Tải bản đầy đủ (.pdf) (70 trang)

Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 70 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM

LÊ THANH NAM

HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THANH NAM

LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƯƠNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

KHÓA X

HÀ NỘI, 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ THANH NAM

ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƯƠNG

Chuyên ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04



LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐỖ ĐỨC HỒNG HÀ

HÀ NỘI, 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan, luận văn thạc sỹ với đề tài “Định tội danh tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” là cơng trình
nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tơi. Các số liệu, bản án, ví dụ trược
trích dẫn, phân tích trong luận văn là trung thực, rõ ràng về nguồn gốc, kết
quả nghiên cứu không trùng với bất kỳ đề tài khoa học nào khác và chưa được
công bố.
Tác giả

Lê Thanh Nam


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM

10


DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1. Khái niệm và đặc điểm định tội danh tội lạm dụng tín

10

nhiệm chiếm đoạt tài sản
1.1.1. Khái niệm

10

1.1.2. Đặc điểm định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm

11

đoạt tài sản
1.2. Ý nghĩa của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm

14

đoạt tài sản
1.2.1. Ý nghĩa về phương diện chính trị - xã hội

15

1.2.2. Ý nghĩa về phương diện pháp lý

16

1.3. Các giai đoạn và các yếu tố ảnh hưởng đến định tội danh


16

tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1.3.1. Các giai đoạn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm

16

chiếm đoạt tài sản
1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến định tội danh tội lạm dụng

17

tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1.4. Cở sở pháp lý của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm

17

chiếm đoạt tài sản
1.4.1. Khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài

18

1.4.2. Mặt khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm

20

sản
đoạt tài sản
1.4.3. Chủ thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài


22


sản
1.4.4. Mặt chủ quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt

23

tài sản
1.5. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản với

23

một số tội danh khác trong luật hình sự
1.5.1. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

23

với tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
1.5.2. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

25

với tội tham ô tài sản
1.5.3. Phân biệt tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản

26

với tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản
Tiểu kết chương 1


28

Chương 2: THỰC TIỄN ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG

29

TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRÊN ĐỊA BÀN
TỈNH HẢI DƯƠNG TRONG THỜI GIAN QUA
2.1. Những kết quả đạt được trong định tội danh tội lạm dụng

29

tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương
2.2. Những hạn chế, sai lầm trong định tội danh tội lạm dụng

31

tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương
2.2.1. Xác định dấu hiệu dùng thủ đoạn gian dối để chiếm

32

đoạt tài sản trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đơi
khi cịn nhầm lẫn với một số tội phạm khác
2.2.2. Xác định dấu hiệu bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản

36

2.2.3. Xác định dấu hiệu sử dụng tài sản vào mục đích bất


38

hợp pháp dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản
2.2.4. Xác định hành vi đã thực hiện là tội phạm hay chỉ là
vi phạm dân sự, kinh tế

39


2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, sai lầm trong định tội danh tội

39

lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương
Tiểu kết chương 2
Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU

41
43

QUẢ ĐỊNH TỘI DANH TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM
CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN TRONG THỜI GIAN TỚI
3.1. Yêu cầu bảo đảm định đúng tội danh tội lạm dụng tín

43

nhiệm chiếm đoạt tài sản
3.1.1. Yêu cầu về chính trị - xã hội


43

3.1.2. Yêu cầu về lý luận và thực tiễn

44

3.1.3. Yêu cầu về lập pháp hình sự

46

3.2. Giải pháp bảo đảm định đúng tội danh tội lạm dụng tín

46

nhiệm chiếm đoạt tài sản
3.2.1. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng trong

46

công tác xử lý các vụ án hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản
3.2.2. Tiếp tục hồn thiện pháp luật về tội lạm dụng tín

48

nhiệm chiếm đoạt tài sản
3.2.3. Kịp thời hướng dẫn, giải thích pháp luật về tội lạm

51


dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
3.2.4. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức các

52

cơ quan tư pháp trong việc giải quyết án hình sự về tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
3.2.5. Bảo đảm hiệu quả phối hợp giữa các cơ quan tư pháp

54

trong định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
3.2.6. Tổng kết kinh nghiệm xét xử

55

3.2.7. Ban hành án lệ

56


Tiểu kết chương 3

56
KẾT LUẬN

57

DANH MỤC THAM KHẢO


59


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lý luận và thực tiễn đã chỉ ra rằng, hoạt động xét xử của Tịa án, Trong đó
hoạt động mang tính định tội đối với người phạm tội, pháp nhân thương mại
phạm tội là một hoạt động của chủ thể mang lại kết quả là có tội hay khơng có
tội. Định tội danh là yếu tố cơ bản đảm bảo cho pháp luật hình sự được xét xử
để đưa các quy định pháp luật tiếp cận với thực tiễn. Từ đó, xác định được
những chủ thể là người có hành vi phạm tội đã thực hiện hành vi đó như thế nào,
có vi phạm điều cấm nào của pháp luật hay khơng, có tác động tới điểm gì của
khách thể, có bị áp dụng hình phạt hay khơng. Do đó, định tội danh đúng đắn,
được xem là yếu tố tiên quyết, là cơ sở cho việc Tồ án áp dụng một hình phạt
đúng đắn đối với người phạm tội, góp phần tăng cường phòng chống oan sai, và
bỏ lọt tội phạm. Và ngược lại, việc định tội danh không đảm bảo yếu tố chính
xác, khơng thực hiện đúng quy định của pháp luật, sẽ xâm phạm nghiêm trọng
đến quyền và lợi ích của con người, làm ảnh hưởng đến hoạt động đấu tranh
phòng chống tội phạm, làm suy giảm niềm tin của người dân trong quá trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội.
Bên cạnh các quy định hiện hành như BLHS năm 2015, thì các quy định về
việc định tội danh nói chung và định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản nói riêng vẫn cịn chưa có tính hệ thống, còn xuất hiện tại nhiều văn bản
hướng dẫn dưới luật khác nhau trong đó có thể kể đến như Thơng tư liên tịch số
02/2001/TTLT- TANDTC- VKSNDTC-BCA-BTP ngày 25/12/2001 của Tòa án
nhân dân tối cao, Bộ Tư pháp, Bộ Công an hướng dẫn áp dụng một số quy định
tại chương XIV "Các tội xâm phạm sở hữu của BLHS năm 1999", Nghị quyết số
01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/3/2001 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối
cao về việc hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự năm 1999...
từ đó làm giảm tính thống nhất, tính đồng bộ của hệ thống pháp luật, gây khó

khăn trong hoạt động áp dụng.
Nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn hiện nay cho thấy, tình hình tội
1


lạm dụng tín nhiệm đoạt tài sản có xu hướng gia tăng và diễn biến ngày càng
phức tạp. Đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa hiện nay thì các quan hệ dân sự, kinh tế ngày càng đa dạng và phức tạp
dẫn đến những đối tượng có ý định chiếm đoạt tài sản bằng cách lợi dụng lòng
tin của người khác ngày càng nhiều.
Đây cũng là loại tội phạm có nhiều dấu hiệu bị trùng với các dấu hiệu của
tội phạm khác và có những dấu hiệu liên quan đến pháp luật dân sự; vì vậy mà
việc "hình sự hóa" các quan hệ dân sự, kinh tế trong loại tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản là khá nhiều. Thực tiễn khó khăn như vậy là do về mặt pháp
lý, nhiều quy định về tội danh này cũng như những tội danh khác trong luật hình
sự cịn chưa thực sự hồn thiện, chưa có sự rõ ràng về cấu thành, về hướng dẫn
áp dụng. Bên cạnh đó, cách xây dựng pháp luật hình sự cịn nhiều hạn chế,
khơng có những điểm rõ ràng, hướng dẫn chi tiết cụ thể dẫn đến việc áp dụng
không thống nhất giữa các cơ quan tiến hành tố tụng.
Tỉnh Hải Dương là tỉnh thuộc đồng bằng sơng Hồng, có tốc độ tăng
trưởng kinh tế lớn, biến động dân cư và xã hội khá phức tạp. Trong những năm
vừa qua, kết quả công tác xét xử của Tồ án nhân dân 2 cấp tỉnh Hải Dương
trong đó có hoạt động giải quyết các vụ án hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản mang lại hiệu quả tương đối cao, có nhiều ưu điểm. Tuy
nhiên, công tác này vẫn bộc lộ những hạn chế nhất định, nhiều quy định về tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chưa được đưa vào thi hành trên thực tế,
nhiều vụ án định tội danh còn sai sót. Chính vì vậy, tác giả chọn đề tài “Định tội
danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương” làm
đề tài Luận văn thạc sĩ luật học của mình.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài

2.1. Những cơng trình nghiên cứu lý luận về định tội danh tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Hiện nay những cơng trình nghiên cứu liên quan đến lý luận về định tội
danh đã được nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu, có thể kể đến như:
2


- Phan Anh Tuấn (2001), Định tội danh trong trường hợp một hành vi
thỏa mãn dấu hiệu của nhiều cấu thành tội phạm, Tạp chí khoa học pháp lý, (số
02), tr.45 - 49, Hà Nội. Trong bài viết của mình, tác giả đã đưa ra lý luận để định
tội danh trong trường hợp một hành vi thoả mãn dấu hiệu của nhiều cấu thành
tội phạm. Đây là một vấn đề lớn, phức tạp và khó khăn trong q trình định tội
danh nói chung, trong đó có tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
- Tác giả Nguyễn Ngọc Chí (2003), Giáo trình Luật hình sự Việt Nam
(Phần các tội phạm) “Chương VI - Các tội xâm phạm sở hữu”, Lê Cảm chủ
biên, Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong cơng trình nghiên cứu của mình, tác
giả tập chung phân tích về các dấu hiệu của cấu thành tội phạm xâm phạm sở
hữu nói chung được quy định trong Bộ luật hình sự trong đó có tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản.
- Tác giả Võ Khánh Vinh (2003), Giáo trình Lý luận về định tội danh,
NXB. Cơng an nhân dân, Hà Nội. Tại cơng trình này, tác giả phân tích về những
vấn đề có tính chất lý luận về định tội danh trong luật hình sự, tác giả cũng phân
tích về khái niệm, đặc điểm, nội dung, các bước của định tội danh cũng như
những kỹ năng định tội danh cơ bản.
- Tác giả Lê Văn Đệ (2004), Định tội danh và quyết định hình phạt trong
Luật hình sự Việt Nam, NXB. Cơng an nhân dân, Hà Nội. Trong cơng trình của
mình, tác giả tập trung phân tích về những vấn đề lý luận có tính chất căn bản về
định tội danh và quyết định hình phạt, trong đó tác giả phân tích về khái niệm,
đặc điểm, các bước của q trình định tội danh nói chung.
Ngồi ra cũng có những cơng trình nghiên cứu về nhóm tội xâm phạm sở

hữu như:
- Tác giả Nguyễn Sỹ Đại (2001), Bình luận khoa học BLHS 1999 (Phần
các tội phạm), Tập thể tác giả, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội. Tại cơng trình
này, tác giả đưa ra các bình luận, diễn giải có tính chất khoa học về các tội xâm
phạm sở hữu, trong đó có tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản. Trong quá

3


trình phân tích về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thì các dấu hiệu
pháp lý của tội này sẽ là cơ sở để định tội danh trên thực tế.
- Tác giả Đinh Văn Quế (2012), Bình luận khoa học BLHS Phần các tội
phạm, Tập II - Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb. Lao động, Hà Nội. Tại cuốn sách
của mình, tác giả Đinh Văn Quế phân tích về những dấu hiệu pháp lý về định tội
danh đối với tội phạm về xâm phạm sở hữu. Theo đó, các tội xâm phạm sở hữu,
trong đó có tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đặc trưng nhất định về
dấu hiệu pháp lý, cần phải xác định để từ đó định tội danh chính xác.
2.2. Những cơng trình nghiên cứu thực tiễn định tội danh tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương
Nghiên cứu về định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
trên địa bàn các tỉnh, thành phố trên phạm vi cả nước đã có một số tác giả quan
tâm nghiên cứu. Đối với công trình nghiên cứu về thực tiễn định tội danh tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương cho đến nay mới
có duy nhất một cơng trình nghiên cứu của tác giả Hồng Thị Kim Chi, tuy
nhiên tác giả Hoàng Thị Kim Chi nghiên cứu về định tội danh tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Bộ luật hình sự năm 1999, đến nay tội danh này
đã có những sửa đổi, bổ sung theo Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung
năm 2017. Các cơng trình có thể kể đến như:
- Tác giả Hồ Ngọc Hải (2012), Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
có đối tượng là tài sản có đăng ký quyền sở hữu, sử dụng theo luật hình sự Việt

Nam, Luận văn thạc sĩ luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Trong
luận văn của mình, tác giả phân tích về những vấn đề lý luận và thực tiễn về tội
lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có đăng ký quyền sở hữu, sử dụng theo
luật hình sự Việt Nam. Trong đó có nội dung tác giả phân tích về thực tiễn định
tội danh đối với tội phạm này trên địa bàn cả nước, cũng như xác định những
hạn chế, tồn tại và nguyên nhân của những hạn chế này.
- Tác giả Hoàng Thị Kim Chi (2017), Định tội danh tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực
4


tiễn tỉnh Hải Dương, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học Xã hội, Hà
Nội. Trong luận văn của mình tác giả đã phân tích về những vấn đề lý luận và
thực tiễn về định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản từ
thực tiễn tỉnh Hải Dương. Trong đó, tác giả đưa ra phân tích về thực tiễn định tội
danh đối với tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
2.3. Những cơng trình nghiên cứu u cầu và giải pháp bảo đảm định
đúng tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong thời gian tới
Hiện nay, cũng đã có một số cơng trình nghiên cứu về vấn đề yêu cầu và
giải pháp hoàn thiện pháp luật cũng như bảo đảm định đúng tội danh tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản cũng như các tội xâm phạm sở hữu nói chung,
có thể kể đến như:
- Tác giả Hoàng Thị Kim Chi (2017), Định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản theo quy định của pháp luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn tỉnh
Hải Dương, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học Xã hội, Hà Nội. Trong
luận văn này tác giả phân tích vấn đề hồn thiện pháp luật tại chương 3 của luận
văn. Tại đây tác giả có đưa ra 02 nhóm giải pháp về hồn thiện pháp luật và nâng
cao hiệu quả áp dụng đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
- Tác giả Đồn Thị Ngọc Hải, Nguyễn Văn Điền (2019), “Một số vấn đề
về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định của pháp luật

hình sự”, Tạp chí Tồ án nhân dân số 4/2019, Hà Nội. Trong bài viết của mình,
tác giả đã phân tích về một số vấn đề lý luận và thực tiễn về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật
đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
- Tác giả Trần Duy Bình (2020) “Tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản” - Một số vướng mắc trong thực tiễn và kiến nghị hồn thiện”, Tạp chí Tồ
án nhân dân số 3/2020, Hà Nội. Trong bài viết của mình, tác giả phân tích về
những hạn chế, vướng mắc của cơng tác áp dụng đối với tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản và từ đó tác giả đưa ra các giải pháp nhằm tăng cường hiệu
quả áp dụng đối với tội phạm này.
5


Các cơng trình nghiên cứu, các bài viết, đề tài khoa học nói trên đều là
những cơng trình có giá trị về mặt lý luận khoa học và thực tiễn, tuy nhiên, nội
dung các đề tài chỉ hướng đến việc phân tích, nghiên cứu những vấn đề lý luận
về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong mối quan hệ tách biệt hoàn
toàn với những kiến thức lý luận về định tội danh. Vì vậy, có thể nói có nhiều
cơng trình nghiên cứu đề cập đến vấn đề định tội danh và tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản nhưng các cơng trình nghiên cứu ở góc độ hoàn chỉnh về định
tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chưa nhiều đặc biệt là
nghiên cứu thực tiễn trên địa bàn cụ thể là tỉnh Hải Dương. Mặc dù vậy, kết quả
của những cơng trình nghiên cứu, bài viết đã cơng bố là một trong những nguồn
tài liệu quan trọng tác giả có thể vận dụng để hồn thiện luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của việc nghiên cứu đề tài luận văn này là phân tích dưới góc
độ khoa học để làm sáng tỏ hơn nữa các vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn về
định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự, từ đó
đưa ra các giải pháp bảo đảm định đúng tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm

đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên đề tài có những nhiệm vụ nghiên cứu là
làm rõ một số vấn đề sau:
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề lý luận về định tội danh nói chung và
định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản như: Khái niệm, đặc
điểm của định tội danh; cơ sở pháp lý, căn cứ pháp lý của việc định tội danh;
định tội danh trong một số trường hợp đặc biệt; đặc điểm tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản; đặc điểm và yêu cầu định tội danh đối với tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Thứ hai, nghiên cứu thực trạng định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong thời gian qua, thơng qua đó đánh giá
6


các kết quả và tìm ra những hạn chế, tồn tại và nguyên nhân.
Thứ ba, đưa ra các định hướng và đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường
hiệu quả định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản từ thực tiễn tỉnh Hải Dương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu đề tài là quy định của Bộ luật hình sự năm 2015
(được sửa đổi, bổ sung năm 2017) về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
và thực tiễn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản giai đoạn
2018 đến 2020 trên địa bàn tỉnh Hải Dương (thời điểm từ khi Bộ luật hình sự
năm 2015 có hiệu lực) thuộc chuyên ngành Luật hình sự và tố tụng hình sự.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận

Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận về chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử của Chủ Nghĩa Mác – Lê Nin; tư tưởng về nhà nước và
pháp quyền của Hồ Chí Minh; đường lối, quan điểm của Đảng, Nhà nước về
chính sách hình sự, xử lý đối với tội xâm phạm sở hữu nói chung và tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở lý luận nêu trên, luận văn có các phương pháp nghiên cứu sau:
- Phương pháp phân tích được luận văn sử dụng để nghiên cứu, phân tích,
đánh giá các quan điểm của các tác giả đã công bố về vấn đề định tội danh và
định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản; ngồi ra phương pháp
phân tích cịn được luận văn sử dụng để phân tích quy định của Điều 175 Bộ
luật hình sự năm 2015 về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
- Phương pháp tổng hợp được luận văn sử dụng để tổng hợp các quan
điểm về vấn đề nghiên cứu cũng như tổng hợp các số liệu, bản án về định tội
7


danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
- Phương pháp thống kê được luận văn sử dụng để nghiên cứu thực trạng
định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản thông qua thống kê số
liệu gồm có: số vụ án, số bị can, các dạng hình phạt đối với bị cáo; thống kê số
bản án định tội danh về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong giai
đoạn từ 2018 đến 2020 trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
- Phương pháp so sánh pháp luật để đối chiếu với các quy định của pháp
luật với nhau nhằm tìm ra những điểm mới trong quá trình nghiên cứu.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Nhiệm vụ trọng tâm của khoa học luật hình sự hiện nay là nghiên cứu để
làm sáng tỏ những vấn đề lý luận và thực tiễn về định tội danh đối với các tội
phạm nói chung và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng, đây
cũng là một trong những yêu cầu của công cuộc cải cách tư pháp ở nước ta giai

đoạn hiện nay.
6.1. Về mặt lý luận
Luận văn góp phần vào việc nghiên cứu một cách hoàn chỉnh vấn đề định
tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ
luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
6.2. Về mặt thực tiễn
Một trong những nguyên nhân dẫn đến hiệu quả của cuộc đấu tranh phịng,
chống tội phạm đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản chưa cao, đơi khi cịn
bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan người không phạm tội đó là sự yếu kém của một bộ
phận những người tiến hành tố tụng trong việc nhận thức cũng như áp dụng
đúng đắn các quy định của pháp luật hình sự trong thực tiễn định tội danh tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Việc nghiên cứu của tác giả nhằm làm sáng tỏ những khía cạnh pháp lý về
định tội danh nói chung và định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản tại tỉnh Hải Dương nói riêng, qua đó góp phần bổ sung, hồn thiện trên lý
thuyết định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo quy
8


định của Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Luận văn có thể là cơ sở để đưa ra các kiến nghị hoàn thiện pháp luật hình
sự liên quan đến định tội danh nói chung và định tội danh tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng, là tài liệu tham khảo cho các cơ quan tiến
hành tố tụng đặc biệt là Thẩm phán thuộc Tịa án hai cấp tỉnh Hải Dương, góp
phần giải quyết các vụ án hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
được đúng đắn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục,
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Lý luận về định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.

Chương 2: Thực tiễn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản trên địa bàn tỉnh Hải Dương trong thời gian qua.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp bảo đảm định đúng tội danh tội lạm dụng
tín nhiệm chiếm đoạt tài sản trong thời gian tới.

9


Chương 1
LÝ LUẬN VỀ ĐỊNH TỘI DANH
TỘI LẠM DỤNG TÍN NHIỆM CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
1.1. Khái niệm và đặc điểm định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản
1.1.1. Khái niệm
Để nghiên cứu khái niệm định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản, chúng ta đã xác định được hai khái niệm có liên quan là khái
niệm định tội danh và khái niệm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Định tội danh là một q trình nhận thức lý luận có tính lơgic, đồng thời
là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự,
cũng như pháp luật tố tụng hình sự và được tiến hành dựa trên cơ sở các chứng
cứ, các tài liệu thu thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự để đối
chiếu, so sánh và kiểm tra nhằm xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành
vi nguy hiểm cho xã hội đã thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm cụ
thể tương ứng được quy định trong Bộ luật hình sự. Việc định tội được thực hiện
nhằm đi đến các quyết định hành vi được thực hiện có cấu thành tội phạm hay
khơng; xác định tội danh và khung hình phạt đối với hành vi phạm tội. Bộ luật
hình sự là văn bản pháp luật duy nhất quy định tội phạm và hình phạt. Vì vậy,
Bộ luật hình sự là cơ sở pháp lí duy nhất của việc định tội danh, khi định tội
danh, người định tội căn cứ vào quy phạm pháp luật cụ thể quy định về tội phạm
để xác định hành vi được thực hiện có cấu thành tội phạm hay khơng.

Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định trong chương
các tội phạm xâm phạm quyền sở hữu. Theo quy định tại Điều 175 Bộ luật hình
sự thì người phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là người có hành vi
nhận được tài sản của người khác thơng qua hình thức hợp đồng hợp pháp hoặc
vay, mượn, thuê tài sản của người khác rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn
nhằm chiếm đoạt tài sản, hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện,
khả năng trả nhưng cố tình khơng trả, hoặc sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp
10


pháp dẫn đến khơng có khả năng hồn trả tài sản, giá trị tài sản bị chiếm đoạt
được xác định từ mức bốn triệu đồng trở lên hoặc dưới bốn triệu đồng nhưng
thuộc một trong các trường hợp được quy định trong Bộ luật hình sự.
Như vậy, định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được
hiểu là dạng hoạt động của nhận thức, là quá trình áp dụng pháp luật của các
chủ thể có thẩm quyền nhằm xác định sự phù hợp giữa hành vi nguy hiểm cho
xã hội đã được thực hiện với các dấu hiệu cấu thành cụ thể của tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự, xác định
chính xác người thực hiện hành vi có phạm tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt
tài sản hay khơng để buộc người đó phải gánh chịu trách nhiệm hình sự tương
xứng với tính chất, mức độ của hành vi mà mình đã thực hiện.
1.1.2. Đặc điểm định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Ngoài những đặc điểm chung với định tội danh các tội phạm được quy
định trong Bộ luật hình sự, định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản cịn có đặc điểm riêng như: hoạt động định tội danh tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam là hoạt động có tính
logic, là một trong những dạng của hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình
sự, cũng như pháp luật tố tụng hình sự, và được tiến hành bằng cách: trên cơ sở
các chứng cứ, các tài liệu thụ thập được và các tình tiết thực tế của vụ án hình sự
để xác định sự phù hợp giữa các dấu hiệu của hành vi nguy hiểm cho xã hội

được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản do luật hình sự quy định, nhằm xác định được sự thật khách
quan, tức là đưa ra sự đánh giá chính xác tội phạm về mặt pháp lý hình sự, làm
tiền đề cho việc cá thể hoá và phân hố trách nhiệm hình sự một cách cơng
minh, có căn cứ và đúng pháp luật.
Nguyên nhân dẫn đến tình trạng oan sai, bỏ lọt tội phạm là việc đưa ra
nhận định sai khi định tội danh trong thực tiễn, do đó khi định tội danh cần được
tiến hành tuần tự qua các bước sau [50].
Bước 1: Xác định tội phạm
11


Trong đời sống xã hội có nhiều người có hành vi gây nguy hại cho xã hội,
nhưng không phải tất cả các hành vi gây nguy hại cho xã hội đều là tội phạm.
Trong Bộ luật hình sự hiện hành có quy định, có hành vi tuy có gây nguy hại
cho xã hội nhưng không phải là tội phạm như là: Người thực hiện hành vi nguy
hiểm cho xã hội trong khi đang mắc bệnh tâm thần hoặc một bệnh khác làm mất
khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình, thì khơng phải
chịu trách nhiệm hình sự (quy định tại Điều 13 Bộ luật Hình sự); hoặc là hành vi
phịng vệ chính đáng khơng phải là tội phạm (quy định tại Điều 15 Bộ luật Hình
sự); hoặc là hành vi trong tình thế cấp thiết vì muốn tránh một nguy cơ đang
thực tế đe dọa tới lợi ích của Nhà nước, của tổ chức, quyền, lợi ích chính đáng
của mình hoặc của người khác, mà khơng cịn cách nào khác là phải gây một
thiệt hại nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa (quy định tại Điều 16 Bộ luật Hình sự).
Như vậy, ngồi các trường hợp mà BLHS quy định không phải là tội
phạm và tuổi của người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội nhưng khơng
phải chịu trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự, thì
người có hành vi nguy hiểm cho xã hội, mà hành vi gây nguy hại cho xã hội đó
là bị coi là tội phạm, thì họ phải chịu hình phạt của Nhà nước đối với hành vi
gây nguy hại cho xã hội mà họ đã gây ra.

Theo quy định tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự thì: “Tội phạm là
hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật Hình sự, do người
có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vơ ý, xâm
phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, tồn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm phạm
chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phịng, an ninh, trật tự, an
tồn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp khác
của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã hội chủ
nghĩa” [33].
Theo quy định tại Điều 8 Bộ luật Hình sự về khái niệm tội phạm, chúng ta
có thể hiểu: Người có năng lực chịu trách nhiệm hình sự thực hiện một hành vi
12


nguy hiểm cho xã hội, mà hành vi nguy hiểm cho xã hội đó xâm phạm đến một
trong các quan hệ xã hội quy định tại khoản 1 Điều 8 Bộ luật Hình sự thi hành vi
nguy hiểm đó là tội phạm.
Đã từ lâu, các nhà khoa học về tội phạm học, cùng các cơ quan tiến hành
tố tụng hình sự đã xác định được các căn cứ để xác định tội phạm hay còn gọi là
các yếu tố cấu thành tội phạm hoặc là các cấu thành bắt buộc của tội phạm. Các
yếu tố cấu thành đó gồm:
Một là, chủ thể của tội phạm: Là con người cụ thể, đã thực hiện hành vi vi
phạm pháp luật và là người có năng lực trách nhiệm hình sự.
Hai là, mặt chủ quan của tội phạm: Là động cơ, mục đích thực hiện hành
vi vi phạm pháp luật; lỗi khi thực hiện hành vi vi phạm pháp luật (bao gồm lỗi
cố ý và lỗi vô ý).
Ba là, khách thể của tội phạm: Là quan hệ xã hội mà Bộ luật Hình sự có
nhiệm vụ bảo vệ.
Bốn là, mặt khách quan của tội phạm: Là các hành vi của chủ thể, biểu
hiện ra bên ngồi trong q trình thực hiện hành vi vi phạm pháp luật. Các hành

vi này, có thể bằng hành động nhưng cũng có thể bằng khơng hành động.
Phải có đủ bốn yếu tố này mới cấu thành tội phạm. Thiếu một trong bốn
yếu tố này, thì khơng phải là tội phạm. Do đó, chúng ta thấy rằng: + Những hành
vi có dấu hiệu của tội phạm, nhưng tính chất nguy hiểm cho xã hội khơng đáng
kể, thì khơng phải là tội phạm. + Những tội phạm được quy định trong các điều
luật trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự được gọi là tội phạm. + Người
nào phạm một tội đã được Bộ luật hình sự quy định, thì mới phải chịu trách
nhiệm hình sự.
Bước 2: Đối chiếu hành vi của bị cáo bị truy tố với dấu hiệu cấu thành của
tội bị truy tố.
Nghiên cứu nội dung các điều luật trong Phần các tội phạm của Bộ luật
hình sự, chúng ta thấy trong tổng điều luật có quy định rõ các cấu thành của tội
trong điều luật đó. Các cấu thành này, tạo nên sự khác biệt giữa tội này với tội
13


khác.
Tóm lại, việc xác định tội danh tiến hành theo hai bước ở trên là phù hợp
với lý luận ở chỗ căn cứ vào bốn yếu tố cấu thành tội phạm và phù hợp với thực
tiễn ở chỗ là đối chiếu các cấu thành của tội mà Viện kiểm sát truy tố với hành
vi mà bị cáo thực hiện có trùng hợp với nhau hay khơng. Nếu trùng hợp thì chấp
nhận tội danh mà Viện kiểm sát truy tố, nếu khơng trùng hợp thì cần phải làm rõ
các hành vi vi phạm pháp luật bị truy tố phạm vào tội nào. Có như vậy xác định
tội danh mới đúng.
1.2. Ý nghĩa của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản
Một trong những giai đoạn cơ bản của việc áp dụng các quy phạm pháp
luật hình sự là việc định tội danh, bởi định tội danh đúng có ý nghĩa pháp lý
quan trọng, ngồi ra cịn có ý nghĩa chính trị, xã hội, đạo đức rất lớn và ngược
lại.

Định tội danh là giai đoạn cơ bản của việc áp dụng pháp luật hình sự.
Định tội danh đúng có ý nghĩa chính trị - xã hội, đạo đức và pháp lí quan trọng.
Thể hiện thái độ của Nhà nước đối với những hành vi nhất định; là cơ sở quan
trọng cho việc xử lý tội phạm và áp dụng hình phạt, loại trừ việc truy cứu trách
nhiệm hình sự, tránh oan sai, bỏ lọt tội phạm, bênh cạnh đó là cơ sở cho việc xác
định các thủ tục tố tụng và giúp cho việc đánh giá chính xác tình hình tội phạm
để có biện pháp phịng ngừa phù hợp, có hiệu quả.
Có hai hình thức định tội danh: 1) Định tội danh chính thức do người tiến
hành tố tụng và người tham gia tố tụng có liên quan thực hiện trong quá trình
giải quyết vụ án để thực hiện việc buộc tội, bào chữa hay xét xử vụ án và làm
phát sinh hậu quả pháp lí; 2) Định tội danh khơng chính thức do các nhà nghiên
cứu thực hiện nhằm thể hiện quan điểm khoa học, nhận thức của người định tội
và không làm phát sinh hậu quả pháp lí. Việc định tội được thực hiện nhằm đi
đến các quyết định hành vi được thực hiện có cấu thành tội phạm hay khơng;
xác định tội danh và khung hình phạt đối với hành vi phạm tội.
14


Định tội danh là sự thể hiện việc đánh giá chính trị, xã hội và pháp lý đối
với những hành vi nhất định. Do đó, xu hướng của hoạt động định tội danh chỉ
có thể là: định tội danh đúng và định tội danh sai.
Việc định tội danh sai sẽ dẫn đến một loạt các hậu quả pháp lý kéo theo
đó là áp dụng pháp luật khơng có căn cứ, không công bằng hoặc không áp dụng
một loạt các biện pháp pháp lý khác như trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng và
đặc biệt là quyết định hình phạt sai. Những vụ việc oan sai chủ yếu bắt nguồn từ
việc thu thập chứng cứ không đầy đủ, đánh giá chứng cứ thiếu thận trọng, phiến
diện, nơn nóng trong khởi tố, bắt giam, suy diễn chủ quan. Việc định tội danh sai
sẽ làm giảm uy tín của cơ quan tư pháp, vi phạm pháp chế xã hội chủ nghĩa, ảnh
hưởng đến hiệu quả đấu tranh phòng chống tội phạm.
Định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có ý

nghĩa rất quan trọng và trên nhiều phương diện khác nhau:
1.2.1. Ý nghĩa về phương diện chính trị - xã hội
Bộ luật hình sự thể hiện ý chí Nhà nước đối với vấn đề đấu tranh với tình
hình phạm tội. Do vậy, việc định tội danh đúng là thực hiện đúng chính sách hình
sự của Nhà nước ta, thực thi đúng ý chí của nhân dân đã được thể hiện trong luật.
Định tội danh đúng, nhất là đối với Tòa án nhân dân, cơ quan xét xử, thực hiện
quyền tư pháp góp phần bảo vệ cơng lý, bảo vệ có hiệu quả quyền con người, các
lợi ích của xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của, cơ quan, tổ chức.
Định tội danh đúng là thể hiện sự đánh giá đúng đắn của Nhà nước đối
với hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định là tội phạm trên thực tế. Định
tội danh đúng, một mặt hướng dư luận xã hội đến việc phê phán với tội phạm;
mặt khác, động viên được tồn xã hội có thái độ tích cực với hoạt động đấu
tranh phịng chống tội phạm. Hoạt động định tội danh cũng như quyết định hình
phạt chỉ nhận được sự đồng tình của quần chúng nhân dân nếu hoạt động đó
được thực hiện chính xác, vô tư, khách quan, đúng pháp luật.
Kết quả cuối cùng của hoạt động định tội danh đối với tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản chỉ có thể phát triển theo hai hướng: khẳng định là có
15


tội hoặc khẳng định khơng có tội. Do đó, định đúng tội danh đối với các loại tội
phạm nói chung, tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng góp phần
quan trọng trong việc phịng, chống oai sai hoặc bỏ lọt tội phạm, xử lý đúng
người, đúng tội, đúng quy định của pháp luật; định tội danh đúng cịn góp phần
củng cố lịng tin của người dân vào cơng lý, sự chí cơng, vơ tư của các cơ quan
bảo vệ pháp luật; củng cố lòng tin của các nhà đầu tư nước ngồi về tính minh
bạch và đúng đắn của pháp luật Việt Nam. Thông qua định tội danh với các tội
nói chung và đối với tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản nói riêng, Nhà
nước ta thực hiện nghiêm túc các cam kết quốc tế về quyền con người [12]
1.2.2. Ý nghĩa về phương diện pháp lý

Việc định tội danh sai không chỉ dẫn đến việc quyết định hình phạt khơng
chính xác, khơng cơng bằng, mà cịn áp dụng khơng có căn cứ hoặc khơng áp
dụng một loạt các biện pháp cưỡng chế pháp lý khác như biện pháp tư pháp, xác
định án tích, áp dụng hoặc không áp dụng đặc xá, miễn trách nhiệm hình sự,
giảm thời hạn chấp hành hình phạt...
1.3. Các giai đoạn và các yếu tố ảnh hưởng đến định tội danh tội lạm
dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
1.3.1. Các giai đoạn định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài
sản
Bước 1: Xem xét, đánh giá đúng các tình tiết của vụ án đã xảy ra trên thực
tế khách quan. Ở bước này, cơ quan tiến hành tố tụng phải đánh giá các tình tiết
của vụ án một cách khách quan, tồn diện, vơ tư, khơng định kiến, không suy
diễn. Phải dựa vào các chứng cứ đã thu thập được và đánh giá theo quy định của
Bộ Luật Tố tụng hình sự. Ngồi ra, phải xem xét hành vi đã thực hiện có thuộc
trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự hay khơng và tuổi của người thực hiện
hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Bước 2: Đối chiếu hành vi của người phạm tội đã thực hiện với các dấu
hiệu cấu thành của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản quy định tại Điều
175 Bộ luật hình sự. Để xác định đúng tội danh nhằm xét xử đúng người, đúng
16


tội, đúng pháp luật thì cơ quan tiến hành tố tụng phải căn cứ vào cấu thành cơ
bản của điều luật để xác định tội danh, vì mỗi cấu thành cơ bản của tội phạm thể
hiện một đặc điểm riêng của tội phạm. Căn cứ vào đặc điểm riêng đó mà chúng
ta xác định được tội danh của từng hành vi phạm tội, tránh được sự nhầm lẫn
giữa tội phạm này và tội phạm khác.
Bước 3: Ra văn bản áp dụng pháp luật: chính là bản án và các quyết định
có căn cứ và đảm bảo sức thuyết phục để xác định tội danh cần áp dụng đối với
trường hợp phạm tội của người đó.

1.3.2. Các yếu tố ảnh hưởng đến định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản
Thứ nhất: Định tội danh thực chất là quá trình lựa chọn quy phạm pháp
luật hình sự để áp dụng, theo đó, định tội danh Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
đoạt tài sản là hoạt động của chủ thể trong việc xác định hành vi người phạm tội
thực hiện có thỏa mãn quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự hay khơng, nếu
thỏa mãn thì thuộc điểm, khoản nào của điều luật. Để đảm bảo định tội danh
đúng, địi hỏi người có thẩm quyền định tội danh ngồi việc nắm vững các quy
định của pháp luật như các yếu tố cấu thành tội phạm, các giai đoạn thực hiện
tội phạm, các trường hợp loại trừ trách nhiệm hình sự… cịn phải xem xét, đánh
giá các tình tiết của vụ án một cách khách quan, tồn diện, vơ tư, tránh suy diễn
chủ quan, quy kết khơng có căn cứ.
Thứ hai: Trình độ chun mơn, kiến thức pháp luật của người có thẩm
quyền trong việc định tội danh.
Thứ ba: Hoạt động đảm bảo áp dụng pháp luật.
Thứ tư: Hoạt động định tội danh phải được kiểm tra, giám sát. Với sự
phức tạp của tội danh và những hành vi của cơ quan, chủ thể tiến hành tố tụng sẽ
làm ảnh hưởng đến quyền chính trị con người nên cần thiết phải có một cơ chế
hữu hiệu với chức năng giám sát hoạt động định tội danh của các chủ thể có
thẩm quyền.
1.4. Cở sở pháp lý của định tội danh tội lạm dụng tín nhiệm chiếm
17


đoạt tài sản
Khoản 1 Điều 175 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định về tội lạm dụng tín
nhiệm chiếm đoạt tài sản như sau:
Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây chiếm đoạt tài sản
của người khác trị giá từ 4.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới
4.000.000 đồng nhưng đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt

tài sản hoặc đã bị kết án về tội này hoặc về một trong các tội quy định tại các
điều 168, 169, 170, 171, 172, 173, 174 và 290 của Bộ luật này, chưa được xóa
án tích mà cịn vi phạm hoặc tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người
bị hại và gia đình họ, thì bị phạt cải tạo khơng giam giữ đến 03 năm hoặc phạt
tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của
người khác bằng hình thức hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để
chiếm đoạt tài sản đó hoặc đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả
năng nhưng cố tình khơng trả;
b) Vay, mượn, th tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của
người khác bằng hình thức hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất
hợp pháp dẫn đến khơng có khả năng trả lại tài sản. [33].
Như vậy cơ sở pháp lý của định tội danh đối với tội lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản đó chính là các dấu hiệu pháp lý của tội phạm này. Trong lý
luận về luật hình sự thì tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có những dấu
hiệu pháp lý sau:
1.4.1. Khách thể của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Khách thể của tội phạm là các quan hệ xã hội bị xâm phạm mà các quan
hệ xã hội đó được luật hình sự bảo vệ. Khách thể là một yếu tố rất quan trọng
của tội phạm; các hành vi xâm phạm đến các quan hệ xã hội khơng phải là
khách thể của tội phạm thì hành vi đó khơng phải là tội phạm; hiểu rõ khách thể
của tội phạm giúp chúng ta xác định tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi
phạm tội, phân biệt tội phạm này với tội phạm khác. Khoa học luật hình sự chia
18


×