Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

Ảnh hưởng của phát triển du lịch đến văn hóa người h’mông ở sapa lào cai qua nghiên cứu trường hợp bản cát cát và bản lý lao chải

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (7.8 MB, 125 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ VĂN HÓA, THỂ THAO VÀ DU LỊCH

TRƯỜNG ĐẠI HỌC VĂN HĨA HÀ NỘI
*******&******

TƠ NGUYỄN BÍCH NGỌC

ẢNH HƯỠNG CỦA PHÁT TRIỂN DU LỊCH
ĐẾN VĂN HỐ NGƯỜI H’MƠNG Ở SAPA, LÀO CAI
Chun ngành: Văn hóa học
Mã số
: 60 31 06 40

LUẬN VĂN THẠC SĨ VĂN HÓA HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN HỮU SƠN

HÀ NỘI – 2013


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình khoa học của riêng tôi. Các dẫn
luận tài liệu được sử dụng trong luận văn chân thực, đảm bảo tính khách
quan, khoa học và có nguồn gốc xuất xứ.
Tơi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan này.

Hà Nội, tháng 06 năm 2013
Tác giả luận văn

Tơ Nguyễn Bích Ngọc



LỜI CẢM ƠN
Em xin chân thành cảm ơn các thầy cô Ban chủ nhiệm khoa Sau Đại
học trường Đại học Văn hóa Hà Nội đã tạo mọi điều kiện cho em được học
tập và rèn luyện trong 2 năm học vừa qua. Sau quá trình học tập và rèn luyện
tại trường, luận văn tốt nghiệp là kết quả của quá trình tích lũy kiến thức.
Em xin chân thành cảm ơn Tiến sĩ Trần Hữu Sơn đã giúp đỡ, chỉ bảo
em trong quá trình lựa chọn đề tài, xây dựng đề cương nghiên cứu cũng nhu
hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.
Xin chân thành cảm ơn phòng Di sản, phòng Nghiệp vụ Du lịch Sở
Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Lào Cai, cảm ơn UNBD xã San Sả Hồ và
UBND xã Lao Chải huyện Sapa, cảm ơn các trưởng làng, già làng, người
dân sinh sống tại hai làng Cát Cát xã San Sả Hồ và làng Lý Lao Chải đã tạo
mọi điều kiện thuận lợi, giúp đỡ để em thu thập thông tin, tiếp cận những tài
liệu quý báu để hồn thành luận văn tốt nghiệp này.
Nhờ có sự giúp đỡ q báu đó, em đã hồn thành luận văn tốt nghiệp
này. Tuy nhiên với lượng kiến thức còn hạn chế, chắc chắn luận văn này
khơng tránh khỏi cịn nhiều thiếu sót chinh vì vậy em rất mong nhận được
sự đóng góp, chỉ bảo của các thầy cơ và các bạn.
Hà Nội, ngày 28 tháng 04 năm 2013
Học viên

Tô Nguyễn Bích Ngọc


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1: Bảng thống kê trung bình độ tuổi của thơn Cát Cát ........ 30
Bảng 1.2: Bảng thống kê giới tính của thơn Cát Cát........................ 31
Bảng 1.3: Cư trú của dân tộc H’mông ở Lào Cai. ........................... 36
Bảng 1.4: Tình hình cư trú các làng người H’mơng. ....................... 37

Bảng 2.1: Số thế hệ trong gia đình ở làng Cát Cát và Lý Lao Chải. 56
Bảng 2.2: Vai trị của các thành viên trong gia đình. ...................... 58
Bảng 2.3: Những sản phẩm thường bán tại hai làng Cát Cát và Lý Lao
Chải. ............................................................................................................ 65
Bảng 2.4: Loại mặt hàng bán chạy nhất của người bán rong tại hai
làng Cát Cát và Lý Lao Chải. ..................................................................... 66
Bảng 2.5: Mục đích sử dụng nguồn thu nhập từ du lịch................... 67
Bảng 2.6: Ngun nhân trẻ em H’mơng lang thang ngồi thị trấn
Sapa .......................................................................................................79
Bảng 2.7: Đánh giá vai trò thu hút khách du lịch của người H’mông
tại Cát Cát và Lý Lao Chải. ........................................................................ 80
Bảng 2.8: Những yếu tố cản trở người H’mông tham gia vào du
lịch............................................................................................................... 81


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 7
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN – TỔNG QUAN VỀ BẢN CÁT CÁT, LÝ
LAO CHẢI ......................................................................................................... 16
1.1. Cơ sở lý luận ............................................................................................ 16
1.1.1. Bản sắc văn hóa .................................................................................. 16
1.1.2. Du lịch và du lịch văn hóa .................................................................. 20
1.1.3. Du lịch bền vững và phát triển du lịch bền vững ............................... 22
1.1.4. Làng và các thành tố của làng ............................................................ 23
1.2. Lý thuyết vận dụng ................................................................................. 26
1.2.1. Thuyết tương đối văn hóa ................................................................... 26
1.2.2. Thuyết biến đổi văn hóa ..................................................................... 28
1.3. Tổng quan về dân tộc H’Mơng .............................................................. 29
1.3.1. Khái quát về dân tộc H’mông ............................................................. 29
1.3.2. Tên gọi, ngôn ngữ và địa bàn sinh sống ............................................. 29

1.3.3. Lịch sử phát triển của dân tộc H’mông ở Việt Nam........................... 30
1.4. Tổng quan về bản Cát Cát và bản Lý Lao Chải................................... 35
1.4.1. Đặc điểm về tự nhiên .......................................................................... 35
1.4.2. Sự phân bố và đặc điểm cư dân ở bản Cát Cát và bản Lý Lao Chải .... 39
1.4.3. Đặc điểm về sinh hoạt kinh tế xã hội của các dân tộc sinh sống trong
bản Cát Cát và Lý Lao Chải ......................................................................... 41
CHƯƠNG 2: SỰ BIẾN ĐỔI VĂN HĨA H’MƠNG DƯỚI TÁC ĐỘNG CỦA
DU LỊCH ............................................................................................................ 47
2.1. Ảnh hưởng của sự phát triển du lịch tới văn hóa một số làng người
H’mông ở Sapa ............................................................................................... 47
2.1.1. Cảnh quan và nhà ở ............................................................................ 47
2.1.2. Trang phục và ngôn ngữ ..................................................................... 54
2.1.3. Gia đình .............................................................................................. 57
2.1.4. Thiết chế và sự vận hành của làng ...................................................... 62
2.1.5. Kinh tế ................................................................................................ 66
2.1.6. Phong tục tập quán và lối sống ........................................................... 73
2.2. Đánh giá ảnh hưởng của sự phát triển du lịch tới văn hóa một số làng
người H’mơng ở Sapa .................................................................................... 75
2.2.1. Tệ nạn xã hội ...................................................................................... 79
2.2.2. Nguy cơ thương mại hóa .................................................................... 80


2.2.3. Vấn đề trẻ em lang thang .................................................................... 84
2.2.4. Vấn đề những người bán rong ............................................................ 86
2.3. Nguyên nhân của sự ảnh hưởng............................................................. 88
2.3.1. Cơ chế chính sách phát triển du lịch của Đảng và nhà nước nói chung
và của tỉnh Lào Cai nói riêng ....................................................................... 88
2.3.2. Tiềm năng du lịch dồi dào và phong phú của địa phương.................. 90
2.3.4. Tâm lý và thói quen làm du lịch của người Việt Nam ....................... 93
2.3.5. Nhu cầu du lịch của khách du lịch trong nước và quốc tế có sự thay đổi 96

CHƯƠNG 3: BẢO TỒN VĂN HĨA H’MƠNG TRONG ĐIỀU KIỆN PHÁT
TRIỂN DU LỊCH ............................................................................................... 98
3.1. Một số giải pháp dành cho đồng bào dân tộc H’mơng nói riêng và đồng
bào dân tộc thiểu số ở Sapa nói chung ......................................................... 98
3.1.1. Khơi phục và phát triển văn hóa truyền thống của đồng bào dân tộc
thiểu số.......................................................................................................... 98
3.1.2. Hạn chế tác động tiêu cực của thương mại hóa trong các quan hệ xã hội
và văn hóa của đồng bào dân tộc thiểu số nói chung và của dân tộc H’mơng
nói riêng ........................................................................................................ 99
3.1.3. Xây dựng một số nhà nghỉ homestay mang sắc thái dân tộc tại một số
bản làng quanh thị trấn Sapa ...................................................................... 100
3.2. Một số giải pháp mang tính cơ chế chính sách của chính quyền địa
phương........................................................................................................... 101
3.2.1. Quy hoạch phát triển ........................................................................ 101
3.2.2. Cấp giấy phép đi thăm các bản làng người dân tộc và ngủ lại qua đêm
(homestay) .................................................................................................. 101

3.2.3. Tổ chức quản lý du lịch và xây dựng chính sách du lịch cộng
đồng .................................................................................................................... 101
3.2.4. Tuyên truyền giáo dục về du lịch – Đào tạo nguồn nhân lực du lịch
chuyên nghiệp phục vụ địa phương ............................................................ 104
3.2.5. Giải quyết vấn đề trẻ em lang thang ................................................. 105
3.2.6. Tổ chức bán hàng ở chợ cho người dân tộc thiểu số ........................ 106
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................... 108
PHỤ LỤC .................................................................Error! Bookmark not defined.


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài


1.1. Trong thời đại ngày nay, du lịch đã là một phần hoạt động không
thể thiếu được của đa số người dân, đặc biệt là người dân sống tại các nước
phát triển. Ngoài những lợi ích khơng thể phủ nhận được của du lịch như
đem lại nguồn thu nhập không nhỏ cho người dân tại vùng có du lịch, tạo cơ
hội việc làm cho nhiều lao động... thì sự phát triển nhanh chóng của du lịch
cũng mang đến khơng ít những tác động tiêu cực đến đời sống kinh tế xã hội.
Sự tác động này càng mạnh mẽ đối với các nước đang phát triển như Việt
Nam, đặc biệt là ở những tỉnh vùng cao biên giới nơi có nhiều đồng bào dân
tộc thiểu số sinh sống như tỉnh Lào Cai.
Trong thời kì hiện đại, sức lao động của con người đã được giải phóng.
Con người có nhiều thời gian dỗi hơn, nhiều của cải hơn để nghĩ đến sự
hưởng thụ, tái phục hồi lại sức lao động sau một thời gian lao động mệt nhọc.
Du lịch chính là cách để con người làm việc đó. Từ khi du lịch ra đời cho
đến nay có rất nhiều loại hình du lịch mới đã được con người ưu ái sử dụng
như: Du lịch nghỉ dưỡng, du lịch tham quan, du lịch chữa bệnh, du lịch tín
ngưỡng lễ hội, du lịch khám phá... Ngày nay, du lịch đã dần trở thành một
hoạt động không thể thiếu của con người. Thông qua du lịch con người được
nâng cao trình độ nhận thức, được tiếp xúc với các nền văn hố, cảnh quan
thiên nhiên từ đó giúp hình thành nhân cách của mỗi con người. Du lịch cịn
là một ngành cơng nghiệp khơng khói, trở thành nguồn thu chính của một số
nước.
Du lịch có chức năng xã hội, chức năng kinh tế, chức năng chính trị
tức là du lịch có vai trị thúc đẩy các ngành kinh tế xã hội phát triển, là một
trong những nhân tố củng cố hịa bình, thúc đẩy các mối quan hệ quốc tế.
Tuy nhiên bên cạnh đó, du lịch cũng có những tác động tiêu cực không nhỏ
tới đời sống kinh tế xã hội của đất nước nói chung và với một tỉnh vùng cao


biên giới như Lào Cai nói riêng. Du lịch gần như làm đảo lộn cuộc sống

thường nhật của người dân những vùng có tài ngun du lịch, thậm chí có
những hộ gia đình, những cá nhân bỏ cả cơng việc đồng áng, bỏ cả nghề
nghiệp để đổ xô vào kinh doanh và tham gia vào hoạt động du lịch khi thấy
ngành du lịch phát triển mặc dù kiến thức và hiểu biết về du lịch cịn ít và
kinh nghiệm làm du lịch chưa có. Tình trạng này dẫn đến việc làm du lịch
theo kiểu “ăn xổi”...
1.2. Việt Nam là một nước nằm ở vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa với
nhiều cảnh quan và hệ sinh thái điển hình, có hàng ngàn năm lịch sử dựng
nước và giữ nước với nền văn hóa đa dạng, giàu bản sắc của 54 dân tộc. Điều
đó đã tạo cho Việt Nam vốn tài nguyên cơ bản để phát triển kinh tế du lịch
và đặc biệt là phát triển du lịch văn hóa. Hướng phát triển bền vững của du
lịch, gìn giữ các giá trị tài ngun nhân văn, một loại hình đang có sức hấp
dẫn và là loại hình giữ vai trị chủ đạo trong phát triển du lịch Việt Nam trong
tương lai.
Nghiên cứu thực tiễn về nhu cầu của khách du lịch đến Việt Nam rất
hấp dẫn bởi những nét văn hóa của người dân tộc thiểu số miền núi. Đó chính
là những vùng, những khu vực, những làng/bản chưa bị nền văn minh cơng
nghiệp tác động đến. Nơi đó cịn lưu giữ nhiều giá trị vốn có như: khung
cảnh thiên nhiên, các khu sinh thái đầy sức hấp dẫn, các làng/bản với những
nếp nhà cổ, cùng với đó là các giá trị văn hóa tộc người: từ lối sống, nếp
sống, phong tục tập quán, trang phục, ẩm thực, lễ hội dân gian... đã thỏa mãn
nhu cầu tìm hiểu tính đa dạng văn hóa của nhân loại, nhu cầu trở về nguồn
gốc tự nhiên và lịch sử xã hội của con người.
1.3. Kinh nghiệm lịch sử và thực tiễn ở các vùng, điểm du lịch đã từng
được đưa vào để phục vụ hoạt động du lịch đã chứng minh được rằng: Hoạt
động du lịch là động lực để phát triển kinh tế và phục hưng các giá trị văn
hóa tộc người nhưng du lịch cũng làm mai một biến dạng văn hóa, gây ra


nhiều bất ổn nếu không được giải quyết thỏa đáng mối quan hệ giữa văn hóa

và phát triển du lịch bền vững. Giải pháp nào cho cộng đồng các tộc người
miền núi, những cộng đồng mà đời sống kinh tế cịn nghèo, trình độ dân trí
thấp vừa có thêm thu nhập để góp phần vào ổn định cuộc sống, lại vừa duy
trì và bảo nền văn hóa truyền thống cũng như mơi trường sống của họ là một
việc làm có tính cấp thiết.
1.4. Đối với Lào Cai nói riêng và Việt Nam nói chung, du lịch đã được
xác định trở thành một ngành dịch vụ mũi nhọn, ngành công nghiệp khơng
khói, là “con gà đẻ quả trứng vàng”.
Việt Nam, một đất nước vốn có truyền thống văn hóa lâu đời, lại là
một đất nước được thiên nhiên ưu đãi nhiều tài nguyên thiên nhiên phong
phú từ lâu đã trở thành điểm dừng chân yêu thích của khách du lịch bốn
phương. Định hướng phát triển du lịch như một ngành kinh tế mũi nhọn, xác
định đây chính là “con gà đẻ trứng vàng” cho nền kinh tế, Việt Nam đã có
nhưng chính sách đầu tư đúng đắn vào du lịch. Hàng loạt khu nghỉ dưỡng,
trung tâm du lịch, các điểm du lịch được đầu tư xây dựng. Các loại hình du
lịch mới cũng dần được Việt Nam áp dụng cho phù hợp với tình hình của
từng địa phương. Hình ảnh du lịch Việt Nam đã được quảng bá rộng khắp
trên toàn thế giới. Du lịch là một trong những ngành có định hướng tài
nguyên rõ rệt. Tài nguyên du lịch ảnh hưởng trực tiếp tới tổ chức lãnh thổ
của ngành du lịch, đến cấu trúc và chun mơn hố của vùng du lịch và hiệu
quả kinh tế của hoạt động du lịch. Điều này càng tạo cho Việt Nam những lợi
thế rõ rệt để phát triển du lịch.
Lào Cai là một tỉnh nằm chính giữa Tây Bắc và Đơng Bắc của tổ quốc,
với diện tích tự nhiên là 6.360 km2, dân số gần 600.000 nghìn người với 25
dân tộc anh em sinh sống tại 88 huyện và một thành phố. Lào Cai có biên
giới chung với tỉnh Vân Nam, Trung Quốc với cặp cửa khẩu quốc tế Lào Cai


– Hà Khẩu. Thiên nhiên ưu đãi cho Lào Cai một tiềm năng to lớn về khí hậu,
đất đai, tài nguyên..., đồng thời hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt,

đường thủy và sắp tới là hàng khơng góp phần khơng nhỏ giúp cho Lào Cai
có điều kiện khơng nhỏ trong việc giao lưu với các tỉnh, thành phố của Việt
nam và tỉnh Vân Nam, Trung Quốc.
Sa Pa là một huyện vùng cao ở Lào Cai, có 45.000 người dân. Trong
đó người H’Mơng chiếm 52% dân số. Sa Pa có 98 làng, thơn, bản trong đó
có 61 làng người H’Mơng. Du lịch Sa Pa được hình thành từ đầu thế kỷ 20
nhưng hơn 15 năm qua, du lịch Sa Pa mới phát triển khá mạnh. Năm 1992,
Sa Pa đón 5.000 lượt khách, đến năm 2005, Sa Pa đón 200.000 du khách,
trong đó có 63.333 khách quốc tế. Trong 9 tháng đầu năm 2006, có 190.000
lượt khách đến Sa Pa, trong đó khách quốc tế có gần 50.000 người của 81
nước và vùng lãnh thổ. Sa Pa trở thành một trong 15 trung tâm du lịch trọng
điểm của cả nước. Hầu hết khách du lịch quốc tế đến Sa Pa đều đến thăm các
bản làng. Vì vậy du lịch đã tác động mạnh mẽ đến nông thôn Sa Pa, nhất là
các làng người H’Mơng.
Trước những thực trạng và thách thức đó, việc cần thiết phải tìm hiểu,
đánh giá các tác động của du lịch đến văn hóa làng, nhất là các làng ở các
điểm du lịch phát triển với tốc độ chóng mặt như tại tỉnh Lào Cai là một vấn
đề cấp thiết và thiết thực, đặc biệt là các làng có tỉ lệ người dân tộc thiểu số
cao đến hơn 95 % như một số làng ở huyện Sapa – Trung tâm du lịch của
vùng Tây Bắc, Việt Nam lại càng trở lên đúng đắn. Vậy làm thế nào để du
lịch phát triển bền vững, tác động tích cực đến người dân nơi có tài nguyên
du lịch như tại huyện Sapa tỉnh Lào Cai là một vấn đề cấp bách. Bằng thực
tiễn cấp thiết của vấn đề, tác giả đã lựa chọn đề tài “Ảnh hưởng của việc phát
triển du lịch đến văn hóa một số làng người H’mơng ở Sapa, Lào Cai”
1.5. Bản thân tác giả là người con của địa phương, lại là một người
giáo viên giảng dạy bộ môn Du lịch tại Lào Cai. Hằng ngày tiếp xúc với các


em học sinh là người dân tộc thiểu số học cách làm du lịch và có nhiều cơ
hội đi làm việc tại các điểm du lịch nổi tiếng của địa phương thì hơn ai hết

tơi cảm nhận thấy những thay đổi, những tác động của du lịch tới cuộc sống
thường ngày của các em học sinh cũng như một bộ phận không nhỏ người
dân ở những khu vực này.
Đề tài “Ảnh hưởng của phát triển du lịch đến văn hóa người H’mông
ở Sapa, Lào Cai (qua nghiên cứu trường hợp bản Cát Cát và bản Lý Lao
Chải)” sẽ hướng tới giải quyết những vấn đề cấp thiết đã nêu ra.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực đề tài

Những cơng trình nghiên cứu thuộc lĩnh vực đề tài bước đầu được lựa
chọn gồm các nhóm tài liệu sau đây:
2.1. Các cơng trình nghiên cứu về văn hóa tộc người và dân tộc
H’mơng
Cho đến nay đã có rất nhiều cơng trình nghiên cứu và khai thác các
khía cạnh khác nhau về dân tộc H’mông. Tiêu biểu một số tác phẩm như Dân
tộc H’mông ở Việt Nam của hai tác giả Cư Hịa Vần, Hồng Nam. Cuốn sách
này được coi như là cuốn sách đặt vấn đề bản lề và then chốt về việc nghiên
cứu về dân tộc H’mông tuy nhiên do cuốn sách này đã xuất bản từ năm 1994
nên nhiều nội dung và thông tin chưa được cập nhật với tình hình hiện tại và
sinh hoạt đời sống của người H’mơng hiện nay.
Cuốn Văn hóa H’mơng của tác giả Trần Hữu Sơn đã khắc họa rất sâu
sắc rõ nét về đời sống, sinh hoạt, phương thức kinh tế và phong tục tập quán
của dân tộc H’mông ở tỉnh Lào Cai. Cuốn sách này là cơng trình nghiên cứu
đầy đủ và rõ nét nhất về dân tộc H’mông tại một tỉnh miền núi phía Bắc như
Lào Cai.
Ngồi hai tác phẩm trên cịn một số tác phẩm như: Người H’mơng và
tiếng nói của họ tác giả Phạm Đức Dương, Vị trí mối quan hệ giữa nhóm
H’mơng – Dao và các nhóm ngơn ngữ Đơng Nam Á của tác giả Phạm Đức


Dương, cuốn Các dân tộc ở vùng cao miền núi phía Bắc của tác giả Lã Văn

Lơ hay là cuốn Văn hóa bản làng truyền thống các dân tộc Thái, Mơng vùng
Tây Bắc Việt Nam của tác giả Hồng Lương... Các tác phẩm này đã nghiên
cứu hầu hết các nét đặc sắc của đồng bào dân tộc H’mông như nguồn gốc
tên gọi, lịch sử, văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần... Mặc dù đây là các
tác phẩm nghiên cứu chuyên sâu tuy nhiên các tác phẩm nghiên cứu về đời
sống thời kì hiện đại của người H’mơng cịn chưa nhiều, đặc biệt là nghiên
cứu về đời sống hiện đại của người dân tộc H’mông tại huyện Sapa tỉnh Lào
Cai thì chưa có tác giả nào nghiên cứu.
2.2. Các cơng trình nghiên cứu về du lịch và du lịch bền vững
Các cơng trình nghiên cứu về du lịch và du lịch bền vững tương đối
đa dạng và nhiều tác giả đề cập đến tiêu biểu như cuốn Tổng quan du lịch
của tác giả Trần Văn Thông gồm 11 chương, trong đó chương 6 với tiêu đề
Tác động của du lịch đến các lĩnh vực kinh tế - xã hội và môi trường đã đề
cập đến các tác động của du lịch đến các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa xã
hội và mơi trường. Đặc biệt trong cuốn giáo trình này, tác giả Trần Văn
Thơng đã đề cập đến một số giải pháp để hạn chế các tác động tiêu cực của
du lịch đến các vấn đề như kinh tế, xã hội và môi trường. Tuy nhiên do đây
là một giáo trình dùng để giảng dạy cho sinh viên các trường đại học nên các
vấn đề còn chưa thực sự được đề cập một cách sâu sắc và cụ thể.
Trong cuốn Du lịch bền vững của hai tác giả Nguyễn Đình Hịe và Vũ
Xn Hiếu đã đề cập đến vấn đề phát triển du lịch bền vững, giới thiệu mối
quan hệ giữa du lịch với mơi trường. Qua đó đưa ra các khái niệm, chính
sách, quy tắc phát triển du lịch bền vững. Đồng thời cuốn sách này cũng đề
cập đến việc khai thác phát triển du lịch theo hướng bền xững ở những vùng
sinh thái nhạy cảm như du lịch miền núi.
Ngồi ra cịn một số cuốn sách khác như Một số kinh nghiệm phát
triển du lịch bền vững ở Sapa của hai Đỗ Du Bắc, Nguyễn Đức Hoa Cương,


cuốn sách Thực trạng và những vấn đề đặt ra để phát triển du lịch bền vững

của Phạm Trung Lương. Qua các cơng trình nghiên cứu trên có thể thấy rằng,
hiện nay chưa có một cơng trình nghiên cứu nào đề cập 1 cách hệ thống và
logic hai vấn đề cơ bản có liên quan: Trước hết cần nhận diện một cách sâu
sắc về bản sắc và sự đa dạng văn hóa của các tộc người ở Việt Nam, xem xét
thực trạng phát triển du lịch và tác động của du lịch tới văn hóa của các tộc
người trên cả hai phương diện tích cực và tiêu cực. Điều căn bản ở đây là đề
ra các giải pháp nhằm bảo tồn sự đa dạng văn hóa trong phát triển du lịch bề
vững ở Sapa, Lào Cai.
2.3. Các cơng trình nghiên cứu sự ảnh hưởng của du lịch đến văn
hóa người H’mơng
Tiêu biểu nhất trong các cơng trình nghiên cứu về đề tài này có thể kể
đến tác phẩm Du lịch với dân tộc thiểu số ở Sapa của hai tác giả Phạm Thị
Mộng Hoa, Lâm Thị Mai Lan. Đây là một cơng trình nghiên cứu nổi tiếng
có giá trị về mặt khoa học và thực sự có ý nghĩa thực tiễn với huyện Sapa
tỉnh Lào Cai.
Cuốn sách này gần như là cơng trình nghiên cứu mới nhất, cụ thể và
sâu sắc nhất về ảnh hưởng của du lịch đến đời sống của người H’mông ở
Sapa, Lào Cai.
Trong nội dung cuốn sách này còn đề cập đến thực trạng và đề xuất
các giải pháp hạn chế ảnh hưởng của du lịch đến đời sống của người H’mông
tuy nhiên lại chú trọng vào đời sống kinh tế và xã hội của họ, ít đề cập đến
ảnh hưởng của du lịch đến văn hóa H’mơng.
Có thể thấy rằng vấn đề “Ảnh hưởng của phát triển du lịch đến văn
hóa người H’mơng ở Sapa, Lào Cai (qua nghiên cứu trường hợp bản Cát
Cát và Lý Lao Chải)” chưa có tác giả nào khai thác, nghiên cứu và ứng dụng
một cách cụ thể và sâu sắc.


Chính vì vậy, trên cơ sở kế thừa những nghiên cứu đã có, nghiên cứu
và phát triển sâu hơn về một mảng vấn đề, tôi quyết định chọn đề tài này.

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Ảnh hưởng của việc phát triển du lịch đến văn hóa H’mơng một số
làng ở Sapa, Lào Cai (nghiên cứu trường hợp bản Cát Cát và bản Lý Lao
Chải) để phát triển du lịch Sapa một cách bền vững.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu về du lịch Việt Nam và sự phát triển du lịch ở Sapa, Lào Cai.
- Tìm hiểu văn hóa một số làng người H’mơng ở Sapa, Lào Cai.
- Xem xét, đánh giá sự tác động của việc phát triển du lịch tới văn hóa
một số làng người H’Mông ở Sapa, Lào Cai
- Đề xuất giải pháp nhằm phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn
chế, khắc phục những ảnh hưởng tiêu cực đến văn hóa một số làng người
H’mơng ở Sapa, Lào Cai.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu
Văn hóa H’mơng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Làng Cát Cát, xã San Sả Hồ, huyện Sapa, tỉnh Lào Cai.
- Làng Lý Lao Chải, xã Lao Chải, huyện Sapa, tỉnh Lào Cai.
5. Phương pháp nghiên cứu

Đề tài sử dụng phương pháp luận Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí
Minh về văn hóa và bản sắc văn hóa, việc bảo tồn và phát huy bản sắc văn
hóa của các dân tộc thiểu số Việt Nam.


Đề tài sử dụng 04 phương pháp chính để thu thập thông tin và điều tra
về hai làng Cát Cát xã San Sả Hồ và làng Lý Lao Chải xã Lao Chải:

- Phương pháp quan sát tham dự: Quan sát ảnh hưởng của sự phát
triển du lịch tới văn hóa H’mông của hai làng này ở các yếu tố như nhà ở,
cảnh quan, kinh tế, trang phục, ngôn ngữ, gia đình, thiết chế xã hội của
làng và phong tục lối sống... Sau đó trực tiếp tham dự bằng cách ăn cùng,
ở cùng, sống cùng tại nhà của người H’mông tại hai làng này trong thời
gian 01 tháng.
- Phương pháp phỏng vấn và phỏng vấn sâu: Sử dụng phương pháp
phỏng vấn đối với 29 người kinh doanh bán hàng tại các cửa hàng, 26 khách
nước ngoài và 28 khách trong nước ở thị trấn Sapa, làng Cát Cát xã San Sả
Hồ và làng Lý Lao Chải xã Lao Chải. Sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu
đối với 26 trẻ em lang thang ở thị trấn Sapa, 27 người bán hàng rong và 7
hộ gia đình tại làng Cát Cát xã San Sả Hồ và làng Lao Chải xã Lao Chải.
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Kết hợp với phương pháp
phỏng vấn và phỏng vấn sâu, tôi kết hợp với phương pháp điều tra bằng bảng
hỏi với những đối tượng đã được phỏng vấn nhằm thu được những kết quả
chính xác hơn và hiệu quả hơn.
- Phương pháp thảo luận nhóm: Với hai làng Cát Cát và Lý Lao Chải,
mỗi làng có 8 người tham dự. Họ đều là chủ hộ gia đình thực tế hoặc là người
có ý kiến quan trọng trong gia đình.
6. Đóng góp dự kiến của đề tài

6.1. Về phương diện xã hội
- Đề tài đóng góp những luận cứ khoa học và có những giải pháp mang
tính khả thi nhằm bảo tồn sự đa dạng văn hóa các tộc người.
- Sau khi hồn thành đề tài đóng góp những quan điểm, những minh
chứng cụ thể về thực trạng phát triển du lịch ở hai bản Cát Cát và Lý Lao


Chải, huyện Sapa, tỉnh Lào Cai. Từ đó, đưa ra những giải pháp, những đề
xuất cụ thể để du lịch hai bản này nói riêng và Sapa nói chung có những

hướng phát triển du lịch văn hóa và du lịch tự nhiên sao cho bền vững nhất.
6.2. Đối với ngành văn hóa
- Sau khi hồn thành luận văn, tác giả hy vọng sẽ góp một phần nhỏ
cơng trình nghiên cứu này bổ sung vào nguồn tài liệu nghiên cứu về dân tộc
H’mơng ở Lào Cai nói chung và Sapa nói riêng, đặc biệt là mảng du lịch,
một trong những yếu tố hiện tại đang tác động mạnh mẽ nhất tới đời sống
của người H’mông không chỉ riêng tại huyện Sapa mà còn ở cả các huyện
phát triển du lịch khác ở Lào Cai. Qua đó đóng góp ý tưởng những giải pháp
tới những ảnh hưởng của việc phát triển du lịch tới văn hóa làng H’mơng
nhằm tăng cao những ảnh hưởng tích cực và hạn chế những ảnh hưởng tiêu
cực, giúp bảo tồn những nét văn hóa đặc sắc của dân tộc này, tạo điều kiện
cho du lịch bền vững tại Lào Cai có điều kiện phát triển mạnh mẽ.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục luận văn gồm ba phần chính:
- Chương 1: Cơ sở lý luận - Tổng quan về bản Cát Cát và Lý Lao Chải.
- Chương 2: Sự biến đổi của văn hóa H`mơng dưới tác động của du lịch.
- Chương 3: Bảo tồn văn hóa H`mơng trong điều kiện phát triển du lịch.
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN – TỔNG QUAN VỀ BẢN CÁT CÁT, LÝ LAO
CHẢI
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Bản sắc văn hóa

Trên thế giới, mỗi dân tộc đều có nền văn hóa của riêng mình bởi bên
cạnh những nhân tố khác, dân tộc ra đời cùng với sự hình thành nền tảng văn


hóa chung của cộng đồng; dân tộc phát triển nhờ có sự thúc đẩy của những
sáng tạo văn hóa tiếp theo; dân tộc hướng tới tương lai dưới ảnh hưởng của
ngọn đuốc văn hóa soi đường.

Nền văn hóa của dân tộc này khác với nền văn hóa của dân tộc kia là
ở những nét riêng độc đáo của nó, tạo thành bản sắc của chính nó.
Bản sắc là cái gốc, cái căn bản, cái lõi, cái hạt nhân của một vật (hiểu
theo nghĩa rộng bao gồm cả người, động thực vật, đồ vật và những khái niệm
biểu tượng). Sắc là cái thể hiện ra bên ngồi của vật đó. Vì thế khi nói đến
bản sắc văn hóa dân tộc tức là nói đến những giá trị gốc, căn bản, cốt lõi,
những giá trị hạt nhân của từng dân tộc được thể hiện qua đời sống hiện tại
của từng tộc người đó trên mọi kĩnh vực như văn hóa – kinh tế - xã hội (như
trong lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, sân khấu, hội họa, điêu khắc, kiến trúc, giáo
dục, quân sự, ngoại giao, kinh tế, trong sinh hoạt, giao tiếp, ứng xử hàng
ngày...)
Vậy bản sắc dân tộc và bản sắc văn hóa dân tộc là gì? Nội dung và
ý nghĩa của nó ra sao? Đây là một vấn đề rất quan trọng đã và đang được
nhiều nhà văn hóa học trong và ngoài nước nghiên cứu và bàn luận từ
nhiều thập kỉ qua.
Tác giả Hồng Trinh trong cơng trình nghiên cứu của mình về “Vấn
đề văn hóa và phát triển”, ông chủ yếu sử dụng thuật ngữ bản sắc dân tộc của
văn hóa. Theo ơng “bản sắc dân tộc của văn hóa hình thành và phát triển trên
cơ sở tinh thần và phát triển trên cơ sở tinh thần tự lực, tự cường, thường
xuyên thấy mọi sự nô dịch và áp đặt của ngoại lai”. Ông đưa ra định nghĩa
“Bản sắc dân tộc là tổng thể những tính chất, tính cách, đường nét, màu sắc
biểu hiện ở một dân tộc trong lĩnh vực tồn tại và phát triển, giữ cho dân tộc
đó giữ được tính duy nhất, tính thống nhất, tính nhất qn của bản thân mình
trong q trình phát triển. Bản sắc dân tộc thể hiện trong tất cả các lĩnh vực


đời sống: ý thức thuộc về một dân tộc, cách tư duy, cách sống, cách dựng
nước, giữ nước, cách sáng tạo trong văn hóa, khoa học, nghệ thuật ... Bản
sắc dân tộc phát triển theo những điều kiện xã hội – kinh tế , thể chế và chính
trị, nó cũng phát triển theo q trình xâm nhập văn hóa, trước hết là sự tiếp

nhận tích cực văn hóa từ bên ngoài vào.”
Khác với cách diễn đạt trên đây của tác giả Hồng Trinh, ngun Bộ
trưởng Bộ Văn hóa – Thơng tin Nguyễn Khoa Điềm cùng với cộng sự của
mình thì cho rằng: “có lẽ nên sử dụng thuật ngữ bản sắc văn hóa khi nói về
văn hóa của một dân tộc, một đất nước”. Các tác giả này định nghĩa như sau:
“bản sắc văn hóa dân tộc phải là sự tổng hòa các khuynh hướng cơ bản trong
sáng tạo văn hóa của một dân tộc, vốn được hình thành trong hệ thống thường
xuyên với điều kiện kinh tế, môi trường tự nhiên, các thể chế, các hệ tư
tưởng... trong quá trình vận động khơng ngừng của dân tộc đó. Bản sắc văn
hóa cịn là mối liên hệ thường xun, có định hướng của cái riêng (văn hóa
dân tộc) với cái chung (văn hóa khu vực, văn hóa nhân loại). Mỗi dân tộc
trong q trình giao lưu văn hóa sẽ cống hiến những gì đặc sắc của mình vào
kho tàng văn hóa chung, đồng thời tiếp nhận có chọn lọc các giá trị văn hóa
khác, nhào nặn thành giá trị của chính mình”.
Từ góc nhìn đa dạng văn hóa và đối thoại với các nền văn hóa thì tác
giả Phạm Xn Nam đã đưa ra khái niệm bản sắc văn hóa dân tộc như sau:
“Bản sắc văn hóa của một dân tộc được xem là tổng thể những nét đặc sắc
cả về nội dung lẫn hình thức biểu hiện của sản phẩm, các giá trị văn hóa vật
thể và phi vật thể mà cộng đồng dân tộc ấy đã sáng tạo ra trong điều kiện về
tự nhiên, xã hội và lịch sử của mình. Những sáng tạo này đóng vai trị là hệ
quy chiếu và bộ lọc cho kiểu kết hợp những giá trị văn hóa nội sinh và những
giá trị văn hóa ngoại sinh thơng qua tiếp xúc, giao lưu, đối thoại với với các
nền văn hóa khác trong khu vực và thế giới.”


Bản sắc văn hóa dân tộc là nét riêng biệt trong hình thái tồn tại của
một cộng đồng, hay cộng đồng ấy gắn kết với một hệ thống những giá trị đặc
thù riêng. Như vậy, văn hóa mang bản sắc dân tộc, yếu tố dân tộc là yếu tố
quyết định nhất của một nền văn hóa. Bản sắc văn hóa dân tộc là “quốc hồn”,
là sức sống nội sinh, là “căn cước” của một dân tộc để phân biệt dân tộc này

với dân tộc khác, từ đó có thể biểu hiện một cách trọn vẹn nhất sự hiện diện
của dân tộc mình trong quá trinh giao lưu và hội nhập. Để mất bản sắc văn
hóa dân tộc trong q trình hội nhập là đánh mất những giá trị văn hóa đặc
sắc riêng của nền văn hóa trên hành tinh này. Bản sắc văn hóa dân tộc có tính
ổn định riêng tính theo thước đo thời gian lịch sử. Nó khơng phải là cái gì
“sớm nở chiều tàn” đồng thời cũng khơng phải là cái gì “bất thành bất biến”.
Nó ln luôn vận động, thay đổi, dù khi nhanh khi chậm, lúc hưng lúc thịnh,
lúc suy tàn gắn với quá trình phát triển nội tại của mỗi dân tộc và giao lưu
quốc tế.
Trong quá trình vận động và thay đổi, nền văn hóa của khơng ít cộng
đồng dân tộc đã bị đồng hóa do nhiều nguyên nhân. Song cũng có nhiều dân
tộc khác phải đấu tranh với những thử thách nghiệt ngã mà vẫn không bị mất
gốc và biến mất. Mặc dù không tránh khỏi những yếu tố ngoại lai, nhưng
những yếu tố cơ bản trong “bộ gien văn hóa” dân tộc vẫn được kế thừa và
phát triển từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó là kết quả của vận động biện
chứng giữa dân tộc và quốc tế trong q trình bảo tồn và phát huy bản sắc
văn hóa của dân tộc. Như vậy giữa cái riêng của dân tộc và cái chung của thế
giới có mối quan hệ khăng khít với nhau.
Bản sắc dân tộc của văn hóa là cái giá trị đặc trưng tiêu biểu phản ánh
diện mạo cốt cách, phẩm chất và bản lĩnh riêng của mỗi nền văn hóa, là dấu
hiệu cơ bản để phân biệt nền văn hóa này với nền văn hóa khác. Bản sắc văn
hóa của dân tộc biểu hiện tập trung trong truyền thống văn hóa của dân tộc.
Truyền thống văn hóa là các giá trị văn hóa do lịch sử để lại, được các thế hệ


sau kế thừa và khai thác, phát huy trong thời đại của họ, tạo nên sự tiếp nối
lịch sử văn hóa.
Bản sắc văn hóa Việt Nam bao gồm những giá trị bền vững, những
tinh hoa của cộng đồng 54 dân tộc được vun đắp qua hàng ngàn năm lịch sử
đấu tranh dựng nước và giữ nước. Đó là lịng u nước nồng nàn, ý chí tự

lực, tự cường, ý thức cộng đồng, gắn kết cộng đồng, cá nhân, gia đình và xã
hội, sự nhân ái khoan dung, trọng nghĩa trọng tình, cần cù và sáng tạo trong
lao động, sự tinh tế trong ứng xử, giản dị trong lối sống. Bản sắc văn hóa dân
tộc là cơ sở để liên kết xã hội và liên kết thế hệ, tạo nên sức mạng tinh thần
dân tộc.
1.1.2. Du lịch và du lịch văn hóa

Việt Nam là nước được ghi nhận có thị trường du lịch tốt nhất khu
vực, trong đó có du lịch văn hóa. “Du lịch văn hóa bao gồm hoạt động của
những người có động cơ chủ yếu là nghiên cứu, khám phá về văn hóa như
các chương trình nghiên cứu tìm hiểu về nghệ thuật biểu diễn, về các lễ hội
và các sự kiện văn hóa khác nhau, thăm các di tích và đền đài, du lịch nghiên
cứu thiên nhiên, văn hóa hoặc nghệ thuật dân gian và hành hương”.
“Du lịch văn hóa là loại hình du lịch mà mục tiêu là khám phá những
di tích, di chỉ. Nó mang lại những ảnh hưởng tích cực bằng việc đóng góp
vào việc duy tu và bảo tồn. Loại hình này trên thực tế đã minh chứng cho
những nỗ lực bảo tồn và tôn tạo, đáp ứng nhu cầu của cộng đồng vì những
lợi ích văn hóa, kinh tế, xã hội.”
Theo luật du lịch thì: “Du lịch văn hóa là hình thức du lịch dựa vào
bản sắc văn hóa dân tộc với sự tham gia của cộng đồng nhằm bảo tồn và phát
huy các giá trị văn hóa truyền thống.”
Ví dụ như ở Hà Nội, tham quan du lịch Hồ Tây kết hợp với tham quan
đền Quán Thánh, chùa Trấn Quốc, chùa Kim Liên, phủ Tây Hồ... đầy đủ tam
giáo và tín ngưỡng dân gian. Đi du lịch Lào Cai vừa là lên Sapa, vừa tham


quan đền Thánh Trần ở sát biên giới, tham quan chợ Cốc Lếu... Bởi vậy, theo
tương đối luận văn hóa mọi ranh giới phân loại đều mong manh.
Lấy văn hóa làm điểm tựa, du lịch văn hóa mang sứ mệnh tơn vinh và
bảo vệ các giá trị văn hóa tốt đẹp của con người. Lấy du lịch làm cầu nối,

văn hóa được làm giàu thêm thơng qua sự tiếp xúc, tiếp biến và giao lưu, lan
tỏa, tiếp nhận và hội tụ tinh hoa văn hóa các dân tộc. Du lịch văn hóa khơng
chỉ đem lại lợi ích về kinh tế mà cịn góp phần giáo dục tình u tổ quốc,
thúc đẩy tích cực sự phát triển xã hội.
Con người sáng tạo ra văn hóa vì vậy mọi sản phẩm văn hóa đều thuộc
về con người. Sản phẩm văn hóa được sinh ra trước sản phẩm du lịch, một
sản phẩm du lịch trước hết phải là một sản phẩm văn hóa. Nó sẽ trở thành
sản phảm du lịch khi được sử dụng vào hoạt động du lịch kinh doanh du lịch
nhằm thỏa mãn các nhu cầu của du khách. Tất cả các sản phẩm du lịch là sản
phẩm văn hóa nhưng khơng phải mọi sản phẩm văn hóa đều là sản phẩm du
lịch. Nhiều sản phẩm văn hóa khơng được hay không thể khai thác kinh
doanh du lịch được. Xuất xứ là sản phẩm văn hóa nhưng sản phẩm du lịch
văn hóa mang nhiều, thạm chí là phần lớn các đặc trưng của sản phẩm du
lịch. Chúng đã trở thành hàng hóa để kinh doanh, đem lại lợi nhuận về kinh
tế.
Du lịch văn hóa được xem là hướng phát triển của ngành du lịch Việt
Nam, phù hợp với bối cảnh nước ta. Các điểm du lịch văn hóa ở nước ta chủ
yếu là khai thác các di tích lịch sử, di tích văn hóa, kiến trúc nghệ thuật biểu
diễn truyền thống, khu vực tổ chức lễ hội, làng nghề và ẩm thực truyền thống.
Du lịch văn hóa Việt Nam lơi cuốn khách du lịch quốc tế đặc biệt là ở các
bản làng dân tộc thiểu số, các khu di sản văn hóa thế giới và các hoạt động
du lịch văn hóa mang tính chất vùng – miền (du lịch Điện Biên, con đường
di sản miền Trung, lễ hội Đất phương Nam...)


Đã có các tour du lịch văn hóa chuyên đề, chủ yếu là đưa du khách
đến tham gia và tham quan lễ hội. Những tour kết hợp được nhiều hoạt động
như vừa tham dự lễ hội vừa tham quan và tìm hiểu lối sống, phong tục của
khu dân cư, cách thức tổ chức du lịch cộng đồng, nghiên cứu các di tích lịch
sử văn hóa cịn ít, các sản phẩm du lịch văn hóa này cịn chưa lơi cuốn được

du khách và cũng giới hạn đối tượng tham gia. Một số tour du lịch đã có
thương hiệu như: Con đường di sản miền Trung, con đường xanh Tây
Nguyên, các cố đô Việt Nam...
Với việc xác lập các cơ chế, chế tài phù hợp, nhà nước và nhân dân
tham gia vào sự nghiệp chống xuống cấp các di tích lịch sử văn hóa, xây
dựng và phát triển các bảo tàng.
Các di tích lịch sử văn hóa trong nước, các bảo tàng, các di sản văn
hóa thế giới ở Việt Nam đã, đang và sẽ trở thành các địa chỉ cụ thể của nguồn
lực phát triển kinh tế và đặc biệt là du lịch văn hóa.
1.1.3. Du lịch bền vững và phát triển du lịch bền vững

Hiện nay định nghĩa du lịch bền vững được biết đến nhiều hơn cả là
định nghĩa du lịch bền vững được nêu ra trong bản báo cáo của Bruntbland:
“phát triển bền vững chính là cố gắng đáp ứng nhu cầu của hôm nay mà
không làm tổn hại tới khả năng thỏa mãn nhu cầu của các thế hệ tương lai.”
Để không trở thành một khái niệm suông, khái niệm bền vững yêu cầu
thừa nhận và quan tâm tới các quan hệ căng thẳng không thể tránh khỏi giữa
ba phạm trù kinh tế, xã hội và môi trường.
Tiêu chí cần phải đưa theo định nghĩa phát triển bền vững có liên quan
tới khả năng tiếp cận.
Thực vậy chính tình trạng khơng có khả năng tiếp cận (hay khó khăn
trong khả năng tiếp cận) một số của cải nhất định (mang tính hàng hóa hay
khơng mang tính hàng hóa, vật thể hay phi vật thể) mà nghèo nàn nảy sinh.


Vì vậy trong viễn cảnh về tính bền vững của xã hội thì “nghèo nàn về khả
năng tiếp cận” là điều phân biệt đầu tiên cần phải quan tâm.
Rút ra ba tiêu chí của tính bền vững: khả năng tiếp cận của mọi người
với tổng thể các dịch vụ, việc củng cố khả năng các loại và tính cơng minh
trước tổng thể các tiềm năng hiện có và có thể chuyển giao được.

Về mặt quản lý môi trường một cách bền vững và bảo tồn tính đa dạng
sinh học, mối quan tâm đến các hiểu biết tự nhiên về địa phương ngày càng
tăng. Từ lâu những hiểu biết đó đã bị những khoa học chinh thống khinh
miệt. Những ứng dụng tương ứng của chúng đã bị coi thường dưới ánh mắt
của những người chủ trương kỹ thuật cầm quyền và thường bị coi là nguyên
nhân trầm trọng nhất dẫn đến tình trạng xuống cấp. Hiện nay tất cả đã được
phục hồi, thậm chí cịn được đánh giá q cao.
Hiện nay thuật ngữ di sản đã thu được thành công ngày càng lớn, cùng
với việc mở rộng nghĩa, thậm chí cịn có thể bị dùng quá ý nghĩa cần có.
Thừa nhận quy chế di sản một số đối tượng thiên nhiên tức là muốn trao cho
đối tượng hai đặc điểm cơ bản. Một mặt đối tượng phải được quản lý như
thế nào để đảm bảo có thể chuyển qua các thế hệ tiếp theo. Mặt khác phải
được coi là một nội dung của ý thức di sản nào đó: Quy chế khơng phải tự
ban mà là u sách của một nhóm xã hội.
1.1.4. Làng và các thành tố của làng

Làng là từ Nôm, được dùng trong giao tiếp hàng ngày, để chỉ đơn vị
tụ cư truyền thống của người Việt Nam ở nơng thơn, có địa vực riêng (địa
giới xác định), có cơ cấu tổ chức, tục lệ, thổ ngữ (thể hiện ở âm, giọng làng),
có tâm lý, tính cách riêng, ổn định và hồn chỉnh qua q trình lịch sử.
Văn hóa làng là những yếu tố văn hóa của tộc người Việt được thể
hiện và diễn biến trong môi trường làng. Ở vùng miền núi Tây Bắc trước đây,
quy mô làng của người H’mông nhỏ và phân tán. Mỗi làng chỉ có năm, bảy
nóc nhà cư trú rải rác ở các sườn núi cao. Mỗi làng chỉ có một vài chòm, mỗi


chịm chỉ có ba đến bốn ngơi nhà. Tuy nhiên quy mô làng của người H’mông
mấy chục năm qua đã có sự thay đổi nhanh chóng, các làng đều phát triển
với số hộ đông hơn trước rât nhiều. Vào nửa cuối của thế kỉ trước, các làng
của người H’mông đều có quy mơ từ từ 15 đến 30 hộ, có chịm có năm đến

bảy nóc nhà. Ngồi ra người H’mơng cịn coi trọng yếu tố địa lý, địa hình
bởi nó liên quan trực tiếp tới sự cư trú của làng. Đa số các làng thường tìm
mạch nước trên núi, ở nơi cịn rừng cao, bắc máng liên hồn dẫn nước về
hoặc tìm mạch nước dưới khe, gùi nước về nhà. Khi quyết định nơi ở thì
trưởng họ (các trưởng họ) có quyền quyết định cao nhất.
Cấu trúc làng của người H’mông gồm 3 thành tố cơ bản luôn chi phối
hiện hình và hịa quyện với nhau. Đó là gia đình, dịng họ và tộc người.
Mỗi làng H’mơng bao gồm một số hộ gia đình, là thiết chế xã hội, hạt
nhân của làng, chi phối diện mạo làng.
Trong một gia đình, mối quan hệ chủ yếu là mối quan hệ giữa vợ và
chồng, bố mẹ và con cái, trong đó vai trị của người đàn ơng là cực kì quan
trọng. Người chủ gia đình có quyền hành lớn, quyết định mọi việc trong gia
đình, mọi tài sản của gia đình trên danh nghĩa đều thuộc về người đàn ông.
Người đàn ông chủ gia đình trực tiếp lo toan các cơng việc như cưới hỏi cho
con cái, thờ cúng tổ tiên nhằm cầu cho gia đình được mạnh khỏe, làm ăn phát
đạt. Khi có chuyện gì quan trọng xảy ra, người chủ gia đình thường tỏ ra
sáng suốt, mọi quyết định của ông đều được các thành viên trong gia đình
đồng ý. Có thể nói, người đàn ơng là chủ gia đình có vị trí cao trong gia đình
và cả ngồi cộng đồng.
Cộng đồng gia đình chi phối cộng đồng làng. Dịng họ với những sự
cố kết trong dòng họ là đặc điểm nổi bật của xã hội H’mơng có 2 cấp độ khác
nhau: cấp độ rộng và cấp độ hẹp. Ở cấp độ rộng, dịng họ bao gồm nhiều gia
đình nhưng không nhất thiết phải cư trú gần nhau, thành viên trong dịng họ
dẫu có ở xa đến mấy cũng khơng bao giờ có quan hệ hơn nhân với nhau. Ở


phạm vi hẹp, dòng họ là một tập thể con cháu từ 3 đến 6 đời, gồm vài chục
hộ gia đình có chung ơng tổ cụ thể. Đó là một đơn vị cố kết cộng đồng theo
hệ cha. Các thành viên trong dòng họ gắn kết với nhau theo cùng một phả hệ
dịng nam và có một ơng tổ cụ thể mà có người cịn nhớ được. Sự thống nhất

về tư tưởng của dòng họ biểu hiện chung nhất về kí ức đối với ơng tổ chung.
Đặc điểm nổi bật của người H’mông là cư trú độc lập trong từng làng,
ít xem kẽ với các dân tộc khác chính vì vậy làng H’mơng mang đậm tính
chất khép kín tộc người, điều này cũng do nhiều nguyên nhân. Trước hết họ
có ý thức bảo tồn dân tộc rất cao nên chỉ quan hệ hôn nhân trong cùng tộc
người, không cư trú với người khác tộc. Mặt khác môi trường sống của người
H’mông xưa kia thường luôn giữ trong các môi trường biệt lập vùng cao,
diện quan hệ hạn chế, ít có cơ hội tăng cường giao lưu, hòa hợp cư dân khác
tộc với nhau.
Về mặt tổ chức, mỗi xã đều có một hoặc vài thơn, mỗi thơn có thể
được gọi là một “làng”, mỗi thơn đều có một trưởng thơn (trư giao). Họ là
những người có uy tín, am hiểu về phong tục tập qn, có trình độ... được
các thành viên trong làng họp bầu ra, xã phê duyệt làm người đứng đầu thơn
.Trưởng thơn trong làng có nhiệm vụ thực hiện các quy ước chung của làng,
tuyên truyền chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước tới toàn thể người
dân trong làng. Trưởng thơn có nhiệm vụ duy trì trật tự chung của làng như
phân bổ quy hoạch khu đất chôn người chết, quản lý chỉ đạo vệ sinh môi
trường đường làng, quy định việc khai thác rừng, chăn thả gia súc, bảo vệ
trật tự trị an... giúp đỡ người dân về công văn giấy tờ như xác minh người có
cơng với cách mạng. Giúp việc cho trưởng thơn cịn có phó thơn, an ninh
làng, đội bảo vệ xung kích của làng. Trưởng thơn làm tốt rất được lịng người
dân, là người có uy tín, có tiếng nói đối với bà con, luôn là người gương mẫu
đi đầu trong mọi phong trào.


×