Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

GIẢI QUYẾT KHIẾU nại TRONG THI HÀNH án dân sự từ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (662.72 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ SƯƠNG

GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN TỈNH QUẢNG NAM

Chuyên ngành : Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số : 8 38 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VŨ ANH ĐỨC

HÀ NỘI, năm 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu được sử dụng trong luận văn này có xuất xứ rõ ràng và kết quả nghiên cứu là
do quá trình học tập tích cực và trải qua thực tiễn cơng tác nhiều năm tại Cục Thi
hành án dân sự tỉnh Quảng Nam của bản thân.
Tác giả

Nguyễn Thị Sương


LỜI CẢM ƠN
Tơi trân trọng cảm ơn q Thầy Cơ giáo Học viện Khoa học xã hội thuộc
Viện hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam đã tận tình, chu đáo trong quá trình giảng
dạy và truyền đạt kiến thức cho tác giả.


Tác giả tỏ lòng biết ơn đối với các đồng chí lãnh đạo Cục Thi hành án dân sự
tỉnh Quảng Nam, Phòng Kiểm tra, giải quyết khiếu nại, tố cáo, Phòng Tổ chức cán
bộ - Cục Thi hành án dân sự tỉnh Quảng Nam, các đồng nghiệp, các bạn cùng học
và đặc biệt là gia đình đã động viên, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất để
tác giả có thể hồn thành chương trình học tập và luận văn tốt nghiệp cao học.
Với tình cảm trân trọng nhất, tác giả luận văn xin gửi lời cảm ơn chân thành
và sâu sắc tới Tiến sỹ Vũ Anh Đức - Trưởng Ban Tổ chức Tổng liên đoàn lao động
Việt Nam đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ tác giả trong q trình thực hiện và hồn
thành luận văn cao học: “Giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự từ thực tiễn
tỉnh Quảng Nam”.
Trân trọng cảm ơn!


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU ................................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: KHÁI QUÁT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ GIẢI
QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ................................... 6
1.1. Khái niệm giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự ................................... 6
1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân
sự .............................................................................................................................. 16
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG THI
HÀNH ÁN DÂN SỰ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH QUẢNG NAM ........................... 36
2.1. Khái quát về tình hình khiếu nại trong thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam. ............................................................................................................. 36
2.2. Khái quát về công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam. ...................................................................................................... 40
2.3. Đánh giá về giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh
Quảng Nam. ............................................................................................................. 51

CHƯƠNG 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM
GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ....................... 62
3.1. Quan điểm tăng cường giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự.............. 62
3.2. Giải pháp tăng cường giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự................ 66
KẾT LUẬN ............................................................................................................. 75
TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

STT

Từ viết tắt

1

CHV

2

CTHADS

3

KN

4

THA


5

THADS

6

TPL

Nghĩa đầy đủ
Chấp hành viên
Cục Thi hành án dân sự
Khiếu nại
Thi hành án
Thi hành án dân sự
Thừa phát lại.


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Bảng

Trang

Kết quả giải quyết đơn khiếu nại về thi hành án dân sự từ
2.1


năm 2015 đến năm 2019 của Cục thi hành án dân sự tỉnh
Quảng Nam

51


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Để tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình, quyền khiếu nại là một
trong nhóm quyền tự nhiên của con người đối với các vấn đề bị vi phạm. Liên hệ
đến Việt Nam, tại Điều 30 của Hiến pháp 2013 đã quy định rõ là: “Mọi người đều
có quyền khiếu nại, tố cáo gửi đến tổ chức, cơ quan, cá nhân có thẩm quyền đối với
các việc làm trái luật của các tổ chức, cơ quan, cá nhân. Các tổ chức, cơ quan và
các cá nhân có chức năng thẩm quyền phải tiếp nhận và giải quyết khiếu nại, tố
cáo. Đối với người bị thiệt hại, họ có quyền yêu cầu được bồi thường về tinh thần,
vật chất và phục hồi nhân phẩm danh dự theo luật định. Đồng thời, nghiêm cấm
mọi hành vi lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu cáo, vu khống và làm hại người
khác hoặc trả thù với người khiếu nại, tố cáo”. Theo quy định này, khiếu nại không
chỉ là quyền Hiến định của công dân Việt Nam mà đã được công nhận là quyền con
người, được tôn trọng, bảo đảm và bảo vệ; là một trong những phương thức thực
hiện quyền tự do, dân chủ, góp phần giải quyết các vấn đề xã hội, giảm bức xúc
trong nhân dân và đây cũng là phương thức để nhân dân thực hiện quyền kiểm tra,
giám sát, quyền làm chủ của mình.
Đặc biệt, trong Thi hành án dân sự - một lĩnh vực công tác có nhiều phức tạp
vì liên quan đến nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, mà vốn dĩ bản thân các lĩnh
vực đó đã rất phức tạp như lĩnh vực đất đai, tài chính, ngân hàng, bán đấu giá tài
sản… Việc tổ chức thi hành bản án, quyết định của Tòa án sẽ làm phát sinh, thay
đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ về tài sản của các bên đương sự. Đây là lĩnh
vực rất dễ phát sinh khiếu nại vì hoạt động thi hành án dân sự ln động chạm đến
quyền, lợi ích của cơng dân và gắn liền với vấn đề vật chất cụ thể, trực tiếp ảnh

hưởng đến quyền về tài sản, nhân thân của các bên đương sự và những người có
liên quan.
Do đó, cơng tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự thời gian qua đã
được Bộ Tư pháp, Tổng cục Thi hành án dân sự, các cơ quan Thi hành án dân sự
địa phương đã tập trung, quan tâm, chú trọng, xác định đây là một nhiệm vụ trọng
1


tâm của Hệ thống Thi hành án dân sự và đã có một số chuyển biến tích cực. Tuy
nhiên, do nhiều lý do khác nhau, cả về mặt chủ quan và khách quan, cơng tác này
vẫn cịn nhiều tồn tại, hạn chế.
Tại tỉnh Quảng Nam công tác thi hành án dân sự ở những năm qua luôn được
đề cao, mặc dù có sự gia tăng cả số lượng lẫn giá trị, song kết quả của việc thi hành
án ln hồn thành vượt chỉ tiêu mà Quốc hội đã giao cho. Kết quả này là nhờ sự
tập trung tăng cường giải quyết và sự chỉ đạo đẩy mạnh giải quyết dứt điểm tình
trạng khiếu nại kéo dài đối với các vụ việc, nhất là đối với các vụ việc kê biên có
giá trị lớn; chú trọng các hoạt động đối thoại, hướng dẫn và giải thích, giáo dục và
tuyên truyền thuyết phục, chú trọng vào chất lượng công tác giải quyết và quản lý
tiến độ thực hiện. Nhìn chung, ở nhiều năm qua trong thi hành án dân sự tỉnh
Quảng Nam, cơng tác giải quyết khiếu nại đã có bước chuyển biến với nhiều mặt
tích cực. Dù vậy, số lượng các vụ việc hàng năm ln tăng, có khá nhiều vụ việc có
tính phức tạp vì chúng liên quan tới nhiều lĩnh vực, nhiều mặt vấn đề; điều này
khiến việc khiếu nại trong thi hành án dân sự cũng hết sức phức tạp; đơn thư khiếu
nại ngày càng tăng, khiếu nại kéo dài, vượt cấp ngày càng nhiều, cá biệt có vụ việc
khiếu nại làm ảnh hưởng đến an ninh, trật tự tại địa phương và làm giảm đáng kể
niềm tin của người dân vào cơ quan thi hành án dân sự. Hiện trạng này trên địa bàn
tỉnh Quảng Nam đã và đang yêu cầu phải tăng cường công tác giải quyết khiếu nại
trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
Từ lý do cấp thiết nêu trên, việc chọn lựa nghiên cứu đề tài: "Giải quyết
khiếu nại trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam" là rất cần thiết

và có ý nghĩa lý luận và thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Do sự địi hỏi khách quan cần thiết của cơng tác thi hành án dân sự, những
năm qua đã có các nghiên cứu khoa học xoay quanh chủ đề này. Tiêu biểu đó là:
- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (mã số 96-98-027/ĐT): Mơ hình quản lý
thống nhất công tác thi hành án, của Tổng cục Thi hành án dân sự trực thuộc Bộ
Tư pháp.
2


- Luận án Tiến sĩ ngành Luật học năm 2008: “Pháp luật thi hành án dân sự
Việt Nam giai đoạn hiện nay” của tác giả Nguyễn Thanh Thuỷ, Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
- Đề tài khoa học cấp cơ sở năm 2010: “Triển khai áp dụng Luật thi hành án

dân sự trong công tác đào tạo nghiệp vụ thi hành án” của TS. Lê Thu Hà, Học viện
Tư pháp, Hà Nội.
- Luận án Tiến sĩ ngành Luật học năm 2013: “Giám sát thi hành án dân sự”
của tác giả Hoàng Thế Anh, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Huỳnh Thị Nam Hải, Tài liệu học tập thi hành án dân sự, do Nhà xuất bản
Đại học Quốc gia Thành phố. Hồ Chí Minh ấn hành.
Mặt khác, có nhiều cơng trình nghiên cứu khác dưới dạng các bài viết có liên
quan được đăng tải ở các tạp chí chuyên ngành, như: Tạp chí Nhà nước và pháp
luật, Tạp chí Luật học, Tạp chí Dân chủ và pháp luật…
Những cơng trình, tài liệu nghiên cứu được nêu trên đã tiếp cận công tác giải
quyết khiếu nại ở lĩnh vực THADS với nhiều khía cạnh, góc nhìn khá đa dạng. Dù
vậy, đến nay vẫn chưa có cơng trình khoa học cụ thể nào nghiên cứu về công tác
giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài luận văn có mục đích xây dựng luận cứ khoa học về giải quyết khiếu

nại trong thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện mục đích nghiên cứu của đề tài này, luận văn phải triển khai các
nhiệm vụ cụ thể dưới đây:
- Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận về giải quyết khiếu nại ở lĩnh vực thi
hành án dân sự;
- Nghiên cứu phân tích làm rõ thực trạng công tác giải quyết khiếu nại trong
thi hành án dân sự tại tỉnh Quảng Nam và xác định rõ nguyên nhân của nó;
- Đề xuất quan điểm và các giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết khiếu nại
3


trong thi hành án dân sự trên địa bàn tỉnh Quảng Nam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đó là giải quyết khiếu nại trong THADS.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi không gian: nghiên cứu trong phạm vi giải quyết khiếu nại về
THADS của hệ thống cơ quan THADS tại tỉnh Quảng Nam, gồm có: Cục thi hành
án dân sự cấp tỉnh và 18 Chi cục thi hành án dân sự cấp huyện của tỉnh Quảng
Nam.
Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu giai đoạn từ 2015 - 2019.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Đề tài được dựa trên cách tiếp cận của phương pháp luận Chủ nghĩa Mác - Lê
Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh để nghiên cứu về pháp luật giải quyết khiếu nại trong
THADS.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng kết hợp những phương pháp cụ thể như: Phương pháp tổng
hợp; phương pháp phân tích các văn bản quy phạm pháp luật, các tài liệu thứ cấp;

phương pháp thống kê và so sánh, phương pháp diễn dịch và quy nạp… để nghiên
cứu công tác giải quyết khiếu nại trong THADS ở Quảng Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn hệ thống hóa một bước làm sâu sắc hơn vấn đề lý luận về giải quyết
khiếu nại trong THADS.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng giải quyết khiếu nại trong THADS
tại tỉnh Quảng Nam và xác định rõ nguyên nhân của nó, kết quả luận văn góp phần
đề xuất đến chính quyền địa phương về giải pháp nâng cao hiệu quả giải quyết
khiếu nại trong THADS từ thực tiễn của tỉnh Quảng Nam hiện nay. Đồng thời, kết
4


quả luận văn còn được dùng làm vốn tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, đào tạo
về lĩnh vực này.
7. Kết cấu luận văn
Bên cạnh các phần mở đầu, phần kết luận cũng như phần danh mục tài liệu
tham khảo, thì phần nội dung luận văn có kết cấu 3 chương, đó là:
Chương 1: Khái quát về giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự và quy
định của pháp luật Việt Nam về giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự.
Chương 2: Thực trạng giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự trên địa
bàn tỉnh Quảng Nam;
Chương 3: Quan điểm và giải pháp tăng cường giải quyết khiếu nại trong
thi hành án dân sự.

5


CHƯƠNG 1

KHÁI QUÁT VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI
TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ VÀ QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VIỆT NAM
VỀ GIẢI QUYẾT KHIẾU NẠI TRONG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ

1.1. Khái niệm giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự

1.1.1. Khái quát giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự:
1.1.1.1. Khái niệm khiếu nại trong thi hành án dân sự
Theo Đại từ điển tiếng Việt, khiếu nại là thuật ngữ được hiểu về sự "thắc mắc,
đề nghị việc xem xét lại các quyết định, các kết luận của cấp có thẩm quyền đã
chuẩn y, đã làm. Sự thắc mắc, đề nghị về thực chất đó là sự phản ứng của người
khiếu nại trước các quyết định, kết luận của cấp có thẩm quyền đã chuẩn y, đã làm”
(Đại từ điển tiếng Việt; trang 904, Nxb. Văn hóa Thơng tin, Hà Nội, 1999). Mặc dù
vậy, quan niệm này vẫn cịn chưa hồn tồn đầy đủ, bởi trong thực tiễn khiếu nại
thì khơng chỉ trước các quyết định, kết luận mà cịn có thể khiếu nại về các hành vi
hay cách hành xử của các cơ quan tổ chức và những người có thẩm quyền.
Trên cơ sở của những dấu hiệu chung nhất, khiếu nại về cơ bản được hiểu là
một cách thức phản ứng tự vệ của tổ chức, cơ quan và công dân về những quyết
định, hành vi của các tổ chức, cơ quan chức năng và người có thẩm quyền khi có
dấu hiệu xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của họ.
Khiếu nại vốn là hiện tượng xã hội phát sinh trong đời sống thực tiễn, nó biểu
thị về sự phản ứng của tổ chức, của con người về quyết định hay hành vi nào đó mà
họ cho rằng là khơng phù hợp với quy tắc, chuẩn mực trong đời sống xã hội, xâm
phạm tới quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của họ.
Quyền khiếu nại là một trong các quyền cơ bản của công dân đã được Hiến
pháp và pháp luật quy định và bảo đảm thực hiện. Tại Điều 30 của Hiến pháp năm
2013 đã quy định rõ:

6



“1. Mọi người có quyền khiếu nại, tố cáo đến tổ chức, cơ quan, cá nhân có
thẩm quyền về các việc làm trái luật của tổ chức, cơ quan, cá nhân.
Tổ chức, cơ quan và cá nhân có thẩm quyền phải tiếp nhận và giải quyết
khiếu nại, tố cáo. Đối với người bị thiệt hại, họ có quyền được bồi thường về tinh
thần, vật chất và phục hồi danh dự theo luật định.
2. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại, tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu
nại, tố cáo để vu khống, vu cáo làm hại người khác.”
Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi
nhanạ quyền KN của công dân đã tạ cơ sở pháp lý cho họ để họ thực hiện quyền
của mình, thơng qua việc thực hiện quyền, cơng dân đã góp phần tích cực vào hoạt
động quản lý nhà nước, quản lý xã hội và bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
Cơ quan THADS, trong q trình tổ chức thi hành các bản án đã trực tiếp tác
động đến các đương sự, bao gồm người được THA, người phải THA, người có
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, thực hiện việc giáo dục, thuyết phục đương sự tự
nguyện thực hiện các nghĩa vụ mà bản án, quyết định đã tuyên, nếu họ cố ý không
thực hiện sẽ cưỡng chế THA để buộc họ phải thực hiện nghĩa vụ theo nội dung bản
án, quyết định đã nêu. Từ đó cho thấy, hoạt động THADS tác động trực tiếp đến
các quyền và lợi ích của cả người phải THA, người được THA và người có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan.
Đối với người phải THA, nghĩa vụ phải thi hành các khoản tiền, tài sản đã
được xác định rõ trong quyết định, bản án, nhưng xét về mặt tâm lý, người phải
THA ln có tâm lý dây dưa kéo dài, thi hành khơng đầy đủ, thậm chí là khơng thi
hành. Cịn đối với người được THA, về tâm lý luôn muốn được sớm THA, được
nhanạ tiền, tài sản càng sớm càng tốt, nên ln có tâm lý đề phịng, bất cứ một
hành vi, một quyết định nào của CHV, của cơ quan THADS làm chậm quá trình
được nhận tiền, tài sản hoặc nhận tiền, tài sản ít hơn mong đợt đều dẫn đến suy
nghĩ cho rằng CHV, cơ quan THADS làm trái pháp luật, thực hiện nhiệm vụ không
công tâm, không minh bạch, không công bằng.
7



Thi hành án dân sự vốn là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước, nên ở
một số nơi trong q trình thi hành án có một vài vụ việc xảy đến hiện tượng lạm
dụng quyền hành của cơ quan thi hành án dân sự hay chấp hành viên, áp đặt ý chí
trái luật, trái thẩm quyền, hoặc vì nhận thức hạn chế mà dẫn đến áp dụng sai luật
pháp, tổ chức thi hành sai bản án lên những chủ thể khiến cho lợi ích nhà nước;
cũng như quyền lợi hợp pháp, chính đáng của cơng dân, tổ chức bị xâm phạm...
Tất cả những yếu tố trên đã tác động đếm tâm lý của các bên đương sự, họ
cho rằng, quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại nên có thái độ chống đối,
bất hợp tác và dẫn đến việc khiếu nại các hành vi và quyết định của CHV và cơ
quan THADS.
Như vậy, khiếu nại trong thi hành án dân sự được hiểu đó là việc các bên
đương sự liên quan tới quyền lợi trong thi hành án họ có nghĩa vụ đề nghị lên cấp
có thẩm quyền xem xét lại quyết định, hành vi của chấp hành viên, Thủ trưởng cơ
quan thi hành án dân sự một khi có căn cứ xác định về quyết định, hành vi này là
trái luật, xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của họ.
1.1.1.2. Khái niệm giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự
Cùng với quyền khiếu nại của các đương sự có nghĩa vụ, quyền lợi liên quan,
đó chính là cấp có thẩm quyền (các tổ chức, cơ quan và cá nhân) có nghĩa vụ giải
quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự. Việc thực hiện hiệu quả công tác giải
quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự vừa bảo vệ sự công bằng khi bảo đảm
quyền lợi hợp pháp, chính đáng cho các đương sự có liên quan; vừa đồng thời đóng
góp vào việc cải thiện hiệu quả công tác thi hành án dân sự, bảo đảm hiệu lực thi
hành quyết định bản án của Tòa án trên thực tế, giảm thiểu các vụ việc tồn đọng
trong thi hành án. Theo đó tạo dựng niềm tin xã hội đối với công tác thi hành án
dân sự.
Công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự mang đậm bản chất,
mục đích, ý nghĩa và nội dung của công tác này. Xét về bản chất của giải quyết
khiếu nại trong thi hành án dân sự, cấp có thẩm quyền thực hiện những hoạt động

cần thiết để làm rõ việc khiếu nại, mà cụ thể là rà soát lại các quyết định, hành vi
8


của chấp hành viên hoặc Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có trái luật hay
khơng, liệu có xâm phạm tới quyền lợi hợp pháp của người khiếu nại khơng. Nếu
có, thì xem xét về mức độ, tính chất và hậu quả của sự xâm phạm đó. Đây là căn cứ
để kết luận rõ đối với từng vấn đề cụ thể có liên quan, tạo chứng cứ vững chắc để
ra quyết định giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự. Cùng với quá trình giải
quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự, Cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
(cơ quan và người có thẩm quyền): vừa phải sử dụng các bằng chứng tài liệu được
tiếp nhận từ bên khiếu nại; vừa phải tổ chức việc xác minh, đối chứng và thu thập
thêm thông tin, văn bản tài liệu có liên quan nhằm có đầy đủ căn cứ để kết luận
đúng đắn và ban hành quyết định giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự một
cách chính xác (kết luận về mức độ đúng, hay đúng một phần hoặc cả nội dung
khiếu nại là sai). Tùy theo mức độ cụ thể để ban hành quyết định giải quyết khiếu
nại đúng luật và hợp lý tương ứng với các hướng áp dụng giữ nguyên hoặc hủy bỏ/
sửa đổi hay yêu cầu hủy bỏ/ sửa đổi một phần đối với quyết định, hành vi bị khiếu
nại trong thi hành án dân sự hoặc bắt buộc phải chấm dứt việc thi hành quyết định,
hành vi bị khiếu nại này; kèm theo đó là ra quyết định khắc phục hậu quả và bồi
thường thiệt hại mà do quyết định, hành vi trái luật đó gây nên.
Cơng tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự phải được tiến hành
tuân thủ theo luật định, kể cả quy định của pháp luật về chuyên ngành có liên quan.
Thí dụ, khi giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự về nội dung quyết định
phong tỏa tài khoản ngân hàng hoặc về quyết định kê biên quyền sử dụng đất, thì
bên cạnh phải tuân thủ các quy định trong giải quyết khiếu nại lĩnh vực thi hành án
dân sự, thì người giải quyết khiếu nại cịn phải tuân thủ việc áp dụng pháp luật về
ngân hàng, pháp luật đất đai...
Như vậy, chúng ta có thể đưa ra khái niệm giải quyết KN về THADS:
Giải quyết KN trong THADS là việc cơ quan có thẩm quyền thụ lý, xác minh

và ra quyết định giải quyết KN đối với KN của người KN khi họ cho rằng quyết
định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan THADS hoặc CHV là trái pháp luật, xâm
phạm quyền và lợi ích của mình.
9


1.1.2. Về chủ thể của khiếu nại
Các bên đương sự gồm có: người được thi hành án và người phải THA. Tại
khoản 1 thuộc Điều 140 của Luật Thi hành án dân sự 2014 đã quy định rằng:
Đương sự, người có nghĩa vụ, quyền lợi liên quan họ có quyền khiếu nại về quyết
định, hành vi của chấp hành viên, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự một khi
có căn cứ cho rằng hành vi, quyết định nào đó trái luật, xâm phạm lợi ích và quyền
hợp pháp của họ.
Người được thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức được quyết định, bản án
có hiệu lực pháp luật tuyên được hưởng quyền, lợi ích trong bản án, quyết định
được thi hành và quyết định thi hành án của cơ quan THADS ấn định là người
được thi hành án (khoản 2 Điều 3 Luật THADS năm 2014).
Người phải thi hành án là người mà trong các quyết định, bản án có hiệu lực
pháp luật tuyên là người có nghĩa vụ phải thực hiện trách nhiệm pháp lý nào đó
(như buộc phải bồi thường dân sự, buộc phải thanh tốn một khoản nợ nào đó, buộc
thực hiện hay không thực hiện công việc nhất định...). Như vậy người phải thi hành
án là cá nhân, cơ quan, tổ chức phải thực hiện nghĩa vụ trong bản án, quyết định
được thi hành (khoản 3 Điều 3 Luật THADS 2014)
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền
lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền, nghĩa vụ thi hành án của
đương sự (khoản 4 Điều 3 Luật THADS năm 2014) bao gồm như: Người có tài sản
chung với người phải thi hành án hoặc người đồng sở hữu tài sản với người phải thi
hành án; người đang quản lý, sử dụng tài sản của người phải thi hành án; người
đang có tranh chấp hoặc nhận chuyển nhượng tài sản của người phải thi hành án
khi họ bị tác động một cách trực tiếp bởi một quyết định, hành vi của chấp hành

viên trong quá trình tổ chức thi hành án mà quyết định, hành vi đó của chấp hành
viên làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của họ.
Đối chiếu với các quy định như trên thì chủ thể thực hiện quyền khiếu nại
trong THADS có thể là cá nhân, cơ quan, tổ chức gồm người được thi hành án,
10


người phải thi hành án và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến việc
thi hành án và phía bên kia là Chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự.
1.1.3. Về khách thể của khiếu nại
Khách thể của khiếu nại trong THADS là những lợi ích về cả mặt vật chất,
tinh thần, pháp lý, đôi khi cịn là nhưng lợi ích về mặt chính trị mà chủ thể khiếu
nại mong muốn đạt được nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình và họ cho rằng đó là
quyền và lợi ích hợp pháp mà họ đáng được nhận.
1.1.4. Về đối tượng của khiếu nại
Khiếu nại trong thi hành án dân sự là việc tổ chức, cơ quan, công dân hoặc
người cán bộ công chức căn cứ thủ tục theo quy định của pháp luật hiện hành để đề
nghị cấp có thẩm quyền (tổ chức, cơ quan, cá nhân có thẩm quyền) xem xét lại
hành vi, quyết định của chấp hành viên, cơ quan thi hành án dân sự, cơng chức
khác một khi có căn cứ cho rằng hành vi hoặc quyết định nào đó trái luật, xâm
phạm lợi quyền hợp pháp của họ.
Vì vậy, đối tượng của khiếu nại luôn là các quyết định, hành vi của Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên, cơng chức khác có liên quan.
Những quyết định, hành vi này bị cho là trái pháp luật, xâm phạm quyền, lợi ích
hợp pháp của các chủ thể bị áp dụng và tác động bởi quyết định, hành vi đó. Các
quyết định trong thi hành án dân sự có thể là quyết định thi hành án theo đơn yêu
cầu, quyết định thi hành án chủ động, quyết định kê biên, cưỡng chế, xử lý tài sản,
quyết định cấm chuyển dịch, chuyển nhượng tài sản, quyết định xử phạt vi phạm
hành chính, quyết định tạm hỗn xuất cảnh vì phải chấp hành nghĩa vụ của bản án,
quyết định cưỡng chế giao tài sản, quyết định giải quyết khiếu nại của cơ quan thi

hành án dân sự cấp dưới...
1.1.5. Phân loại các quyết định, hành vi bị khiếu nại thành các nhóm khác
nhau như sau
+ Đối với nhóm hành vi, quyết định về THADS trước khi triển khai áp dụng
các biện pháp cưỡng chế, biện pháp bảo đảm, chúng bao gồm: các hành vi, quyết
định mà thủ trưởng cơ quan THADS, Chấp hành viên đã ban hành hoặc thực hiện
11


các hành vi mà trước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế, biện pháp bảo đảm như
quyết định THADS theo đơn yêu cầu, quyết định THA chủ động, quyết định về xử
phạt vi phạm hành chính hoặc hành vi khơng giao quyết định về THADS cho
đương sự, không thông báo cho bên đương sự, không mời bên đương sự lên làm
việc, hay không xác minh theo yêu cầu của bên đương sự,.
+ Đối với nhóm hành vi, quyết định trong khi áp dụng biện pháp cưỡng chế
THADS, đó là: quyết định kê biên để xử lý tài sản; quyết định khấu trừ đối với tiền
trong tài khoản; quyết địnhvề việc trừ vào thu nhập của người phải THADS hay
hành vi không thông báo thời gian cưỡng chế, kê biên tài sản mà không được quyền
kê biên, kê biên dư/ thiếu tài sản.
+ Đối với nhóm hành vi, quyết định THADS sau khi áp dụng biện pháp
cưỡng chế, đó là: quyết định giảm giá tài sản; quyết định trả lại tài sản; quyết định
về không thực hiện giao tài sản bán đấu giá thành hoặc hành vi không thực hiện sự
thông báo thỏa thuận giá trị tài sản kê biên.
Việc phân loại thành các nhóm quyết định, hành vi như trên chỉ mang tính
tương đối và có phạm vi hẹp hơn đối tượng khiếu nại hành chính vì các quyết định,
hành vi trong lĩnh vực thi hành án dân sự là đối tượng của khiếu nại chỉ được giới
hạn bởi quyết định, hành vi của Chấp hành viên, thủ trưởng của cơ quan thi hành
án dân sự.
1.1.6. Về nội dung khiếu nại
Là những mâu thuẫn, bất đồng, sự không thống nhất, nặng nề hơn là sự xung

đột về lợi ích trong quá trình Chấp hành viên tổ chức thi hành án như chậm ra
quyết định thi hành án, chậm tổ chức thi hành án, kê biên tài sản sai đối tượng, bán
đấu giá tài sản khơng đúng trình tự thủ tục, thanh tốn tiền thi hành án khơng đúng
quy định và trong quá trình cơ quan thi hành án dân sự giải quyết các khiếu nại như
không giải quyết khiếu nại, giải quyết không phù hợp với các quy định của pháp
luật.
1.1.7. Tầm quan trọng, vai trò của giải quyết khiếu nại trong THADS
12


Công tác giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự là một trong nhiệm vụ
hoạt động có vai trò quan trọng của hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước.
Một là, bảo vệ lợi ích Nhà nước cũng như bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính
đáng của cơng dân, các tổ chức.
Vì thi hành án dân sự là hoạt động mang đặc tính quyền lực của nhà nước, nên
quá trình thi hành án tình trạng chấp hành viên hay thủ trưởng cơ quan thi hành án
dân sự có thể lợi dụng/ lạm dụng quyền lực để ra hành vi, quyết định trái luật hoặc
có thể vì có sự hạn chế nhận thức mà áp dụng sai luật, tổ chức thi hành không đúng
quyết định bản án của Tịa án, khiến cho lợi ích nhà nước cũng như quyền lợi của
công dân, tổ chức bị xâm phạm.
Quá trình thực thi tốt việc giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự thì chẳng
những là đảm bảo quyền khiếu nại thực tế của các bên đương sự được thực thi, mà
nó cịn đóng góp quan trọng vào việc khắc phục các sai phạm trong quá trình tổ
chức thi hành án dân sự do hành vi, quyết định trái luật của chấp hành viên, Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự gây ra. Mặ khác, ở trường hợp khiếu nại khơng
đúng thì cơng tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự sẽ tái khẳng định về
tính đúng đắn của hành vi, quyết định của bên bị khiếu nại. Do đó, phải khẳng định
là cơng tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự đóng góp tích cực vào việc
đảm bảo các hoạt động thi hành án dân sự được nghiêm túc và đúng luật, đảm bảo
cả lợi ích nhà nước và quyền lợi hợp pháp và chính đáng của các bên đương sự.

Hai là, nâng cao ý thức tuân thủ pháp luật về thi hành dân sự của tổ chức, cơ
quan và cơng dân, góp phần nâng cao ý thức, trách nhiệm và đạo đức công vụ của
đội ngũ công chức trong hệ thống cơ quan thi hành án dân sự
Thi hành án dân sự không chỉ là hoạt động nghiệp vụ đơn thuần của riêng cơ
quan thi hành án dân sự, của chấp hành viên mà còn là trách nhiệm của các cấp ủy
Đảng, chính quyền địa phương, các tổ chức đồn thể và mọi thành viên trong xã
hội. Khi có khiếu nại trong thi hành án dân sự phát sinh, kết quả của công tác giải
quyết khiếu nại mang ý nghĩa, vai trò tác động một cách trực tiếp rất quan trọng tới
việc củng cố lòng tin nhân dân vào tính thượng tơn pháp luật, tính nghiêm minh và
13


cơng bằng của quyết định bản án, của Tịa án; cũng như kiểm chứng về chất lượng,
hiệu quả và đúng pháp luật của cơ quan thi hành các quyết định bản án của Tòa án.
Bằng việc giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự, đặc biệt là thông qua
các kết luận, quyết định của cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại thì người khiếu
nại sẽ có điều kiện nhận thức đầy đủ hơn về pháp luật hiện hành. Hơn nữa, trong
thực tiễn vốn có trường hợp là một số đương sự cũng lợi dụng quyền khiếu nại để
cố tình khiếu nại mà khơng có căn cứ, khiếu nại vượt cấp… với dụng ý kéo dài thời
gian thi hành án dân sự; Hoặc có trường hợp mặc dù một số đương sự biết rằng thời
hiệu của khiếu nại đã chấm dứt, song họ vẫn cố tình khiếu nại với mục đích cản trở/
gây rối q trình thi hành án dân sự... Để giải quyết các trường hợp này, kết quả
giải quyết khiếu nại cùng với sự giải thích, hướng dẫn của những người có trách
nhiệm, nhất là sử dụng quyền từ chối thụ lý giải quyết đối với các đơn khiếu nại
thuộc trường hợp không được thụ lý theo luật định; có như vậy sẽ giúp cho đương
sự nhận thức rõ hơn về khiếu nại là quyền mà pháp luật cho phép, nhưng không thể
thực hiện tùy tiện về quyền này một cách tràn lan; hoặc lợi dụng quyền này để gây
rối trật tự hoặc trốn tránh nghĩa vụ trước pháp luật.
Với ý nghĩa đó, bằng việc thực hiện pháp luật về giải quyết khiếu nại trong thi
hành án dân sự, các đương sự sẽ nhận thức sâu sắc pháp luật về thi hành án dân sự

và pháp luật giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự. Qua đó giúp cho họ nâng
cao ý thức tự giác chấp hành pháp luật.
Đối với cán bộ công chức của cơ quan thi hành án dân sự, từ công tác giải
quyết khiếu nại trong thực tế sẽ giúp cho chấp hành viên, Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự có điều kiện rà sốt đánh giá lại để kiểm chứng tính đúng luật và
hợp lý của hành vi, quyết định của mình. Nhờ đó, họ cũng rút ra bài học kinh
nghiệm, kỹ năng để gia tăng chất lượng và hiệu quả trong công tác này; cũng như
nâng cao ý thức trách nhiệm và đạo đức công vụ của họ.
Ba là, giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước chủ động phát hiện kịp thời đối
với những bất cập/ khoảng trống trong thể chế chính sách pháp luật hoặc các lỗ
hổng trong công tác quản lý nhà nước về THADS
14


Xét về bản chất, khiếu nại là sự phản ứng của người dân trước những việc làm
sai trái của cá nhân, cơ quan có thẩm quyền, gây thiệt hại đến quyền và lợi ích hợp
pháp của họ. Khiếu nại ở phạm vi rộng hơn, đó cịn là thái độ, hành vi phản ứng
của người dân về chính sách, cơ chế quản lý nhà nước. Vì thế, cơng tác giải quyết
khiếu nại trong thi hành án dân sự thì cùng với việc phải bảo vệ quyền lợi chính
đáng cho người khiếu nại, thì đồng thời cịn trợ giúp cho các cơ quan quản lý nhà
nước sớm phát hiện để kịp thời khắc phục các bất cập trong thể chế chính sách
pháp luật, những lỗ hổng trong quá trình quản lý nhà nước. Cụ thể là, bằng công tác
giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự, cơ quan quản lý nhà nước ở lĩnh vực
này sẽ chủ động hơn trong phát hiện đối với các bất cập đặt ra trong pháp luật về
lĩnh vực thi hành án dân sự. Ở đó, có thể là các “kẻ hở” của luật pháp hay có sự
khơng tương thích (sự khơng thống nhất, đồng bộ) của pháp luật về lĩnh vực thi
hành án dân sự với pháp luật về các lĩnh vực khác. Nếu có sự chủ động việc phát
hiện này là cơ sở thực tiễn rất quan trọng để hoàn thiện pháp luật về lĩnh vực thi
hành án dân sự.
Hơn nữa, bằng công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự, các cơ

quan quản lý nhà nước về thi hành án dân sự sớm rà soát hiện trạng về bất cập/ hạn
chế trong cơng tác quản lý của mình; mà nhờ đó có giải pháp điều chỉnh sắp xếp
hợp lý về tổ chức bộ máy, chính sách đối với cán bộ, đổi mới quy trình thủ tục,
điều chỉnh phương thức giám sát, đôn đốc, thanh kiểm tra đối với lĩnh vực thi hành
án dân sự và công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự.
Bốn là, duy trì và tái thiết ổn định và trật tự an tồn xã hội, củng cố và tạo
dựng lịng tin nhân dân đối với luật pháp hiện hành
Thực hiện tốt công tác giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự giúp đẩy
nhanh quá trình tổ chức thi hành án, bảo đảm những phán quyết của Tòa án trở
thành hiện thực. Mặc khác, từ thực thi tốt công tác giải quyết khiếu nại về thi hành
án dân sự sẽ giúp khơi phục trả lại quyền lợi hợp pháp, chính đáng của đương sự đã
bị xâm hại; qua đó hạn chế/ giảm thiểu được các vấn đề khiếu nại kéo dài, góp
phần duy trì mơi trường ổn định và trật tự an toàn xã hội. Ngoài ra, việc thực hiện
15


tốt cơng tác này trên cơ sở đề cao tính nghiêm minh pháp luật cũng giúp cho kịp
thời phát hiện và xử lý nghiêm các sai phạm, tiêu cực, tham nhũng (nếu có) của
chấp hành viên và Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, củng cố lòng tin nhân
dân với Đảng và Nhà nước ta, cũng như với các cơ quan bảo vệ pháp luật.
Năm là, tăng cường pháp chế XHCN
Pháp chế XHCN là chế độ thực thi nghiêm minh pháp luật, thể hiện tính nhất
quán và nâng cao sự tự giác của các cơ quan quản lý nhà nước, các đồn thể nhân
dân, cán bộ, cơng chức, các doanh nghiệp và mọi công dân. Như vậy, việc tăng
cường pháp chế XHCN đối với công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân
sự sẽ buộc các chủ thể tham gia phải tự giác và tuân thủ trong q trình thực hiện.
Nhờ đó vừa đóng góp vào việc bảo vệ lợi ích Nhà nước cũng như quyền lợi hợp
pháp, chính đáng của cơng dân và các tổ chức; vừa tạo lập môi trường ổn định và
bảo đảm trật tự an tồn xã hội, củng cố lịng tin của nhân dân vào chính sách pháp
luật của nhà nước; cũng như giúp đề cao ý thức người dân tuân thủ chấp hành pháp

luật. Mặt khác, công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự được thực thi
nghiêm minh và triệt để, tạo thuận lợi cho quá trình đẩy nhanh việc tổ chức thi
hành án dân sự.
1.2. Quy định của pháp luật Việt Nam về giải quyết khiếu nại trong thi
hành án dân sự
1.2.1. Người có quyền khiếu nại trong thi hành án dân sự
Luật Khiếu nại 2011 quy định, người có quyền khiếu nại là cơng dân, tổ chức,
cơ quan hoặc người công chức, cán bộ có quyền lợi bị xâm hại do hành vi hành
chính, quyết định hành chính hay một quyết định kỷ luật đối với cán bộ, công chức
gây ra hoặc người đại diện hợp pháp của các chủ thể này thực hiện quyền khiếu nại.
Nói cách khác, người có quyền khiếu nại là đối tượng bị tác động một cách trực
tiếp bởi hành vi, quyết định nêu trên.
Theo quy định của Luật THADS năm 2008 sửa đổi bổ sung năm 2014 thì
những người có quyền KN về THADS bao gồm:
16


Thứ nhất, người được thi hành án dân sự là tổ chức, cơ quan, cá nhân được
hưởng quyền lợi trong quyết định bản án được thi hành.

Thứ hai, người phải thi hành án dân sự là tổ chức, cơ quan, cá nhân buộc phải
thực hiện nghĩa vụ trong quyết định bản án được thi hành.

Thứ ba, người có nghĩa vụ và quyền lợi liên quan, đó là tổ chức, cơ quan, cá
nhân có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trực tiếp tới việc thực hiện nghĩa vụ và quyền
thi hành án của đương sự.
Từ cơ sở này đối chiếu với các quy định của Luật Thi hành án dân sự 2008,
chủ thể thực hiện quyền khiếu nại ở lĩnh vực thi hành án dân sự là tổ chức, cơ quan,
cá nhân.
1.2.2. Đối tượng khiếu nại trong thi hành án dân sự

Luật Khiếu nại 2011 quy định: đối tượng khiếu nại là hành vi hành chính,
quyết định hành chính của cơ quan hành chính nhà nước, của người có thẩm quyền
trong cơ quan này hoặc quyết định kỷ luật đối với cán bộ, cơng chức một khi có
căn cứ cho rằng hành vi hay quyết định ấy trái luật, xâm phạm đến quyền lợi hợp
pháp của người khiếu nại.
Luật Thi hành án dân sự 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định, đối tượng
khiếu nại trong thi hành án dân sự là các quyết định hoặc hành vi của chấp hành
viên, của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự.
Thứ nhất: Quyết định thi hành án:
Những quyết định thuộc thẩm quyền ban hành của chấp hành viên, của Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự, đó là: quyết định về việc chưa có điều kiện thi
hành án; quyết định thi hành án; quyết định hoãn; quyết định tạm đình chỉ; quyết
định đình chỉ thi hành án; quyết định cưỡng chế về thi hành án đều thuộc đối tượng
khiếu nại trong thi hành án dân sự.
Người có quyền khiếu nại được thực hiện quyền khiếu nại trong thi hành án
dân sự trong trường hợp khi nhận được một trong số những quyết định được nêu
trên - nếu cho rằng quyết định này trái luật, xâm phạm tới quyền lợi hợp pháp của
họ.
17


Thứ hai: Hành vi về thi hành án:
Một khi cho rằng hành vi của chấp hành viên hoặc của Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự đã xâm phạm tới quyền lợi hợp pháp của mình, người có quyền
khiếu nại được thực hiện quyền khiếu nại trong thi hành án dân sự. Hành vi về thi
hành án dân sự bị khiếu nại thường xảy đến ở các trường hợp: Chậm tổ chức thi
hành án; chậm ra quyết định thi hành án dân sự; không xác minh về điều kiện thi
hành án dân sự theo yêu cầu của người được thi hành án dân sự; không tổ chức thi
hành án dân sự dứt khoát đối với đối tượng phải thi hành án có điều kiện thi hành;
khơng hướng dẫn thực hiện quyền của đương sự và người có nghĩa vụ, quyền lợi

liên quan mà pháp luật yêu cầu chấp hành viên phải hướng dẫn, bán đấu giá khi
khơng có căn cứ xác lập thẩm quyền bán đấu giá của chấp hành viên; lập biên bản
nhưng không giao cho người được nhận theo luật định; tiến hành những hoạt động
nghiệp vụ mà không lập biên bản; không triệu tập người phải thi hành án dân sự để
thực hiện thi hành án; không tiến hành áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án
dân sự khi đối tượng phải thi hành án dân sự có điều kiện thi hành; kê biên và xử lý
tài sản sai đối tượng hoặc không tương ứng với giá trị phải THA/ kê biên tài sản đã
thế chấp; chấp hành viên không chứng kiến việc thoả thuận của các đương sự khi
luật yêu cầu.
Tại khoản 2 thuộc Điều 140 của Luật Thi hành án dân sự 2008 đã phân loại
những hành vi, quyết định bị khiếu nại tuỳ thuộc vào tính chất và giai đoạn thi
hành án dân sự mà hình thành những nhóm khác nhau:

Thứ nhất, nhóm hành vi, quyết định về thi hành án dân sự trong giai đoạn
trước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế, biện pháp bảo đảm.

Thứ hai, nhóm hành vi, quyết định trong giai đoạn áp dụng các biện pháp về
phong toả tài khoản ngân hàng, biện pháp bảo đảm khác.

Thứ ba, nhóm hành vi, quyết định trong giai đoạn áp dụng biện pháp cưỡng
chế.

Thứ tư, nhóm hành vi, quyết định ở giai đoạn sau khi áp dụng biện pháp
cưỡng chế.
18


Với việc phân chia đã nêu trên là vì mục đích định hướng giúp cho cấp có
thẩm quyền kịp thời giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự một cách hợp lý.
Hơn nữa, tùy vào nhóm hành vi, quyết định về thi hành án dân sự bị khiếu nại, Luật

thi hành án dân sự 2008 có quy định về thời hiệu khiếu nại của bên đương sự, quy
định về thời hạn giải quyết khiếu nại của cấp có thẩm quyền giải quyết khiếu nại
trong thi hành án dân sự.
1.2.3. Thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự
Người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại về thi hành án dân sự là Bộ trưởng
Bộ Tư pháp, Tổng cục trưởng Tổng cục Thi hành án dân sự, người Thủ trưởng cơ
quan Thi hành án dân sự (như Cục trưởng Cục Thi hành án dân sự và Chi cục
trưởng Chi cục thi hành án dân sự).
Công tác giải quyết khiếu nại trong thi hành án dân sự về cơ bản thực hiện
theo quy trình 02 cấp. Ở từng cấp đều có quy định riêng về thẩm quyền giải quyết
khiếu nại, đó là:
Một là, thẩm quyền giải quyết khiếu nại trong THADS lần đầu (lần 01).
Giải quyết KN lần đầu về THADS thuộc thẩm quyền của Chi cục trưởng Chi
cục THADS, Cục trưởng Cục THADS, Tổng cục trưởng Tổng cục THADS được
quy định tại Điều 142 Luật THADS năm 2008.
(1) Thẩm quyền giải quyết của Chi cục trưởng Chi cục thi hành án dân sự: Đó
là Chi cục trưởng ở cấp huyện có thẩm quyền giải quyết khiếu nại các hành vi,
quyết định trái luật của chấp hành viên thuộc Chi cục thi hành án dân sự cấp huyện
mình quản lý.
Mặt khác, về quy trình giải quyết đơn tố cáo, khiếu nại, kiến nghị, đề nghị,
phản ánh trong thi hành án dân sự theo Thơng tư 02/2016/TT-BTP (có hiệu lực từ
ngày 16 tháng 3 năm 2016), thể hiện rõ ở điểm a thuộc khoản 1 Điều 7 của Thơng
tư 02 này là có một điểm mới về quy định thẩm quyền của Chi cục trưởng Chi cục
thi hành án dân sự: là giải quyết khiếu nại hành vi, quyết định của Phó Chi cục
trưởng Chi cục thi hành án dân sự khi thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ của chấp
hành viên.

19



×