Tải bản đầy đủ (.pdf) (84 trang)

Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh bắc ninh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 84 trang )

DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Thống kê các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù trong Phần các
tội phạm của BLHS 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017
Bảng 2.1. Thống kê áp dụng hình phạt chính tại Tịa án hai cấp tỉnh Bắc
Ninh từ năm 2016 đến năm 2020
Bảng 2.2. Thống kê áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù tại Tịa
án hai cấp tỉnh Bắc Ninh từ năm 2016 đến năm 2020
Bảng 2.3. Thống kê áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù theo
nhóm tội tại Tịa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh từ năm 2016 đến năm 2020


MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài ........................................................................................ 1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ......................................................... 2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ....................................................................... 6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................................ 6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ......................................................... 7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài ................................................................ 7
7. Kết cấu luận văn .................................................................................................... 7
PHẦN NỘI DUNG ....................................................................................................9
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT
VỀ CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ CĨ THỜI HẠN
...................................................................................................................................... 9
1.1 Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của các hình phạt chính nhẹ hơn hình
phạt tù có thời hạn. ................................................................................................ 9
1.1.1. Khái niệm các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn ..........9
1.1.2. Đặc điểm của các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn ...11
1.1.3. Ý nghĩa của các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn ......14
1.2. Khái qt lịch sử lập pháp hình sự về các hình phạt chính nhẹ hơn hình
phạt tù có thời hạn. .............................................................................................. 15


1.2.1. Khái qt về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong
pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ 1945 đến trước khi có BLHS năm
1985 .................................................................................................................15
1.2.2. Khái qt về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong
BLHS năm 1985 (sửa đổi, bổ sung vào năm 1989, 1991, 1992, và 1997- sau
đây gọi tắt là BLHS năm 1985) ......................................................................19
1.2.3. Khái qt về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong
BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009 - sau đây gọi tắt là BLHS năm
1999) ...............................................................................................................21
1.3. Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn theo quy định của
BLHS Việt Nam năm 2015 .................................................................................. 24
1.3.1. Hình phạt cảnh cáo................................................................................26


1.3.2. Hình phạt tiền ........................................................................................28
1.3.3. Hình phạt cải tạo khơng giam giữ .........................................................31
1.3.4. Hình phạt trục xuất................................................................................36
Tiểu kết chương 1 ................................................................................................. 39
Chương 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH NHẸ HƠN
HÌNH PHẠT TÙ CĨ THỜI HẠN TẠI TỈNH BẮC NINH VÀ CÁC GIẢI
PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG CÁC HÌNH PHẠT NÀY ............ 41
2.1. Tình hình áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn
tại tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020 ................................. 41
2.1.1. Khái quát một số đặc điểm kinh tế, chính trị, xã hội của tỉnh Bắc Ninh
.........................................................................................................................41
2.1.2. Thực tiễn áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn
tại tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020 ................................ 42
2.2. Những vướng mắc, bất cập tồn tại trong quá trình áp dụng các hình
phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh..................... 56
2.2.1. Những vướng mắc về pháp luật hình sự trong quá trình áp dụng các

hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh ..............56
2.2.2. Những vướng mắc, tồn tại khác trong thực tiễn áp dụng các hình phạt
chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn ...........................................................60
2.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn
hình phạt tù có thời hạn ...................................................................................... 64
2.3.1. Các giải pháp hoàn thiện BLHS năm 2015...........................................64
2.3.2. Các giải pháp khác ................................................................................68
Tiểu kết chương 2 ................................................................................................. 73
KẾT LUẬN ..............................................................................................................73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................. 75
PHỤ LỤC LUẬN VĂN ........................................................................................... 79


PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tồn cầu hóa là một xu thế tất yếu, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt
Nam, nước ta đã tham gia tích cực vào q trình tồn cầu hóa và đạt được nhiều kết
quả đáng ghi nhận, đặc biệt là sự phát triển về kinh tế. Tại Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ IX, Đảng ta đã khẳng định “Tồn cầu hóa kinh tế là xu thế khách
quan, lơi cuốn càng nhiều nước tham gia, vừa có mặt tích cực vừa có mặt tiêu cực,
vừa có hợp tác vừa có đấu tranh…Thế giới đứng trước nhiều vấn đề tồn cầu mà
khơng thể một quốc gia riêng lẻ nào có thể tự giải quyết mà khơng có sự hợp tác đa
phương” [12, tr.617]. Tuy nhiên, kinh tế càng phát triển thì xã hội lại càng xảy ra
nhiều vấn đề nhức nhối, đặc biệt là sự diễn biến phức tạp của tình hình tội phạm.
Luật hình sự là một trong những cơng cụ sắc bén, hữu hiệu để đấu tranh phịng ngừa
và chống tội phạm, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an tồn xã hội, bảo vệ lợi ích
của Nhà nước, của các tổ chức và của công dân, góp phần quan trọng vào sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa. Nếu nói Luật hình sự là cơng cụ để đấu tranh, phịng ngừa tội phạm thì hình
phạt lại là cơng cụ để đảm bảo tính giáo dục, răn đe ở mức độ cao đối với người

phạm tội và là một chế tài nghiêm khắc, một chế định cơ bản của luật hình sự. Hình
phạt là trách nhiệm pháp lý thể hiện sự lên án và sự trừng trị của Nhà nước mà
người phạm tội phải gánh chịu đối với những hành vi phạm tội do mình gây ra. Hệ
thống hình phạt trong luật hình sự Việt Nam bao gồm các hình phạt chính và các
hình phạt bổ sung. Trong đó, các hình phạt chính là biện pháp cơ bản có tính chất
quyết định của hình phạt, cùng với hình phạt bổ sung làm tăng thêm hiệu quả trong
cơng tác đấu tranh phịng chống tội phạm. Trong các hình phạt chính, các hình phạt
chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn có vai trị đắc lực trong việc thể hiện và phát
huy nguyên tắc cá thể hố hình phạt, từ đó thực hiện một cách tốt nhất nguyên tắc
công bằng trong xử lý tội phạm. Các hành vi phạm tội có tính chất, mức độ nguy
hiểm khác nhau thì mức xử lý cũng phải khác nhau.

1


Để đạt được hiệu quả trong cơng tác phịng chống tội phạm trong giai đoạn
hiện nay và cũng để thể hiện sự tôn trọng tinh thần của các điều ước quốc tế đặc biệt
là các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, đồng thời
phù hợp với xu hướng chung của thế giới, Bộ luật hình sự năm 2015 đã có một số
thay đổi so với Bộ luật hình sự năm 1999, trong đó có các quy định về các hình phạt
chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn. Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng, các Tòa
án mà cụ thể là Hội đồng xét xử khi quyết định áp dụng các hình phạt chính nhẹ
hơn hình phạt tù có thời hạn cũng còn gặp nhiều vướng mắc cũng như vẫn còn tồn
tại một số thiếu sót trong hoạt động, từ đó ảnh hưởng nhất định đến việc áp dụng có
hiệu quả các hình phạt này.
Vì vậy, nghiên cứu đánh giá một cách tổng thể các quy định của Bộ luật hình
sụ về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn, tìm ra những điểm bất
cập thơng qua việc tìm hiểu thực tiễn từ địa phương nơi mình cơng tác là TAND
tỉnh Bắc Ninh, từ đó đưa ra đề xuất nhằm hoàn thiện các quy định này là vấn đề cấp
thiết. Vì lẽ đó, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù

có thời hạn từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh” làm luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn có vai trị quan trọng
trong luật hình sự Việt Nam, vì vậy, đã có nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học ở
những mức độ khác nhau nghiên cứu về hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có
thời hạn, điển hình một số cơng trình như sau:
* Về sách chuyên khảo, sách bình luận và giáo trình có các cơng trình sau:
1) GS.TS. Nguyễn Ngọc Hịa, “Trách nhiệm hình sự và hình phạt”, NXB Công an
nhân dân, Hà Nội, 2001;
2) Ths. Đinh Văn Quế, “Tìm hiểu tội phạm và hình phạt trong Luật hình sự Việt
Nam”, NXB Phương Đông, 2010;

2


3) PGS.TS. Trịnh Tiến Việt, “Hoàn thiện các quy định của phần chung Bộ luật
hình sự trước yêu cầu mới của đất nước”, NXB Chính trị quốc gia, Hà
Nội,2012;
4) PGS.TS. Trịnh Tiến Việt, “Tội phạm và trách nhiệm hình sự”, NXB Chính trị
Quốc gia, Hà Nội, 2013;
5) PGS.TS Trịnh Quốc Toản, “Nghiên cứu hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam
dưới góc độ bảo vệ quyền con người”, NXB Chính trị quốc gia, 2015;
6) GS.TS Nguyễn Ngọc Hịa, “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 2015 sửa
đổi bổ sung năm 2017 phần chung”, NXB Tư Pháp, 2017;
7) PGS.TS Nguyễn Thị Phương Hoa – TS. Phan Anh Tuấn, “Bình luận khoa học
những điểm mới của Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017”,
NXB Hồng Đức, 2017;
8) TS Lê Trung Kiên, “Hệ thống hình phạt trong Luật hình sự Việt Nam và Trung
Quốc”, NXB Tư Pháp, 2018.
Ngồi các sách chun khảo, bình luận nói trên cịn có Giáo trình Luật hình

sự Việt Nam của các cơ sở đào tạo về luật như Trường Đại học Luật Hà Nội, Khoa
Luật Đại học quốc gia Hà Nội, Học viện Tịa án… đều có đề cập đến các hình phạt
chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn.
*Về luận án Tiến sĩ và luận văn Thạc sĩ luật học có các cơng trình sau:
1) Lê Văn Hường, “Các hình phạt chính trong Luật hình sự Việt Nam”, luận văn
thạc sĩ luật học, Đại học Luật Hà Nội, 2000;
2) Nguyễn Sơn, “Các hình phạt chính trong Luật hình sự Việt Nam”, luận án tiến
sĩ luật học, Viện Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội, 2003;
3) Phạm Thị Hiền, “Hình phạt cải tạo khơng giam giữ trong Luật hình sự Việt
Nam”, luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2007;
4) Lê Thị Trúc Quỳnh, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt trục xuất
theo Luật hình sự Việt Nam”, luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật Đại học Quốc
gia Hà Nội, 2010;
5) Lê Khánh Hưng, “Các hình phạt khơng tước tự do trong luật hình sự Việt
Nam”, luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật Đại học quốc gia Hà Nội, 2010;
3


6) Đinh Thị Hoài Phương, “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về hình phạt cảnh
cáo theo Luật hình sự Việt Nam”, luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật Đại học
Quốc gia Hà Nội 2010;
7) Lê Thanh Hùng, “Hình phạt cải tạo khơng giam giữ theo Luật hình sự Việt Nam
và thực tiễn áp dụng tại địa bàn tỉnh Thanh Hóa”, luận văn thạc sĩ luật học,
Khoa luật Đại học Quốc gia Hà Nội, 2014;
8) Nguyễn Minh Kh, “Các hình phạt chính khơng tước tự do trong luật hình sự Việt
Nam”, luận án tiến sĩ Luật học, Viện khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội, 2014;
9) Phùng Thị Hải Ngọc, “Hình phạt tiền trong Luật hình sự Việt Nam” luận văn
thạc sĩ luật học, Khoa luật Đại học Quốc gia, Hà Nội 2015;
10) Nông Thế Chiến, “Các hình phạt chính khơng tước tự do theo Luật hình sự Việt
Nam”, luận văn thạc sĩ luật học, Khoa luật Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2016;

11) Nguyễn Minh Tuấn,“Hình phạt trục xuất trong Luật hình sự Việt Nam”, luận
văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật thành phố Hồ Chí Minh, Tp Hồ Chí
Minh, 2017;
12) Phạm Ngọc Tồn, “Hình phạt cải tạo khơng giam giữ theo quy định của Bộ luật
hình sự năm 2015”, luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà
Nội, 2019;
13) Nguyễn Việt Xơ, “Hình phạt tiền theo quy định của Bộ luật Hình sự năm
2015”, luận văn thạc sĩ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội, Hà Nội, 2019.
*Về các bài viết đăng trên Tạp chí khoa học có các cơng trình sau:
1) Dương Tuyết Miên, “Hồn thiện các quy định của pháp luật về hình phạt chính
nhẹ hơn hình phạt tù”, Tạp chí Tịa án nhân dân , số 19/2008;
2) Lê Văn Cảm, Trịnh Tiến Việt, “Thực trạng các quy định của pháp luật hình sự
Việt Nam về hệ thống hình phạt và phương hướng hồn thiện”, Tạp chí khoa học
ĐHQGHN, Kinh tế - Luật 24 (2008);
3) Đỗ Văn Chỉnh, “Hình phạt tiền và thực tiễn áp dụng”, Tạp chí Tịa án nhân dân
, số 05/2009;
4) Nguyễn Văn Trượng, “Một số vấn đề rút ra từ thực tiễn áp dụng hình phạt cải
tạo khơng giam giữ”, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 04/2009;
4


5) Trịnh Quốc Toản, “Một số vấn đề lý luận về hình phạt trong Luật hình sự”, Tạp
chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học 27 (2011);
6) Lý Văn Tầm, “Hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự về hình phạt cải
tạo khơng giam giữ”, Tạp chí kiểm sát nhân dân, số 13/2013;
7) Nguyễn Minh Kh, “Hiệu quả của các hình phạt chính trong hệ thống hình
phạt của Việt Nam – đánh giá dưới góc độ chi phí xã hội”, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, số 01/2014;
8) Dương Tuyết Miên, “Về phạt tiền và cải tạo khơng giam giữ”, Tạp chí Luật học
số 03/2015;

9) Nguyễn Thị Ánh Hồng, “Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về các hình
phạt chính khơng tước tự do”, Tạp chí Khoa học pháp lý, số 08/2015;
10) Nguyễn Thị Ánh Hồng, “Một số thành công và hạn chế trong quy định của Bộ
luật hình sự năm 2015 về các hình phạt chính khơng tước tự do”, Tạp chí Khoa
học pháp lý, 2016;
11) Nguyễn Nhật Khanh, Nguyễn Phương Thảo, Trần Văn Thượng, “Hình phạt
trục xuất trong Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017): Một số
bất cập và kiến nghị hồn thiện”, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, 2018;
12) Nguyễn Phương Thảo, “Bất cập và hướng hồn thiện các quy định pháp luật về
hình thức xử phạt trục xuất”, Tạp chí Khoa học pháp lý, 2019;
13) Dương Thị Hồng Thuận,“Hoàn thiện quy định về một số loại hình phạt chính
tại phần chung của Bộ Luật Hình sự Việt Nam năm 2015”, Tạp chí Pháp luật và
thực tiễn, 2019;
14) Đinh Văn,“Bộ luật Hình sự đã quy định, nhưng vì sao hình phạt tiền vẫn ít
được áp dụng?”, tạp chí Khoa học Pháp lý, 2020.
Qua nghiên cứu, có thể thấy rằng, đến thời điểm hiện nay, các cơng trình
khoa học nói trên là các tài liệu quý, đã gợi mở cho tác giả luận văn nhiều ý tưởng
trong quá trình nghiên cứu đề tài. Tuy nhiên, trong các nghiên cứu trên cho đến nay,
vẫn chưa có cơng trình nào nghiên cứu một cách hệ thống, tồn diện về các hình
phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn theo quy định của BLHS Việt Nam năm
2015 và thực tiễn áp dụng các hình phạt này tại tỉnh Bắc Ninh dưới cấp độ luận văn

5


Thạc sĩ, chỉ ra các tồn tại, vướng mắc trong thực tế, từ đó đưa ra đề xuất hồn thiện
quy định về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn. Do vậy, việc
nghiên cứu các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn từ thực tiễn tỉnh
Bắc Ninh là rất cần thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích của luận văn là nghiên cứu các quy định của BLHS năm 2015 về
các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn, tìm ra vướng mắc trong quá
trình áp dụng từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh, từ đó luận văn đưa ra những giải pháp
nhằm hoàn thiện các quy định về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời
hạn trong Bộ luật hình sự Việt Nam, cũng như đề xuất những giải pháp nâng cao
hiệu quả của các hình phạt này trong thực tiễn áp dụng.
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu, luận văn tập trung làm rõ những nội dung
nghiên cứu sau:
- Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận về các hình phạt chính nhẹ hơn hình
phạt tù có thời hạn;
- Phân tích quy định của BLHS năm 2015 về các hình phạt chính nhẹ hơn
hình phạt tù có thời hạn;
- Nghiên cứu về thực tiễn áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù
có thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh;
- Làm rõ những vướng mắc cịn tồn tại trong q trình áp dụng các hình phạt
đó từ thực tiễn tỉnh Bắc Ninh;
- Đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các hình phạt này trong
thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là quy định của BLHS năm 2015 về các
hình phạt chính nhẹ hơn phạt tù có thời hạn, thực tiễn áp dụng các hình phạt này tại
tỉnh Bắc Ninh.
Luận văn nghiên cứu dưới góc độ Luật hình sự, chủ yếu nghiên cứu các quy
định của BLHS Việt Nam 2015 về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời
6


hạn và nghiên cứu thực tiễn áp dụng các hình phạt đó tại tỉnh Bắc Ninh. Do việc áp
dụng các hình phạt chính chỉ được thực hiện trong giai đoạn xét xử khi quyết định
hình phạt của Hội đồng xét xử nên phần thực tiễn áp dụng, tác giả cũng chỉ nghiên

cứu thực tiễn áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong
q trình xét xử tại hệ thống Tòa án hai cấp tỉnh Bắc Ninh.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Tác giả đã sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp quyền để nghiên
cứu đề tài.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn là phương
pháp phân tích tổng hợp; phương pháp so sánh, phương pháp thống kê…để tổng
hợp và làm sáng tỏ các tri thức khoa học hình sự và luận chứng các vấn đề nghiên
cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
Đây là cơng trình nghiên cứu khoa học đề cập tương đối hệ thống và tồn
diện về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong BLHS năm
2015. Luận văn phân tích các khái niệm, đặc điểm, mục đích, điều kiện áp dụng về
các hình phạt này, bảo đảm tính chính xác, khoa học, đồng thời cũng chỉ ra các đặc
điểm cơ bản của các hình phạt này.
Kết quả nghiên cứu mà luận văn đạt được góp phần tăng cường việc áp dụng và
nâng cao chất lượng trong việc áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có
thời hạn trong thực tiễn xét xử. Là tài liệu tham khảo cần thiết trong việc nghiên cứu,
hồn thiện các quy phạm pháp luật hình sự về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù
có thời hạn cũng như làm tư liệu tham khảo cho sinh viên, học viên cao học và nghiên
cứu sinh chuyên ngành Luật hình sự tại các cơ sở đào tạo luật trong cả nước.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm
2 chương:

7


Chương 1: Một số vấn đề lý luận và quy định của pháp luật về các hình

phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của các hình phạt chính nhẹ hơn hình
phạt tù có thời hạn
1.2. Khái qt lịch sử lập pháp hình sự về các hình phạt chính nhẹ hơn hình
phạt tù có thời hạn
1.3. Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn theo quy định của
BLHS Việt Nam năm 2015
Tiểu kết chương 1
Chương 2: Thực tiễn áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù
có thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh và các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các
hình phạt này
2.1. Tình hình áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn
tại tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020
2.2. Những vướng mắc, bất cập tồn tại trong quá trình áp dụng các hình phạt
chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn tại tỉnh Bắc Ninh
2.3. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn
hình phạt tù có thời hạn
Tiểu kết chương 2

8


PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VỀ CÁC HÌNH PHẠT CHÍNH NHẸ HƠN HÌNH PHẠT TÙ CĨ THỜI
HẠN
1.1. Khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của các hình phạt chính nhẹ hơn
hình phạt tù có thời hạn
1.1.1. Khái niệm các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn
Hiện nay, khái niệm các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn

chưa được ghi nhận trong pháp luật hình sự Việt Nam. Để hiểu được khái niệm này
thì trước hết cần phải hiểu khái niệm hình phạt.
Trong lĩnh vực khoa học luật hình sự, hình phạt là một trong những đối
tượng nghiên cứu chủ yếu, trong đó việc làm sáng tỏ khái niệm hình phạt là một vấn
đề hết sức quan trọng. Ở Việt Nam, trên cơ sở tiếp thu những thành tựu của khoa
học luật hình sự trên thế giới và yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm của nước
ta, các nhà nghiên cứu Luật hình sự đã đưa ra những quan niệm về hình phạt như
sau:
“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nhà nước nghiêm khắc nhất được quy
định trong Luật hình sự, do Tịa án áp dụng cho chính người đã thực hiện tội phạm,
nhằm trừng trị và giáo dục họ, góp phần vào việc đấu tranh phòng và chống tội
phạm, bảo vệ chế độ và trật tự xã hội cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của
cơng dân”[14].
“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất do luật quy định được
Tòa án nhân dân nhân danh Nhà nước quyết định trong bản án đối với người có lỗi
trong việc thực hiện tội phạm và được thể hiện ở việc tước đoạt hoặc hạn chế các
quyền và lợi ích do pháp luật quy định đối với người bị kết án”[45].
Có thể thấy, các khái niệm trên đều thống nhất với nhau ở nội hàm, hình phạt
là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của nhà nước do Tòa án áp dụng có nội
dung tước bỏ hoặc hạn chế quyền và lợi ích của người phạm tội nhằm mục đích
giáo dục, cải tạo và trừng trị người phạm tội và phòng ngừa chung. Điều này là phù

9


hợp với khái niệm pháp lý về hình phạt được quy định tại Điều 30 BLHS năm
2015:“Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước được quy
định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối với người hoặc pháp
nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người,
pháp nhân thương mại đó.”

Trong luật hình sự Việt Nam, hệ thống hình phạt bao gồm hình phạt chính và
hình phạt bổ sung trong đó các hình phạt chính đóng vai trị trụ cột trong việc trừng
trị, cũng như cải tạo giáo dục người phạm tội, cịn các hình phạt bổ sung đóng vai
trị hỗ trợ cho hiệu lực của các hình phạt chính. Việc BLHS quy định các hình phạt
có mức độ nghiêm khắc khác nhau nhằm tạo điều kiện cho Toà án tuỳ từng trường
hợp phạm tội cụ thể để lựa chọn hình phạt tương xứng với tính chất, mức độ nguy
hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội. Hình phạt được quy định trong mỗi khung
hình phạt chính là sự phản ánh tính chất và mức độ nguy hiểm của tội phạm được
quy định cũng như yêu cầu của cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm đối với tội đó.
“Một hệ thống hình phạt có nhiều hình phạt khác nhau thì việc xử lý càng chính xác
và do vậy càng tiến gần tới mục đích của hình phạt…”. [20, tr.271]
Về bản chất, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trước hết
cũng mang những đặc điểm của hình phạt nói chung nhưng nó cũng mang đặc điểm
riêng của mình thể hiện ở chỗ các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn
tuy là những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của nhà nước nhưng tính chất
nghiêm khắc này nhẹ hơn so với hình phạt tù có thời hạn (cũng như tù chung thân,
tử hình), khơng tước tự do của người bị kết án và chỉ áp dụng đối với cá nhân người
phạm tội. Vai trị của các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn rất có ý
nghĩa. Nó khơng chỉ thể hiện chính sách nhân đạo của nhà nước ta mà cịn góp phần
thể hiện tốt ngun tắc cá thể hố hình phạt. “Bởi vậy, khi quyết định hình phạt đối
với những trường hợp phạm tội cụ thể, trong một số trường hợp, nếu áp dụng hình
phạt tù với họ thì quá nặng và khơng thể đạt được mục đích của hình phạt. Trong
những trường hợp này, nếu xét thấy không cần cách ly người phạm tội ra khỏi đời
sống xã hội thì Tịa án có thể xem xét để họ được cải tạo, giáo dục trong môi trường
cộng đồng”[20, tr.271].
10


Trên cơ sở phân tích nêu trên, có thể hiểu khái niệm các hình phạt chính nhẹ hơn
hình phạt tù có thời hạn như sau:

Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn là những biện pháp
cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước được áp dụng đối với người phạm tội, có
mức độ nghiêm khắc thấp hơn hình phạt tù có thời hạn, được BLHS quy định và do
Tòa án quyết định áp dụng nhằm tước bỏ, hạn chế quyền, lợi ích của người phạm
tội.
1.1.2. Đặc điểm của các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời
hạn
Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn cũng là hình phạt nên
trước hết, nó mang đầy đủ các đặc điểm của hình phạt. Bên cạnh đó, nó cịn có một
số đặc điểm riêng để phân biệt giữa các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có
thời hạn với các hình phạt chính khác.
Thứ nhất, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn cũng có
những đặc điểm chung của hình phạt. Cụ thể như sau:
+ Là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước (tước bỏ hoặc hạn
chế quyền và lợi ích của người phạm tội).
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước, tức là
khơng có một chế tài nào nghiêm khắc hơn hình phạt. Tính nghiêm khắc nhất của
hình phạt thể hiện ở nội dung tước bỏ, hạn chế quyền và lợi ích của người bị kết án
như quyền sở hữu, quyền tự do và có thể cả quyền sống của con người…Các hình
phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn do là hình phạt, nên cũng mang tính
cưỡng chế nghiêm khắc, thể hiện ở chỗ nó có thể gây tổn thất về tinh thần cho
người bị kết án (cảnh cáo), hoặc tước bỏ hoặc hạn chế lợi ích kinh tế của họ (phạt
tiền); hoặc buộc họ phải cải tạo tại cộng đồng dưới sự giám sát của cơ quan có thẩm
quyền (cải tạo không giam giữ) hoặc buộc họ phải rời khỏi lãnh thổ Việt Nam trong
thời hạn nhất định (trục xuất). Bên cạnh đó, người bị kết án hình phạt trên cịn chịu
án tích.

11



Khi xem xét, so sánh riêng lẻ giữa một số hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt
tù có thời hạn với một số hình phạt bổ sung và với một số biện pháp cưỡng chế
khơng phải cưỡng chế hình sự, chúng ta cũng không thể phủ nhận một thực tế rằng
một số hình phạt bổ sung hoặc một số biện pháp cưỡng chế khơng phải cưỡng chế
hình sự cho thấy mức độ nghiêm khắc có thể cao hơn một số hình phạt chính nhẹ
hơn hình phạt tù có thời hạn, ví dụ hình phạt cảnh cáo với tư cách là hình phạt chính
so với hình phạt tiền với tư cách là hình phạt bổ sung hoặc với tư cách là hình thức
xử lý hành chính. Tuy nhiên, nhìn một cách tổng thể thì các hình phạt chính nhẹ
hơn hình phạt tù có thời hạn vẫn là biện pháp cưỡng chế Nhà nước nghiêm khắc
hơn so với các biện pháp cưỡng chế nhà nước khơng phải cưỡng chế hình sự và so
với hình phạt bổ sung. Sự nghiêm khắc hơn của hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt
tù có thời hạn thể hiện ở chỗ các hình phạt này, dù nặng hay nhẹ khi được áp dụng
đều dẫn đến hậu quả pháp lý là người bị kết án phải chịu án tích trong một khoảng
thời gian nhất định theo quy định pháp luật, hậu quả pháp lý của án tích nặng nề
hơn các chế tài khác.
+ Được quy định trong BLHS và do Toà án quyết định áp dụng bằng bản án
kết tội có hiệu lực pháp luật.
Khoản 1 Điều 2 BLHS năm 2015 có quy định:“Chỉ người nào phạm một tội
đã được Bộ luật hình sự quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự.” Như vậy,
tính được quy định trong BLHS là yếu tố bắt buộc khi xem xét việc một người có
phải chịu trách nhiệm hình sự hay khơng. Ngồi BLHS ra, khơng có một đạo luật
nào được quy định tội phạm và hình phạt mà chỉ người nào phạm một tội đã được
BLHS quy định mới phải chịu trách nhiệm hình sự. Tội phạm và hình phạt ln đi
liền với nhau. Đã thực hiện tội phạm thì về mặt nguyên tắc phải chịu hình phạt và
ngược lại hình phạt chỉ áp dụng đối với người thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã
hội bị Luật hình sự coi là tội phạm.
Khi quyết định hình phạt, Tịa án căn cứ vào quy định của Bộ luật Hình sự
bảo đảm xét xử đúng người, đúng tội, chính xác, khách quan, bảo đảm khơng ai bị
coi là có tội khi chưa có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật của Tịa án. Hình phạt
do Tịa án quyết định phải được tuyên một cách công khai bằng một bản án và phải

12


là kết quả của một phiên tịa xét xử hình sự với đầy đủ trình tự, thủ tục do Luật tố
tụng hình sự quy định.
Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn cũng là hình phạt, do
vậy, các hình phạt này cũng được quy định trong BLHS (tại các Điều 34, 35, 36,
37). Các hình này do Toà án quyết định áp dụng bằng bản án kết tội có hiệu lực
pháp luật.
+ Được áp dụng độc lập và mỗi tội phạm chỉ được tuyên một hình phạt chính.
Khoản 3 Điều 32 BLHS năm 2015 có quy định: Đối với mỗi tội phạm, người
phạm tội chỉ bị áp dụng một hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số
hình phạt bổ sung.
Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn cũng là hình phạt chính
nên nó cũng có đặc điểm của các hình phạt chính. Đó là hình phạt áp dụng đối với
người phạm tội và được Tòa án tuyên độc lập phù hợp với tính chất, mức độ nguy
hiểm của tội phạm mà chủ thể phạm tội đã thực hiện, về nguyên tắc mỗi tội phạm
chỉ có thể tuyên một hình phạt chính. Trong phần các tội phạm của BLHS, ở mỗi tội
phạm được quy định một hay nhiều loại hình phạt chính và Tịa án lựa chọn một
trong các hình phạt chính mà điều luật quy định để áp dụng đối với người phạm tội
nhưng phải đảm bảo hình phạt này là phù hợp, tương xứng với tính chất và mức độ
nguy hiểm của tội phạm mà chủ thể đó đã thực hiện.
Thứ hai, đặc điểm riêng biệt của các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt
tù có thời hạn
So với hình phạt tù có thời hạn, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có
thời hạn có mức độ nghiêm khắc thấp hơn, (cũng như thấp hơn cả hình phạt tù
chung thân, tử hình).
Theo tinh thần tại Điều 32 BLHS năm 2015, các hình phạt chính trong BLHS
được sắp xếp theo trình tự tăng dần về mức độ nghiêm khắc. Các hình phạt chính
này tuy đều tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của người phạm tội, nhưng có mức

độ nghiêm khắc khác nhau trong đó, cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất và tử hình là
hình phạt nặng nhất. Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn có mức

13


độ nghiêm khắc thấp hơn tù có thời hạn (cũng như tù chung thân, tử hình) bởi vì
người bị kết án các hình phạt này khơng bị tước tự do có thời hạn hay vĩnh viễn
hoặc bị tước đoạt tính mạng. Các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn
có thể gây ra những tổn thất nhất định về mặt tinh thần đối với người phạm tội
thông qua việc khiển trách cơng khai của nhà nước (hình phạt cảnh cáo), hoặc cũng
có thể buộc họ phải chịu cải tạo tại cộng đồng dưới hoạt động giám sát, giáo dục
của cơ quan tổ chức nơi người đó làm việc hoặc cư trú (hình phạt cải tạo khơng
giam giữ), hoặc tước bỏ lợi ích của người phạm tội là một khoản tiền nhất định
(hình phạt tiền, việc khấu trừ thu nhập ở hình phạt cải tạo khơng giam giữ); hoặc
tước quyền cư trú trên lãnh thổ Việt Nam (trục xuất). Trong khi đó, hình phạt tù có
thời hạn lại tước tự do trong một thời hạn nhất định của người phạm tội, hình phạt
tù chung thân thì tước tự do vĩnh viễn, hình phạt tử hình thì tước bỏ tính mạng của
người phạm tội. Do đó, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn thể
hiện tính cưỡng chế và nội dung trừng trị thấp hơn hình phạt tù có thời hạn (cũng
như tù chung thân, tử hình).
1.1.3. Ý nghĩa của các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn
Trong hệ thống hình phạt chính áp dụng với cá nhân phạm tội trong luật hình
sự Việt Nam thì hệ thống hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn có vị trí
rất quan trọng, cùng với các hình phạt chính khác như tù có thời hạn, tù chung thân,
tử hình thì loại hình phạt này góp phần làm cho hệ thống hình phạt cân đối, tương
xứng và hồn thiện hơn, đáp ứng tốt hơn yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm,
phù hợp với xu hướng phát triển chung của hệ thống hình phạt hiện đại. Việc quy
định về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn tạo điều kiện bảo đảm
cho việc xét xử được công bằng bởi sự quy định đa dạng các loại hình phạt, bảo

đảm cho Tòa án tuỳ từng trường hợp cụ thể lựa chọn được hình phạt phù hợp với
tích chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, các tình tiết tăng
nặng, giảm nhẹ TNHS và nhân thân người phạm tội; đồng thời góp phần làm tăng
hiệu quả của hình phạt, khắc phục được những hạn chế của hình phạt chính tước tự
do q phụ thuộc vào các cơ sở giam giữ, nhân lực của Nhà nước và chi phí cho
việc tái hịa nhập cộng đồng của người phạm tội sau khi chấp hành xong bản án. Do
14


vậy, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn là cơng cụ hữu hiệu trong
phịng chống tội phạm để bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội và lợi ích hợp
pháp của cơng dân.
Việc áp dụng các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn cũng góp
phần thể hiện các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước ta thể hiện trong các
Nghị quyết của Đảng và Hiến pháp, đó là giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình
phạt tiền, hình phạt cải tạo khơng giam giữ đối với một số loại tội phạm. Hạn chế áp
dụng hình phạt tử hình theo hướng chỉ áp dụng đối với một số ít loại tội phạm đặc
biệt nghiêm trọng. Điều này cũng phù hợp với xu hướng chung của thế giới và phù
hợp với các điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đồng thời, góp phần thể
hiện tốt các nguyên tắc khác nhau của BLHS như nguyên tắc nhân đạo, ngun tắc
cơng bằng, ngun tắc phân hóa TNHS và cá thể hố hình phạt. Tính nhân đạo
trong pháp luật hình sự thể hiện ở việc áp dụng hình phạt đối với người phạm tội với
mục đích chủ yếu nhằm: cải tạo, giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội và
giúp cho cơng tác phịng ngừa tội phạm trong xã hội nói chung. Tính cơng bằng và
phân hóa TNHS thể hiện việc người phạm tội sẽ được tun hình phạt phù hợp với
tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân và các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ TNHS tương ứng.
1.2. Khái quát lịch sử lập pháp hình sự về các hình phạt chính nhẹ hơn
hình phạt tù có thời hạn.
1.2.1. Khái qt về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn

trong pháp luật hình sự Việt Nam giai đoạn từ 1945 đến trước khi có BLHS
năm 1985
Cách mạng tháng tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời,
mở ra trang sử mới trong lịch sử dân tộc Việt Nam. Để bảo vệ chính quyền nhà
nước còn non trẻ, cần phải xây dựng hệ thống pháp luật và sử dụng pháp luật, trong
đó pháp luật hình sự có vai trị đặc biệt quan trọng như một công cụ sắc bén, hữu
hiệu để trấn áp sự phản kháng của bọn phản động, bảo vệ thành quả cách mạng.
Trong giai đoạn đó, Nhà nước ta đã ban hành hàng loạt các sắc lệnh như sắc lệnh số

15


27 ngày 28/02/1946 quy định trừng trị những hành vi bắt cóc, tống tiền và ám sát;
sắc lệnh số 202 – SL ngày 15/10/1946 quy định việc buôn bán vàng bạc…
Bên cạnh những văn bản mới ban hành, Nhà nước ta còn cho phép sử dụng
những văn bản pháp luật hình sự cũ, đó là các điều luật của Bộ luật hình sự Bắc Kỳ,
Bộ luật hình sự Trung Kỳ và Bộ luật hình sự áp dụng ở Nam Kỳ mà không trái nội
dung nguyên tắc độc lập của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (theo sắc lệnh số 47
ngày 10/10/1945).
Qua các văn bản pháp luật hình sự nói trên thì chúng ta chưa có văn bản
pháp luật hình sự nào trong thời kỳ này quy định về hệ thống hình phạt. Tuy nhiên,
qua các sắc lệnh, sắc luật, pháp lệnh và một số văn bản pháp luật khác thì các hình
phạt chính được áp dụng trong giai đoạn này gồm: Tử hình, tù chung thân, tù có
thời hạn, cảnh cáo, quản chế, phạt tiền. Trong đó, các hình phạt chính nhẹ hơn hình
phạt tù có thời hạn gồm có: cảnh cáo, phạt tiền, quản chế.
Đối với hình phạt cảnh cáo: Theo các văn bản pháp luật thời kỳ này thì
cảnh cáo vừa là biện pháp xử lý hành chính, vừa là hình phạt. Về khía cạnh hình
phạt thì cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất được áp dụng đối với người phạm tội như
“Tội vi phạm quyền bầu cử và ứng cử của công dân” Điều 61 pháp lệnh số 1/LCT
ngày 18/01/1961 pháp lệnh về việc bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp quy định:

“Người nào dùng thủ đoạn lừa gạt, mua chuộc hoặc cưỡng ép làm trở ngại đến
quyền tự do bầu cử và ứng cử của cơng dân, thì tuỳ mức độ nặng nhẹ mà có thể bị
cảnh cáo hoặc bị phạt tù, nặng nhất là 2 năm.”
Đối với hình phạt tiền: Trong giai đoạn này có nhiều văn bản quy định hình
phạt tiền là hình phạt chính, được áp dụng trong trường hợp phạm tội không thật
nguy hiểm, đáng được chiếu cố, khoan hồng, với những tội có tính chất vụ lợi. Ví dụ
như: tại Điều 5 và Điều 8 Sắc luật số 202/SL ngày 15/10/1946 quy định về việc buôn
bán vàng bạc cho phép phạt tiền gấp ba hoặc năm lần số vàng gian lận; tại khoản 1
Điều 3 sắc lệnh số 61/SL ngày 05/7/1947, về ấn định thể thức xuất cảng, nhập nội các
tư bản, quy định phạt tiền gấp ba số tư bản định xuất cảng hay nhập nội.

16


Đối với hình phạt quản chế: “Quản chế là dùng quyền lực của chính quyền
và của nhân dân để xử trí những phần tử đã phạm tội với cách mạng, với nhân dân
những tội chưa đáng phạt tù, hoặc đã mãn hạn tù nhưng chưa thực sự hối cải”
(Điều 1 Sắc lệnh số 175 ngày 18/8/1953). Phương châm của quản chế là: Kết hợp
kiểm sốt của chính quyền với kiểm soát của nhân dân và kết hợp giáo dục với bắt
buộc lao động để sinh sống. Hạng người sẽ bị quản chế bao gồm: Địa chủ, cường
hào có tội nhẹ; Bọn đã làm gián điệp, bọn đã tham gia đảng phái phản động, nói
chung bọn đã làm tay sai cho địch nhưng tội nhẹ mà nay chưa thực sự hối cải; Bọn
lưu manh trước kia đã chuyên sinh sống bằng trộm cắp; Kẻ đã mãn hạn tù nhưng
chưa thực sự hối cải.
Ngày 30/4/1975, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta toàn
thắng, miền Nam hoàn toàn giải phóng. Từ đây, cách mạng Việt Nam chuyển sang
một giai đoạn mới, giai đoạn cả nước độc lập thống nhất, cùng thực hiện một nhiệm
vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội trên phạm vi cả nước. Ngày 25/4/1976,
trên 23 triệu cử tri của nước Việt Nam thống nhất đã nơ nức làm nghĩa vụ cơng dân
của mình, bầu những đại biểu xứng đáng vào cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất

của nước Việt Nam. Ngày 02/7/1976, Quốc hội khóa VI, kỳ họp thứ nhất, đã ra
Nghị quyết giao cho Hội đồng Chính phủ chịu trách nhiệm hướng dẫn áp dụng pháp
luật thống nhất trong cả nước. Căn cứ vào hướng dẫn của Hội đồng Chính phủ thì
các văn bản pháp luật hiện hành ở cả hai miền đều được áp dụng trong cả nước.
Những văn bản quy phạm pháp luật trước đây đã ban hành ở miền Bắc tiếp tục được
áp dụng. Những năm đầu của thập kỷ 80, cùng với việc ban hành Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1980, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam có ban hành nhiều luật. Hội đồng nhà nước có ban hành các sắc
lệnh trong đó có sắc lệnh về tội phạm và hình phạt như pháp lệnh ngày 20/5/1981
trừng trị tội hối lộ, pháp lệnh ngày 30/6/1982 trừng trị các tội buôn lậu, làm giả,
kinh doanh trái phép.
Điểm đáng chú ý trong giai đoạn này là hình phạt “Cải tạo không giam giữ”
bắt đầu xuất hiện trong các văn bản quy phạm pháp luật hình sự và trong phần quy
định trách nhiệm của người trốn tránh nghĩa vụ quân sự. Khoản 1 Điều 6 của pháp
17


lệnh ngày 30/6/1982 có quy định: “Người nào kinh doanh khơng có giấy phép hoặc
khơng đúng với nội dung được phép…thì bị phạt cải tạo khơng giam giữ từ 03
tháng đến 02 năm…”Điều 69 của Luật nghĩa vụ quân sự được Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thông qua ngày 30/12/1981, quy định: “Người nào
đang ở lứa tuổi làm nghĩa vụ quân sự mà không chấp hành những quy định…thì tùy
theo mức độ nặng nhẹ mà bị xử lý bằng biện pháp hành chính, bị cải tạo không
giam giữ từ ba tháng đến hai năm”.
Qua nghiên cứu các văn bản pháp luật hình sự từ năm 1975 đến năm 1985 thì
thấy, các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn được quy định và áp
dụng trong giai đoạn này gồm có: Cảnh cáo; phạt tiền; cải tạo không giam giữ.
Nhận xét: Từ những phân tích ở trên có thể rút ra những đặc điểm của các
hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn trong pháp luật hình sự Việt Nam
trước khi pháp điển hóa luật hình sự như sau: Các hình phạt chính nhẹ hơn hình

phạt tù có thời hạn được quy định theo chiều hướng phát triển nhưng chưa được rõ
ràng, thiếu nội dung và điều kiện áp dụng, chưa phân biệt rõ biện pháp xử lý hành
chính và hình phạt. Do chưa có hệ thống hình phạt hồn chỉnh, các hình phạt chính
nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn không thể sắp xếp vào trật tự được do chúng khơng
có mối quan hệ chuyển tiếp với hình phạt tù, cho nên giữa các hình phạt chính nhẹ
hơn hình phạt tù có thời hạn và hình phạt tù có một khoảng cách lớn về tính cưỡng
chế và hậu quả pháp lý khi áp dụng. Trong thời kỳ đầu, khi quản chế cịn được coi
là hình phạt chính thì giữa hình phạt tù và hình phạt quản chế cịn có bước chuyển
tiếp nhất định (tước tự do của hình phạt tù và hạn chế tự do của hình phạt quản chế)
cho đến khi quản chế chỉ được áp dụng là hình phạt bổ sung thì tính cưỡng chế và
hậu quả pháp lý giữa các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn và hình
phạt tù có thời hạn càng được mở rộng. Thực tế, trong giai đoạn này, các hình phạt
chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn rất ít được áp dụng. Đối với những trường
hợp mà có thể cải tạo giáo dục tại địa phương mà không cần cách ly ra khỏi xã hội,
Tịa án thường áp dụng hình phạt tù nhưng cho hưởng án treo.

18


1.2.2. Khái qt về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn
trong BLHS năm 1985 (sửa đổi, bổ sung vào năm 1989, 1991, 1992, và 1997sau đây gọi tắt là BLHS năm 1985)
Năm 1985, BLHS đầu tiên của nước ta ra đời trên cơ sở nền kinh tế bao cấp
và thực tiễn của tình hình tội phạm thời kỳ đó. BLHS năm 1985 với ý nghĩa là
nguồn duy nhất trong đó quy định tội phạm và hình phạt. Để đáp ứng và phục vụ
cho cơng cuộc đổi mới của đất nước, luật hình sự buộc phải có những thay đổi
mang tính phát triển, điều đó được thể hiện qua những sửa đổi, bổ sung của BLHS
cụ thể: BLHS năm 1985 có hiệu lực từ ngày 01/01/1986, đã trải qua 04 lần sửa đổi,
bổ sung vào các năm 1989, 1991, 1992 và 1997, chính thức hết hiệu lực vào ngày
01/7/2000.
Tại khoản 1 Điều 21 BLHS năm 1985 quy định về các hình phạt chính, trong

đó các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn bao gồm: Cảnh cáo; phạt
tiền; cải tạo không giam giữ; cải tạo ở đơn vị kỷ luật của quân đội.
Hình phạt cảnh cáo: hình phạt cảnh cáo được quy định tại Điều 22 với nội
dung: "Cảnh cáo được áp dụng đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều
tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức miễn hình phạt".
Cảnh cáo là hình phạt nhẹ nhất trong hệ thống hình phạt và được áp dụng đối
với các điều kiện:
Thứ nhất, người phạm tội ít nghiêm trọng: Trong đó, theo BLHS năm 1985
thì tội ít nghiêm trọng được xác định là tội phạm gây nguy hại lớn cho xã hội mà
mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến năm năm tù.
Thứ hai, có nhiều tình tiết giảm nhẹ TNHS.
Thứ ba, người phạm tội chưa đến mức miễn hình phạt theo quy định tại
khoản 2 Điều 48 BLHS: "Người phạm tội có thể được miễn hình phạt trong trường
hợp phạm tội có nhiều tình tiết giảm nhẹ nói ở Điều 38, đáng được khoan hồng đặc
biệt, nhưng chưa đến mức được miễn trách nhiệm hình sự".

19


Trong phần các tội phạm của BLHS năm 1985 thì có 40 tội danh quy định về
hình phạt cảnh cáo. Trong các lần sửa đổi sau đó của BLHS năm 1985 thì quy định
này vẫn giữ nguyên.
Hình phạt tiền: Điều 23 BLHS năm 1985 có quy định: "Phạt tiền được áp
dụng đối với người phạm các tội có tính chất vụ lợi, các tội có dùng tiền làm
phương tiện hoạt động trong những trường hợp khác do luật này quy định. Chỉ
trong trường hợp có Điều luật quy định thì phạt tiền mới được áp dụng là hình phạt
chính. Mức phạt tiền được quyết định theo mức độ nghiêm trọng của tội đã phạm,
đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội". Có thể thấy, quy định
này chưa thể hiện hình phạt tiền được áp dụng đối với loại tội phạm nào cũng như
mức tối thiểu và mức tối đa của số tiền phạt được áp dụng. BLHS năm 1985 quy

định khơng áp dụng hình phạt tiền đối với người chưa thành niên phạm tội và không
quy định cách thức nộp tiền.
Trong phần các tội phạm của BLHS năm 1985 thì có 9/209 tội có quy định
hình phạt tiền là hình phạt chính, chiếm tỉ lệ 4,3% trên tổng số điều luật.
Hình phạt cải tạo khơng giam giữ: BLHS năm 1985 quy định có hai loại là:
cải tạo không giam giữ (Điều 24 BLHS năm 1985) và cải tạo ở đơn vị kỷ luật của
quân đội (Điều 70 BLHS năm 1985).
Về điều kiện áp dụng: Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ sáu tháng đến
hai năm đối với người phạm tội ít nghiêm trọng.
Nếu người bị kết án đã bị tạm giam thì thời gian tạm giam được trừ vào thời
hạn chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ một ngày tạm giam bằng ba
ngày cải tạo không giam giữ.
Nghĩa vụ của người bị kết án: Người bị kết án phải thực hiện một số nghĩa
vụ theo các quy định về cải tạo khơng giam giữ và có thể bị khấu trừ một phần thu
nhập từ 5% đến 20% để sung quỹ Nhà nước.
Đối với người chưa thành niên phạm tội khi áp dụng hình phạt cải tạo khơng
giam giữ thì khơng khấu trừ thu nhập của người đó.

20


1.2.3. Khái qt về các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn
trong BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009 - sau đây gọi tắt là BLHS
năm 1999)
BLHS năm 1999 có hiệu lực kể từ ngày 01 tháng 7 năm 2000, được xây
dựng trên cơ sở kế thừa những nội dung hợp lý, tích cực của BLHS năm 1985. So
với BLHS năm 1985, BLHS năm 1999 có những thay đổi cơ bản mang tính tương
đối toàn diện thể hiện sự phát triển mới của Luật hình sự Việt Nam. BLHS năm
1999 quy định các hình phạt chính nhẹ hơn hình phạt tù có thời hạn gồm có: Cảnh
cáo; phạt tiền; cải tạo khơng giam giữ; trục xuất.

Hình phạt cảnh cáo
Điều 29 BLHS năm 1999 có quy định: "Cảnh cáo được áp dụng đối với
người phạm tội ít nghiêm trọng và có nhiều tình tiết giảm nhẹ, nhưng chưa đến mức
miễn hình phạt". Có thể thấy điều kiện áp dụng hình phạt cảnh cáo trong BLHS
năm 1999 được quy định tương tự như trong BLHS năm 1985. Tuy nhiên, về nội
hàm có những điểm khác biệt như: tội ít nghiêm trọng được xác định là tội phạm
gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội
ấy là đến ba năm tù. Và điều kiện, chưa đến mức miễn hình phạt được quy định chặt
chẽ hơn (điều kiện miễn hình phạt được quy định trong BLHS năm 1999 chỉ bao
gồm các tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 (do luật ấn định) thay vì có
thể do Tịa án xác định như trong BLHS năm 1985).
Trong phần các tội phạm của BLHS năm 1999 thì hình phạt cảnh cáo được
quy định tại Điều 37 của BLHS năm 1999.
Hình phạt tiền
Điều 30 BLHS năm 1999 có quy định: "1. Phạt tiền được áp dụng là hình
phạt chính đối với người phạm tội ít nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế,
trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính và một số tội phạm khác do Bộ luật
này quy định. 2. Phạt tiền được áp dụng là hình phạt bổ sung đối với người phạm
các tội về tham nhũng, ma tuý hoặc những tội phạm khác do Bộ luật này quy định.
3. Mức phạt tiền được quyết định tuỳ theo tính chất và mức độ nghiêm trọng của tội

21


phạm được thực hiện, đồng thời có xét đến tình hình tài sản của người phạm tội, sự
biến động giá cả, nhưng không được thấp hơn một triệu đồng. 4. Tiền phạt có thể
được nộp một lần hoặc nhiều lần trong thời hạn do Toà án quyết định trong bản
án". Như vậy, BLHS năm 1999 đã mở rộng phạm vi áp dụng và quy định rõ hơn
điều kiện áp dụng hình phạt tiền: Phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với
người phạm tội ít nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng,

trật tự quản lý hành chính và một số tội phạm khác do Bộ luật này quy định. Đồng
thời, quy định cụ thể mức phạt tiền được quyết định theo tính chất và mức độ
nghiêm trọng của tội phạm được thực hiện, có xét đến tình hình tài sản của người
phạm tội, sự biến động giá cả, nhưng không được thấp hơn một triệu đồng và cách
thức thực hiện là có thể được nộp một lần hoặc nhiều lần trong thời hạn do Toà án
quyết định trong bản án.
Trong phần các tội phạm của BLHS năm 1999 có 68 tội quy định hình phạt
tiền là hình phạt chính, tăng hơn 8 lần so với BLHS năm 1985. Thể hiện xu thế mở
rộng việc áp dụng hình phạt tiền.
Đồng thời, BLHS năm 1999 cũng quy định phạt tiền được áp dụng là hình
phạt chính đối với người chưa thành niên phạm tội từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi,
nếu người đó có thu nhập hoặc có tài sản riêng. Mức phạt tiền đối với người chưa
thành niên phạm tội không quá một phần hai mức tiền phạt mà điều luật quy định
(Điều 72).
Hình phạt cải tạo khơng giam giữ
Trong BLHS năm 1999 thì hình phạt cải tạo khơng giam giữ được quy định
tại Điều 31:"Cải tạo không giam giữ được áp dụng từ sáu tháng đến ba năm đối với
người phạm tội ít nghiêm trọng hoặc phạm tội nghiêm trọng do Bộ luật này quy
định mà đang có nơi làm việc ổn định hoặc có nơi thường trú rõ ràng, nếu xét thấy
không cần thiết phải cách ly người phạm tội khỏi xã hội. Nếu người bị kết án đã bị
tạm giữ, tạm giam thì thời gian tạm giữ, tạm giam được trừ vào thời gian chấp
hành hình phạt cải tạo không giam giữ, cứ một ngày tạm giữ, tạm giam bằng ba
ngày cải tạo không giam giữ” (Khoản 1 Điều 31 BLHS năm 1999).

22


×