giải pháp để tổ chức thực hiện các
bước có hiệu quả.
Các bước tổ chức thực hiện chính sách cơng bao gồm:
1. Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách.
2. Phổ biến, tuyên truyền chính sách.
3. Phân cơng, phối hợp thực hiện chính sách
4. Duy trì chính sách
5. Điều chỉnh chính sách
6. Theo dõi kiểm tra, đơn đốc việc thực hiện chính sách
7. Đánh giá tổng kết rút kinh nghiệm.


Chủ thể tham gia thực hiện CSC, bao gồm:

(1) Chủ thể thực hiện: là các cơ quan nhà nước và nhân sự của các cơ quan đó
– đây là chủ thể chịu trách nhiệm thực hiện chính sách cơng.
(2) Chủ thể tham gia: là các đối tác phi nhà nước (các doanh nghiệp, các tổ
chức, cá nhân trong và ngoài nước);
(3) Chủ thể tham gia với tư cách là đối tượng hưởng thụ CSC: cộng đồng dân
cư, các nhóm dân số, thậm chí cả người dân.
1.1.3. Khái niệm chính sách văn hóa và thực hiện chính sách bảo tồn và
phát huy di sản văn hóa
1.1.3.1. Khái niệm chính sách văn hóa
Chính sách văn hóa là một trong những lĩnh vực của chính sách cơng.
Căn cứ định nghĩa của UNESCO năm 2002: “Chính sách văn hóa là một tổng
thể các ngun tắc hoạt động quyết định các cách thực hành, các phương pháp
quản lý hành chính và phương pháp ngân sách của Nhà nước dùng làm cơ sở cho
các hoạt động văn hóa”.
Có quan niệm cho rằng, chính sách văn hóa là hệ thống các nguyên tắc, các
thực hành của nhà nước trong lĩnh vực văn hóa nhằm phát triển và quản lý thực hiện
đời sống văn hóa theo quan điểm phát triển và các thức quản lý riêng, đáp ứng như
cầu phát triển đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân trên cơ sở vận dụng các điều
kiện vật chất và tinh thần sẵn có của xã hội [45, tr. 21]
Chính sách văn hóa bao hàm nhiều nội dung. Phân loại theo lĩnh vực văn hóa
thì chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa là một nội dung quan trọng.
1.1.3.2. Khái niệm thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn
hóa Về khái niệm Di sản văn hóa
Theo Luật Di sản văn hóa thì Di sản văn hóa bao gồm di sản văn hóa phi vật
thể và di sản văn hóa vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị lịch sử, văn
hóa, khoa học, được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác ở nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam”.


Di sản văn hóa vật thể “là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa

học, bao gồm di tích lịch sử - văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật
quốc gia”
Di sản văn hóa phi vật thể “là sản phẩm tinh thần gắn với cộng đồng hoặc cá
nhân, vật thể và không gian văn hóa liên quan, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học,
thể hiện bản sắc của cộng đồng, không ngừng được tái tạo và được lưu truyền từ
thế hệ này sang thế hệ khác bằng truyền miệng, truyền nghề, trình diễn và các hình
thức khác.”
Di sản văn hóa là thành tố quan trọng, góp phần làm nên bản sắc văn hóa của
một quốc gia, dân tộc, tộc người; là cái độc đáo, thu hút, hấp dẫn đối với nhu cầu
tìm hiểu, trải nghiệm văn hóa trong hoạt động du lịch; có thể nói, về mặt tinh thần
đó là hồn cốt của dân tộc, về mặt vất chất đó là tài sản, tài nguyên quý giá của quốc
gia, mang giá trị về mặt kinh tế nếu được phát huy phù hợp.
Khái niệm bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
Theo Từ điển Tiếng Việt của GS. Hồng Phê, “bảo tồn là giữ lại không để cho
mất đi” [13, tr 49], “phát huy là làm cho cái hay, cái tốt tỏa tác dụng và tiếp tục nảy
nở thêm” [13, tr 973].
Đối với di sản văn hóa phi vật thể, bảo tồn hay bảo vệ, theo Công ước về Bảo vệ
Di sản văn hóa phi vật thể của UNESCO, 2003: “Bảo vệ" Di sản văn hóa phi vật thể là
các biện pháp có mục tiêu đảm bảo khả năng tồn tại của di sản văn hóa phi vật thể, bao
gồm việc nhận diện, tư liệu hoá, nghiên cứu, bảo tồn, bảo vệ, phát huy, củng cố, chuyển
giao, đặc biệt là thơng qua hình thức giáo dục chính thức hoặc phi chính thức cũng như
việc phục hồi các phương diện khác nhau của loại hình di sản này.
Đối với di sản văn hóa vật thể, Luật Di sản định nghĩa: “Bảo quản di tích lịch sử văn hóa, danh lam thắng cảnh, di vật, cổ vật quốc gia là hoạt động phòng ngừa và hạn
chế nguy cơ làm hư hỏng mà không làm thay đổi những yếu tố nguyên gốc vốn có của
di tích lịch sử - văn hóa, danh la thắng cảnh, di vật, cổ vật, bảo vật quốc gia”.
Văn hóa là tồn bộ những sáng tạo và phát minh của lồi người. Vì lẽ đó, văn hóa
khơng phải là bất biến, sẽ ln sản sinh nhằm thích ứng với nhu cầu của đời sống và
đòi hỏi của sự sinh tồn. Những phức thể bên trong văn hóa như nghệ thuật, tín



ngưỡng, phong tục tập quán, cách thức ăn mặc ở, … hình thành nên văn hóa, qua
thời gian trở thành truyền thống, là thói quen thực hành của con người, đó cũng
chính là di sản văn hóa, là cái khó biến đổi hơn trong quá trình vận động phát triển.
Để nó khơng biến đổi hay mất đi những cái hay cái đẹp, cái tinh hoa, hồn cốt dân
tộc, thì di sản văn hóa cần được bảo tồn để giữ gìn, cần được phát huy để lan tỏa và
phát triển cái hay cái đẹp vốn có của mình. Phát huy tốt di sản sẽ đồng thời bảo tồn
bền vững di sản đó. Cho nên, bảo tồn và phát huy ln phải là 02 khái niệm song
hành, tương hỗ khi đề cập đến vấn đề di sản văn hóa. Phát huy di sản văn hóa cũng
chính là quan niệm về bảo tồn di sản gắn với phát triển, xem di sản là một lựa chọn
cho phát triển, vì vậy cần phải có những kế hoạch, chiến lược phát triển phù hợp để
khai thác giá trị, thúc đẩy phát triển kinh tế, đồng thời thông qua khai thác là sự lan
tỏa, quảng bá cái đẹp của di sản, thúc đẩy cộng đồng cùng gìn giữ bảo tồn di sản.
Về khái niệm chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
Như đã đề cập, chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa là phần quan
trọng của chính sách văn hóa của Đảng và Nhà nước Việt Nam. Và đã được đề cập
từ rất sớm.
Trong Đề cương văn hóa năm 1943, vấn đề bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
Việt Nam đã được đề cập với nội dung “trong văn hóa cổ của nước ta, có nhiều hạt
ngọc bị che phủ bởi một lớp bụi thời gian, mà bổn phận của chúng ta là phải tiếp
thu sự nghiệp, đặng tìm tịi, lượm lặt, nghiên cứu, khơng được bỏ sót một hạt…”.
Trong Sắc lệnh số 65/SL ngày 23 tháng 11 năm 1945 do Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã ký ghi: nghiêm cấm việc phá hủy đình, chùa, đền, miếu hoặc các nơi thờ tự
khác, cũng như cung điện, thành quách cùng lăng mộ…
Các văn kiện của Đảng; Các văn bản pháp quy của Nhà nước như Hiến pháp,
Luật Di sản văn hóa, Chiến lược phát triển văn hóa, Pháp lệnh về bảo vệ và sử dụng
di tích lịch sử, văn hóa và danh lam thắng cảnh, Pháp lệnh Bảo tàng, Luật Thư viện,
Nghị định về bảo quản tu bổ di tích, Thơng tư hướng dẫn về kiểm kê di sản,… Tất
cả là sự thể hiện chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa của Việt Nam ngày
càng rõ ràng.
Có thể khái qt, chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa được coi như

những sách lược, chiến lược cụ thể của Đảng và Nhà nước nhằm bảo tồn và phát


huy di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, là sản phẩm tinh thần, vật chất có giá trị
lịch sử, văn hóa, khoa học ở Việt Nam.
Về khái niệm Thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa
Với các cách hiểu như trên về di sản văn hóa, bảo tồn và phát huy di sản văn
hóa, chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, có thể hiểu, thực hiện chính
sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa là quá trình đưa chính sách bảo tồn và phát
huy di sản văn hóa vào cuộc sống nhằm thực hiện mục tiêu đề ra.
Mục tiêu cơ bản của chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa nhằm tập
trung vào 03 vấn đề: Thứ nhất là để thống kê vốn di sản văn hóa của dân tộc. Thứ
hai là để bảo tồn và phát huy di sản văn hóa thành nguồn lực phát triển xã hội. Thứ
ba là thỏa mãn nhu cầu văn hóa của nhân dân, đóng góp vào kho tàng văn hóa của
quốc gia và thế giới.
1.1.4. Tầm quan trọng của việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy di
sản văn hóa
Từ nhận định về khái niệm và mục tiêu khái quát nêu trên, có thể nói việc thực
hiện chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa có vai trị rất quan trọng đối với
sự phát triển của đất nước, sự phát triển của văn hóa quốc gia, văn hóa mỗi vùng
miền, địa phương và đóng góp quan trọng vào cơng cuộc phát triển kinh tế xã hội.
Vai trị quan trọng đó thể hiện cơ bản trên các mặt sau:
Thứ nhất, thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa góp phần
quan trọng trong cơng cuộc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
Di sản văn hóa là yếu tố cơ bản tạo nên bản sắc văn hóa dân tộc. Vì vậy, giữ
gìn di sản văn hóa của mỗi dân tộc cũng chính là giữ gìn bản sắc văn hóa của cộng
đồng dân tộc ấy, góp phần tơn tạo, phát huy bản sắc văn hóa dân tộc của đất nước
Việt Nam.
Trong quá trình giao lưu, hội nhập ngày càng sâu rộng trên các mặt của đời
sống kinh tế xã hội, Đảng và Nhà nước ta luôn khẳng định “xây dựng nền văn hóa

Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” là quan điểm xuyên suốt trong sự
nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa của tồn dân. Bản sắc văn hóa chính là cốt
cách của dân tộc, là những giá trị được nhân dân lựa chọn và lưu truyền từ đời này


sang đời khác, qua bao lớp thăng trầm của lịch sử vẫn khơng bị mất đi, đó chính là
những tinh hoa văn hóa mà mỗi dân tộc đều cần phải giữ gìn, làm cơ sở để sáng tạo
những giá trị văn hóa mới, góp phần làm cho văn hóa của dân tộc mình ngày càng
phát triển hưng thịnh. Có như vậy thì những giá trị văn hóa tiến bộ mới được phát
triển, những giá trị văn hóa khơng phù hợp sẽ bị loại bỏ trong đời sống. Chúng ta sẽ
không phải lo ngại sự du nhập những loại hình văn hóa khơng phù hợp làm biến đổi
bản sắc văn hóa dân tộc trong điều kiện giao lưu, hội nhập như hiện nay. Gìn giữ di
sản để góp phần gìn giữ được bản sắc văn hóa dân tộc, để kế thừa và phát huy các
giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, đồng thời tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân
loại làm cơ sở cho sự phát triển của văn hóa trong những giai đoạn tiếp theo.
Thứ hai, thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa góp phần
quảng bá hình ảnh Việt Nam, tăng cường giao lưu và hội nhập.
Giao lưu, hội nhập là xu thế tất yếu. Tiến trình tồn cầu hóa càng làm cho xu
thế này diễn ra mạnh mẽ. Di sản văn hóa ln chứa đựng những nét văn hóa độc
đáo, đặc sắc và hấp dẫn của mỗi dân tộc. Và với cộng đồng 54 dân tộc anh em, Việt
Nam có cả một kho tàng vô giá về di sản, bức tranh tổng thể đa sắc màu để chúng ta
tự hào quảng bá ra thế giới, góp phần khẳng định giá trị, hình ảnh con người và đất
nước Việt Nam, giao lưu thúc đẩy phát triển văn hóa đa quốc gia, tạo ra những mối
quan hệ tốt đẹp giúp cho sự hợp tác kinh tế, an ninh, quốc phòng và các lĩnh vực
khác được thuận lợi hơn, đạt hiệu quả cao hơn, góp phần vào sự nghiệp bảo vệ, xây
dựng và phát triển đất nước.
Thứ ba, thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa là giữ gìn,
phát huy nguồn lực nội sinh để phát triển kinh tế đất nước.
Di sản văn hóa ln được xác định là tài sản quý báu của mỗi dân tộc và mỗi
quốc gia. Di tích, danh lam thắng cảnh, nghệ thuật truyền thống, các sản phẩm nghề

thủ công truyền thống, ẩm thực Việt Nam,… đã ngày càng nổi tiếng trên thế giới,
không chỉ hấp dẫn khách du lịch mà còn thu hút nhiều nguồn lực đầu tư, các quỹ tài
trợ bảo tồn từ các tổ chức quốc tế. Di sản được khai thác đem lại hiệu quả kinh tế
cao trong các loại hình du lịch văn hóa, du lịch nơng nghiệp, du lịch tâm linh, sinh
thái,…Nhiều sản phẩm từ di sản văn hóa được xuất khẩu các nước trên thế giới.


Như vậy, thực hiện gìn giữ, phát huy di sản không chỉ tạo điều kiện cho ngành kinh
tế du lịch phát triển mà còn tác động tăng trưởng đến các ngành kinh tế khác. Đây
chính là nguồn lực nội sinh phong phú để phát triển kinh tế đất nước, đưa đất nước
tiến lên giàu mạnh trong tương lai.
1.2. Chủ thể và các bước thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy di sản
văn hóa ở Việt Nam
Thứ nhất, về chủ thể thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa

Chủ thể thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa ở
Việt Nam bao gồm:
- Chủ thể chịu trách nhiệm thực hiện chính sách: ở cấp trung ương là Chính
phủ, các bộ và cơ quan ngang bộ, chủ lực tham mưu và tổ chức thực hiện là Bộ Văn
hóa, Thể thao và Du lịch; ở cấp tỉnh là HĐND, UBND cấp tỉnh, các cơ quan chuyên
môn thuộc UBND tỉnh, chủ lực tham mưu và tổ chức thực hiện là Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch; ở cấp huyện là HĐND, UBND cấp huyện, các cơ quan chuyên môn
thuộc UBND cấp huyện, chủ lực tham mưu và tổ chức thực hiện là Phịng Văn hóa
và Thơng tin cấp huyện; và ở cấp xã là UBND cấp xã, Ban Văn hóa xã hội cấp xã là
chủ lực.
Chủ thể tham gia: là các đối tác phi nhà nước (các doanh nghiệp, các tổ chức,
cá nhân trong và ngoài nước). Các bên đối tác có thể bao gồm các viện nghiên cứu,
các trường đại học, doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, các tổ chức phi
chính phủ, hiệp hội nghề nghiệp và cả người dân.
Chủ thể tham gia với tư cách là đối tượng thụ hưởng thụ lợi ích từ chính sách

bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa ở Việt Nam bao gồm: cộng đồng dân
cư, các nhóm dân số, các dân tộc thiểu số, người dân Việt Nam ở các địa phương,
trong và ngoài nước.
Thứ hai, các bước thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa

Bước 1: Xây dựng kế hoạch triển khai thực hiện chính sách bảo tồn và phát
huy các giá trị di sản văn hóa.
Tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa là
q trình phức tạp, diễn ra trong một thời gian dài, vì thế chúng cần được lập kế


hoạch, lên chương trình để các cơ quan nhà nước triển khai thực hiện một cách chủ
động. Kế hoạch triển khai thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản
văn hóa phải được xây dựng trước khi đưa chính sách vào cuộc sống. Các cơ quan
triển khai thực thi chính sách từ trung ương đến địa phương đều phải xây dựng kế
hoạch, chương trình thực hiện cụ thể để thực hiện đầy đủ các nội dung chính sách đã
đề ra, nhằm đảm bảo chính sách mang lại kết quả như mục tiêu đã xác định.
Nội dung của kế hoạch sẽ bao gồm: Kế hoạch tổ chức, điều hành; Kế hoạch dự
kiến các nguồn lực; Kế hoạch thời gian triển khai thực hiện chính sách và Kế hoạch
kiểm tra, đơn đốc thực thi chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa.
Để đáp ứng tính hiệu quả và khả thi cao thì các kế hoạch thực hiện chính sách
bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa ở bất cứ cấp nào, địa phương nào,
ngành nào thì cũng phải đảm bảo các nội dung từ mục đích yêu cầu, nêu bật được ý
nghĩa công tác bảo tồn và phát huy di sản đang tác động, đến quy định về thời gian
thực hiện và hoàn thành, phạm vi hoạt động, mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể, chủ thể tham
gia, đề ra nhiệm vụ, hoạt động cụ thể, dự toán và bố trí kinh phí cụ thể cùng các
điều kiện vật chất, trang thiết bị thực hiện kế hoạch, phân cơng trách nhiệm các bên
liên quan, bố trí nhân lực thực hiện, có cơ chế kiểm tra, theo dõi, đơn đốc, tổng kết
đánh giá, quy định về các chế độ quyền lợi, các biện pháp khen thưởng để kịp thời
động viên các đối tượng thực hiện tốt nhiệm vụ, kể cả quy định về kỷ luật cá nhân,

tập thể làm sai, thiếu trách nhiệm trong thực thi chính sách bảo tồn và phát huy các
giá trị di sản văn hóa, quy định
Đối với những những kế hoạch chiến lược, cần phải phân kỳ thực hiện, bố trí
nguồn vốn theo lộ trình thực hiện, quy định những nội quy, quy chế về tổ chức, điều
hành hệ thống tham gia thực thi chính sách đảm bảo sự gắn kết và phối hợp chặt chẽ
giữa các bên, sự kết nối thông tin thông suốt và có tính tương tác phản hồi từ trên
xuống, từ dưới lên và thông tin hai chiều qua lại từ các cơ quan cùng cấp có liên
quan; có cơ chế điều chỉnh kế hoạch phù hợp từng giai đoạn thực hiện, từng mục
tiêu phải hồn thành. Có sơ kết, tổng kết, đánh giá rút kinh nghiệm nhằm đề xuất
cho giai đoạn tiếp theo và khen thưởng những điển hình tiêu biểu.


Nguyên tắc phê duyệt và điều chỉnh kế hoạch: kế hoạch được thực hiện ở
phạm vi cấp nào thì lãnh đạo cấp đó có thẩm quyền phê duyệt và điều chỉnh kế
hoạch, đảm bảo giá trị pháp lý bắt buộc các chủ thể tham gia tổ chức thực hiện
chính sách phải thực hiện nghiêm túc. Ví như Kế hoạch bảo tồn và phát huy di sản
văn hóa của dân tộc Chăm ở An Giang thì sẽ do Lãnh đạo UBND tỉnh phê duyệt,
hoặc Giám đốc Sở VHTTDL tỉnh An Giang ký ban hành nếu được UBND tỉnh ủy
quyền.
Bước 2: Phổ biến, tuyên truyền chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di
sản văn hóa.
Bước thực hiện này giúp cho các đối tượng chính sách và mọi người dân tham
gia thực thi hiểu rõ về mục đích, yêu cầu của chính sách; về tính đúng đắn của chính
sách trong điều kiện hồn cảnh nhất định và về tính khả thi của chính sách. Qua đó
để họ tự giác thực hiện theo yêu cầu quản lý của nhà nước. Đồng thời cịn giúp cho
mỗi cán bộ, cơng chức có trách nhiệm tổ chức thực thi nhận thức được đầy đủ tính
chất, trình độ, quy mơ của chính sách với đời sống xã hội để chủ động tích cực tìm
kiếm các giải pháp thích hợp cho việc thực hiện mục tiêu chính sách và triển khai
thực thi có hiệu quả kế hoạch tổ chức thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các
giá trị di sản văn hóa được giao.

Để tham gia q trình phổ biến, tun truyền chính sách bảo tồn và phát huy
các giá trị di sản văn hóa cần có sự tham gia của: Chủ thể phổ biến, tuyên truyền
chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa; Đối tượng được phổ biến,
tuyên truyền chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa, là những
người thực thi, những người thụ hưởng và cả những đối tượng gián tiếp chịu tác
động từ chính sách đã ban hành.
Cơng tác phổ biến, tuyên truyền chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di
sản văn hóa cần được thực hiện thường xuyên, liên tục, bằng nhiều hình thức như
trực tiếp tiếp xúc, trao đổi với các đối tượng tiếp nhận; gián tiếp qua các phương
tiện thông tin đại chúng v.v. để tăng tính hiệu quả, đồng bộ và tồn diện.
Bước 3: Phân cơng, phối hợp thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các
giá trị di sản văn hóa.


Thể hiện phân công trên các chủ thể tham gia thực hiện chính sách, gồm
(1) Phân cơng, phối hợp các cơ quan, chính quyền điều hành
- Chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa là chính sách cơng
được thực thi trên phạm vi khơng gian rộng lớn, tối thiểu cũng là một địa phương vì
thế số lượng các đối tượng cá nhân và tổ chức tham gia thực thi chính sách là rất
lớn. Số lượng tham gia bao gồm các đối tượng tác động của chính sách, cơng dân
thực hiện và bộ máy tổ chức thực thi của nhà nước.
- Các hoạt động nhằm thực hiện mục tiêu của chính sách diễn ra cũng hết sức
phong phú, phức tạp theo không gian và thời gian.
Bởi vậy, muốn tổ chức thực thi chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di
sản văn hóa có hiệu quả phải tiến hành phân cơng, phối hợp giữa các cơ quan quản
lý ngành, các cấp chính quyền địa phương, các yếu tố tham gia thực thi chính sách
và các quá trình ảnh hưởng đến thực hiện mục tiêu chính sách. Cụ thể như ở Việt
Nam, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch được phân cơng là cơ quan chủ trì quản lý,
tham mưu cho Chính phủ ở cấp Trung ương; Sở VHTTDL các tỉnh thành là cơ quan
chun mơn chủ trì thực hiện ở cấp tỉnh, Phịng Văn hóa và Thơng tin chủ trì thực

hiện cơng tác này ở cấp huyện, quản lý cả địa bàn cơ sở. Bên cạnh đó cịn cần phải
phân cơng rõ ràng các cơ quan phối hợp thực hiện công tác bảo tồn và phát huy các
giá trị di sản văn hóa, vì xét trên bình diện tổng thể, có nhiều chính sách khác (giáo
dục, y tế, tơn giáo, dân tộc, cơng nghiệp, du lịch,…) có liên quan và tác động đến
chính sách này, ngược lại, để thực hiện tốt cơng tác bảo tồn và phát huy các giá trị di
sản văn hóa thì cần phải huy động tồn xã hội cùng tham gia.
(2) Phân công, phối hợp các đối tượng thực hiện
Chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa trong q trình thực
hiện sẽ tác động đến lợi ích của các bộ phận dân cư theo các hướng khác nhau. Có
bộ phận được hưởng lợi nhiều, có bộ phận được hưởng lợi ít. Do đó, để cho chính
sách thực hiện được đúng mục tiêu quản lý thì cần phải phối hợp các yếu tố, bộ
phận, đối tượng tác động và liên quan đến nhau.


Bước 4: Duy trì chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản
Duy trì chính sách là tồn bộ hoạt động đảm bảo cho chính sách phát huy tác
dụng trong đời sống chính trị xã hội. Để thực hiện tốt việc duy trì chính sách bảo tồn
và phát huy các giá trị di sản thì địi hỏi các bên liên quan phải duy trì đảm bảo các
điều kiện để các kế hoạch triển khai thực hiện chính sách được thực thi có hiệu quả.
Cơ quan chủ trì tổ chức thực hiện các chương trình, kế hoạch bảo tồn, phát huy di
sản phải chủ động cụ thể hóa nội dung triển khai bằng các văn bản mang tính pháp
lý – qui định rành mạch, hợp lý trách nhiệm, quyền hạn của các chủ thể thực hiện;
tránh tình trạng lẫn lộn quyền hạn, trách nhiệm, nghĩa vụ của các chủ thể thực hiện.
Cơ quan phối hợp phải có trách nhiệm cao trong thực hiện các nhiệm vụ được phân
công, đảm bảo kết nối thông tin hai chiều để phản hồi kết quả thực hiện, kịp thời xử
lý những vấn đề phát sinh, điều chỉnh phù hợp trong lộ trình kế hoạch. Bên cạnh đó,
cần có sự tham gia của nhân dân, cụ thể đối với chính sách bảo tồn và phát huy các
giá trị di sản văn hóa thì phải có sự tham gia thực hiện của cộng đồng dân tộc – chủ
thể nắm giữ di sản đó và các tầng lớp nhân dân. Trong quá trình duy trì chính sách,
việc quan trọng hơn cả là cần đảm bảo các điều kiện nguồn lực và nhân lực thực thi

các nhiệm vụ, nếu không đảm bảo được yếu tố này, chính sách có nguy cơ cao
khơng đạt được mục tiêu đề ra, thậm chí khơng thực hiện được.
Bước 5: Điều chỉnh chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa. Là
một hoạt động cần thiết diễn ra thường xuyên trong tiến trình tổ chức thực thi chính
sách cơng để cho chính sách ngày càng phù hợp với yêu cầu quản lý và
tình hình thực tế.
Cơ quan nhà nước các ngành, các cấp - chủ thể thực hiện chính sách bảo tồn
và phát huy các giá trị di sản cần phải thường xuyên nắm bắt kết quả thực hiện ở
từng giai đoạn của các chương trình, kế hoạch đã triển khai, kịp thời phát hiện
những khó khăn, bất cập, những vấn đề phát sinh để chủ động điều chỉnh biện pháp,
cơ chế chính sách nhằm thực hiện có hiệu quả chính sách. Trong q trình này, phải
đặc biệt lưu ý là việc điều chỉnh không làm thay đổi mục tiêu chính sách.
Thẩm quyền điều chỉnh chính sách thuộc về cơ quan ban hành chính sách
quyết định điều chỉnh.


Bước 6: Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy
các giá trị di sản văn hóa.
Đây là việc bắt buộc phải làm để chính sách được kịp thời bổ sung, hồn thiện.
Đồng thời cũng kịp thời phát hiện những vi phạm trong công tác tổ chức thực hiện
chính sách, có những biện pháp chấn chỉnh để nâng cao hiệu quả thực hiện mục tiêu
chính sách. Tránh tình trạng kế hoạch, chương trình được ban hành ồ ạt nhưng đến
khi đánh giá kết quả thì lại khơng đạt, chính vì thiếu kiểm tra, theo dõi, đơn đốc nên
chính sách bị bng trơi, khơng thực hiện hoặc thực hiện chiếu lệ, không đến nơi
đến chốn.
Bước 7: Đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm thực hiện chính sách bảo tồn và
phát huy các giá trị di sản văn hóa.
Là bước cuối cùng khơng thể bỏ qua trong chu trình tổ chức thực hiện chính
sách. Trên cơ sở nội dung các kế hoạch, chương trình đã ban hành triển khai và
những nội qui, qui chế đã ban hành để quy định những nguyên tắc tổ chức thực hiện

chính sách, cơ quan nhà nước – chủ thể quản lý, thực thi chính sách cần tổ chức
đánh giá kết quả thực hiện nhằm thấy được hiệu quả của chính sách đạt đến đâu và
có những định hướng cho giai đoạn tiếp theo. Qua đánh giá toàn diện trên các mặt
công tác chỉ đạo điều hành, công tác phối hợp, việc bố trí nguồn lực, trang thiết bị,
kinh phí thực hiện chính sách, trách nhiệm của các tổ chức, cá nhân được phân công
thực hiện từng nhiệm vụ và cả sự đồng thuận, hưởng ứng tham gia của các chủ thể
hưởng lợi từ chính sách có đạt kết quả như mong đợi hay không; đánh giá những kết
quả thành tựu, hạn chế, nguyên nhân, rút ra bài học kinh nghiệm, định hướng giải
pháp tiếp theo, tuyên dương khen thưởng những điển hình tích cực trong tổ chức
thực hiện, kịp thời khắc phục những hạn chế, yếu kém, điều chỉnh chính sách cho
phù hợp.


Tiểu kết Chương 1
Ở Chương 1, luận văn đã khái quát một số khái niệm có liên quan đến đề tài từ
cơ sở khoa học về chính sách cơng, chính sách văn hóa như một thực thể của chính
sách cơng, chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa như một thành tố của
chính sách văn hóa, các khái niệm về di sản văn hóa, về bảo tồn và phát huy di sản
văn hóa, vai trị của việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy di sản văn hóa,
chủ thể và các bước thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn
hóa ở Việt Nam.
Nội dung chương 1 nhằm hệ thống cơ sở lý luận về thực hiện chính sách bảo
tồn và phát huy di sản văn hóa ở Việt Nam hiện nay, tạo tiền đề lý luận để phân tích
thực trạng và đề xuất giải pháp ở những chương sau.


Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
BẢO TỒN VÀ PHÁT HUY DI SẢN VĂN HÓA CỦA DÂN TỘC CHĂM
TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH AN GIANG

2.1. Giới thiệu chung về tỉnh An Giang, di sản văn hóa của dân tộc Chăm
và một số yếu tố ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách bảo tồn và phát huy
di sản văn hóa của dân tộc Chăm trên địa bàn tỉnh An Giang
2.1.1. Giới thiệu chung về tỉnh An Giang
An Giang là tỉnh nằm ở phía Tây Nam của tổ quốc, là vùng đất đầu nguồn
sông Cửu Long; là trung tâm kinh tế thương mại và là cửa ngõ giao thương giữa
vùng đồng bằng sông Cửu Long với các nước thuộc tiểu vùng sông Mê Kông, như
Campuchia, Lào, Thái Lan… cùng với lợi thế vùng biên giới, cảnh quan, khí hậu,
văn hóa dân tộc có nhiều điểm thuận lợi và hấp dẫn, nên An Giang đang từng bước
trở thành trung tâm thương mại và du lịch ở đồng bằng sông Cửu Long.
Tỉnh An Giang có 11 đơn vị hành chính cấp huyện trực thuộc, bao gồm 2
thành phố, 1 thị xã và 8 huyện với 156 đơn vị hành chính cấp xã, bao gồm 21
phường, 16 thị trấn và 119 xã. An Giang có 18 xã đặc biệt khó khăn và 12 ấp đặc
biệt khó khăn thuộc 10 xã, trong đó có 8 xã khu vực III và 10 xã biên giới theo
Quyết định 900/QĐ-TTg ngày 20 tháng 6 năm 2017 của Thủ Tướng chính phủ và
Quyết 414/QĐ-UBDT ngày 11/7/2017 của Ủy ban Dân tộc.
Dân số toàn tỉnh (năm 2018) là 2,164 triệu người với 543.764 hộ; có
119.219 người dân tộc thiểu số, với 28.481 hộ, chiếm 5,26% so dân số cả tỉnh.
Ngoài dân tộc Kinh chiếm đa số, cịn có 28 dân tộc thiểu số; có 03 dân tộc thiểu số
có dân số khá đơng là Khmer, Chăm và Hoa; trong đó, dân tộc Khmer 93.717 người
(chiếm 4,2% so dân số cả tỉnh); dân tộc Chăm 15.327 người (chiếm 0,67% so dân số
cả tỉnh); dân tộc Hoa 10.079 người (chiếm 0,38% so dân số cả tỉnh); còn lại là 25
dân tộc thiểu số khác (gồm Mường, Nùng, Tày, Thái, Ê Đê, Raglay, Xtiêng, Cơ
Tu...) sinh sống rải rác trên địa bàn; mỗi dân tộc thiểu số ở An Giang đều có đặc
điểm riêng.


×