Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Mối quan hệ giữa hoạt động thể chất và sức khỏe tâm thần ở học sinh: Nghiên cứu tổng quan

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (460.18 KB, 11 trang )

355

MỐI QUAN HỆ GIỮA HOẠT ĐỘNG THỂ CHẤT VÀ SỨC
KHỎE TÂM THẦN Ở HỌC SINH: NGHIÊN CỨU TỔNG QUAN


PGS.TS Đặng Hồng Minh1

Tóm tắt: Hoạt động thể chất có ý nghĩa quan trọng đối với sức khỏe thể chất,
sức khỏe tâm thần và tự trọng ở học sinh. Bài viết này tổng quan các nghiên
cứu đa phân tích trên thế giới về mối quan hệ giữa hoạt động thể chất và sức
khỏe tâm thần. Bài viết cũng tổng hợp các chiến lược tăng cường hoạt động
thể chất cho học sinh trong nhà trường ngồi khn khổ của mơn giáo dục
thể chất đã được chứng minh có hiệu quả và khả năng áp dụng ở Việt Nam.
Từ khóa: Hoạt động thể chất, sức khỏe tâm thần, học sinh, can thiệp

1. Đặt vấn đề
1.1. Tầm quan trọng của hoạt động thể chất đối sức khỏe của học sinh

Các hoạt động thể chất đều đặn đem lại nhiều lợi ích cho trẻ em và vị thành
niên, bao gồm tăng cường hệ tim mạch, trao đổi chất, xương cơ, sự lành mạnh về
tâm lý và kết quả học tập (Strong et al., 2005). Hoạt động thể chất đều đặn đóng
vai trị quan trọng trong phịng ngừa các bệnh mạn tính khi trưởng thành, bao gồm
tim mạch, ung thư, đột quỵ- ba bệnh dẫn đầu tử vong ở người trưởng thành trên 18
tuổi. Thiếu hoạt động ở người trẻ tuổi có thể tăng nguy cơ suy hại sức khỏe như béo
phì, tiểu đường, tim mạch, lỗng xương (Janssen & LeBlanc, 2010). Theo khuyến
nghị của Tổ chức Y tế thế giới, trẻ em từ 5-17 tuổi cần có hoạt động thể chất ở mức
độ vừa và mạnh ít nhất 60 phút mỗi ngày. Các hoạt động thể chất hàng ngày cần
dưới dạng tiêu hao nhiều oxy và tăng nhịp tim (như đi bộ, bơi, đạp xe, chạy, leo
núi, nhảy thể thao, v.v). Các hoạt động cường độ mạnh cần được kết hợp, bao gồm
những hoạt động tăng sức mạnh của cơ và xương ít nhất 3 lần tuần (WHO, 2010).



1 Đặng Hoàng Minh, ; ĐT: 01696941115;
Trường Đại học Giáo dục, Đại học Quốc Gia Hà Nội.


356

KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI
PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL

1.2. Mối quan hệ giữa hoạt động thể chất và sức khỏe tâm thần ở học sinh

Các minh chứng cho thấy hoạt động thể chất không những tốt cho sức khỏe
thể chất của mỗi cá nhân nói chung và trẻ em nói riêng, mà còn tốt cho sức khỏe
tâm thần và sự lành mạnh về cảm xúc. Chẳng hạn, hoạt động thể chất cải thiện tâm
trạng và giảm các triệu chứng trầm cảm và lo âu (dẫn từ Penedo & Dahn, 2005).
Những cá nhân được chẩn đoán trầm cảm tham gia vào các can thiệp liên quan đến
vận động tăng nhịp tin có sự cải thiện đáng kể so với những bệnh nhận được trị liệu
thuốc (Babyak et al., 2000). Hoạt động thể chất đều đặn có thể phịng ngừa khởi
phát trầm cảm. Hơn thế nữa, chức năng cuộc sống cũng cải thiện nhờ hoạt động
thể chất do tăng cường cơ hội trải nghiệm khỏe mạnh và sức khỏe thể chất (CDC,
2001). Tuy nhiên, hầu như các nghiên cứu về quan hệ giữa hoạt động thể chất và
sức khỏe tâm thần lại tập trung vào đối tượng người lớn. Bài viết này tổng quan các
nghiên cứu liên quan đến hoạt động thể chất và sức khỏe tâm thần ở đối tượng trẻ
em/học sinh, và tập trung đến các vấn đề trầm cảm, lo âu, tự trọng.
2. Phương pháp

Các bài báo khoa học tiếng Anh từ năm 2010 liên quan đến hoạt động thể
chất (physical activity, exercise, sport) và sức khỏe tâm thần ở trẻ em (học sinh, trẻ
em tuổi đến trường), tập trung đến trầm cảm, lo âu và tự trọng trên cơ sở dữ liệu

PsychINFO, Web of Science, Medline. Các bài báo tiếng Việt với từ khóa giáo dục
thể chất, hoạt động thể chất được tìm trên Google Scholar. Các tiêu chí lựa chọn là
(a) bài báo khoa học có phản biện; (b) nghiên cứu mối quan hệ giữa hoạt động thể
chất đến các biểu hiện của có vấn đề về sức khỏe tâm thần (trầm cảm, lo âu, rối loạn
hành vi, tự trọng, v.v; (c) trẻ em, hoặc học sinh từ 3-18 tuổi; (d) loại trừ các trẻ em
có suy giảm chức năng thể chất hoặc mắc bệnh mạn tính.
3. Kết quả

Trầm cảm
Nghiên cứu đa phân tích (meta-analysis) đầu tiên tổng hợp mối quan hệ giữa
hoạt động thể chất và trầm cảm báo cáo cỡ tác động (ES) -0.53 với 5 nghiên cứu ở
những người trẻ tuổi dưới 24. Tuy nhiên, trong 5 nghiên cứu này bao gồm các các
nghiên cứu không can thiệp (theo Biddle & Asare, 2011). Nghiên cứu đa phân tích
tiếp theo với nhóm vị thành niên và thanh niên từ 11-21 tuổi, chỉ dùng các nghiên
cứu thực nghiệm, báo cáo cỡ tác động -0.38 khẳng định hiệu quả của hoạt động thể
chất ở nhóm thực nghiệm so với nhóm đối chứng.
Cradt & Landers (1992) tiến hành đa phân tích về hoạt động thể chất và trầm
cảm với nhóm bệnh nhân được chẩn đốn lâm sàng trầm cảm. Có 3 nghiên cứu ở


MỐI QUAN HỆ GIỮA HOẠT ĐỘNG THỂ CHẤT VÀ SỨC KHỎE TÂM THẦN Ở HỌC SINH: NGHIÊN CỨU...

357

nhóm trẻ 12-18 tuổi, cho thấy mức độ tác động nhỏ khơng có ý nghĩa -0.15, nhỏ hơn
rất nhiều so với các nghiên cứu ở người lớn -0.72. Larun và cs (2006) tổng quan hệ
thống các can thiệp liên quan đến hoạt động thể chất và trầm cảm ở vị thành niên và
thiếu niên dưới 20 tuổi. Có 5 nghiên cứu chỉ ra hoạt động thể chất mạnh như luyện
tập gym, thể dục giảm cân, có hiệu quả hơn nhóm chứng khơng hoạt động gì với cỡ
tác động ở mức trung bình là -0.66. Khi so sánh giữa nhóm hoạt động mạnh và nhóm

hoạt động cường độ thấp, và hoạt động mạnh và can thiệp tâm lý, khơng có sự khác
biệt giữa các nhóm. Kết quả này gợi ý là hiệu quả của hoạt động thể chất, kể cả cường
độ yếu có hiệu quả tương đương với can thiệp tâm lý đối với trầm cảm.
Nhìn chung, hoạt đơng thể chất có hiệu quả để giảm trầm cảm so với không
hoạt động và không có can thiệp gì ở nhóm trẻ em. Tuy nhiên, cỡ tác động không
cao, nhiều nghiên cứu cắt ngang cho thấy quan hệ tương quan, không cho biết quan
hệ nhân quả giữa hai yếu tố này. Hơn nữa, các can thiệp liên quan đến hoạt động
không chỉ rõ được về cường độ hoạt động, mức độ thường xuyên, thời lượng và các
dạng hoạt động thể chất cụ thể.
Lo âu
Số lượng các nghiên cứu về hoạt động thể chất và giảm lo âu ở trẻ em là rất
nhỏ. Petruzzello và cs (1991) báo cáo cỡ tác động từ trung bình -0.47 với các can
thiệp hoạt động thể chất với lo âu trên đối dượng trẻ dưới 18 tuổi. Cũng nghiên cứu
của Larun và cs chỉ ra cỡ tác động -0.48 giữa nhóm hoạt động thể chất mạnh và
nhóm khơng có can thiệp. So sánh giữa nhóm hoạt động thể chất mạnh với nhóm
hoạt động cường độ thấp, và với nhóm can thiệp tâm lý, khơng có sự khác biệt
Tự trọng
Đa phân tích của Ekeland và cs, (2005) xem xét liệu các chương trình can
thiệp về hoạt động thể chất có tăng tự trọng ở trẻ từ 3-20 tuổi. Kết quả cho thấy với
8 nghiên cứu thực nghiệm giữa can thiệp và khơng can thiệp, cỡ tác động ở mức
trung bình 0.49 với nhóm can thiệp và nhóm chứng. Tuy nhiên các nghiên cứu mà
Ekeland tổng hợp đều khơng có kết quả theo dõi (follow-up) và là can thiệp ngắn.
Cũng trong tổng quan tổng hợp của Ekeland và cs, có 4 nghiên cứu khác so sánh
hoạt động thể chất như một cấu phần của chương trình can thiệp tổng thể nhiều
thành phần với nhóm đối chứng khơng tham gia vào can thiệp gì. Cỡ tác động là
0.51 với tự trọng cho nhóm có can thiệp. Nhìn chung, hoạt động thể chất có thể
tăng tự trọng, ít nhất trong thời gian ngắn.
Gần đây nhất, nghiên cứu đa phân tích của Ahn & Fedewa (2011) tổng hợp 73
nghiên cứu trên thế giới từ 1974-2009 về tác động của hoạt động thể chất và các biến
đầu ra về sức khỏe tâm thần ở trẻ em, bao gồm các nghiên cứu thực nghiệm ngẫu



358

KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI
PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL

nhiên (randomized controlled trials), nghiên cứu bán thực nghiệm và nghiên cứu cắt
ngang. Các hoạt động thể chất được miêu tả trong các nghiên cứu thuộc nhiều dạng,
từ luyện tập aerobic (tăng nhịp tim, cần nhiều oxy), luyện tập sức bền/sức mạnh,
các luyện tập linh hoạt, chương trình giáo dục thể chất học đường, thể thao, luyện
tập vận động, yoga và thiền, hỗn hợp. Biến đầu ra về sức khỏe tâm thần bao gồm
trầm cảm, lo âu, tự trọng, quan niệm về bản thân, stress, các biểu hiện stress sau
sang chấn, rối loạn dạng cơ thể, suy nghĩ tự sát, các vấn đề về hành vi, loạn thần,
các vấn đề về chức năng xã hội. Kết quả cho thấy tăng mức độ hoạt động thể chất có
tác động có ý nghĩa đến việc giảm trầm cảm, lo âu, stress, các vấn đề cảm xúc ở trẻ
em. Cả nghiên cứu thực nghiệm ngẫu nhiên và phi thực nghiệm đều cho thấy hoạt
động thể chất tăng mức độ tự trọng. Cỡ tác động khoảng 0.3 với các nghiên cứu thực
nghiệm và 0.57 với nghiên cứu phi thực nghiệm. Kết quả này cũng tương đồng với
kết quả của Larun và cs, (2006). Các dạng hoạt động thể chất khác nhau cũng có tác
động khác nhau đến sức khỏe tâm thần ở trẻ. Các hoạt động thể chất liên quan đến
luyện tập sức mạnh/độ bền và các hoạt động hỗn hợp dẫn đến tăng nhịp tim là hiệu
quả nhất. Cơ chế lý giải có thể là do các hoạt động này làm tăng lượng serotonin và
các chất dẫn truyền thần kinh khác, giúp giảm đi các cảm xúc âm tính. Cường độ
luyện tập có giá trị điều hịa. Trong khi mức độ luyện tập cao có tác động lớn nhất
đến sức khỏe tâm thần trẻ em trong các nghiên cứu thực nghiệm thì mức độ luyện
tập trung bình có hiệu quả cao nhất trong các nghiên cứu phi thực nghiệm. Một kết
quả có ý nghĩa quan trọng trong đa phân tích của Ann và Fedewa là các can thiệp
nhóm hoặc cá nhân đều có tác động tích cực với sức khỏe tâm thần của trẻ em. Các
chương trình này có thể hướng dẫn bởi bất cứ người lớn nào, giáo viên, nghiên cứu

viên, giáo viên thể dục, v.v. Điều này gợi ý rằng các can thiệp hoạt động thể chất có
thể được đưa vào nhà trường vì thời gian trẻ em ở trường rất nhiều. Khi trẻ khơng
có điều kiện đến bệnh viện, cơ sở y tế hoặc cơ sở chăm sóc chuyên biệt về sức khỏe
tâm thần, nhà trường là nơi lý tưởng để thực hiện các hoạt động hỗ trợ sức khỏe tâm
thần cho học sinh, thơng qua chính các chương trình hoạt động thể chất.
4. Đề xuất về tăng cường hoạt động thể chất ở học sinh ngoài giáo dục thể
chất trong trường học

Hoạt động thể chất ở trẻ em và vị thành niên phụ thuộc vào nhiều lĩnh vực
xã hội như gia đình, cộng đồng, nhà trường, các cơ quan chính phủ, truyền thơng,
cơng nghiệp giải trí. Mỗi lĩnh vực này có vai trị độc lập và khác nhau trong việc
khuyến khích và cải thiện hoạt động thể chất ở trẻ em. Nhà trường có vai trị then
chốt trong việc thiết lập mơi trường an tồn và hỗ trợ với các chính sách và thực
tiễn để khuyến khích và hỗ trợ hoạt động thể chất. Trường học cũng là nơi lý tưởng
tạo ra các cơ hội cho học sinh học và triển khai việc rèn luyện các hoạt động thể


MỐI QUAN HỆ GIỮA HOẠT ĐỘNG THỂ CHẤT VÀ SỨC KHỎE TÂM THẦN Ở HỌC SINH: NGHIÊN CỨU...

359

chất. Lý do vì học sinh dành nhiều thời gian ở trường và nhà trường có sẵn nguồn
lực, nhân lực, thiết bị, khơng gian để tổ chức các hoạt động thể chất cho học sinh.
Các hoạt động thể chất trong nhà trường dưới hình thức sơ đẳng nhất là giáo dục thể
chất (GDTC), các câu lạc bổ thể thao dành cho những học sinh quan tâm. Mặc dù GDTC
là bắt buộc với học sinh ở tất cả các cấp ở tất cả các nước trên thế giới, các giờ học này
thường diễn ra thiếu hứng thú, không thường xuyên và học sinh thường hoạt động thể
chất ở mức thấp (Simons-Morton et al., 1994). Theo Tudor-Locke và cộng sự (2006),
chương trình GDTC ở trường chỉ đáp ứng 8-11% các hoạt động thể chất cần thiết cho học
sinh. Thêm nữa, trường học cũng bị áp lực càng tăng về thành tích, kết quả học tập của

học sinh. Điều này dẫn đến nhà trường ưu tiên thời gian dạy, và các hoạt động sư phạm,
ít thời gian cho hoạt động thể chất như GDTC hoặc các giờ nghỉ, giải lao giữa giờ. Bên
cạnh đó, cơng nghệ hiện đại như chơi game, xem TV, lướt web, v.v. và giao thơng hiện
đại (ví dụ như đi bus đến trường, bố mẹ đưa đến trường thay vì trẻ tự đi bộ hay đạp xe đến
trường như trước kia) khiến trẻ ít tham gia vào các hoạt động hơn (Stevens et al., 2008).
Ở Việt Nam, tổ chức học tập và rèn luyện thể chất được nhìn nhận là hai nhiệm
vụ quan trọng hàng đầu của giáo dục toàn diện học sinh. Việt Nam ban hành nghị định
11/2015/CP quy định về giáo dục thể chất và hoạt động thể thao trong nhà trường. Nghị
quyết 29-NQ/TƯ đề ra nhiệm vụ “Đổi mới chương trình nhằm phát triển năng lực và
phẩm chất người học, hài hịa đức, trí, thể, mỹ”. Quyết định số 1076/QĐ-TTg ngày 176-2016 phê duyệt Đề án tổng thể phát triển giáo dục thể chất và thể thao trường học giai
đoạn 2016-2020, định hướng đến năm 2025 cũng nêu định hướng chiến lược tổng thể về
phát triển GDTC và thể thao trường học giai đoạn 2016-2020, đồng thời khẳng định vai
trị của cơng tác GDTC đối với thế hệ trẻ. Tuy nhiên, một số nghiên cứu ở Việt nam chỉ
ra rằng từ trước đến nay GDTC ở các trường phổ thông thường hoạt động kém hiệu quả:
thiếu giáo viên dạy GDTC, cơ sở vật chất hạn chế, thiếu dụng cụ, việc thực hiện đào tạo
môn học GDTC cũng chỉ dừng lại ở phần chính khóa của chương trình khung của Bộ
GD-ĐT và khơng thực hiện phần ngoại khóa (Vũ Quỳnh Anh & Lê Đức Thiện, 2017).
Võ Văn Vũ đánh giá thực trạng công tác GDTC và hoạt động thể thao ở các trường THPT
ở Đà Nẵng thông qua ý kiến của các giáo viên GDTC và cán bộ quản lý cho thấy đa số
giáo viên cho rằng chương trình mơn GDTC ít phù hợp với học sinh, chương trình nặng,
khơ cứng, không thu hút học sinh, cơ sở vật chất không đáp ứng yêu cầu dạy học nội
dung, phương pháp dạy truyền thống khơng phát huy được tính tích cực hoạt động của
học sinh, và học sinh không hứng thú với mơn học. Các hoạt động thể thao ngoại khóa
đơn điệu, số lượng ít (Võ Văn Vũ, 2014). Trong chương trình giáo dục phổ thơng mới,
giáo dục thể chất là môn học bắt buộc từ lớp 1-12, và được đánh giá vai trị quan trọng,
đảm nhiệm giáo dục Đức-Trí Thể-Mỹ cho học sinh. Nội dung môn học được thiết kế theo
cấu trúc “vừa đồng tâm, vừa tuyến tính” phù hợp với tâm - sinh lý lứa tuổi và quy luật
phát triển thể lực của học sinh, đồng thời chương trình mơn học mang tính mở, tạo điều



360

KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI
PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL

kiện để học sinh được lựa chọn các hoạt động phù hợp với thể lực, nguyện vọng của bản
thân và điều kiện của nhà trường (Bộ GD-ĐT, 2018).
Để tăng hoạt động thể chất của học sinh, cần tăng cơ hội học sinh hoạt động và chủ
động (Mahar, 2011). Nhà trường có thể cải thiện các hoạt động thể chất và hạn chế thời
lượng tĩnh của học sinh thơng qua nhiều hình thức khác nhau, không chỉ trong khuôn
khổ của môn học giáo dục thể chất. Sau đây là những giải pháp đã được nghiên cứu trên
thế giới để tăng cường hoạt động thể chất ở học sinh dưới các hình thức khác.
4.1. Nghỉ ngắn giữa giờ trên lớp

Một chiến lược tăng hoạt động thể chất hàng ngày cho học sinh ở trường là thực
hiện nghỉ ngắn giữa giờ học trong lớp để dành cho hoạt động thể chất. Hoạt động thể
chất trong lớp học có thể là tất cả các hoạt động, bất kể cường độ, được thực hiện trong
lớp học trong giờ lên lớp, bao gồm trong giờ học cũng như nghỉ giữa các môn học, giờ
học các môn đặt biệt như nhạc, họa. Nó khơng bao gồm giờ giáo dục thể chất, hoặc thể
dục sau giờ ra chơi, hay sau giờ ăn trưa. Nghỉ giữa giờ trên lớp này có thể thiết kế 10-15
phút hoạt động thể chất ở mức độ mạnh hoặc trung bình. Các hình thức hoạt động thể
chất có thể đa dạng, nhảy, tập thể dục tại chỗ, v.v. Cách thức này được chứng minh là
có hiệu quả tăng cường hoạt động thể chất, giảm chỉ số cơ thể (BMI) ở học sinh (Mahar
et al., 2006). Giáo viên bộ môn cần được tập huấn để hiểu rõ vai trò của giáo dục thể
chất và được khuyến khích thiết kế những khoảng thời gian dành cho hoạt động thể chất
trong giờ học của mình (tốn, văn, khoa học, v.v.) và trong thời gian nghỉ giữa các mơn
học. Khó khăn khi áp dụng cách thức này là sức ép về tiến độ nội dung chương trình và
thành tích học tập mà giáo viên và nhà trường đều thực hiện. Tuy vậy, các nghiên cứu
đều chứng minh là nghỉ giữa giờ dành cho hoạt động thể chất khơng chỉ khuyến khích
sức khỏe thể chất cho trẻ em, mà cịn có thể dễ dàng thực hiện trong lớp học mà không

cần giảm nhẹ việc dạy học, đồng thời cải thiện việc học cũng như các hành vi trên lớp
của học sinh (Donnelly et al., 2009). Nghỉ giữa giờ trên lớp thuận lợi và khả thi do khơng
q địi hỏi về kế hoạch tổ chức, không cần dụng cụ, thời gian ngắn. Cách thức này đặc
biệt hiệu quả đối với học sinh tiểu học (Koll & Cook, 2013)
Thiếu khơng gian cũng là một khó khăn để thực hiện cách thức này. Bàn và
không gian lớp học nên được sắp xếp lại để có khơng gian mở cho học sinh vận
động trong thời gian nghỉ giữa giờ.
4.2. Giờ giải lao

Giờ giải lao là quãng thời gian mà học sinh có thể vận động nhiều nhất. Học
sinh có thể thực hiện được 40% yêu cầu về hoạt động thể chất trong giờ giải lao.
Học sinh có thể chơi với bạn, tham gia các hoạt động có cấu trúc hoặc khơng có cấu
trúc. Hội Nhi Khoa Hoa Kỳ khuyến cáo giờ giải lao như một phần cơ bản đóng góp


MỐI QUAN HỆ GIỮA HOẠT ĐỘNG THỂ CHẤT VÀ SỨC KHỎE TÂM THẦN Ở HỌC SINH: NGHIÊN CỨU...

361

vào sự phát triển của trẻ em, trong đó nhấn mạnh giờ giải lao là phần bổ sung chứ
không phải thay thế cho giáo dục thể chất, góp phần vào 60 phút hoạt động thể chất
cho trẻ em. Trong giờ giải lao, tương tác với bạn đồng lừa có ý nghĩa quan trọng
mà ở đó, trẻ có thể học được các kĩ năng xã hội như giao tiếp, thương thuyết, hợp
tác, giải quyết vấn đề, v.v. (Council on School Health, 2013)
Nhà trường nên đảm bảo 15-20 phút/ngày học giờ giải lao cho học sinh. Khơng
gian trong nhà trường cần mở, có nhiều chỗ chơi, hoặc thiết bị chơi, thể dục để khuyến
khích hoạt động thể chất của học sinh. Nhà trường cũng cần bố trí giám thị giờ giải lao
và tập huấn họ để khơng những đảm bảo an tồn cho học sinh mà còn tương tác với học
sinh trong giờ giải lao để gợi ý, hướng dẫn và khuyến khích hoạt động thể chất.
4.3. Hoạt động thể thao trong nhà trường và ngồi nhà trường


Thể thao là một hoạt động khơng thể thiếu trong trường học. Các hoạt động
này có thể dưới hình thức trong nhà trường và ngồi nhà trường-thi đấu, diễn tập
với các đội ở trường khác. Nhà trường cần tổ chức các câu lạc bộ thể thao với nhiều
môn đa dạng bao gồm cả các môn theo đội như bóng đá, bóng rổ, mơn cá nhân như
bóng bàn, thể dục dụng cụ, chạy, v.v. và các giải đấu trong và ngoài trường. Dù
các nghiên cứu đều nhấn mạnh ảnh hưởng của thể thao đối với kết quả học tập, tự
trọng, sức khỏe thể chất và tâm lý của học sinh và yêu cầu về thể thao trong nhà
trường đều đươc phổ biến ở tất cả các nước kể cả Việt Nam, thực tế cho thấy ngân
sách cho hoạt động này thường bị cắt. Điều đó bao gồm cả việc thiếu thiết bị, dụng
cụ, thiếu huấn luyện viên, thiếu các giải thi đấu khiến cơ hội để học sinh tăng cường
hoạt động thể chất giảm đi. Ngoài ra, nhà trường cũng cần xây dựng các hoạt động
thể thao cho các học sinh khuyết tật, đảm bảo quyền bình đẳng cho các em.
4.4. Các chương trình sau giờ học

Các chương trình sau giờ học là cơ hội tốt để khuyến khích hoạt động thể chất
cho học sinh trong trường học. Trong bối cảnh các cha mẹ đều đi làm toàn thời
gian, và tan sở muộn hơn giờ tan học chính thức của trẻ em, các chương trình sau
giờ học là một giải pháp giúp học sinh được vui chơi ở môi trường an tồn, có giám
sát. Trong 15 năm qua, số chương trình sau giờ học tăng lên ở các trường ở các
nước phát triển như Hoa Kỳ, Anh, Pháp (Koll & Cook, 2013). Hiện nay, các trường
học ở Việt nam thường có chương trình sau giờ học. Các nội dung về hoạt động thể
chất cần được bổ sung vào chương trình sau giờ học này.
4.5. Một số nghiên cứu thử nghiệm chương trình khuyến khích hoạt động
thể chất trong trường học trên thế giới

Một số chương trình thực nghiệm khuyến khích hoạt động thế chất trong trường


362


KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI
PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL

học đã được nghiên cứu và chứng minh có hiệu quả đối với chỉ số cơ thể, khả năng
chú ý, hứng thú và học tập của học sinh. Chương trình Take10! ( là
chương trình nghỉ giữa giờ trên lớp dành cho hoạt động thể chất. Kibbe and colleagues
(2011) đã đánh giá hiệu quả của chương trình và cho thấy mức độ hoạt động thể chất
của học sinh mẫu giáo đến lớp 5 tăng thêm. Các hành vi tuân thủ, chỉ số cơ thể, các
thói quen về sức khỏe và kết quả học tập cũng được cải thiện. Một chương trình khác
là chương trình “Energizers” ( Với 10
phút hoạt động thể chất trong giờ học cùng với trung bình 782 bước/ngày sẽ giúp học
sinh tăng các hành vi tuân thủ trên lớp học. Chương trình Jammin› Minute cũng là
một chương trình hiệu quả để tăng cường hoạt động thể chất cho học sinh trong khi
nhà trường chưa có đủ nguồn lực để cung cấp chương trình giáo dục thể chất tổng
thể cho học sinh (Mahar et al., 2006). Chương trình Texas I-CAN (Bartholomew and
Jowers, 2011) tập huấn cho giáo viên tiểu học cách thay đổi kế hoạch dạy học để tích
hợp hoạt động thể chất trong giờ lên lớp các mơn cơ bản như tốn, văn, khoa học, v.v.
Học sinh được khuyến khích đi 1000 bước/ngày. Các nghiên cứu này đều chỉ ra việc
giáo viên bộ môn dành thời gian hoạt động thể chất cho học sinh trong giờ học của
mình khơng làm tốn thời gian dạy học, khơng cản trở thành tích học tập của học sinh,
mà có hiệu quả tích cực đối với học tập của học sinh  (Erwin et al., 2012). 
5. Kết luận

Hoạt động thể chất có vai trị quan trọng khơng chỉ đối với sức khỏe thể chất
mà còn với sức khỏe tâm thần và sự lành mạnh, tự trọng ở học sinh. Hiệu quả tác
động của hoạt động thể chất đối với tự trọng là cao hơn so với các vấn đề sức khỏe
tâm thần. Các hoạt động thể chất hiệu quả có thể được thiết kế dưới nhiều hình
thức, nhóm hoặc cá nhân, kết hợp các vận động tăng nhịp tim và sức bền, do bất
cứ người lớn nào hướng dẫn. Điều đó cho thấy vai trị quan trọng của nhà trường.

Chính việc quan tâm đến hoạt động thể chất của học sinh đã là một cách để ngăn
ngừa và can thiệp hiệu quả các vấn đề sức khỏe tâm thần và tăng cường sự phát
triển lành mạnh ở học sinh. Ngồi mơn học giáo dục thể chất, nhà trường có thể
tạo ra nhiều cơ hội khác nhau để học sinh có thể hoạt động thể chất trên lớp, giờ
ra chơi, ngồi giờ lên lớp và ngoại khóa. Điều quan trọng là nhà trường tạo ra một
môi trường luôn vận động và kích thích hoạt động cho học sinh. Những khó khăn
về kinh phí, thiếu nhân sự, thiếu dụng cụ có thể cản trở việc triển khai hoạt động thể
chất trong nhà trường. Ở Việt nam, khó khăn cịn có thể do hiểu biết và nhận thức
của nhà trường, phụ huynh và học sinh về vai trò của hoạt động thể chất. Giáo dục
thể chất luôn được coi là môn “phụ” và không được nhà trường, học sinh ưu tiên.
Để khắc phụ các rào cản này, việc nâng cao hiểu biết của nhà quản lý giáo dục, giáo
viên và học sinh, cộng đồng về tầm quan trọng của hoạt động thể chất đối với học


MỐI QUAN HỆ GIỮA HOẠT ĐỘNG THỂ CHẤT VÀ SỨC KHỎE TÂM THẦN Ở HỌC SINH: NGHIÊN CỨU...

363

tập, sức khỏe, xã hội cần được triển khai. Nhà trường cũng cần có tiếp cận tổng thể
đối với việc khuyến khích hoạt động thể chất cho học sinh.
Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát triển khoa học và công
nghệ Quốc gia (NAFOSTED) trong đề tài mã số 501.02-2016.03
Tài liệu tham khảo

Ahn, S., & Fedewa, A. L. (2011). A meta-analysis of the relationship
between children’s physical activity and mental health. Journal of pediatric
psychology, 36(4), 385-397.
Babyak, M., Blumenthal, J. A., Herman, S., Khatri, P., Doraiswamy, M.,
Moore, K., ... & Krishnan, K. R. (2000). Exercise treatment for major depression:
maintenance of therapeutic benefit at 10 months. Psychosomatic medicine, 62(5),

633-638.
Biddle, S. J., & Asare, M. (2011). Physical activity and mental health in
children and adolescents: a review of reviews. British journal of sports medicine,
bjsports90185.
Centers for Disease Control and Prevention. (2001). Effects of physical activity
on health and disease: A report from the Surgeon General. Retrieved March, 14, 2007.
Craft, L. L., & Landers, D. M. (1998). The effect of exercise on clinical
depression and depression resulting from mental illness: A meta-analysis. Journal
of Sport and Exercise Psychology, 20(4), 339-357.
Donnelly, J. E., Greene, J. L., Gibson, C. A., Smith, B. K., Washburn, R.
A., Sullivan, D. K., ... & Jacobsen, D. J. (2009). Physical Activity Across the
Curriculum (PAAC): a randomized controlled trial to promote physical activity
and diminish overweight and obesity in elementary school children. Preventive
medicine, 49(4), 336-341.
Ekeland, E., Heian, F., & Hagen, K. B. (2005). Can exercise improve self
esteem in children and young people? A systematic review of randomised controlled
trials. British journal of sports medicine, 39(11), 792-798.
Erwin, H., Fedewa, A., Beighle, A., & Ahn, S. (2012). A quantitative review
of physical activity, health, and learning outcomes associated with classroom-based
physical activity interventions. Journal of Applied School Psychology, 28(1), 14-36.
Janssen, I., & LeBlanc, A. G. (2010). Systematic review of the health benefits
of physical activity and fitness in school-aged children and youth. International
journal of behavioral nutrition and physical activity, 7(1), 40.


364

KỶ YẾU HỘI THẢO QUỐC TẾ: GIÁO DỤC CHO MỌI NGƯỜI
PROCEEDINGS OF INTERNATIONAL CONFERENCE EDUCATION FOR ALL


Kohl III, H. W., & Cook, H. D. (2013). Approaches to physical education in
schools, Washington, D.C: National Academies Press.
Larun, L., Nordheim, L. V., Ekeland, E., Hagen, K. B., & Heian, F. (2006).
Exercise in prevention and treatment of anxiety and depression among children
and young people. Cochrane database of systematic reviews, (3)
Mahar, M. T. (2011). Impact of short bouts of physical activity on attention-totask in elementary school children. Preventive medicine, 52, S60-S64.
Murray, R., Ramstetter, C., Devore, C., Allison, M., Ancona, R., Barnett, S... &
Okamoto, J. (2013). The crucial role of recess in school. Pediatrics, 131(1), 183-188.
Penedo, F. J., & Dahn, J. R. (2005). Exercise and well-being: a review of
mental and physical health benefits associated with physical activity. Current
opinion in psychiatry, 18(2), 189-193.
Petruzzello, S. J., Landers, D. M., Hatfield, B. D., Kubitz, K. A., & Salazar,
W. (1991). A meta-analysis on the anxiety-reducing effects of acute and chronic
exercise. Sports medicine, 11(3), 143-182.
Simons-Morton, B.G., Taylor, W.C., Snider, S.A., et al., (1994). Observed
levels of elementary and middle school children’s physical activity during physical
education classes. Preventive Medicine, 23(4):437–441
Stevens, T. A., To, Y., Stevenson, S. J., & Lochbaum, M. R. (2008). The
importance of physical activity and physical education in the prediction of academic
achievement. Journal of Sport Behavior, 31(4), 368.
Strong, W. B., Malina, R. M., Blimkie, C. J., Daniels, S. R., Dishman, R. K.,
Gutin, B., ... & Rowland, T. (2005). Evidence based physical activity for schoolage youth. The Journal of pediatrics, 146(6), 732-737.
Tudor-Locke, C., Lee, S. M., Morgan, C. F., Beighle, A., & Pangrazi, R. P.
(2006). Children’s pedometer-determined physical activity during the segmented
school day. Medicine and science in sports and exercise, 38(10), 1732-1738.
WHO (2010) Global recommendations on physical activity for health, Genève,
WHO ISBN: 9789241599979
Vũ Quỳnh Anh & Lê Đức Thiện (2017) Thực trạng và biện pháp nâng cao
hiệu quả công tác Giáo dục thể chất cho học sinh, sinh viên, Tạp chí thể thao, 2017
Võ Văn Vũ (2014) Đánh giá thực trạng và giải pháp nâng cao hiệu quả giáo

dục thể chất và hoạt động thể thao trong trường Trung học phổ thông ở Đà Nẵng,
Luận án Tiến sĩ, Viện Khoa học TDTT.


365



A RELATIONSHIP BETWEEN PHYSICAL ACTIVITY
AND MENTAL HEALTH IN STUDENTS:
A LITERACTURE REVIEW
Assoc.Prof.PhD Dang Hoang Minh1

Abstract: Physical activity has impact not only on children’s physical health
but also on mental health outcomes. The present study was a synthesis of
literature examiming the effects of physical activity on anxiety, depression
and self-esteem in children. The paper also reviewed various strategies to
promote physical activity in schools beyond the physical education programs
and discussed the practical implications in Vietnam.
Keywords: physical activity, mental health, students, intervention

1 University of Education, Vietnam National University – Hanoi;
Email: ;
Tel: 01696941115.



×