Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Luận văn Thạc sĩ Luật học: Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và thực tiễn áp dụng trong việc giải quyết tranh chấp ly hôn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (706.92 KB, 91 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

DƢƠNG THỊ THÙY LINH

CĂN CỨ LY HƠN THEO LUẬT HƠN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LY HÔN

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

DƢƠNG THỊ THÙY LINH

CĂN CỨ LY HƠN THEO LUẬT HƠN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LY HÔN

Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số: 8380101.04

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Văn Cừ

Hà Nội - 2019




LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi, với sự hƣớng
dẫn của PGS.TS Nguyễn Văn Cừ, Giảng viên Trƣờng Đại học Luật Hà Nội. Các
kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực.
Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh tốn tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
Tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội
xem xét để tơi có thể bảo vệ Luận văn của mình.
Tơi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Dƣơng Thị Thùy Linh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ................................................................................................................ 1
CHƢƠNG 1............................................................................................................ 7
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CĂN CỨ LY HƠN ........................................................ 7
1.1. Khái niệm ly hơn và căn cứ ly hôn ................................................................. 7
1.1.1. Khái niệm ly hôn .......................................................................................... 7
1.1.2. Khái niệm căn cứ ly hôn............................................................................. 11
1.1.3. Cơ sở và ý nghĩacủa việc quy định căn cứ ly hôn ...................................... 13
1.2. Khái lƣợc pháp luật Việt Nam về căn cứ ly hôn qua các giai đoạn lịch sử .. 14
1.2.1. Căn cứ ly hôn theo pháp luật thời kỳ phong kiến ...................................... 14
1.2.2. Căn cứ ly hôn thời kỳ Pháp thuộc .............................................................. 18
1.2.3. Căn cứ ly hôn thời kỳ sau Cách mạng tháng 8 năm 1945 đến nay ........... 21

1.3. Căn cứ ly hôn theo quy định của một số nƣớc trên thế giới ......................... 25
1.3.1. Căn cứ ly hôn theo quy định của Thái Lan ................................................ 25
1.3.2. Căn cứ ly hôn theo quy định của Cộng hòa Pháp ..................................... 27
CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN ÁP DỤNG CĂN CỨ LY HƠN THEO LUẬT HƠN
NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014 ..................................................................... 31
2.1. Căn cứ ly hôn trong trường hợp vợ, chồng thuận tình ly hơn ...................... 32
2.2. Căn cứ ly hôn trong trường hợp ly hôn theo yêu cầu của của một bên ........ 42
2.2.3. Trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác u cầu ly hơn ..................... 60
CHƢƠNG 3.......................................................................................................... 66
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CĂN CỨ LY HÔN .. 66
3.1. Một số vƣớng mắc, bất cập ........................................................................... 66
3.2. Kiến nghị hoàn thiện ..................................................................................... 72
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 83


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS: Bộ luật Dân sự
BLHS: Bộ luật Hình sự
BLTTDS: Bộ luật Tố tụng dân sự
HN&GĐ: Hơn nhân và gia đình
TAND: Tịa án nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ ngàn xƣa, gia đình Việt Nam đã mang truyền thống tốt đẹp với những
giá trị tinh hoa văn hóa dân tộc Lạc Hồng. Gia đình là tổ ấm mang lại hạnh phúc,
là sự hài hòa cho đời sống của mỗi thành viên trong gia đình, mỗi cá nhân trong
xã hội. Gia đình êm ấm, hạnh phúc sẽ là hành trang, là nền tảng để mỗi cá nhân

phát huy hết năng lực của mình, góp phần xây dựng đất nƣớc ổn định, phồn vinh
và phát triển. Ngày nay, trong bối cảnh đất nƣớc bƣớc sang giai đoạn phát triển
mới, cùng với tiến trình cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nƣớc và hội nhập quốc
tế, đất nƣớc ta đang chịu những tác động tích cực và tiêu cực, khơng chỉ về mặt
kinh tế mà cịn cả về mặt văn hóa, xã hội. Gia đình với tƣ cách là tế bào của xã
hội cũng khơng tránh khỏi sự tác động đa chiều đó: gia đình hạt nhân (hai thế hệ)
đang dần thay thế cấu trúc gia đình truyền thống (nhiều thế hệ); việc đề cao tự do
của cá nhân trong gia đình đã làm cho sự gắn kết giữa cha, mẹ, con và giữa các
thành viên khác có xu hƣớng giảm sút; quan hệ sở hữu, giao dịch đƣợc thực hiện
không chỉ nhằm đáp ứng các nhu cầu sinh hoạt thiết yếu của gia đình mà cịn
nhằm mục đích kinh doanh, thƣơng mại ngày càng phổ biến... Quan trọng hơn cả
đó là sự thiếu bền vững về hơn nhân, tình trạng ly thân, ly hơn gần đây có xu
hƣớng năm sau cao hơn năm trƣớc, đặc biệt trong các gia đình trẻ... Hơn nhân
tan vỡ khơng chỉ làm ảnh hƣởng đến gia đình, các thành viên trong gia đình mà
cịn ảnh hƣởng đến xã hội. Bởi gia đình là tế bào của xã hội, khi tế bào khơng
“khỏe” thì xã hội bị ảnh hƣởng nhiều mặt. Trƣớc kia xã hội Việt Nam coi ly hôn
nhƣ một hành vi phi đạo đức, phi chuẩn mực ảnh hƣởng đến danh dự, sự thăng
tiến của cá nhân. Hiện nay và trong tƣơng lai, dƣới ảnh hƣởng của những nhân tố

1


kinh tế xã hội mới, hiện tƣợng ly hôn sẽ đƣợc bình thƣờng hóa. Tuy nhiên, hệ
lụy để lại sau khi ly hôn là vô cùng lớn. Tiềm ẩn đằng sau những vụ ly hôn là
những yếu tố bất ổn, sự lỏng lẻo trong kết cấu của gia đình khi mà mỗi thành
viên đều có thể dễ dàng tự quyết định số phận của cuộc sống gia đình, vai trị,
trách nhiệm của ngƣời vợ, ngƣời chồng cũng dần bị xem nhẹ, sợi dây liên kết
tình cảm giữa vợ - chồng, bố mẹ - con cái ngày càng xa cách, dẫn đến sự bất ổn,
khủng hoảng trong cuộc sống xã hội. Chính vì lẽ đó, Đảng và Nhà nƣớc ta dành
sự quan tâm đặc biệt cho lĩnh vực HN&GĐ. Luật HN&GĐ năm 2014 đã có

nhiều quy định tiến bộ, bảo vệ quyền lợi của mọi thành viên trong gia đình,
hƣớng tới xây dựng gia đình hạnh phúc theo mơ hình xã hội chủ nghĩa, là căn cứ
để Tòa án giải quyết các vụ việc HN&GĐ một cách thấu tình đạt lý, tuy nhiên
thực tế hiệu lực của Luật HN&GĐ năm 2014 phát huy còn chƣa cao, một số quy
định còn bất cập, nhiều vấn đề còn thiếu sự điều chỉnh của luật...
Bên cạnh các quy định về điều kiện kết hôn, Luật HN&GĐ năm 2014 đã
quy định về căn cứ ly hôn trên nguyên tắc vừa đảm bảo quyền tự do ly hôn của
vợ chồng, vừa là cơ sở pháp lý chính đáng để Tịa án giải quyết ly hơn chính xác
theo bản chất của hôn nhân đã tan vỡ. Tuy nhiên, căn cứ ly hơn hiện nay rất
chung chung, khó xác định, ảnh hƣởng đến công tác xét xử ly hơn. Bởi vậy, với
mong muốn tìm hiểu rõ hơn về các căn cứ ly hôn, và nghiên cứu việc áp dụng
căn cứ ly hôn trong thực tiễn giải quyết các vụ án ly hơn của Tịa án, tơi đã lựa
chọn đề tài "Căn cứ ly hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và thực
tiễn áp dụng trong việc giải quyết tranh chấp ly hôn". Việc nghiên cứu đề tài này
nhằm làm rõ nội dung căn cứ ly hôn và việc áp dụng nội dung căn cứ ly hôn
trong việc giải quyết các tranh chấp ly hôn theo luật định. Trên cơ sở đó phát

2


hiện những vƣớng mắc, bất cập khi áp dụng giải quyết các vụ án ly hơn; từ đó
kiến nghị hồn thiện các quy định về căn cứ ly hôn theo pháp luật hiện hành.
2. Tình hình nghiên cứu
Một số cơng trình nghiên cứu khoa học, các bài báo đƣợc đăng trên các tạp
chí về HN&GĐ đề cập đến vấn đề ly hôn và căn cứ ly hôn: Bài viết "Những điều
cần biết về ly hôn" của tác giả Nguyễn Ngọc Điệp, Trần Đông Phong, Hồ Thị
Nệ, NXB Phụ nữ, 2001; Bài viết "Ly hôn nghiên cứu trƣờng hợp Hà Nội" của
tác giả Nguyễn Thanh Tâm, Trung tâm nghiên cứu khoa học về gia đình và phụ
nữ, Hà Nội, 2002; Bài viết “Căn cứ ly hôn trong cổ luật Việt Nam”, thạc sỹ
Nguyễn Thị Thu Vân, tạp chí Nhà nƣớc và pháp luật.- 8/2005.- Số 208.- Tr.5561;…

Một số luận văn thạc sỹ luật học đã nghiên cứu về căn cứ ly hôn: "Căn cứ ly
hôn và các trƣờng hợp ly hôn theo Luật Hơn nhân và gia đình năm 2000", của
tác giả Hà Thị Mai Hoa, năm 2000; "Căn cứ ly hơn theo Luật Hơn nhân và gia
đình năm 2000 và thực tiễn áp dụng pháp luật tại Tòa án nhân dân trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng", của tác giả Nguyễn Thị Thúy Kiều, năm 2013; "Căn cứ ly
hôn theo Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014" của tác giả Nguyễn Thị Thơm,
năm 2015.
Nhƣ vậy, đã có khơng ít bài viết, cơng trình khoa học, luận văn thạc sỹ
nghiên cứu pháp luật về ly hôn, căn cứ ly hôn. Tuy nhiên, thông qua việc nghiên
cứu đề tài “Căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 và thực tiễn áp dụng
trong việc giải quyết tranh chấp ly hôn”, tôi muốn chỉ ra những bất cập và kiến
nghị những giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về căn cứ ly hơn.
3. Phạm vi và mục đích nghiên cứu
3


Phạm vi nghiên cứu của đề tài: Nội dung căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ
Việt Nam năm 2014; Thực tiễn áp dụng căn cứ ly hôn trong việc giải quyết các
tranh chấp ly hôn qua một số vụ án cụ thể. Đề tài không nghiên cứu áp dụng căn
cứ ly hơn có yếu tố nƣớc ngồi.
Mục đích nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu cơ sở lý luận về ly hôn và căn
cứ ly hôn, áp dụng căn cứ ly hôn trong thực tiễn giải quyết các vụ án ly hôn theo
pháp luật HN&GĐ Việt Nam năm 2014; phát hiện vƣớng mắc, bất cập quy định
nội dung căn cứ ly hôn về lý luận và thực tiễn áp dụng; từ đó nêu các kiến nghị,
đề xuất giải pháp để hồn thiện căn cứ ly hôn theo pháp luật về HN&GĐ Việt
Nam.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu của đề tài, nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
gồm:
Thứ nhất, nghiên cứu những vấn đề khái quát chung về ly hôn, căn cứ ly

hôn gồm: khái niệm ly hôn, căn cứ ly hôn; cơ sở và ý nghĩa của việc quy định
căn cứ ly hôn; nghiên cứu căn cứ ly hôn qua các giai đoạn phát triển của lịch sử:
từ thời kỳ phong kiến, đến thời kỳ Pháp thuộc, từ năm 1945 đến nay; đồng thời
nghiên cứu căn cứ ly hôn theo quy định của pháp luật một số quốc gia nhƣ Pháp,
Thái Lan… để thấy những điểm giống nhau và khác nhau.
Thứ hai, nghiên cứu những quy định pháp luật hiện hành về căn cứ ly hơn;
phân tích một số vụ án Tịa án áp dụng căn cứ ly hôn để giải quyết tranh chấp ly
hôn, từ đó đƣa ra nhận định của cá nhân, chỉ ra những vƣớng mắc, bất cập trong
việc áp dụng căn cứ ly hôn.

4


Thứ ba, đƣa ra các kiến nghị, giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của
pháp luật về căn cứ ly hôn.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để đạt đƣợc các mục tiêu nghiên cứu mà đề tài đặt ra, những phƣơng pháp
đƣợc sử dụng để nghiên cứu luận văn gồm:
Phƣơng pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin về chủ nghĩa duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử; quan điểm, đƣờng lối, chính sách của Đảng, pháp luật
của nhà nƣớc về HN&GĐ.
Phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp diễn giải: Những phƣơng pháp này
đƣợc sử dụng để làm rõ các quy định của pháp luật về ly hôn và căn cứ ly hôn.
Phƣơng pháp đánh giá, phƣơng pháp so sánh: Những phƣơng pháp này
đƣợc sử dụng để đƣa ra ý kiến nhận xét quy định của pháp luật hiện hành có hợp
lý hay khơng, đồng thời nhìn nhận trong mối tƣơng quan của pháp luật các thời
kỳ hay các quy định pháp luật có liên quan và pháp luật của một số nƣớc khác
trên thế giới…
Phƣơng pháp quy nạp, phƣơng pháp diễn dịch: Những phƣơng pháp này
đƣợc sử dụng để triển khai các vấn đề liên quan đến căn cứ ly hôn, đặc biệt là

các vƣớng mắc, bất cập và các kiến nghị hồn thiện. Ví dụ: phƣơng pháp quy
nạp đƣợc sử dụng để đúc kết lại những bất cập từ các vấn đề thực tiễn áp dụng
căn cứ ly hôn để giải quyết các vụ án ly hôn; đƣa ra những kiến nghị mang tính
khái qt, súc tích, sau đó sử dụng phƣơng pháp diễn dịch để làm rõ nội dung
của kiến nghị đó…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

5


Kết quả đạt đƣợc của luận văn góp phần làm sáng tỏ phƣơng diện lý luận
của vấn đề ly hôn và căn cứ ly hôn, đồng thời làm sáng tỏ vấn đề căn cứ ly hôn
đƣợc áp dụng trong thực tiễn. Cụ thể: Xây dựng đƣợc khái niệm và đƣa ra những
tiêu chí cơ bản nhất để Tịa án xác định căn cứ ly hơn, phân tích thực tiễn áp
dụng các căn cứ ly hôn theo quy định của pháp luật hiện hành để giải quyết các
vụ án ly hôn, chỉ ra những bất cập của pháp luật và đƣa ra phƣơng hƣớng hoàn
thiện pháp luật về căn cứ ly hơn.
Ngồi ra, những giải pháp hồn thiện pháp luật là một kênh thông tin để các
cơ quan chức năng trong phạm vi, thẩm quyền của mình có thể tham khảo để sửa
đổi, bổ sung, hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tƣơng ứng. Bên cạnh đó, luận
văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích với đội ngũ giảng viên, sinh viên và có giá
trị đối với các cán bộ đang làm công tác xây dựng pháp luật về HN&GĐ ở Việt
Nam.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc
chia thành 3 chƣơng:
Chƣơng 1: Lý luận chung về căn cứ ly hôn
Chƣơng 2: Căn cứ ly hôn theo pháp luật hiện hành và thực tiễn áp dụng giải
quyết tranh chấp ly hơn
Chƣơng 3: Một số kiến nghị hồn thiện pháp luật về căn cứ ly hôn.


6


CHƢƠNG 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ CĂN CỨ LY HÔN
1.1. Khái niệm ly hôn và căn cứ ly hôn
1.1.1. Khái niệm ly hôn
Quan hệ hôn nhân với đặc điểm tồn tại lâu dài, bền vững cho đến suốt
cuộc đời con ngƣời vì nó đƣợc xác lập trên cơ sở tình u thƣơng, gắn bó giữa
vợ chồng. Tuy nhiên, trong cuộc sống vợ chồng, vì những lý do nào đó dẫn tới
giữa vợ chồng có mâu thuẫn sâu sắc đến mức họ không thể chung sống với nhau
nữa, vấn đề ly hôn đƣợc đặt ra để giải phóng cho vợ chồng và các thành viên
khác thốt khỏi mâu thuẫn gia đình. Ly hôn là mặt trái của hôn nhân nhƣng là
mặt không thể thiếu đƣợc khi quan hệ hôn nhân tồn tại chỉ là hình thức, tình cảm
vợ chồng đã thực sự tan vỡ.
Chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tƣ tƣởng của Nhà nƣớc xã hội chủ
nghĩa, dƣới chế độ xã hội này, hơn nhân đƣợc xây dựng hồn tồn theo chế độ
một vợ, một chồng, tự do, tiến bộ và bình đẳng. Pháp luật xã hội chủ nghĩa chỉ
thừa nhận quan hệ hôn nhân xây dựng trên cơ sở tình u chân chính giữa nam
và nữ, tự do và tự nguyện. Quyền tự do ấy biểu hiện trong việc tự do kết hôn và
tự do ly hôn. Theo Lênin: “Tự do ly hơn tuyệt khơng có nghĩa là làm “tan rã”
những mối liên hệ gia đình mà ngược lại, nó củng cố những mối liên hệ đó trên
những cơ sở dân chủ, những cơ sở duy nhất có thể có và vững chắc trong một xã
hội văn minh”[23, tr. 335]. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, hơn
nhân nói chung, ly hơn nói riêng là hiện tƣợng xã hội mang tính giai cấp. Nghĩa
là nhà nƣớc thơng qua pháp luật quy định chế độ hôn nhân phù hợp với ý chí của

7



nhà nƣớc. Các-Mác phê phán quan điểm vợ chồng chỉ chú ý đến hạnh phúc cá
nhân, ly hôn một cách tùy tiện:“Họ đứng trên quan điểm coi hạnh phúc cá nhân
của mình là mục đích của cuộc sống, họ chỉ nghĩ đến hai cá nhân mà quên mất
gia đình. Họ quên rằng, hầu như mọi sự tan vỡ của hôn nhân đều là sự tan vỡ
của gia đình và quên rằng, ngay cả khi đứng trên quan điểm thuần túy pháp lý,
hoàn cảnh của con cái và tài sản của chúng cũng không thể bị lệ thuộc vào sự xử
lý tùy tiện của bố mẹ, vào việc bố mẹ muốn sao làm vậy. Nếu như hôn nhân
không phải là cơ sở của gia đình thì nó cũng khơng phải là đối tượng của cơng
việc lập pháp, ví dụ như tình bạn chẳng hạn. Như vậy, chỉ có ý chí cá nhân, hay
nói đúng hơn là ý muốn tùy tiện của vợ chồng, là được chú ý; cịn ý chí của hôn
nhân, thực chất đạo đức của mối quan hệ này thì chưa được chú ý tới”[19, tr.
281].
Ở mỗi nƣớc khác nhau, dƣới mỗi thời kỳ khác nhau có những quan niệm
khác nhau về vấn đề ly hôn, cụ thể: Một số nƣớc cấm ly hôn: Quan niệm này
đƣợc chấp nhận trong rất nhiều hệ thống luật nguyên sơ và đƣợc coi là một trong
những quan niệm nền tảng của luật giáo hội về gia đình, khơng ít nƣớc Châu Âu
chỉ mới từ bỏ quan niệm này cách đây không lâu nhƣ: ở Ý từ năm 1975, ở Tây
Ban Nha từ năm 1982,...nghĩa là hôn nhân đƣợc xác lập và đƣợc duy trì chỉ nhờ
vào sự ƣng thuận lúc ban đầu, một khi đã ƣng thuận kết hôn, ngƣời kết hôn
không thể thay đổi ý chí, phải chấp nhận cuộc sống chung cho đến cuối đời. Nói
rõ hơn, kết hơn thì đƣợc, nhƣng ly hơn thì khơng đƣợc. Việc duy trì quan niệm
này trong luật cận đại và đƣơng đại của các nƣớc chủ yếu vì lý do tơn giáo. Trái
ngƣợc lại quan niệm trên, một số nƣớc cho phép tự do ly hôn: hệ thống tự do ly
hôn chủ trƣơng rằng hơn nhân khơng thể đƣợc duy trì, một khi vợ hoặc chồng
hoặc cả hai khơng cịn cảm thấy đƣợc thôi thúc bởi ý muốn chung sống với nhau.

8



Mỗi ngƣời phải có quyền tự do chấm dứt quan hệ hơn nhân, nhƣ đã có quyền tự
do xác lập quan hệ đó. Nếu cả vợ và chồng đều đồng ý ly hơn, thì càng tốt; nếu
khơng, mỗi ngƣời có quyền ly hôn chỉ bằng quyết định đơn phƣơng của mình.
Quyền tự do ly hơn đƣơc thiết lập trong luật La Mã thời kỳ cuối. Trong luật
đƣơng đại của nhiều nƣớc theo hệ thống Common law hoặc của các nƣớc Bắc
Âu, ly hơn theo ý chí đơn phƣơng đƣợc thừa nhận dƣới hình thức “ly hơn do
khơng hợp tính tình”, chỉ cần chứng minh rằng giữa vợ và chồng có sự khác biệt
về tính tình và sự khác biệt đó là nguyên nhân của những xung đột gay gắt giữa
hai ngƣời khiến cho cuộc sống chung không thể chịu đựng đƣợc, vợ hoặc chồng
có thể xin ly hơn và thẩm phán phải đáp ứng thuận lợi đối với yêu cầu ly hơn đó.
Mơ hình thứ ba nhƣ là sự dung hồ giữa hai mơ hình cấm ly hơn và tự do ly hơn
đó là ly hơn tự do dƣới sự kiểm sốt của Nhà nƣớc. Có thể coi ly hơn vẫn nằm
trong nội dung quyền dân sự của cá nhân; nhƣng u cầu ly hơn chỉ đƣợc Tồ án
tiếp nhận trong những trƣờng hợp đƣợc luật dự kiến. Yêu cầu ly hơn có thể do
vợ hoặc chồng hoặc cả vợ và chồng đƣa ra. Thẩm phán, về phần mình, có quyền
quyết định cho phép hay không cho phép ly hôn trên cơ sở đánh giá mức độ
chính đáng, hợp lý, hợp tình của u cầu ly hơn; ngay nếu nhƣ yêu cầu ly hôn rơi
đúng vào trƣờng hợp đƣợc luật dự kiến, thẩm phán có thể bác đơn xin ly hôn,
một khi xét thấy lý do ly hôn không vững chắc hoặc việc ly hơn có thể ảnh
hƣởng bất lợi nghiêm trọng đối với cuộc sống sau ly hôn của một trong hai
đƣơng sự (hoặc cả hai) hoặc đối với tƣơng lai của con cái, so với việc tiếp tục
quan hệ hôn nhân. Hệ thống ly hôn tự do dƣới sự kiểm soát của Nhà nƣớc cho
phép cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền can thiệp vào sự hình thành suy nghĩ của
vợ, chồng về vấn đề ly hôn đồng thời vẫn tơn trọng ý chí thực, nghiêm túc và

9


chắc chắn của vợ, chồng hoặc của cả hai về việc duy trì hay khơng duy trì cuộc
sống chung.

Việt Nam theo mơ hình thứ ba, ly hơn đƣợc thực hiện dƣới sự kiểm sốt
của nhà nƣớc. Ly hơn là một biện pháp chấm dứt hôn nhân đƣợc thừa nhận từ rất
sớm trong pháp luật Việt Nam, từ thời kỳ phong kiến, thời kỳ Pháp thuộc cho
đến nay. Theo từ điển luật học của Viện khoa học pháp lý - Bộ Tƣ pháp, ly hôn
đƣợc hiểu là: "chấm dứt quan hệ vợ chồng do TAND công nhận hoặc quyết định
theo yêu cầu của vợ hoặc chồng hoặc cả hai vợ chồng" [41, tr. 460]. Khoản 8
Điều 8 Luật HN&GĐ năm 2000 quy định: “Ly hôn là chấm dứt quan hệ hôn
nhân do Tịa án cơng nhận hoặc quyết định theo u cầu của vợ hoặc của chồng
hoặc cả hai vợ chồng”. Khoản 14 Điều 3 Luật HN&GĐ năm 2014 quy định: "Ly
hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp
luật của Tịa án". Đây là điểm mới trong quy định về ly hơn tại Luật HN&GĐ
năm 2014, khơng cần phải có thêm cụm từ “theo yêu cầu của vợ hoặc của chồng
hoặc cả hai vợ chồng”, bởi vì theo Khoản 3 Điều 51 Luật HN&GĐ năm 2014
quy định: ngồi vợ, chồng có quyền u cầu ly hơn thì cịn có một số chủ thể
khác khơng phải là vợ, chồng nhƣng cũng có quyền yêu cầu ly hôn trong một số
trƣờng hợp đặc biệt, đó là cha, mẹ, ngƣời thân thích khác có quyền u cầu Tịa
án giải quyết ly hơn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh
khác mà không thể nhận thức, làm chủ đƣợc hành vi của mình, đồng thời là nạn
nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hƣởng nghiêm
trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ.
Nhƣ vậy, về mặt pháp lý, ly hôn là việc chấm dứt quan hệ hôn nhân trong
lúc cả vợ và chồng đều còn sống. Đây là biện pháp cuối cùng mà pháp luật cho

10


phép thực hiện trong trƣờng hợp cuộc sống vợ chồng lâm vào tình trạng khủng
hoảng mà khơng thể đƣợc khắc phục bằng bất kỳ biện pháp nào khác.
1.1.2. Khái niệm căn cứ ly hôn
Nếu nhƣ kết hôn là khởi đầu để xác lập nên quan hệ vợ chồng thì ly hơn

có thể coi là điểm cuối của hơn nhân khi quan hệ này thực sự tan rã. Khi đời
sống hôn nhân khơng thể duy trì đƣợc nữa thì ly hơn là một giải pháp cần thiết
cho cả đôi bên vợ chồng. Ly hơn giải phóng cho các cặp vợ chồng và những
thành viên trong gia đình thốt khỏi xung đột, mâu thuẫn, bế tắc trong cuộc sống.
Bằng các quy định về ly hôn, Nhà nƣớc cũng hƣớng tới bảo vệ lợi ích của gia
đình, của xã hội khi xác định những điều kiện cho phép chấm dứt quan hệ hôn
nhân trƣớc pháp luật, gọi chung là căn cứ ly hôn.
Trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử, ở mỗi chế độ xã hội khác
nhau, giai cấp thống trị đều thông qua Nhà nƣớc, bằng pháp luật quy định chế độ
hơn nhân phù hợp với ý chí của Nhà nƣớc. Tức là Nhà nƣớc bằng pháp luật quy
định những điều kiện nào xác lập quan hệ vợ chồng, và những điều kiện nào
đƣợc phép xóa bỏ quan hệ hơn nhân. Do có quan điểm khác nhau về quy định ly
hơn và giải quyết ly hôn, cho nên căn cứ ly hôn đƣợc quy định trong pháp luật
của Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa có nội dung khác về bản chất so với căn cứ ly
hôn do Nhà nƣớc phong kiến, tƣ bản đặt ra. Pháp luật của nhà nƣớc phong kiến,
tƣ sản quy định có thể cấm ly hơn, khơng quy định căn cứ ly hôn mà chỉ công
nhận quyền vợ chồng đƣợc sống tách biệt nhau (biệt cƣ) bằng chế định ly thân;
bằng hạn chế quyền ly hôn theo thời gian xác lập quan hệ hôn nhân; theo độ tuổi
của vợ chồng; và thƣờng quy định xét xử ly hôn dựa trên cơ sở lỗi của vợ, chồng
hay của cả hai vợ chồng,đó là các điều kiện có tính chất hình thức, phản ánh

11


nguyên nhân mâu thuẫn vợ chồng, chứ không phải bản chất ly hôn đã tan vỡ.
Ngƣợc lại, pháp luật của Nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa công nhận quyền tự do ly
hơn chính đáng của vợ chồng, khơng thể cấm hoặc đặt ra những điều kiện nhằm
hạn chế quyền tự do ly hôn. Ly hôn dựa trên sự tự nguyện của vợ chồng, nó là
kết quả của hành vi có ý chí của vợ chồng khi thực hiện quyền ly hơn của
mình.Việc giải quyết ly hơn là tất yếu đối với quan hệ hôn nhân đã thực sự tan

vỡ, điều đó là hồn tồn có lợi cho vợ, chồng, con cái và các thành viên trong gia
đình. Các-Mác đã viết: "Sự ly hôn chỉ là việc xác nhận một sự kiện: cuộc hôn
nhân này là cuộc hôn nhân đã chết, sự tồn tại của nó chỉ là cái vỏ bề ngồi và là
sự giả dối. Đương nhiên, khơng phải sự tùy tiện của nhà lập pháp, cũng không
phải sự tùy tiện của những cá nhân, mà chỉ bản chất của sự kiện mới quyết định
được là cuộc hôn nhân này đã chết hoặc chưa chết. Bởi vì… việc xác nhận sự
kiện chết là tùy thuộc vào thực chất của vấn đề chứ không phải vào nguyện vọng
của những bên hữu quan… Nhà lập pháp chỉ có thể xác định những điều kiện
trong đó hơn nhân được phép tan vỡ, nghĩa là trong đó, về thực chất hơn nhân tự
nó đã bị phá vỡ rồi, việc Tòa án cho phép phá bỏ hơn nhân chỉ có thể là việc ghi
biên bản sự tan vỡ bên trong của nó" [18, tr. 119-121].
Pháp luật Việt Nam là pháp luật xã hội chủ nghĩa nênkhái niệm căn cứ ly
hơn có thể hiểu là: những tình tiết hay các điều kiện pháp lý do pháp luật quy
định, chỉ khi có những tình tiết, hay điều kiện đó, thì Tịa án mới quyết định cho
vợ chồng ly hôn. Hoặc căn cứ ly hôn là những yếu tố để xác định đúng tình trạng
tan vỡ thực sự về tình cảm, đời sống vợ chồng, mục đích của hơn nhân từ đó Tịa
án cho phép vợ chồng ly hôn.

12


Theo tác giả có thể định nghĩa: “Căn cứ ly hôn là cơ sở pháp lý đƣợc luật
định dựa trên cơ sở hơn nhân tan vỡ, dựa vào đó để Tịa án giải quyết các vụ việc
ly hơn”.
1.1.3. Cơ sở và ý nghĩacủa việc quy định căn cứ ly hôn
Dựa trên nguyên tắc bảo đảm quyền tự do hôn nhân bao gồm quyền tự do
kết hôn và tự do ly hôn, sự điều chỉnh các quy định của pháp luật HN&GĐ về
căn cứ để ly hôn là hết sức cần thiết.
Hệ thống pháp luật HN&GĐ của nhà nƣớc ta qua các giai đoạn phát triển
của lịch sử đã quy định căn cứ ly hơn ngày càng hồn thiện, phù hợp, là cơ sở

pháp lí để tịa án giải quyết các án kiện ly hôn. Sắc lệnh số 159/SL quy định căn
cứ ly hôn vẫn dựa trên cơ sở “lỗi” của vợ chồng. Sau đó, Luật HN&GĐ năm
1959 (Điều 26), Luật HN&GĐ năm 1986 (Điều 40), Luật HN&GĐ năm 2000
(Điều 89) và hiện nay là Luật HN&GĐ năm 2014 (Điều 55 và Điều 56) đã quy
định căn cứ ly hôn theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, dựa vào bản chất
của quan hệ hôn nhân đã tan vỡ.
Nhƣ vậy, căn cứ ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014 của Nhà nƣớc ta
đƣợc quy định dựa trên quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, có cơ sở khoa
học và thực tiễn kiểm nghiệm trong nhiều năm, từ khi Nhà nƣớc ta ban hành
Luật HN&GĐ năm 1959. Khi giải quyết ly hơn, cần hiểu điều đó nói lên một
thực trạng hôn nhân đã tan vỡ, quan hệ vợ chồng không thể tồn tại đƣợc nữa, vì
“sự tồn tại của nó chỉ là bề ngồi và giả dối” và ly hơn là một giải pháp tích cực
để giải phóng cho vợ chồng cũng nhƣ các thành viên khác trong gia đình khỏi
cảnh “bất bình thƣờng” đó, đảm bảo lợi ích của vợ chồng, của gia đình và xã hội.
Quan điểm của nhà nƣớc ta là tôn trọng quyền tự do ly hôn và giải quyết ly hôn

13


dựa vào thực chất của quan hệ hơn nhân có cịn tồn tại hay khơng, hay sự tồn tại
chỉ là hình thức bề ngồi. Do vậy, việc quy định căn cứ ly hơn là rất cần thiết và
quan trọng. Nó thể hiện quan điểm của nhà nƣớc ta về vấn đề này. Việc quy định
căn cứ ly hôn rõ ràng là cơ sở quan trọng để Tòa án, Thẩm phán giải quyết việc
ly hơn đúng đắn, thấu tình đạt lý, có ý nghĩa quan trọng giúp vợ chồng nhận
thức, điều chỉnh hành vi của mình để có thể dàn xếp, thỏa thuận trƣớc khi đƣa ra
quyết định ly hơn, góp phần bình ổn quan hệ hơn nhân, bảo vệ và thúc đẩy sự
phát triển của xã hội, củng cố chế độ một vợ, một chồng, tự nguyện, tiến bộ.
1.2. Khái lƣợc pháp luật Việt Nam về căn cứ ly hôn qua các giai đoạn
lịch sử
1.2.1. Căn cứ ly hôn theo pháp luật thời kỳ phong kiến

Trong lịch sử tồn tại và phát triển hàng nghìn năm, các nhà nƣớc quân chủ
và phong kiến ở nƣớc ta đã nhận thức đƣợc vai trò của luật pháp và quan tâm,
đầu tƣ cho việc ban hành pháp luật. Hệ thống pháp luật Việt Nam thời kỳ này
gồm các bộ luật tổng hợp và các văn bản pháp luật khác nhƣ: Chiếu, Chỉ, Lệ,
Lệnh, Dụ, Sắc…Trong đó, các bộ luật: Hình thƣ (thời Lý), Quốc triều Hình luật
(thời Trần), Quốc triều Hình luật (gịn gọi là Bộ luật Hồng Đức - thời Lê), và
Hoàng Việt Luật lệ (gòn gọi là Bộ luật Gia Long - Thời Nguyễn) là những Bộ
luật cổ tiêu biểu nhất đƣợc xây dựng và ban hành trong lịch sử Việt Nam từ thế
kỷ XI đến thế kỷ XIX. Trong đó Bộ luật Hồng Đức và Bộ luật Gia Long là 02 bộ
luật điển hình của thời kỳ phong kiến: Bộ luật Hồng Đức là Bộ luật có những
thành tựu to lớn, có những nét riêng biệt, thể hiện độc đáo bản sắc dân tộc và
tính độc lập của một quốc gia có chủ quyền. Đây là Bộ luật đã khẳng định đƣợc
giá trị và vị thế của mình trong lịch sử hệ thống pháp luật của dân tộc và trên thế

14


giới bởi những giá trị tiến bộ của nó vƣợt trƣớc thời đại bấy giờ, và mang tính
nhân đạo, nhân văn sâu sắc của ngƣời Việt. Bộ luật Gia Long đƣợc thiết lập vào
đầu thế kỷ XIX, là triều đại cuối cùng trong lịch sử chế độ phong kiến nƣớc ta.
Do đó, triều Nguyễn có điều kiện tiếp thu nền lập pháp của các triều đại trƣớc.
Pháp luật dƣới triều Nguyễn vì thế là nền luật pháp hồn bị dƣới thời phong kiến
ở Việt Nam. Những quy định về HN&GĐ của 02 bộ luật này có sự phát triển đi
trƣớc thời đại.
Ngƣời Việt Nam xƣa và nay, về đạo lý luôn luôn mong muốn cuộc hôn
nhân lâu dài, bền vững. Tuy nhiên, vì một số lý do mà hơn nhân khơng thể tiếp
tục. Để bảo vệ lợi ích quốc gia, lợi ích gia đình, lợi ích của ngƣời đàn ơng, bảo
vệ phong tục tập quán cổ xƣa… Pháp luật phong kiến cũng thừa nhận việc chấm
dứt hôn nhân do những nguyên nhân khác nhau: do vi phạm điều kiện thủ tục kết
hôn, do một ngƣời chết và do ly hôn. Những quy định về ly hơn đã tính đến sự

bảo vệ lợi ích của ngƣời phụ nữ. Cũng nhƣ pháp luật hiện nay, để vợ chồng đƣợc
Tòa án chấp nhận ly hôn phải đảm bảo các điều kiện ly hôn hay cịn gọi là các
căn cứ ly hơn. Trong pháp luật Việt Nam thời kỳ phong kiến, các căn cứ ly hôn
thƣờng đƣợc biết đến với tên gọi “duyên cớ ly hơn”. Nhìn chung, các căn cứ ly
hơn trong thời kỳ phong kiến thấm nhuần sâu sắc tƣ tƣởng Nho giáo, chúng đƣợc
quy định dựa trên sự bất bình đẳng giữa vợ chồng và nhằm mục đích bảo vệ
quyền lợi gia đình, gia tộc hơn là quyền lợi cá nhân nên chúng đƣợc chia làm các
loại: rẫy vợ, ly hôn bắt buộc và ly hơn thuận tình.
Thứ nhất, rẫy vợ: là việc ngƣời chồng đƣợc đơn phƣơng bỏ vợ ngoài tầm
kiểm soát của tất cả các thiết chế xã hội. Điều 310 Bộ luật Hồng Đức quy định,
nếu ngƣời vợ phạm phải một trong các điều "thất xuất" thì chồng phải bỏ vợ,
không bỏ sẽ bị tội biếm. Tuy Bộ luật Hồng Đức không thống kê rõ các trƣờng
15


hợp nào đƣợc coi là "thất xuất" nhƣng Điều 108 Bộ Luật Gia Long đã nêu rõ, đó
là bảy trƣờng hợp sau: Thứ nhất, lỗi khơng có con, nhất là con trai. Thứ hai do
ngƣời vợ “dâm dật”, đƣợc hiểu bao gồm những hành vi lẳng lơ, dâm đãng của
phụ nữ có chồng. Thứ ba, con dâu bất kính với cha mẹ chồng. Thứ tƣ, ngƣời đàn
bà nhiều lời. Thứ năm là ngƣời phụ nữ có tính đố kỵ ghen tuông. Nguyên nhân
bởi luật pháp thời này cho phép ngƣời đàn ông đƣợc chung sống nhƣ vợ chồng
với nhiều phụ nữ để duy trì dịng giống. Vì vậy, sự đố kỵ của ngƣời vợ bị cho là
sẽ làm hại trật tự trong đại gia đình. Hai trƣờng hợp cịn lại là “đạo thiết” - trộm
cắp tài sản trong gia đình và “ác tật” cũng khiến ngƣời vợ bị chồng có quyền ly
hôn. Tuy nhiên cổ luật cũng quy định ba trƣờng hợp là “tam bất khứ” mà ngƣời
chồng không đƣợc bỏ vợ, dù rằng ngƣời vợ đã phạm lỗi "thất xuất" gồm: khi vợ
đã để tang cha mẹ chồng đủ 3 năm; khi lấy nhau thì nghèo về sau cùng chung tay
làm ăn trở nên giàu có hoặc khi lấy nhau cịn có cha mẹ, anh em, họ hàng nhƣng
khi bỏ nhau ngƣời vợ khơng cịn ai thân thích. Qua đây ta thấy tính nhân đạo,
bác ái của ngƣời Việt Nam phần nào đƣợc thể hiện đối với ngƣời phụ nữ, xuất

phát từ phong tục tập quán tốt đẹp của ngƣời Việt Nam mà quyền, lợi ích cơ bản
của ngƣời phụ nữ đƣợc bảo vệ.
Nhƣ vậy, cổ luật quy định rẫy vợ là căn cứ để ngƣời chồng đƣợc ly hôn,
quyền bỏ vợ của ngƣời chồng và những trƣờng hợp chồng không đƣợc bỏ vợ.
Thứ hai, ly hôn bắt buộc: Ngoài các trƣờng hợp "thất xuất", “tam bất
khứ”, cổ luật Việt Nam cịn quy định khi việc kết hơn vi phạm các điều kiện thiết
yếu của hơn nhân thì vợ chồng bị buộc phải ly hôn. Luật không quy định bằng
cách thống kê các điều kiện thiết yếu của hôn nhân cũng nhƣ quyền và nghĩa vụ
cụ thể của vợ chồng, mà luật chỉ can thiệp khi có sự vi phạm các điều kiện hay
nghĩa vụ này. Bộ luật Hồng Đức quy định buộc phải ly hôn do hôn nhân đã vi
16


phạm các quy định cấm kết hôn (Các Điều 317, 318, 323, 324, 334), cấm kết hơn
khi đang có tang cha, mẹ hay chồng (Điều 317), cấm kết hôn khi ông, bà, cha
hay mẹ đang bị giam cầm, tù tội (Điều 318), cấm anh (em) lấy vợ góa của em
(anh), trị lấy vợ góa của thầy (Điều 324)... Điều 308 quy định ngƣời vợ có
quyền trình quan xin ly hơn khi: chồng đã bỏ lửng vợ 5 tháng không đi lại (có
quan xã làm chứng), trừ khi chồng có việc phải đi xa hay Điều 333 nếu con rể
lấy điều thị phi mắng nhiếc cha mẹ vợ. Bộ luật Gia Long quy định tại Điều 108
khi vợ chồng phạm phải điều "nghĩa tuyệt" thì buộc phải ly hơn. Ở lỗi "nghĩa
tuyệt", cổ luật cho phép đoạn tuyệt ân nghĩa vợ chồng nếu vợ mƣu sát chồng,
hoặc chồng bán vợ làm nô lệ, cho thuê vợ, hay cầm cố vợ; hoặc ngƣời chồng
đem ngƣời vợ ngoại tình gả bán cho tình nhân của vợ. Nếu ngƣời vợ phạm vào
lỗi "nghĩa tuyệt" thì nhất định phải chia tay, nếu khơng ngƣời chồng sẽ bị đánh
80 trƣợng.
Thứ ba, thuận tình ly hơn: Điều 167 Bộ luật Hồng Đức quy định rõ hình
thức thuận tình ly hơn: Theo đó, hai vợ chồng bất hịa thuận nguyện xin ly dị, thì
tờ ly hơn phải tay viết tay ký, mà niên hiệu cùng là giáp lai khép lại thành một
tờ. Giấy ly hôn đƣợc làm dƣới hình thức hợp đồng, ngƣời vợ và ngƣời chồng

mỗi bên giữ một bản. Dƣới chữ niên hiệu và ngày, chồng ký họ tên, vợ điểm chỉ;
hoặc muốn mƣợn ngƣời viết thay cũng đƣợc.Điều 284 Bộ luật Gia Long quy
định thuận tình ly hơn nhƣ sau: "Nếu vợ hoặc chồng trẹo ý khơng vui nhau, cả
hai đều muốn ly dị, tình thì khơng hợp, ân đã lìa thì khơng thể nào hịa lại được,
cho phép họ ly dị, khơng bị tội". Nhƣ vậy, pháp luật thời Nguyễn cho phép vợ
chồng đƣợc thuận tình ly hơn khi: ăn ở khơng hịa hợp, tính tình xung
khắc… Con cái mang họ cha và sẽ ở lại với ngƣời cha trừ khi hai vợ chồng thỏa
thuận để ngƣời con nào theo mẹ. Trƣờng hợp không có con, nếu ngƣời đàn bà
17


khơng phạm lỗi gì thì đƣợc lấy lại tài sản của riêng mình. Nếu có con, dù bị
chồng bỏ hay thuận tình ly hơn, tất cả tài sản trong nhà do ngƣời chồng quản lý.
Ngƣời vợ chỉ lấy lại quần áo và đồ vật riêng. Ngƣời chồng có thể "tùy tâm" giao
thêm cho vợ một ít tiền.
Trải qua 1000 năm Bắc thuộc có lẽ dấu ấn lớn nhất mà chính quyền đơ hộ
để lại cho nƣớc Đại Việt đó là mơ hình tổ chức bộ máy nhà nƣớc theo kiểu quân
chủ chuyên chế, kéo theo đó là sự biến đổi của pháp luật để phù hợp với hoàn
cảnh lịch sử. Pháp luật phong kiến Việt Nam đã có những thành tựu to lớn nổi
bật trong đó có lĩnh vực HN&GĐ. Quan hệ HN&GĐ có những nét độc đáo tiến
bộ và có tính chất vƣợt thời đại cịn ảnh hƣởng đến ngày nay. Bên cạnh đó cịn
có những điểm hạn chế do tồn tại xã hội quyết định, đó là quan điểm trọng nam
khinh nữ. Căn cứ ly hôn dƣới thời kỳ phong kiến đƣợc quy định rất đa dạng,
hoặc ngƣời chồng có thể đơn phƣơng ly hơn bắt nguồn ở lễ giáo phong kiến,
hoặc 2 vợ chồng thuận tình ly hơn trên cơ sở thiếu tình thƣơng u giữa hai vợ
chồng, hoặc bắt buộc phải ly hơn đó là sự tuyệt nghĩa phu phụ [25, tr. 91].
1.2.2. Căn cứ ly hơn thời kỳ Pháp thuộc
Trong thời kì Pháp thuộc, với chính sách “chia để trị” thực dân Pháp chia
nƣớc ta thành ba miền và ở từng miền cho ban hành và áp dụng các bộ luật riêng
để điều chỉnh các quan hệ hơn nhân và gia đình, trong đó có các quy định về ly

hôn, căn cứ ly hôn. Ở Bắc Kỳ áp dụng Bộ luật Dân sự năm 1931 còn đƣợc gọi là
Dân luật Bắc Kỳ. Ở Trung Kỳ áp dụng Bộ luật Dân sự năm 1936 còn đƣợc gọi là
Dân luật Trung Kỳ. Ở Nam Kỳ cho ban hành tập Dân luật giản yếu Nam kỳ năm
1883 còn đƣợc gọi là Dân luật giản yếu Nam Kỳ. Hôn ƣớc đƣợc ghi nhận trong
Dân luật Bắc kỳ, Dân luật Trung kỳ, riêng tập Dân luật giản yếu Nam kỳ không

18


có ghi nhận về hơn ƣớc cũng nhƣ vấn đề tài sản vợ chồng tuy nhiên án lệ ở Nam
kỳ trong thời kì này lại “ln ln nhắc lại ngun tắc tự do lập hơn ƣớc mà các
Tịa án Pháp coi là lẽ đƣơng nhiên đƣợc áp dụng trong khi khơng có luật viết”.
Về kỹ thuật lập pháp có thể thấy cả ba bộ luật này đều ảnh hƣởng của pháp luật
Pháp. Các quy định điều chỉnh quan hệ hôn nhân đều là chế định của luật dân sự.
Về mặt nội dung, xét một cách tổng quát, bộ Dân luật Bắc kỳ và bộ Dân luật
Trung kỳ đều phản ánh phong tục, tập quán truyền thống của Việt Nam về
HN&GĐ. Riêng bộ Dân luật giản yếu Nam kỳ chịu nhiều ảnh hƣởng của Bộ luật
dân sự Pháp năm 1804 nên có nhiều điểm cách tân theo quan niệm của các nhà
làm luật phƣơng Tây.
Tại Điều 118 Bộ dân luật Bắc kỳ, Điều 155 Bộ dân luật Trung kỳ quy
định: Ly hơn phải do tịa án xét xử, phải có những lý do đã đƣợc quy định trong
luật, hai vợ chồng hoặc một trong hai vợ chồng có thể xin ly hôn (Điều 116, 117
Dân luật Bắc kỳ và Điều 115, 116 Dân luật Trung kỳ). Cả bộ dân luật Bắc kỳ và
Bộ Dân luật Trung kỳ đã chia căn cứ ly hôn ra làm 3 loại:
Thứ nhất, chồng xin ly hơn vợ vì các dun cớ sau: vợ ngoại tình, ngƣời
vợ thứ đánh chửi, hành hạ vợ chính; vợ tự ý bỏ về nhà mẹ đẻ mặc dù đã đƣợc
chồng đến gọi về nhà chồng. Tuy nhiên hai bộ luật này cũng quy định cụ thể
trƣờng hợp việc bỏ nhà ra đi của vợ là do chồng có thái độ, cách xử xự khiến
cuộc sống chung trở nên bức bối hoặc khơng thể chấp nhận đƣợc nữa thì khơng
đƣợc coi là căn cứ ly hôn.

Thứ hai, vợ xin ly hôn chồng vì các dun cớ sau: Ngƣời chồng khơng
thực hiện nghĩa vụ cấp dƣỡng cho con; chồng bỏ nhà hơn hai năm (Bộ Dân luật
Bắc kỳ), và hơn một năm (Bộ Dân luật Trung kỳ) mà khơng có lý do chính đáng;

19


chồng đuổi vợ ra khỏi nhà mà khơng có lý do chính đáng; chồng làm rối loạn trật
tự thê thiếp vợ chính, vợ thứ (Điều 119 Dân luật Bắc kỳ và Điều 118 Dân luật
Trung kỳ).
Thứ ba, những duyên cớ cả vợ và chồng cùng xin ly hơn, đó là: Bên nọ
quá khắc hành hạ, chửi rủa thậm tệ đối với bên kia, hoặc với tổ phụ bên kia; vì
một bên can án trọng tội; vì một bên vơ hạnh làm nhơ nhuốc đến nỗi bên kia
không thể ở chung đƣợc; vì một bên bị tâm thần mà ai cũng biết hoặc phải ở suốt
đời trong bệnh viện (Điều 120 Dân luật Bắc kỳ và Điều 119 dân luật Trung kỳ).
Vợ có thể xin ly hơn mà khơng cần chồng cho phép. Việc tự rẫy vợ bị cấm (Điều
116 Dân luật Bắc kỳ, Điều 115 Dân luật Trung kỳ).
Dân luật giản yếu Nam kỳ năm 1883 cũng quy định những duyên cớ ly
hôn của ngƣời chồng, ngƣời vợ và của cả hai vợ chồng, nhƣng đối với việc tự
rẫy vợ thì quy định khơng rõ ràng. Thiên thứ IV quy định: "Tất cả các cuộc hôn
nhân chỉ chấm dứt do vợ hay chồng chết hoặc do ly hôn" và tiếp theo là các
duyên cớ ly hôn. Nhƣng ở cuối thiên thứ V, khi nói về hiệu lực của giá thú lại có
quy định: "Ngƣời chồng chỉ có thể rẫy vợ trong các trƣờng hợp đƣợc luật dự
liệu".
Cả ba bộ luật đều quy định "ngoại tình của ngƣời vợ" là duyên cớ để
ngƣời chồng xin ly hôn. Dân luật giản yếu Nam kỳ năm 1883 vẫn giữ quy định
"tam bất khứ" của Bộ luật Gia Long, nhƣng lại trừ trƣờng hợp "vợ ngoại tình, bị
phạt về trọng tội hay tự ý bỏ nhà chồng".
Về thuận tình ly hơn, Điều 121 Dân luật Bắc kỳ quy định phải có điều
kiện là đã chung sống với nhau 2 năm. Riêng Điều 120 Dân luật Trung kỳ quy

định điều kiện trên là 5 năm và nếu cha mẹ là ngƣời ƣng thuận việc kết hôn mà

20


×