Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Một số vấn đề trong tổ chức dạy học blended learning và kinh nghiệm quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.39 KB, 8 trang )

105

MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG TỔ CHỨC DẠY HỌC
BLENDED LEARNING VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
TS. Nguyễn Hồng Trang1

Tóm tắt: Blended learning là mơ hình dạy học kết hợp giữa hình thức dạy
học face-to-face và hình thức dạy học trực tuyến (e-learning). Mơ hình này
giúp người học có một mơi trường học tập linh động phù hợp với điều kiện cá
nhân. Blended learning được xem là một giải pháp hữu hiệu và là xu thế phát
triển tất yếu của xã hội. Nghiên cứu này đề cập đến một số vấn đề căn bản
trong tổ chức dạy học blended learning như: tâm lý và nhu cầu của người
học, các đặc điểm và hình thức triển khai dạy học blended learning trên thế
giới và ở Việt Nam. Bên cạnh đó nghiên cứu cũng đề cập đến một số kinh
nghiệm tổ chức dạy học theo blended learning trên thế giới.
Từ khóa: Dạy học kết hợp; trực tuyến; giáp mặt, học sinh; kinh nghiệm học tập

Đặt vấn đề

Trong những năm trở lại đây sự bùng nổ mạnh mẽ của công nghệ thông tin
(CNTT) ở mọi lĩnh vực khoa học và xã hội đã làm xuất hiện những khái niệm mới
trong giáo dục như: “lớp học không tường”, “học tập hỗn hợp” hay “học tập đa
phương thức”. Việc xuất hiện môi trường mạng và hệ thống máy tính với các ứng
dụng hạ tầng CNTT trong thực tiễn hiện nay khơng chỉ đơn thuần giữ vai trị “cơng
cụ CNTT” mà cịn tạo ra một khuynh hướng mới trong dạy học: dạy học trực tuyến,
dạy học điện tử, v.v. Tuy nhiên các hình thức dạy học dựa trên nền tảng e-learning
bên cạnh những ưu điểm vẫn có những nhược điểm. Chính vì thế việc kết hợp giữa
hai hình thức dạy học trực tuyến và truyền thống thành một hình thức dạy học mới
– dạy học kết hợp (blended learning) được xem là một giải pháp hữu hiệu và là một
hệ quả tất yếu của xu thế phát triển xã hội.


1 Trường Đại học Giáo dục;
Email: ;
ĐT: 0985.935.158.


KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI
PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL

106

1. Mơ hình dạy học kết hợp

Dạy học kết hợp là mơ hình học tập hòa trộn giữa cách học truyền thống trên
lớp và học tập trực tuyến. Mơ hình dạy học này được nghiên cứu bởi Đại học
Cambridge và áp dụng giảng dạy tại nhiều trường đại học danh tiếng cũng như các
tổ chức đào tạo chuyên nghiệp khác. Có ba mức độ dạy học kết hợp tùy thuộc vào
nhu cầu, cơ sở vật chất, chương trình đào tạo, trình độ tin học và sử dụng máy tính
của người dạy và người học (Bảng 1) [3].
Bảng 1. Các mức độ dạy học theo kết hợp
Mức độ 1

Mức độ 2

Mức độ 3

GV vẫn sử dụng hình thức dạy
học face-to-face là chủ đạo
có sử dụng các tài liệu hướng
dẫn học tập trực tuyến cho
HS.


GV phải thiết kế các bài
giảng trực tuyến và sử dụng
kết hợp với dạy học giáp mặt
truyền thống.

GV ngoài việc dạy học kết hợp
giữa trực tuyến và giáp mặt
thì phải có kế hoạch kiểm tra,
đánh giá và quản lý lớp học
trực tuyến cho cả khóa học.

HS sử dụng các phương tiện
cơng nghệ và mạng Internet
để tìm kiếm tài liệu liên quan
tới mơn học để thực hiện các
nhiệm vụ học tập.

HS thực hiện các nhiệm vụ
học tập trực tuyến mà giáo
viên cung cấp. Các trao đổi,
thảo luận cho bài học được
thực hiện qua email, forum,
hoặc trực tiếp trên lớp học.

HS thực hiện các nhiệm vụ học
tập, tham gia các hoạt động
kiểm tra đánh giá trực tuyến.
Thảo luận, trao đổi thông tin
qua email, forum hoặc trực tiếp

trên lớp học.

Theo kết quả nghiên cứu của các nhà giáo dục, tỉ lệ “vàng” trong dạy học kết
hợp giữa dạy học giáp mặt và dạy học trực tuyến hiện này là 30/70. Với tỉ lệ này,
các hoạt động dạy học trực tuyến chiếm vai trò chủ đạo, việc học được cá nhân
hóa rất cao. Nhận thức về vai trò của người dạy và người học đã thay đổi, trong
đó người dạy là người định hướng cho q trình học, cịn người học chủ động tìm
kiếm, chia sẻ thơng tin và hồn thành q trình lĩnh hội tri thức.
Học viện Innosight đã thực hiện một cuộc khảo sát nghiên cứu về dạy học kết
hợp tại 60 cơ sở đào tạo trên khắp nước Mỹ. Cuộc khảo sát cho thấy có 6 mơ hình
dạy học kết hợp đang được áp dụng tại các trường học chính quy, khơng chính
quy tại Mỹ bao gồm: Face – to – face driver, rotation, flex, online lab, self – blend,
online driver (Bảng 2) [4].
Bảng 2. Các mơ hình dạy học kết hợp
Mơ hình
Face – to – Face
Driver

Đặc trưng

Khả năng ứng dụng

Giáo viên dẫn dắt quá trình học tập trên lớp
dưới sự hỗ trợ của các thiết bị công nghệ

Phù hợp với những lớp học
đa dạng, nơi học sinh có
sự chênh lệch về khả năng
cũng như trình độ hiểu biết.



107

MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG TỔ CHỨC DẠY HỌC BLENDED LEARNING VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ
Rotation

Như một mơ hình học tập theo trạm, trong
đó học sinh học tập luân phiên nhau giữa
các trạm theo một lịch trình nhất định –
hoặc học tập trực tuyến, hoặc học trực tiếp
với giáo viên.

Môi trường học tập linh
hoạt, phù hợp với các bậc
tiểu học, trung học cơ sở.
Giáo viên có thể hỗ trợ
nhiều hơn dựa trên nhu
cầu của học sinh.

Flex

Người học chủ yếu học tập trực tuyến. GV
là người định hướng, tư vấn, giải đáp thắc
mắc trong các giờ gặp trực tiếp trên lớp với
người học.

Phát huy tối đa tính độc
lập, làm việc nhóm và
tương tác của người học,
khá phổ biến ở các trường

đại học trên thế giới.

Online Lab

Cho phép người học học tập trực tuyến
trong suốt thời gian khóa học tại những
phịng máy tính chun dụng. Tồn bộ q
trình học tập được quản lý trực tiếp bởi
những giám sát viên của khóa học.

Mơ hình này giúp giảm
thiểu các yêu cầu về cơ sở
vật chất (trường học, lớp
học) và nguồn lực (giảm
thiểu số lượng giáo viên).

Self – Blend

Cho phép người học tham gia vào các khóa
học trực tuyến nằm ngồi chương trình học
chính thống dựa trên nhu cầu của từng cá
nhân.

Phù hợp với cấp đại học,
nơi người học có nhu cầu
học tập đa dạng: nâng cao
trình độ chun mơn, rèn
luyện kỹ năng cá nhân.

Online Driver


Người học tham gia q trình học tập thơng
qua một nền tảng quản lý trực tuyến. Các
tương tác với giáo viên cũng được thực
hiện trực tuyến.

Thích hợp với người học
cần sự linh hoạt trong lịch
trình hoạt động hàng ngày,
phù hợp với các cấp đại
học hoặc sau đại học.

Có thể thấy đặc điểm chung của các mơ hình dạy học kết hợp này là:
-

Hình thức học tập: Mơ hình dạy học kết hợp ln có sự pha trộn giữa học trực
tuyến và học giáp mặt ở những mức độ khác nhau.

-

Tính tương tác rất đa dạng. Người học có thể tương tác với nhiều nguồn học
liệu khác nhau dưới nhiều hình thức khác nhau (tranh ảnh, video, sơ đồ, văn
bản,…) và tương tác với những đối tượng khác nhau (với bạn cùng lớp, bạn
khác lớp, với giáo viên, với các đối tượng bên ngồi lớp học,…)

-

Mơi trường học: Dạy học kết hợp tạo ra một lớp học không tường, không giới hạn
về khơng gian, hồn tồn linh động cho người học. Người học có thể học ở bất cứ
đâu vào bất cứ thời gian nào tùy vào sự hứng thú, nhu cầu và điều kiện của bản thân.


-

Chuẩn đầu ra: Đối với các mơ hình dạy học kết hợp, các u cầu về chuẩn đầu
ra được kiểm soát chặt chẽ nhằm đảm bảo chất lượng đào tạo cho dù quá trình
học mang tính cá nhân hóa cao.

Trong thực tế, việc lựa chọn mơ hình dạy học kết hợp phù hợp phụ thuộc vào
rất nhiều yếu tố khác nhau như: cơ sở vật chất, điều kiện tài chính của trường học,
đặc thù mơn học và chương trình học, phụ thuộc vào năng lực, nhu cầu và điều kiện
cá nhân của đối tượng theo học.


108

KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI
PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL

2. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc tổ chức dạy học kết hợp
Khả năng đáp ứng về cơ sở vật chất của cơ quan đào tạo

Trong thời đại khoa học công nghệ, muốn sử dụng các phương pháp dạy học
tích cực thì ngồi yếu tố con người cịn phải có trang thiết bị cần thiết. Đặc biệt đối
với việc áp dụng dạy học kết hợp thì các yêu cầu về cơ sở vật chất là rất cần thiết.
Nhà trường cần phải đầu tư trang thiết bị, phần mềm về công nghệ thông tin để đáp
ứng nhu cầu dạy và học. Cụ thể như kết nối Internet, phịng máy tính, máy chiếu,
máy in, phịng đa phương tiện (multimedia), nền tảng hỗ trợ quản lý học tập trực
tuyến e-learning, các phần mềm dạy học, v.v. Phịng học cần trang bị máy tính, máy
chiếu và một hệ thống mạng Internet hoạt động ổn định. Đối với việc triển khai dạy
học trực tuyến, cần có một nền tảng hỗ trợ quản lý học tập (Learning Management

System – LMS). Hiện nay các chi phí để xây dựng LMS và duy trì hoạt động ổn
định cho hệ thống này là khá cao. Chính vì thế cần đầu tư nhân lực chuyên trách
phục vụ hoạt động của LMS. Nếu không tận dụng hết công năng của nền tảng này
sẽ gây lãng phí. Đây cũng là một hạn chế khiến các cơ sở đào tạo trong nước chưa
có sự đầu tư thực sự cho LMS.
Đối với giáo viên

Trong dạy học trực tuyến cũng như dạy học truyền thống, vai trò của người GV
là vô cùng quan trọng. GV cần phải biết sử dụng các công nghệ hiện đại phục vụ cho
việc dạy học, biết lựa chọn các tài nguyên phù hợp cho các đối tượng học sinh khác
nhau, biết thiết kế, lựa chọn các hình thức kiểm tra đánh giá phù hợp với năng lực và
kỹ năng sử dụng công nghệ của HS. Thực tế cho thấy, GV không chỉ lên lớp tổ chức
các hoạt động học tập mà cịn có nhiệm vụ định hướng, hướng dẫn HS, xây dựng các
nội dung học tập giúp HS tự truy cập, và quan trọng là dạy cho HS những kỹ năng
quan trọng khi khai thác, xử lý thông tin bao gồm cả các kỹ năng máy tính cần thiết.
Chính vì thế nếu một đội ngũ GV có trình độ chun mơn tốt nhưng trình độ tin học
và kỹ năng sử dụng máy tính chưa thành thạo thì khơng thể đáp ứng được các yêu
cầu về mặt “kỹ thuật” để triển khai dạy học kết hợp. Tuy nhiên cũng phải thấy rằng,
các yếu tố khách quan ảnh hưởng rất lớn tới tâm lý GV trong việc tiếp cận các công
nghệ, kỹ thuật tiên tiến. Các cơ sở đào tạo, ngồi việc có hệ thống cơ sở vật chất tốt
phục vụ cho việc dạy học kết hợp thì cần phải có chế độ hỗ trợ phù hợp cho GV trong
các hoạt động thiết kế bài giảng trực tuyến, quản lý lớp học online, v.v.
Đối với học sinh

Dạy học kết hợp làm thay đổi cấu trúc q trình dạy học theo hướng cá nhân
hóa người học: chương trình linh hoạt, dễ cập nhật, điều chỉnh, đáp ứng tối đa nhu


MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG TỔ CHỨC DẠY HỌC BLENDED LEARNING VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ


109

cầu và phong cách học tập của người học. Đối với HS, sự chủ động, tích cực trong
học tập là vơ cùng quan trọng. Bên cạnh những giờ học trên lớp thì việc tự học
qua mạng sẽ quyết định chất lượng học tập của chính mỗi cá nhân HS. HS không
chỉ thu nạp, ghi nhớ thơng tin mà cịn phải biết cách phân tích, tổng hợp, xử lý
thông tin một cách hiệu quả. Việc duy trì ý thức kỷ luật và động cơ học tập càng
có ý nghĩa hơn đối với loại hình học tập này. Tuy nhiên HS, hiện nay vẫn chịu ảnh
hưởng cách học thụ động truyền thống, tâm lý học phải có thầy, một số nội dung
quá tải trên lớp học, v.v. dẫn đến việc tự học qua mạng chưa trở thành động lực học
tập. Chính vì vậy để HS làm quen với mơ hình dạy học kết hợp thì các trường phổ
thơng cần “online hóa” trường học bao gồm: quản lý, kiểm tra đánh giá và điện tử
hóa bài giảng để website trường học phải trở thành địa chỉ thân thiện đối với GV,
HS và phụ huynh.
3. Một số kinh nghiệm dạy học kết hợp

Ở nước Mỹ những năm 2.000, có khoảng 45.000 học sinh tham gia vào các
khóa học online. Đến năm 2009, con số này tăng lên đến 3 triệu học sinh [5]. Hình
thức học tập cũng có sự thay đổi mạnh mẽ. Các khái niệm “học tập từ xa” qua mạng
Internet đã khơng cịn như ban đầu mà chuyển sang một mơ hình dạy học mới – dạy
học kết hợp. Các trường phổ thông cũng dần thay đổi cách tiếp cận học sinh theo
hướng “online hóa” nhằm giúp học sinh của họ có thể học ở mọi lúc mọi nơi. Việc
này cũng giúp nhà trường giảm được chi phí vận hành bộ máy quản lý của họ. Dạy
học kết hợp trên nước Mỹ đã đem lại hiệu ứng tốt khi các trường áp dụng mơ hình
này ngày càng tăng tạo thành một xu thế học tập mới. Mỗi học sinh được học tập
theo nhịp độ riêng của mình, sử dụng các phương pháp học tập ưa thích và nhận
được phản hồi về kết quả học tập một cách nhanh chóng thơng qua hệ thống kiểm
tra đánh giá trực tuyến. Giáo viên cũng có nhiều thời gian giúp học sinh cá nhân
hóa việc học thay vì phải quản lý cả lớp học theo hình thức giáp mặt trong một thời
gian dài. Đối với một số trường, dạy học kết hợp còn giúp giảm thiểu số lượng giáo

viên, giảm thiểu số lượng phịng học và khơng gian phục vụ cho học tập – những
yếu tố chiếm đến 70 - 85% chi phí vận hành trường học [5]. Trường trung học phổ
thơng Carpe Diem ở Yuma, Arizona là một ví dụ điển hình cho việc áp dụng thành
cơng mơ hình dạy học kết hợp. Trường Carpe Diem có 280 học sinh từ lớp 6 đến
lớp 12. Nhưng từ khi hợp đồng th lại các tịa nhà của trường khơng được gia hạn,
Trường Carpe Diem bắt đầu áp dụng mơ hình dạy học kết hợp. Một không gian
rộng lớn dành cho học tập trực tuyến được bố trí với 280 chiếc máy tính và 280
chiếc tủ cá nhân. Học sinh được học tập luân phiên tại không gian này 55 phút một
lần, sau đó được chuyển qua khơng gian lớp học truyền thống. Ở khơng gian học
tập trực tuyến, giáo viên đóng vai trò hướng dẫn, giúp đỡ nếu học sinh gặp phải vấn


110

KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI
PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL

đề trong học tập. Tại không gian lớp học truyền thống, giáo viên sử dụng tài liệu
dạy học trực tuyến để củng cố, nâng cao kiến thức cho học sinh. Học sinh chỉ đến
trường bốn ngày trong một tuần. Một ngày học kéo dài từ 7h30 sáng đến 4h chiều.
Chỉ những học sinh cần hỗ trợ thêm mới đến trường vào thứ 6. Trường Carpe Diem
chỉ thuê 6 giáo viên làm việc toàn thời gian. Mỗi giáo viên phụ trách một môn học
bao gồm: tốn, ngơn ngữ nghệ thuật, khoa học, giáo dục thể chất, nghiên cứu xã
hội và môn tự chọn. Mỗi giáo viên sẽ chịu trách nhiệm cung cấp tài liệu, hướng
dẫn học tập cho toàn bộ học sinh trong trường theo mơn học của mình. Để hỗ trợ
cho 6 giáo viên chính, Trường Carpe Diem thuê những giám sát, trợ lý, cố vấn học
tập phụ trách các lớp học. Nhờ vậy các chi phí về nhân lực của trường Carpe Diem
giảm đi đáng kể cho phép trường trả lương cho giáo viên của mình cao hơn các
trường khác cùng khu vực. Trong những năm gần đây, Trường Carpe Diem luôn
nằm trong top 10 trường trung học phổ thông của tiểu bang Arizona.

Ở Trường Đại học Griffith, Australia mơ hình dạy học kết hợp được xem như
mơ hình dạy học chiến lược của trường [2]. Việc quản lý, kiểm tra, đánh giá, gửi
kết quả học tập, thông báo sự kiện tới sinh viên được thực hiện qua một trung tâm
quản lý trực tuyến có độ chính xác cao giúp giảm thiểu tối đa các công việc cơ học
tương ứng và giúp sinh viên phản hồi nhanh, kịp thời về các vấn đề của mình. Các
giảng viên cung cấp một bài giảng trực tuyến cho tất cả các sinh viên của khóa học.
Khối lượng công việc của giảng viên được giảm đi rõ rệt bằng cách chỉ trình bày
một lần thay vì phải trình bày nhiều lần cho nhiều lớp học khác nhau. Các hoạt
động học tập được duy trì theo các nhóm nhỏ trong không gian làm việc cộng tác
trực tuyến. Hệ thống quản lý trực tuyến hàng tuần sẽ cung cấp tài liệu tham khảo,
hướng dẫn hoặc bài tập dưới dạng trắc nghiệm giúp sinh viên nắm rõ và hoàn thành
các nhiệm vụ học tập trong tuần. Các giảng viên làm việc với các nhóm sinh viên
trong lớp học truyền thống để giải đáp các thắc mắc và thảo luận các vấn đề học
tập của nhóm.
Dạy học kết hợp khơng phải là mơ hình dạy học mới nhưng là một xu thế mới
trong dạy học của các trường trên thế giới. Việc kết hợp linh hoạt giữa hình thức
dạy học trực tuyến và dạy học truyền thống với những tỉ lệ khác nhau sẽ giúp phân
hóa trình độ học sinh, cá nhân hóa việc học giúp học sinh làm chủ kiến thức. Dạy
học kết hợp cũng giúp các trường giảm chi phí cho nguồn nhân lực, giảm bớt số
lượng phịng học, khơng gian trường học có thể bị thu hẹp nhưng môi trường học
tập lại được mở rộng không khoảng cách và khơng giới hạn.
4. Lời kết

Nghiên cứu này trình bày một số vấn đề cơ bản trong dạy học kết hợp. Theo
đó, dạy học kết hợp hồn tồn khơng phải là sự bổ sung “cơ học” để bù đắp cho


MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG TỔ CHỨC DẠY HỌC BLENDED LEARNING VÀ KINH NGHIỆM QUỐC TẾ

111


các nhược điểm của dạy học trực tuyến hay dạy học giáp mặt. Đó là sự kết hợp hài
hịa nhằm tạo ra một mơi trường học tập mở, không giới hạn về không gian, thời
gian. Dạy học kết hợp làm thay đổi nhận thức về vai trò của người dạy và người
học, về phương thức, công cụ kiểm tra đánh giá. Dạy học kết hợp ở Việt Nam vẫn
là một “tiềm năng” cần khai thác. Cùng với sự phát triển của công nghệ và xu thế
hội nhập với nền giáo dục thế giới, dạy học kết hợp có thể sẽ trở thành xu hướng
dạy học trong những năm tới đây của giáo dục nước nhà.
Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được tài trợ bởi Sở Khoa học Cơng nghệ Hà Nội
trong chương trình KH&CN cấp thành phố mã số 01X-12.
Tài liệu tham khảo

Alfred P. Rovai, Hope Jordan (2004). Blended learning and sense of
community: A comparative analysis with traditional and fully online graduate
courses.  The International Review of Research in Open and Distance Learning.
Vol. 5(2). p. 1- 13.
Debra Bath, John Bourke (2010). Getting started with blended learning.
Griffith University.
Harvey Singh (2003). Building effective blended learning programs.
Educational technology. Vol. 43(6). p. 51 – 54.
Michael B. Horn, Heather Staker (2014). Blended: Using disruptive innivation
to improve schools. Jossey – Bass.
Michael B. Horn, Heather Staker (2011). The rise of K-12 blended learning.
Innosight institute.


112

SOME PROBLEMS WITH THE ORGANIZATION OF
BLENDED LEARNING

AND INTERNATIONAL EXPERIENCE
Ph.D Trang Nguyen Hoang1
Abstract: Blended learning is a model that combines face-to-face learning
and e-learning. This model helps students have a flexible learning environment
appropriate for personal conditions. Blended learning is considered as an
efficient solution and is an indispensable development trend of the society.
The present study deals with some basic problems with the organization of
blended learning such as students’ psychology and needs, and characteristics
and form of blended learning organization in the world and in Vietnam. In
addition, the study mentions some international experience in the organization
of blended learning.
Keywords: Blended learning, e-learning, face-to-face, students, experimental
study

1. Trường Đại học Giáo dục;
Email: ;
Tel: 0985.935.158.



×