Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Biện pháp tạm giam từ thực tiễn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (550.64 KB, 98 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN BÍCH THỦY

BIỆN PHÁP TẠM GIAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN THANH
XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

HÀ NỘI, 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN BÍCH THỦY

BIỆN PHÁP TẠM GIAM TỪ THỰC TIỄN QUẬN THANH
XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Ngành: Luật Hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8 38 01 04

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGUYỄN NGỌC HÀ


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi thực


hiện từ tháng 7 năm 2020 và hoàn thành vào tháng 2 năm 2021. Các số liệu và
trích dẫn trong luận văn là trung thực. Các kết quả nghiên cứu của luận văn
không trùng với bất kỳ cơng trình nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Bích Thủy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU............................................................................................................................... 1
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ BIỆN PHÁP................8
TẠM GIAM...........................................................................................................................8
1.1. Những vấn đề lý luận về biện pháp tạm giam............................................... 8
1.2. Quy định của pháp luật tố tụng hình sự về biện pháp Tạm giam...............24
Chương 2. THỰC TRẠNG ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIAM TRÊN ĐỊA BÀN
QUẬN THANH XUÂN, THÀNH PHỐ HÀ NỘI.............................................................40
2.1. Tình hình, đặc điểm có liên quan đến áp dụng biện pháp tạm giam..........40
2.2. Thực trạng áp dụng biện pháp tạm giam từ thực tiễn quận Thanh Xuân...45
2.3. Nhận xét, đánh giá khái quát....................................................................... 52
Chương 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NHẰM GÓP PHẦN NÂNG CAO HIỆU QUẢ
ÁP DỤNG BIỆN PHÁP TẠM GIAM................................................................................63
3.1. Yêu cầu của hoạt động áp dụng biện pháp tạm giam trong giai đoạn điều

tra, truy tố, xét xử................................................................................................ 63
3.2. Một số giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tạm

giam..................................................................................................................... 70
KẾT LUẬN..........................................................................................................................83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................... 84



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Bộ luật hình sự
BLHS
:

Bộ luật tố tụng hình sự

BLTTHS
:

Biện pháp ngăn chặn

Biện pháp cưỡng chế

BPCC
:

Cơ quan điều tra

BPNC
:

Hội đồng xét xử

CQĐT
:

Tòa án quân sự


Cơ quan cảnh sát điều tra
Tòa án nhân dân

CQCSĐT
:

Tòa án nhân dân tối cao

HĐXX
:

Viện kiểm sát

TAND
:

Viện kiểm sát quân sự

TAQS
:
TANDTC
:
TTHS
:
VKS
:
VKSND
:
VKSQS

: VKSNDTC
:

Tố tụng hình sự
Viện kiểm sát nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân tối
cao


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Số liệu thụ lý vụ án, bị can khởi tố trên địa bàn.......................................... 87
quận Thanh Xuân giai đoạn 2016 – 2020.................................................................... 87
Bảng 2.2 Tình hình áp dụng biện pháp tạm giam trong giai đoạn.............................. 88
điều tra trên địa bàn quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội từ năm 2016 đến năm 2020
..................................................................................................................................... 88
Bảng 2.3 Tình hình áp dụng biện pháp tạm giam trong giai đoạn truy tố trên địa bàn
quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội từ năm 2016.................................................... 89
đến năm 2020............................................................................................................... 89
Bảng 2.4 Tình hình áp dụng biện pháp tạm giam trong giai đoạn chuẩn bị xét xử trên
địa bàn quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội từ năm 2016 đến năm 2020................90
Bảng 2.5. Tình hình bị can bị áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong giai đoạn điều
tra trên địa bàn quận Thanh Xuân từ năm 2016 đến năm 2020................................... 91
Bảng 2.6. Tình hình Viện kiểm sát phê chuẩn lệnh tạm giam của Cơ quan.................92
điều tra trên địa bàn quận Thanh Xuân từ năm 2016 đến năm 2020........................... 92


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Để đảm bảo cho việc phát hiện, xử lý tội phạm và người phạm tội một cách

chính xác, nghiêm minh, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm, không làm oan người
vô tội, Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) đã quy định chặt chẽ trình tự, thủ tục tiến
hành các hoạt động tố tụng và thi hành án hình sự. Trong các hoạt động TTHS, để
đảm bảo cơng tác đấu tranh phịng, chống tội phạm thì việc áp dụng biện pháp ngăn
chặn (BPNC) là một chế định pháp lý có ý nghĩa quan trọng, nằm trong nhóm của
biện pháp cưỡng chế (BPCC). Việc áp dụng các BPNC có ảnh hưởng lớn đến việc giải
quyết nhiệm vụ có hiệu quả như để kịp thời ngăn chặn hành vi phạm tội, ngăn ngừa
người phạm tội, bị can, bị cáo tiếp tục phạm tội, trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi
gây khó khăn cho quá trình điều tra, truy tố, xét xử cũng như để đảm bảo thi hành án.
Trong hệ thống các BPNC được quy định trong BLTTHS, tạm giam là BPNC quan
trọng và có tính nghiêm khắc nhất. Người bị áp dụng biện pháp tạm giam sẽ bị cách
ly với xã hội trong một thời gian nhất định, đồng thời bị hạn chế quyền công dân
như quyền tự do cá nhân, quyền bất khả xâm phạm về thân thể của công dân, quyền
ứng cử... Đây là những quyền cơ bản đã được ghi nhận và bảo đảm trong Hiến pháp
và pháp luật. Chính vì vậy việc bắt, giam, giữ người được pháp luật quy định chặt
chẽ để vừa đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân vừa đảm bảo cho việc
tiến hành các hoạt động tố tụng, giải quyết vụ án một cách đúng đắn, nghiêm minh,
không làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào các chủ trương, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước; đó là yêu cầu đối với cơ quan tiến hành tố tụng cả
nước nói chung và tại quận Thanh Xn nói riêng.
Nhìn chung tình hình an ninh trật tự trên địa bàn quận Thanh Xuân tương đối
ổn định. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của kinh tế các khu đô thị trên địa bàn
quận dẫn đến tập trung nhiều người lao động từ các nơi khác về và tác động tới trật tự
xã hội trên địa bàn. Tình hình hoạt động của các ổ nhóm tội phạm tinh vi hơn, chiếm
đoạt tài sản nhiều hơn nhất là hoạt động lừa đảo qua mạng internet, giả danh cơ quan
nhà nước, với

7



mức độ và tính chất của hành vi phạm tội tăng cao. Gây khó khăn cho cơ quan có
thẩm quyền trong phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm.
Các quy định về BPNC tạm giam đã được bổ sung, hoàn thiện ngày càng phù
hợp với yêu cầu của thực tiễn, góp phần ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội hay
những hành vi gây khó khăn cho q trình điều tra, truy tố, xét xử của người bị buộc
tội, đảm bảo cho việc thi hành án được thuận lợi. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả
đạt được thì vẫn cịn có những bất cập trong quy định của pháp luật cũng như những
hạn chế, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng biện pháp này như: việc tạm giam khơng
có căn cứ rõ ràng, khơng đúng trình tự thủ tục, có sự mâu thuẫn khi áp dụng hay
không áp dụng biện pháp tạm giam của các cơ quan tiến hành tố tụng, sử dụng biện
pháp tạm giam như một biện pháp nghiệp vụ điều tra,… Những sai sót đó đã ảnh
hưởng nghiêm trọng đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Thực tiễn áp dụng các BPNC cũng đặt ra nhiều vấn đề vướng mắc đòi hỏi khoa học
luật TTHS tiếp tục nghiên cứu, giải quyết để làm sáng tỏ các vấn đề về lý luận như
bản chất, khái niệm của BPNC tạm giam, trong khi đó cịn có nhiều ý kiến, quan điểm
trái chiều nhau xung quanh vấn đề này dẫn đến tình trạng lúng túng cho cơ quan tiến
hành tố tụng trong việc giải quyết vụ án. Xuất phát từ thực tiễn nêu trên, việc nghiên
cứu một cách đồng bộ, cụ thể, sâu sắc về BPNC tạm giam về mặt lý luận cũng như
thực tiễn trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết và có ý nghĩa to lớn, góp phần đảm
bảo cho các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt nhiệm vụ. Vì vậy, tác giả quyết
định lựa chọn đề tài: “Biện pháp tạm giam từ thực tiễn quận Thanh Xuân, thành
phố Hà Nội” làm đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đề tài

Trong thời gian qua, nghiên cứu về biện pháp ngăn chặn nói chung và biện pháp
Tạm giam nói riêng đã có các cơng trình khoa học cơng bố ở những mức độ và phạm
vi khác nhau; ở cả phương diện lý luận cũng như thực tiễn; ở cấp độ liên quan trực
tiếp cũng như gián tiếp. Có thể kể đến một số cơng trình tiêu biểu sau:
Giáo trình Luật TTHS Việt Nam của các cơ sở đào tạo Luật như: Trường Đại
học Luật Hà Nội; Trường Đại học Kiểm sát Hà Nội; Khoa Luật – Đại học Quốc

gia Hà


Nội; Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh; Một số cuốn sách bình luận khoa
học BLTTHS năm 2015 của các tác giả TS. Phạm Mạnh Hùng (2018) hoặc “Bình
luận khoa học BLTTHS năm 2015” do Trần Văn Biên và Đinh Thế Hưng chủ biên,
Nxb. Thế giới, Hà Nội, 2017;…
Một số bài báo khoa học được đăng trên các Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí Luật học,
Tạp chí Tịa án nhân dân, Tạp chí Nhà nước và Pháp luật hay Nghiên cứu lập pháp có
đề cập đến vấn đề biện pháp tạm giam như: “Một số quy định về biện pháp tạm giam
trong BLTTHS năm 2015” của tác giả Nguyễn Hồng Thiện (2016); “Biện pháp tạm
giam đối với bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi theo quy định của BLTTHS năm
2015” của tác giả Hà Thái Thơ, Võ Thị Ánh Phúc (2017); “Cần bổ sung, sửa đổi quy
định về căn cứ tạm giữ, tạm giam trong BLTTHS” của tác giả Hoàng Hải Yến (2014);
Ở cấp độ các cơng trình nghiên cứu khoa học chun sâu về BPNC tạm giam
có các cơng trình điển hình như:
Luận văn thạc sĩ Biện pháp ngăn chặn tạm giam đối với bị can trong tố tụng
hình sự Việt Nam của Đào Nguyễn Hồng Minh, Đại học Luật Hà Nội, năm 2018,
Luận văn này nghiên cứu biện pháp ngăn chặn tạm giam trong thời điểm BLTTHS
mới phát sinh hiệu lực pháp luật, vì vậy luận văn chủ yếu nghiên cứu thực trạng thực
hiện tạm giam đối với bị can theo BLTTHS năm 2003, nêu và đánh giá các điểm mới
của BLTTHS năm 2015, phạm vi nghiên cứu thực trạng biện pháp tạm giam là trên cả
nước;
Luận án tiến sĩ “Biện pháp ngăn chặn tạm giam trong luật tố tụng hình sự Việt
Nam” của tác giả Hoàng Tám Phi, Hà Nội, 2020, Luận văn này nghiên cứu biện pháp
tạm giam theo hướng tiếp cận quyền con người, phạm vi nghiên cứu là trên cả nước
giai đoạn 10 năm;
Luận văn thạc sĩ “Biện pháp tạm giam trong Luật TTHS Việt Nam” của tác giả
Triệu Văn Mẫn, Hà Nội, 2015, Luận văn này nghiên cứu biện pháp ngăn chặn tạm
giam trong thời điểm BLTTHS giáp danh giữa luật TTHS cũ và mới, vì vậy luận văn

chủ yếu nghiên cứu thực trạng thực hiện tạm giam đối với bị can theo BLTTHS năm
2003, phạm vi nghiên cứu thực trạng biện pháp tạm giam là tỉnh Bắc Kạn;v.v…


Các cơng trình kể trên có ý nghĩa rất lớn, đóng góp một phần đáng kể trong việc
hồn thiện lý luận của khoa học pháp lý chuyên ngành và các quy định của pháp luật
tố tụng hình sự về BPNC tạm giam cũng như nâng cao hiệu quả công tác áp dụng
pháp luật trong thực tiễn. BLTTHS năm 2015 chính thức có hiệu lực từ 1/1/2018, đã
có một số tài liệu chun ngành hay cơng trình nghiên cứu về mặt lý luận cũng như
thực tiễn áp dụng BPNC tạm giam theo quy định luật hiện hành tuy nhiên số lượng
này còn hạn chế, một số tác giả mới chỉ đề cập tới những vấn đề lý luận chung hoặc
nghiên cứu, phân tích một cách có hệ thống ở một vài khía cạnh khác nhau; ở cấp độ
luận văn thạc sĩ luật học thì chưa có cơng trình nào nghiên cứu chuyên sâu trên thực
tiễn thi hành trên địa bàn quận Thanh Xn, Thành phố Hà Nội. Chính vì vậy, việc
lựa chọn đề tài “Biện pháp tạm giam từ thực tiễn quận Thanh Xuân, thành phố Hà
Nội” có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Đồng thời, không trùng lặp với bất kỳ cơng trình
khoa học nào đã cơng bố trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Góp phần bổ sung, phát triển lý luận về các biện pháp ngăn chặn nói chung; lý
luận về biện pháp ngăn chặn tạm giam nói riêng cho khoa học pháp lý chuyên ngành;
Đề xuất các giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp tạm giam
trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, luận văn phải thực hiện các
nhiệm vụ sau:
- Xây dựng khái niệm, đặc điểm và ý nghĩa của BPNC tạm giam trong TTHS


Việt Nam;
- Nghiên cứu sơ lược quá trình hình thành, phát triển các quy định pháp luật

nước ta về BPNC tạm giam trước khi BLTTHS năm 2015 có hiệu lực thi hành. Phân
tích các quy định cụ thể về BPNC Tạm giam trong BLTTHS năm 2015;
- Phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng các quy định của pháp luật TTHS về

BPNC Tạm giam trên địa bàn quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội;


- Đưa ra được nhận xét, đánh giá về kết quả đạt được cũng như những tồn tại,

hạn chế và nguyên nhân của những tồn tại, hạn chế đó;
- Đề xuất các giải pháp nhằm góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật

TTHS về BPNC Tạm giam trên địa bàn quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội trong
thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tượng nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu về Biện pháp ngăn chặn Tạm giam trên địa bàn Quận
Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội cả trên phương diện lý luận và thực tiễn.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu

Về nội dung: Tập trung nghiên cứu biện pháp tạm giam trong giai đoạn điều tra,
truy tố, xét xử theo quy định của pháp luật TTHSViệt Nam;

Về thời gian: Từ năm 2016 đến năm 2020;
Về địa bàn: Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội;
Về chủ thể: Viện kiểm sát nhân dân Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận

Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin; tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ trương, đường lối,
chính sách của Đảng và Pháp luật của Nhà nước về phòng ngừa và đấu tranh chống
tội phạm trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền, cải cách tư pháp và hội nhập
quốc tế, bảo đảm quyền con người, quyền công dân. Các luận điểm chung của khoa
học pháp lý hình sự, tố tụng hình sự và các khoa học pháp lý khác có liên quan.
5.2. Phương pháp nghiên cứu

Trên cơ sở các phương pháp luận nêu trên, luận văn sử dụng các phương pháp
nghiên cứu cụ thể như:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu: Phân tích các tài liệu thu thập được liên

quan đến cơng tác áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, kiểm sát việc áp dụng
biện pháp


ngăn chặn tạm giam trong giải quyết vụ án hình sự, từ đó bổ sung luận cứ để hồn
thiện cơ sở lý luận của luận văn.
- Phương pháp tổng hợp, phân tích: Phân tích các văn bản quy phạm pháp luật,

tài liệu lý luận khác nhau về công tác áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam, kiểm sát
việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm giam. Từ đó tổng hợp lại, sắp xếp khoa học để
tạo nên các vấn đề lý luận và quy định pháp luật về công tác áp dụng cũng như kiểm
sát việc áp dụng biện pháp tạm giam.

- Phương pháp thống kê, so sánh: Tác giả sử dụng để thống kê các số liệu thực

tiễn liên quan đến công tác áp dụng và kiểm sát việc áp dụng biện pháp ngăn chặn tạm
giam trên địa bàn Quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội. Qua đó tiến hành so sánh, đối
chiếu các số liệu với nhau để đánh giá kết quả đạt được, hạn chế, bất cập trong quá
trình thi hành biện pháp tạm giam.
- Phương pháp khảo sát thực tiễn: Tác giả sử dụng lý luận để đánh giá thực tiễn

áp dụng quy định pháp luật tố tụng hình sự đối với việc thi hành biện pháp tạm giam,
từ đó đưa ra nhứng giải pháp góp phần nâng cao chất lượng cơng tác này.
- Phương pháp chuyên gia: Tác giả trực tiếp xin ý kiến chuyên môn của các

Điều tra viên thuộc Cơ quan cảnh sát điều tra Công an quận Thanh Xuân, Kiểm sát
viên thuộc Viện kiểm sát nhân dân quận Thanh Xuân trực tiếp tiến hành các hoạt động
thi hành biện pháp tạm giam, xin ý kiến đánh giá, nhận xét của họ về những thuận lợi,
khó khăn, bất cập trong q trình thực hiện.
- Phương pháp nghiên cứu điển hình: Tác giả thực hiện nghiên cứu các vụ án

do Viện KSND quận Thanh Xuân kiểm sát trong giai đoạn điều tra vụ án từ năm 2016
đến hết năm 2020, từ đó đưa ra một số ví dụ điển hình để minh chứng cho những nội
dung được đưa ra trong luận văn.
Các phương pháp kể trên hỗ trợ nhau trong quá trình thực hiện nhiệm vụ để
làm rõ những vấn đề thuộc đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận


Luận văn góp phần bổ sung, phát triển lý luận về các biện pháp ngăn chặn nói
chung; lý luận về biện pháp ngăn chặn tạm giam nói riêng cho khoa học pháp lý
chuyên ngành. Đồng thời, qua việc nghiên cứu đề tài đã cung cấp hệ thống tư liệu cần

thiết góp phần hồn thiện các quy định của pháp luật thực định về BPNC Tạm giam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn

Với việc đánh giá đúng thực tiễn việc thực hiện BPNC tạm giam trên địa bàn
Quận Thanh Xuân, đánh giá tình hình áp dụng BPNC tạm giam; những khó khăn, hạn
chế trong luật định và thực tiễn; nguyên nhân của khó khăn, vướng mắc đó, từ đó rút
ra được những đề xuất có cơ sở lý luận và thực tiễn. Những đề xuất này có giá trị
tham khảo, hồn thiện trong áp dụng của các cơ quan tiến hành tố tụng trên cả nước.
Nâng cao trình độ chun mơn nghiệp vụ trong cơng tác giải quyết các vụ án hình sự.
Đề tài có giá trị làm tài liệu tham khảo và học tập đối với các sinh viên, học
viên luật, người làm thực tiễn tại các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tịa án, cũng
như trong cơng tác xây dựng pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục; luận văn
được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về biện pháp Tạm giam.
Chương 2: Thực trạng áp dụng biện pháp Tạm giam trên địa bàn Quận Thanh
Xuân, Thành phố Hà Nội.
Chương 3: Yêu cầu và Giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp
Tạm giam trong thời gian tới.


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ BIỆN PHÁP TẠM GIAM
1.1. Những vấn đề lý luận về biện pháp tạm giam
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa biện pháp tạm giam

a, Khái niệm biện pháp tạm giam.

Đấu tranh phòng và chống tội phạm là vấn đề quan trọng trong xã hội. Ở
bất kỳ mỗi quốc gia nào, tội phạm luôn là một vấn đề quan trọng cấp thiết có ảnh
hưởng tới khơng chỉ đối với từng cá nhân con người mà còn tác động một cách
trực tiếp hoặc gián tiếp đến sự tồn tại, ổn định của chế độ nhà nước, chế độ kinh
tế - chính trị và xã hội. Do đó, để đảm bảo cho việc phát hiện, truy cứu trách
nhiệm hình sự người phạm tội chính xác, xử lý nghiêm minh, khách quan, nhanh
chóng, khơng để lọt tội phạm, không làm oan người vô tội, nên luật TTHS đã
được ra đời. Thông qua luật TTHS, Nhà nước thực hiện quyền lực của mình
trong lĩnh vực đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm, thể hiện sức mạnh
cưỡng chế của Nhà nước đối với tội phạm và người phạm tội [12, tr. 42], góp
phần giữ vững an ninh chính trị và trật tự an tồn xã hội; ngăn ngừa và khắc
phục những hậu quả do hành vi phạm tội gây ra, bảo vệ lợi ích của Nhà nước,
đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân.
Khi nói đến nhà nước pháp quyền, phải thấy ban đầu đây là quan niệm, tư
tưởng về dân chủ và về phương thức tổ chức quyền lực, trong đó vai trị của
pháp luật ln được đề cao và phải được bảo đảm tôn trọng[13, tr. 213- 214].
Pháp luật giữ vị trí tối thượng trong đời sống nhà nước và đời sống xã hội. Sự
thống trị của Hiến pháp và pháp luật chính là cơ sở hình thành nên nhà nước
pháp quyền, vì thế, tơn trọng và thực hiện nghiêm chỉnh Hiến pháp và pháp luật
là một nhu cầu tự thân và là đòi hỏi căn bản cho sự tồn tại, phát triển của nhà
nước đó. Pháp luật nói chung và luật TTHS nói riêng là phương tiện quan trọng
để giáo dục công dân nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật và tôn trọng quy tắc của


cuộc sống xã hội chủ nghĩa. Việc tạo cho được ý thức coi trọng pháp luật trong
quản lý xã hội, quản lý nhà nước là một điều vô cùng quan trọng. Luật TTHS
cịn quy định những biện pháp có ý nghĩa khuyến khích, động viên đối với những
người thực hiện tốt nghĩa vụ của mình hoặc yêu cầu phải thực hiện theo đúng
quy định. Tuy nhiên sẽ có trường hợp các biện pháp thuyết phục, giáo dục được
áp dụng không đem lại hiệu quả, các cơ quan pháp luật phải sử dụng đến các

biện pháp có tính quyền lực cưỡng chế như là một công cụ tác động xã hội sắc
bén và hữu hiệu để buộc các chủ thể phải thể hiện sự tôn trọng pháp luật bằng
việc thực hiện những hành vi cụ thể phù hợp lợi ích của nhà nước được thể hiện
trong các quy phạm pháp luật.
Cưỡng chế nhà nước là yếu tố cần thiết, không thể thiếu được trong cơ chế
điều chỉnh pháp luật[14, tr. 237]. Theo từ điển Luật học thì Biện pháp cưỡng chế
có nghĩa là “biện pháp bắt buộc cá nhân hay tổ chức phải thực hiện một nghĩa
vụ, trách nhiệm theo quyết định đã có hiệu lực của một cá nhân, tổ chức có thẩm
quyền”[15, tr. 64]. Có thể thấy, đây là biện pháp mang tính quyền lực nhà nước
do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng theo những thủ tục, trình tự và điều
kiện nhất định. Tùy vào tính chất, mức độ vi phạm pháp luật mà cưỡng chế có
nhiều hình thức khác nhau như cưỡng chế dân sự, cưỡng chế tố tụng hình sự v.v…
Trong khoa học luật TTHS Việt Nam, các Biện pháp cưỡng chế tố tụng được hiểu
là biện pháp cưỡng chế nhà nước được áp dụng với đối tượng, trong trường hợp,
theo trình tự, thủ tục luật định nhằm ngăn chặn tội phạm, loại trừ những hành vi
cản trở, gây khó khăn cho việc giải quyết vụ án hình sự[16, tr. 18]. Đây là biện
pháp có tính quyền lực nhà nước do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng, có
tính chất bắt buộc đối với đối tượng bị áp dụng, hạn chế một số quyền của họ và
có mức độ nghiêm khắc cao hơn so với các biện pháp cưỡng chế trong lĩnh vực
khác. Từ bản chất của tội phạm là hành vi gây nguy hiểm cho xã hội cũng như
nhiệm vụ phát hiện, xác định tội phạm, ngăn chặn tiếp tục phạm tội và truy cứu
phù hợp đối với người phạm tội, thì việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế trong
lĩnh vực TTHS thực sự là nhu cầu cần thiết khách quan, đảm


bảo cho các hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án. TTHS là
lĩnh vực mà trong đó việc áp dụng biện pháp cưỡng chế có nguy cơ xâm phạm
nhiều nhất vào quyền nhân thân của cá nhân, hạn chế đi các quyền tự do của họ.
Nếu áp dụng vượt quá giới hạn, không tuân thủ các quy định của pháp luật sẽ
xảy ra tình trạng lạm quyền, dẫn đến các quyền và lợi ích hợp pháp của cơng dân

bị vi phạm nghiêm trọng. Vì vậy, cần phải hạn chế việc áp dụng biện pháp cưỡng
chế trong thực tiễn TTHS. Đồng thời, cần thiết quy định một cách chặt chẽ,
chính xác, cụ thể chế định các biện pháp cưỡng chế TTHS, điều này không
những thể hiện sự tôn trọng của Nhà nước ta đối với các quyền tự do cá nhân, mà
còn là cơ sở pháp lý bảo đảm sự giám sát của nhân dân, xã hội đối với tồn bộ
hoạt động TTHS nói chung và áp dụng các biện pháp cưỡng chế TTHS nói
riêng[17, tr. 28].
Để tạo điều kiện thuận lợi cho công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm,
pháp luật TTHS đã quy định một loạt các biện pháp cưỡng chế khác nhau nhằm
thực hiện những mục đích tố tụng nhất định. Có thể chia thành các nhóm biện pháp
cưỡng chế sau:
Nhóm thứ nhất: Các biện pháp cưỡng chế, gồm: Giữ người trong trường hợp
khẩn cấp, bắt, tạm giữ, tạm giam, bảo lãnh, đặt tiền để bảo đảm, cấm đi khỏi nơi cư
trú, tạm hỗn xuất cảnh.
Nhóm thứ hai: Các biện pháp đảm bảo cho việc thu thập chứng cứ, như:
khám xét, dẫn giải, thu giữ thư tín; lấy lời khai người bị buộc tội; hỏi cung bị can...
Nhóm thứ ba: Các biện pháp đảm bảo cho hoạt động điều tra, truy tố, xét
xử và thi hành án, gồm: kê biên tài sản, phong tỏa tài khoản, tạm đình chỉ có thời
hạn hoạt động của pháp nhân có liên quan đến hành vi phạm tội của pháp nhân,
buộc pháp nhân nộp một khoản tiền để bảo đảm thi hành án, áp giải bị can, bị
cáo, người bị kết án, dẫn giải người làm chứng, những biện pháp xử lý do thẩm
phán chủ tọa phiên tịa áp dụng đối với người có hành vi vi phạm nội quy phiên
tòa.[12, tr. 229 – 230].


Trong hệ thống các biện pháp cưỡng chế trong TTHS, các BPNC có vai
trị đặc biệt quan trọng. Việc áp dụng biện pháp cưỡng chế tác động trực tiếp đến
khả năng ngăn chặn được việc thực hiện tội phạm, không để người phạm tội trốn,
tiêu hủy chứng cứ, ngăn ngừa hành vi phạm tội mới, bảo đảm cho hoạt động điều
tra, truy tố, xét xử và thi hành án; góp phần to lớn vào cơng tác đấu tranh phịng,

chống tội phạm nói chung, giải quyết các nhiệm vụ của TTHS nói riêng. Có thể
thấy biện pháp cưỡng chế có những dấu hiệu đặc trưng sau đây:
+ Mục đích áp dụng: Ngăn chặn không cho tội phạm xảy ra, ngăn ngừa
khả năng tiếp tục phạm tội, hay hành vi trốn tránh pháp luật bảo đảm cho công
tác điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được tiến hành một cách thuận lợi,
nhanh chóng, đúng pháp luật.
+ Đối tượng có thể bị áp dụng: Người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp,
người phạm tội quả tang, bị can, bị cáo, người bị kết án.
+ Chủ thể có thẩm quyền áp dụng: Đó là những người có thẩm quyền
trong các cơ quan tiến hành tố tụng như Thủ trưởng, Phó Thủ trưởng CQĐT;
Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện KSND và Viện KSQS các cấp; Chánh án, Phó
Chánh án TAND và TAQS các cấp,...hoặc những người giữ chức vụ trong các cơ
quan Nhà nước được giao thực hiện một số hoạt động tố tụng.
+ Các trường hợp áp dụng: Chỉ áp dụng BPNC này trong những trường hợp
cần thiết, căn cứ vào các quy định của pháp luật. Khi áp dụng thì các chủ thể có
thẩm quyền phải xem xét cẩn thận, đánh giá chặt chẽ trước khi quyết định áp
dụng các BPNC và nếu xét thấy cần thiết thì có thể thay thế BPNC đang áp dụng
bằng BPNC khác.
Như vậy từ những phân tích trên, có thể hiểu BPNC là: biện pháp cưỡng
chế trong tố tụng hình sự do cơ quan hoặc người có thẩm quyền theo quy định
của pháp luật áp dụng đối với người bị buộc tội nhằm kịp thời ngăn chặn tội
phạm, ngăn chặn hành vi trốn tránh pháp luật, tiêu hủy chứng cứ, ngăn ngừa
hành vi phạm tội mới hoặc các hành vi gây cản trở cho quá trình điều tra, truy
tố, xét xử và thi hành án.


Tạm giam là một trong các BPNC của TTHS, có tính nghiêm khắc nhất
trong số các BPNC. Tuy nhiên, biện pháp này khơng phải là hình phạt bởi vì
mục đích của nó cũng như mục đích của BPNC nói chung, không nhằm trừng trị
người phạm tội hay giáo dục cải tạo họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý

thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống XHCN. Tạm giam được áp
dụng đối với bị can, bị cáo, được áp dụng trong thời hạn nhất định, trong trường
hợp đặc biệt thì thời hạn tạm giam dài hơn mức tối thiểu của hình phạt tù có thời
hạn. Áp dụng biện pháp tạm giam khơng phải là tước bỏ quyền tự do của bị can,
bị cáo mà là tạm thời hạn chế tự do thân thể, tự do đi lại và một số quyền tự do
cá nhân khác như quyền tự do ngôn luận, hội họp,…nhằm ngăn chặn bị can tiếp
tục phạm tội, bảo đảm cho quá trình giải quyết vụ án hình sự một cách thuận lợi,
nhanh chóng. So với các BPNC khác như cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt
tiền để bảo đảm, tạm hỗn xuất cảnh thì các biện pháp này chỉ ảnh hưởng đến
quyền tự do đi lại trong phạm vi nhất định hoặc quyền, lợi ích về tài sản mà
không ảnh hưởng đến các quyền tự do khác của công dân như quyền bất khả xâm
phạm về thân thể. Các biện pháp bắt người, tạm giữ cũng là BPNC nghiêm khắc,
cũng hạn chế một số quyền tự do cơ bản của công dân nhưng thời hạn hạn chế
quyền tự do trong bắt, tạm giữ ngắn hơn nhiều so với tạm giam. Khi bàn về
BPNC tạm giam, có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này:
Theo cách tiếp cận truyền thống khi đưa ra định nghĩa về BPNC tạm giam
trong TTHS thể hiện khuynh hướng của phương pháp tiếp cận quyền, vẫn dựa
trên các dấu hiệu của luật thực định với nội hàm thể hiện tính cưỡng chế của Nhà
nước thì: Tạm giam là biện pháp cách ly bị can, bị cáo với xã hội trong thời gian
nhất định nhằm ngăn chặn hành vi trốn tránh pháp luật, cản trở việc điều tra,
xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội của bị can, bị cáo đảm bảo cho việc điều
tra, truy tố, xét xử thi hành án được thuận lợi[23, tr.224]. Quan điểm trên tương
đối ngắn gọn, thể hiện được nhiều khía cạnh về biện pháp tạm giam, trong đó có
đề cập đến đối tượng áp dụng và bản chất của biện pháp tạm giam là biện pháp
cách ly bị can, bị cáo với xã hội trong thời gian nhất định. Đồng thời, quan điểm


này cũng nêu được mục đích của tạm giam là nhằm ngăn chặn hành vi trốn tránh
pháp luật, cản trở việc điều tra, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội của bị can,
bị cáo đảm bảo cho việc điều tra, truy tố, xét xử thi hành án được thuận lợi.

Quan điểm về khái niệm tạm giam trên có những yếu tố hợp lý nhưng chưa đầy
đủ, chưa đề cập đến thẩm quyền áp dụng tạm giam đó là những người có thẩm
quyền tại cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, thi
hành án.
Quan điểm khác lại cho rằng: Tạm giam là BPNC nghiêm khắc nhất được
quy định trong BLTTHS do CQĐT, VKS hoặc Tòa án áp dụng đối với bị can, bị
cáo nhằm ngăn chặn tội phạm hoặc khi có căn cứ chứng tỏ bị can, bị cáo sẽ gây
khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc sẽ tiếp tục phạm tội, cũng như
khi cần bảo đảm thi hành án[18, tr. 108]. Quan điểm trên phản ảnh khá đầy đủ
về tạm giam, để cập đến đối tượng áp dụng, căn cứ, thẩm quyền áp dụng của
biện pháp này. Tuy nhiên, chưa nêu lên được điểm đặc trưng sự nghiêm khắc của
biện pháp tạm giam so với các BPNC khác đó là cách ly bị can, bị cáo khỏi bên
ngoài xã hội trong một khoảng thời gian, hạn chế một số quyền tự do của họ.
Định nghĩa này đã đề cập đến chủ thể có thẩm quyền là CQĐT, VKS và Tòa án
là chưa cụ thể bởi mỗi cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện chức năng, nhiệm vụ
của mình nhưng thơng qua những chủ thể cụ thể chứ bản thân các cơ quan này
không thể tự thực hiện được. Theo quy định của pháp luật, việc ra lệnh hay quyết
định tạm giam thuộc về những người có thẩm quyền nhất định trong các cơ quan
tiến hành tố tụng và những người này sẽ phải chịu trách nhiệm đối với văn bản
do mình ban hành.
Theo tác giả Trần Quang Tiệp đề cập về BPNC tạm giam: Tạm giam là
BPNC trong TTHS do những người có thẩm quyền của CQĐT, VKS, Tòa án áp
dụng, tạm thời hạn chế tự do cá nhân với mức độ rất nghiêm khắc trong thời hạn
tương đối dài, đối với bị can, bị cáo nhằm ngăn chặn tội phạm, bảo đảm cho
việc tiến hành hoạt động điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án[17, tr. 26]. Với
khái niệm như vậy, biện pháp tạm giam đã được thể hiện một cách khá rõ ràng


về thẩm quyền áp dụng là những người có thẩm quyền của CQĐT, VKS, Tòa án;
đối tượng áp dụng là bị can, bị cáo; đặc trưng cơ bản của tạm giam là hạn chế quyền

con người và mục đích của tạm giam là để bảo đảm cho việc tiến hành các hoạt
động tố tụng.
Những khái niệm mà các tác giả trên đưa ra đều nhấn mạnh vào mục đích
của biện pháp này là ngăn chặn sự bỏ trốn, gây cản trở điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án. Qua những quan điểm ở trên cùng với việc phân tích những quan
điểm đó cho thấy, nếu để đưa ra một khái niệm đầy đủ về BPNC tạm giam thì
định nghĩa gồm có các nội dung sau: Bản chất của tạm giam là BPNC chỉ áp
dụng trong TTHS với đặc trưng là cách ly đối tượng áp dụng với xã hội trong
khoảng thời gian nhất định, hạn chế một số quyền công dân như quyền ứng cử
hoặc hạn chế một số quyền công dân như quyền tư do đi lại và cư trú, quyền tự
do ngôn luận, hội họp, biểu tình, quyền tự do tín ngưỡng...; đối tượng áp dụng
của tạm giam là bị can, bị cáo; thẩm quyền áp dụng là người có thẩm quyền của
CQĐT, VKS, Tịa án; căn cứ áp dụng là những căn cứ do BLTTHS quy định; mục
đích áp dụng của biện pháp này là nhằm ngăn chặn tiếp tục phạm tội hoặc gây cản
trở cho quá trình giải quyết vụ án, bảo đảm cho công tác điều tra, truy

tố, xét xử

và thi hành án.
Từ những phân tích trên, tác giả đưa ra quan điểm về khái niệm BPNC tạm
giam như sau: “Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự, do Cơ
quan và người có thẩm quyền tiến hành tố tụng áp dụng đối với người bị buộc
tội khi có căn cứ theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự bảo đảm cho công tác
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án được thuận lợi.”.
b, Đặc điểm của biện pháp Tạm giam.
- Tạm giam là biện pháp thuộc nhóm biện pháp ngăn chặn có tính cưỡng

chế nghiêm khắc nhất.
Trong tố tụng hình sự, biện pháp tạm giam là một trong những biện pháp có
tính cưỡng chế được áp dụng đối với người bị buộc tội, mục đích khơng để tiếp

tục phạm tội hoặc cản trở q trình điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Tính


cưỡng chế của biện pháp tạm giam thể hiện ở việc khi một đối tượng bị áp dụng
thì bắt buộc họ phải chấp hành, cho dù họ có muốn hay khơng thì Nhà nước đã
đưa ra những biện pháp bảo đảm cũng như chế tài cần thiết để buộc họ phải chấp
hành nghiêm chỉnh. Nếu họ không thực hiện hoặc thực hiện khơng đúng, khơng
đủ thì phải chịu hậu quả pháp lý. Tính cưỡng chế của BPNC tạm giam cịn thể
hiện là cách thức mang tính quyền lực nhà nước do Cơ quan, người có thẩm
quyền tiến hành tố tụng áp dụng theo những căn cứ, trình tự, thủ tục và thời hạn
do pháp luật TTHS quy định, tác động lên tư tưởng, hành vi của người bị buộc
tội, buộc những chủ thể này phải thực hiện nghĩa vụ nhằm bảo đảm cho quá trình
giải quyết vụ án thuận lợi, nhanh chóng.
- Biện pháp tạm giam hạn chế quyền con người, quyền công dân.

Biện pháp tạm giam hạn chế quyền tự do của con người, người bị áp dụng
sẽ bị cách ly khỏi cuộc sống bên ngoài xã hội một thời gian nhất định, hạn chế
quyền con người là đặc điểm đặc trưng, quan trọng nhất khi nói đến biện pháp
tạm giam. Bởi người bị áp dụng biện pháp tạm giam không chỉ quyền tự do bị
hạn chế trong thời gian tương đối dài mà còn kéo theo hậu quả là các quyền cơ
bản khác bị hạn chế theo. Nhưng hạn chế này chỉ mang tính tạm thời, được áp
dụng một khoảng nhất định, nếu hết thời hạn tạm giam mà cơ quan có thẩm
quyền khơng chứng minh được tội phạm thì biện pháp tạm giam bị hủy bỏ hoặc
tạm giam đến khi xét xử mà tịa án tun khơng phạm tội, tòa án tuyên phạm tội
nhưng được áp dụng hình phạt khơng phải là tù giam…
- Việc áp dụng biện pháp tạm giam rất chặt chẽ về căn cứ, thẩm quyền,

trình tự, thủ tục.
Biện pháp tạm giam là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc và nặng nề
nhất nên khi áp dụng phải tuân theo các quy định của pháp luật. Việc áp

dụng biện pháp tạm giam phải tuân thủ theo trình tự, thủ tục, thẩm quyền,
căn cứ chặt chẽ mà pháp luật đã quy định. Việc áp dụng đúng sẽ bảo đảm
quyền và lợi ích của người bị tạm giam không bị xâm phạm, những quyền
này đã được Hiến pháp quy định.


- Chỉ áp dụng biện pháp tạm giam khi áp dụng các biện pháp ngăn chặn

khác không đạt được mục đích.
Vì lợi ích hợp pháp của Nhà nước, của tập thể và cá nhân khác, đảm bảo
quá trình đấu tranh, xử lý tội phạm triệt để đòi hỏi Nhà nước phải áp dụng các
biện pháp cưỡng chế để tác động đến các đối tượng trong một số trường hợp nhất
định. Tùy thuộc vào mục đích, đối tượng bị áp dụng hoặc các điều kiện khác để
phân chia các biện pháp cưỡng chế thành những nhóm khác nhau với những trình
tự, thủ tục, thẩm quyền, thời hạn khác nhau. Nhóm BPNC đối với người bị buộc
tội gồm: bắt, tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú, bảo lĩnh, đặt tiền để bảo
đảm, tạm hỗn xuất cảnh. Q trình giải quyết vụ án xét thấy người bị buộc tội
không tiếp tục phạm tội, khơng gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử,
thi hành án thì chỉ cần áp dụng BPNC ít nghiêm khắc như cấm đi khỏi nơi cư trú,
bảo lĩnh, đặt tiền để bảo đảm để tạo điều kiện cho họ có thể sinh hoạt, sản xuất,
kinh doanh bình thường nhưng vẫn đảm bảo sự có mặt của họ tại cơ quan tiến
hành tố tụng khi cần thiết. Chỉ áp dụng BPNC tạm giam khi xét thấy cần phục vụ
quá trình điều tra hoặc việc áp dụng các BPNC khác BPNC tạm giam sẽ ảnh
hưởng đến việc xác định sự thật của vụ án.
c, Ý nghĩa biện pháp tạm giam.
- Ý nghĩa pháp luật

+ Tội phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội nên đấu tranh phịng, chống tội
phạm địi hỏi phải có những biện pháp có tính cưỡng chế nghiêm khắc, trong đó
có BPNC tạm giam. Thực tiễn đấu tranh với tội phạm có nhiều trường hợp người

bị buộc tội có hành vi chống đối, khơng hợp tác hoặc cố tình trốn tránh, gây cản
trở cho các hoạt động tố tụng. Xuất phát từ sự ý thức rất rõ về những hậu quả
pháp lý mà mình phải gánh chịu, nên tìm mọi cách để trốn tránh như bỏ trốn, tiêu
hủy chứng cứ, khai không đúng sự thật, đe dọa, trả thù người bị hại, người làm
chứng Quy định của BLTTHS về BPNC tạm giam đối với bị can là căn cứ pháp
lý để các CQĐT, VKS, Tòa án áp dụng biện pháp tạm giam đối với bị can đúng
đối tượng, đúng thủ tục, đúng thời hạn, buộc những chủ thể có thẩm quyền phải


tuân thủ đúng các quy định của pháp luật về tạm giam đối với bị can mà không
được lạm quyền tùy tiện, trái pháp luật dẫn đến việc hạn chế quyền con người,
quyền công dân, bảo đảm cho các cơ quan tiến hành tố tụng hồn thành nhiệm vụ
của mình. Quyền con người, quyền cơng dân chỉ có thể bị hạn chế trên cơ sở quy
định của luật pháp [1]. Quyền con người trong TTHS, đặc biệt là người bị tạm
giam là vấn đề nhạy cảm và phức tạp, nó khơng chỉ dừng lại ở vấn đề lí luận mà
cịn là vấn đề thực tiễn của khoa học pháp luật TTHS. Quyền con người của
người bị tạm giam trong TTHS được thể hiện cụ thể trong các quyền và nghĩa vụ
tố tụng của họ được pháp luật TTHS ghi nhận và đảm bảo thực hiện [19, tr. 54].
BLTTHS đã quy định cụ thể, chặt chẽ góp phần nâng cao hiệu quả cho chủ thể có
thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam cũng như hạn chế khả năng lạm dụng
biện pháp tạm giam không đúng quy định.
+ Những quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về biện pháp tạm giam là
căn cứ pháp lý để người bị áp dụng biện pháp tạm giam và những người khác có
thể dựa vào đó để đánh giá việc áp dụng biện pháp tạm giam của cơ quan THTT
là đúng hay sai, việc áp dụng là có căn cứ, có hợp pháp và cần thiết hay không,
nếu phát hiện vi phạm pháp luật có quyền khiếu nại, tố cáo, bảo đảm quyền con
người, quyền công dân đối với bị can, bị cáo. Trong thực tiễn vẫn còn những
trường hợp cơ quan THTT áp dụng biện pháp tạm giam không đúng quy định
pháp luật dẫn tới ảnh hưởng quyền và lợi ích hợp pháp của bị can, bị cáo. Do đó
việc quy định cụ thể biện pháp tạm giam trong BLTTHS để mọi người nói

chung, bị can, bị cáo nói riêng có thể tìm hiểu, phát hiện cũng như đánh giá, bảo
vệ quyền và lợi ích của bản thân cũng như người khác trong trường hợp cơ quan
THTT ra quyết định, hành vi không đúng pháp luật. Quyền khiếu nại quyết định,
hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền địi hỏi các chủ thể này phải
tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật trong khi tiến hành tố tụng. Người có thẩm
quyền giải quyết khiếu nại phải xem xét và giải quyết trong thời hạn luật định,
kết quả xem xét giải quyết phải được thông báo bằng văn bản cho bị can biết.
Ngoài ra, người bị áp dụng biện pháp tạm giam trái pháp luật có thể được bồi


thường theo Luật trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017. Người bị tạm
giam oan sai có quyền được bồi thường thiệt hại về vật chất, tinh thần và được
khơi phục quyền, lợi ích hợp pháp cũng như được phục hồi danh dự.
- Ý nghĩa chính trị - xã hội

Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, bản chất của người thực hiện tội
phạm sẽ luôn muốn trốn tránh việc xử lý, khơng muốn nhận lỗi về mình hoặc có
thể sẽ tiếp tục phạm tội do đó ảnh hưởng đến các hoạt động khi giải quyết vụ án.
Việc quy định và áp dụng đúng đắn BPNC tạm giam đối với bị can góp phần vào
việc đấu tranh phịng chống tội phạm một cách kiên quyết, triệt để, cách ly bị can
ra khỏi đời sống xã hội trong thời gian nhất định để bảo đảm điều tra, truy tố, xét
xử. Có nhận định cho rằng trong TTHS có quy định về ngun tắc suy đốn vơ
tội vậy “nếu họ được coi là vơ tội thì thì tại sao họ lại bị tạm giam”. Tuy nhiên
xuất phát từ mục đích phịng ngừa và đấu tranh chống tội phạm thì biện pháp tạm
giam có ý nghĩa rất lớn cho hoạt động này, bảo đảm cho việc giải quyết vụ án đạt
hiệu quả cao nhất như bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập;
đảm bảo sự chính xác, khách quan của các hoạt động trong TTHS; ngăn ngừa
việc tiếp tục phạm tội hay tiêu hủy chứng cứ…đáp ứng yêu cầu mội tội phạm
được ngăn chặn, kịp thời xử lý để bảo vệ công lý, công bằng trong xã hội, củng
cố lòng tin của người dân vào hoạt động của CQĐT, VKS, Tịa án; góp phần ổn

định trật tự xã hội. Việc quy định và áp dụng đúng biện pháp tạm giam sẽ hạn
chế việc lạm quyền, hạn chế việc xâm phạm trái phép các quyền con người,
quyền công dân. Nhà nước đã quy định rõ nhiệm vụ, quyền hạn cũng như mối
quan hệ phối hợp, chế ước của CQĐT, VKS, Tòa án trong việc áp dụng biện
pháp tạm giam. Các cơ quan này áp dụng biện pháp tạm giam phải trong khuôn
khổ pháp luật, tôn trọng và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, bảo
đảm bình đẳng của các cá nhân trước pháp luật. Ngược lại, các cá nhân bị cơ
quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam có nghĩa vụ chấp
hành biện pháp này, nếu quyền và lợi ích bị xâm phạm thì có quyền khiếu nại
quyết định, lệnh tạm giam của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Với những


nội dung đó, có thể nói, việc quy định và áp dụng đúng đắn biện pháp tạm giam
đã góp phần xây dựng Nhà nước ta – nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì
dân [1] với những đặc điểm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân cơng,
phối hợp, kiểm sốt giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lực
nhà nước; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; sự bình đẳng của mọi cá nhân và
thể nhân trước pháp luật; bảo vệ công lý, quyền con người, quyền công dân; sự
cầm quyền của Đảng Cộng sản Việt Nam trong khuôn khổ Hiến pháp và
pháp luật [28]; góp phần thực hiện một trong những nhiệm vụ về cải cách tư pháp
đã được Đảng ta xác định đó là “coi trọng việc hồn thiện chính sách
hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp, đề cao hiệu quả phịng ngừa và tính hướng
thiện trong việc xử lý người phạm tội” và “xác định rõ căn cứ tạm giam; hạn chế
việc áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm; thu hẹp đối tượng
người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện pháp tạm giam”.[6]
1.1.2. Các yếu tố tác động đến việc áp dụng biện pháp tạm giam.

Việc áp dụng biện pháp tạm giam chịu sự quy định, ảnh hưởng của nhiều yếu
tố thuộc cả cơ sở hạ tầng lẫn kiến trúc thượng tầng pháp lý. Điều này làm cho việc
áp dụng biện pháp tạm giam phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau như:

a, Hoạt động xây dựng pháp luật liên quan biện pháp tạm giam:
Việc áp dụng biện pháp tạm giam có liên quan rất chặt chẽ với hoạt động xây
dựng pháp luật của các cơ quan có thẩm quyền. Để thực hiện và áp dụng biện pháp
tạm giam có hiệu quả trước hết phải có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, đồng bộ,
sát thực tế, phù hợp với các quy luật khách quan của sự phát triển kinh tế - xã hội,
phù hợp với những điều kiện kinh tế, chính trị, văn hóa xã hội...đồng thời các quy
định của pháp luật về tạm giam phải được xây dựng một các rõ ràng, dễ hiểu, không
định hướng chung chung, các cơ quan có thẩm quyền phải thống nhất để xây dựng
pháp luật về tạm giam tránh trường hợp chồng chéo dẫn đến những cách hiểu khác
nhau, khó thực hiện.
b, Trình độ chun mơn nghiệp vụ và phẩm chất đạo đức của cán bộ thực thi
pháp luật.


×