Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

Áp dụng pháp luật về thực hành quyền công tố đối với vụ án xâm phạm sức khỏe của con người từ thực tiễn huyện hoằng hóa, tỉnh thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (369.98 KB, 76 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

DƯƠNG TIẾN TRUNG

ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI VỤ ÁN
XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA CON NGƯỜI TỪ THỰC TIỄN HUYỆN HOẰNG
HÓA, TỈNH THANH HÓA

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và luật hành chính
Mã số :

8.38.01.02

Người hướng dẫn khoa học: T.S Nguyễn Xuân Hưởng

HÀ NỘI - NĂM 2021


LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng
tôi.
Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kì cơng trình
nào khác. Các số liệu trong Luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng được
trích dẫn đúng theo quy định.
Tơi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luận văn
này.

Tác giả Luận văn



Dương Tiến Trung


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN

BLHS
CQĐT

:
:

Bộ luật Hình sự
Cơ quan điều tra

ĐTV

:

Điều tra viên

HĐXX

:

Hội đồng xét xử

KSV

:


Kiểm sát viên

TNHS

:

Trách nhiệm hình sự

TTHS

:

Tố tụng hình sự

VKSND

:

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC

:

Viện kiểm sát nhân dân Tối Cao

XHCN

:


Xã hội chủ nghĩa


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng số 2.1: Số lượng vụ án về tội xâm phạm sức khỏe con người khởi tố
từ năm 2015 – 2019.
Bảng số 2.2: Số lượng vụ án về tội xâm phạm sức khỏe con người trên địa
bàn huyện Hoằng Hóa bị tạm đình chỉ, đình chỉ điều tra trong giai đoạn điều tra từ
năm 2015 – 2019.
Bảng số 2.3: Số lượng vụ án về tội xâm phạm sức khỏe con người trên địa
bàn huyện Hoằng Hóa khi kết thúc điều tra được Viện kiểm sát truy tố từ năm
2015 – 2019.
Bảng số 2.4: Số lượng các vụ án về tội xâm phạm sức khỏe của con người
khác trên địa bàn huyện Hoằng Hóa mà VKS truy tố bị tạm đình chỉ, đình chỉ
trong giai đoạn xét xử từ năm 2015 - 2019


MỤC LỤC
CHƯƠNG 1:MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN VÀ QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ THỰC
HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA CON
NGƯỜI
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của áp dụng pháp luật về thực hành quyền
công tố đối với các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người
1.1.1. Khái niệm
1.1.2. Đặc điểm
1.1.3. Vai trò
1.2. Quy định của pháp luật về thực hành quyền công tố đối với các vụ án xâm
phạm sức khỏe của con người

1.3. Mối quan hệ giữa thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật đối với các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người
CHƯƠNG 2:THỰC TIỄN ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ
ĐỐI VỚI CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA CON NGƯỜI TẠI HUYỆN HOẰNG
HÓA,TỈNH THANH HÓA
2.1.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội và tổ chức bộ máy, cán bộ của VKSND
huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa ảnh hưởng đến áp dụng pháp luật thực hành
quyền công tố đối với các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người
2.1.2 Đặc điểm tình hình Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa

2.2. Thực trạng áp dụng pháp luật thực hành quyền công tố đối với các vụ án xâm
phạm sức khỏe của con người trên địa bàn huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa
2.2.1. Những kết quả đạt được
2.2.2. Những tồn tại, hạn chế
2.2.3. Nguyên của hhững hạn chế, bất cập


CHƯƠNG 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ

ÁP DỤNG

PHÁP LUẬT TRONG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI

VỚI CÁC

VỤ ÁN XÂM PHẠM SỨC KHỎE CỦA CON NGƯỜI TRÊN

ĐỊA BÀN

HUYỆN HOẰNG HÓA, TỈNH THANH HÓA.

3.1. Giải pháp chung
3.1.1. Phải triệt để tuân thủ pháp luật trong quá trình thực hành quyền công tố đối
với các tội xâm phạm sức khỏe con người.
3.1.2. Hoàn thiện quy định của pháp luật
3.1.3. Tăng cường hướng dẫn việc áp dụng pháp luật liên quan đến giải quyết các
vụ án xâm hại sức khỏe người khác.
3.1.4. Hoàn thiện kỹ năng áp dụng pháp luật.
3.1.5. Một số giải pháp khác.
3.2. Giải pháp đối với Viện kiếm sát nhân dân tỉnh Thanh Hóa và huyện Hoằng
Hóa
3.1. Quan điểm tăng cường áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố đối
với các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người trên địa bàn huyện Hoằng Hóa,
tỉnh Thanh Hóa.
3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố
đối với các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người trên địa bàn huyện Hoằng
Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


7

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Cải cách tư pháp là yêu cầu mang tính cấp thiết của Đảng, nhà nước ta hiện
nay với mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng về cải cách
tư pháp đã xác định: “VKS phải chịu trách nhiệm chính về những oan, sai trong việc
khởi tố, bắt, tạm giữ, tạm giam, điều tra, truy tố; phải đảm bảo việc truy tố có căn
cứ, đúng pháp luật, cùng với CQĐT khắc phục những vi phạm, tồn tại trong quá

trình điều tra, bảo đảm không để lọt tội phạm, người phạm tội và khơng làm oan
người vơ tội”.
Hiến pháp Cộng hịa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ghi nhận chức năng của
VKSND trong giai đoạn hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động
tư pháp. “Hoạt động công tố phải được thực hiện ngay từ khi khởi tố vụ án và trong
suốt quá trình tố tụng nhằm đảm bảo không bỏ lọt tội phạm và người phạm tội,
không làm oan người vô tội, xử lý kịp thời những sai phạm của những người tiến
hành tố tụng khi thi hành nhiệm vụ ”.
Với mục tiêu xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm
minh, Nghị quyết của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã
thẳng thắn chỉ ra những hạn chế của cơ quan tư pháp, trong đó có VKSND: “…đội
ngũ cán bộ tư pháp, bổ trợ tư pháp còn hạn chế trình độ nghiệp vụ và bản lĩnh chính
trị của một bộ phận cán bộ cịn yếu, thậm chí có một số cán bộ có biểu hiện sa sút về
phẩm chất, đạo đức, trách nhiệm nghề nghiệp. Tình trạng oan, sai trong quá trình
điều tra, truy tố và xét xử vẫn cịn.”
Hoằng Hóa là một huyện đồng bằng ven biển thuộc tỉnh Thanh Hóa, Việt Nam.
Huyện nằm ở ven biển phía đơng của tỉnh Thanh Hóa, chiều dài bờ biển khoảng 12
km. Diện tích khoảng 224,56 km². Dân số khoảng 253.450 người. Tuyến giao thơng
chính của huyện: quốc lộ 1A, đường sắt Thống Nhất. Huyện Hoằng Hóa có 37 đơn
vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm thị trấn Bút Sơn và 36 xã: Hoằng Cát,
Hoằng Châu, Hoằng Đạo, Hoằng Đạt, Hoằng Đông, Hoằng Đồng, Hoằng Đức,
Hoằng Giang, Hoằng Hà, Hoằng Hải, Hoằng Hợp, Hoằng Kim, Hoằng Lộc, Hoằng
Lưu, Hoằng Ngọc, Hoằng Phong, Hoằng Phú, Hoằng Phụ, Hoằng


8

Phượng, Hoằng Quỳ, Hoằng Quý, Hoằng Sơn, Hoằng Tân, Hoằng Thái, Hoằng
Thanh, Hoằng
Trạch, Hoằng


Thành, Hoằng
Trinh, Hoằng

Thắng, Hoằng
Trung, Hoằng

Thịnh, Hoằng
Trường, Hoằng

Tiến, Hoằng

Xuân, Hoằng

Xuyên, Hoằng Yến.
So với các địa phương khác trên tồn quốc, Huyện Hoằng Hóa là khu vực ln
chiếm tỷ lệ lớn các tội phạm này và có chiều hướng gia tăng và mức độ nguy hiểm
ngày càng cao.
Công tác thực hành quyền công tố đối với các tội Xâm phạm sức khỏe của con
người của Huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa trong những năm gần đây có nhiều
chuyển biến tích cực. Theo số liệu thống kê, trong những năm qua huyện Hoằng
Hố có số lượng án ln đứng thứ 3 tồn tỉnh. Số lượng án nhiều nhưng ln được
giải quyết kịp thời, nhanh chóng, đảm bảo sự nghiêm minh, đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật, không làm oan người vơ tội đã góp phần quan trọng vào việc giữ
vững an ninh chính trị và trật tự an tồn xã hội trên địa bàn huyện. Tuy nhiên, qua
thực tiễn công tác cũng cho chúng ta thấy được nhiều hạn chế, bất cập do nhiều
nguyên nhân khác nhau cần được khắc phục kịp thời.
Trước thực trạng nêu trên, việc làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn đối
với hoạt động thực hành công tố đối với các vụ án xâm phạm sức khỏe của con
người trên địa bàn huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa là hết sức cần thiết. Vì vậy,

học viên đã chọn đề tài: “Áp dụng pháp luật về thực hành quyền công tố đối với vụ
án xâm phạm sức khỏe của con người từ thực tiễn huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh
Hóa” để nghiên cứu và hồn thành luận văn thạc sỹ.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Thực hành quyền công tố là chủ đề được khá nhiều học giả hiện nay quan
tâm, nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau, có thể kể đến những cơng trình điển
hình như:
Một số vấn đề về quyền cơng tố của Phó Giáo sư, tiến sĩ Trần Văn Độ, đăng
trên Tạp chí Luật học số 03/2001.
Những vấn đề lý luận về chế định quyền công tố của Tiến sĩ Lê Cảm, đăng
trên Tạp chí chuyên ngành, Hà Nội, 2001.
Thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp trong giai đoạn
điều tra của Tiến sĩ Lê Hữu Thể chủ biên và đồng tác giả, Nhà xuất bản tư pháp


9

Hà Nội năm 2008.
Viện kiểm sát nhân dân các cấp cần tập trung làm tốt việc tăng cường trách
nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra của
Tiến sĩ Trần Công Phàn, đăng trên Tạp chí kiểm sát, số 8/2012.
Thẩm quyền của Kiểm sát viên theo quy định của luật tố tụng hình sự Việt
Nam và Liên Bang Nga, luận án tiến sỹ luật học của TS. Mai Đắc Biên, Liên bang
Nga, 2012.
Bàn về tăng cường trách nhiệm công tố trong hoạt động điều tra, gắn công
tố với hoạt động điều tra của Tiến sĩ Nguyễn Tiến Sơn, đăng trên Tạp chí kiểm sát,
số 9/2013.
Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp trong giai đoạn điều tra các vụ án hình sự theo tinh
thần Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị, của Tiến sĩ Lê Hữu Thể. Viện Kiểm

sát nhân dân Tối cao (năm 2014).
Quy chế về công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp
luật trong việc điều tra các vụ án hình sự của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân
Tối cao ban hành kèm theo Quyết định số 11/QĐ-VKSTC ngày 17/4/2020.
Một số vấn đề lý luận và thực tiễn thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra
các vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoằng Hóa, Luận văn Thạc sỹ
Luật học, Khoa Luật, Đại học quốc gia Hà Nội; Lê Thị Tuyết Hoa: Quyền công tố ở
Việt Nam, luận án Tiến sỹ Luật học…
Các cơng trình nghiên cứu các bài viết nêu trên đã đề cập các góc độ khác nhau
khi bàn về hoạt động thực hành quyền cơng tố. Tuy nhiên, chưa có một cơng trình
nghiên cứu khoa học nào về thực hành quyền công tố đối với các vụ án xâm phạm
sức khỏe của con người trên địa bàn huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: Hoạt động áp dụng pháp luật về thực hành quyền
công tố các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người trên địa bàn huyện Hoằng
Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
3.2. Phạm vi nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn
về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố đối với các vụ án xâm


10

phạm sức khỏe của con người trên địa bàn huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa. Thời
gian nghiêm cứu từ năm 2018 đến 2020.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Mục đích của luận văn là nhằm nghiên cứu một cách có hệ thống và tồn diện về áp
dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người
tại Viện kiểm sát nhân dân huyện Hoằng Hoá trên cả hai phương diện lý luận và thực tiễn.
Trên cơ sở thống nhất về mặt nhận thức, kết quả nghiên cứu của luận văn nhằm tìm ra
những khó khăn vướng mắc, tồn tại, bất cập và nguyên nhân làm ảnh hưởng đến kết quả

hoạt động áp dụng pháp luật này. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp, kiến nghị góp
phần hồn thiện cả lý luận và thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả về áp dụng pháp
luật trong thực hành quyền công tố các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người tại Viện
kiểm sát nhân dân huyện Hoằng Hố góp phần cùng với các cơ quan bảo vệ pháp luật khác
đấu tranh phòng, chống hiệu quả hơn với loại tội phạm này trong thời gian tới. Luận văn cần
giải quyết các nhiệm vụ cụ thể sau đây:
- Nghiên cứu làm sáng tỏ lý luận về áp dụng pháp luật để thực hiện chức năng thực
hành quyền cơng tố trong điều tra vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân dân.
- Tổng kết, phân tích, đánh giá thực trạn về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền
công tố các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người tại VKSND huyện Hoằng Hoá, tỉnh
Thanh Hoá trong 05 năm, từ năm 2015 - 2019
- Đề xuất phương hướng, xây dựng các giải pháp nâng cao về áp dụng pháp luật trong
thực hành quyền công tố các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người trong thời gian tới
đồng thời khẳng định vị trí, vai trò của Viện kiểm sát trong hoạt động bảo vệ pháp luật.

5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn của học viên đã dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về Nhà nước và
pháp luật, đặc biệt là quan điểm chỉ đạo của Đảng về chiến lược cải cách tư pháp
được đề ra ngày 02/01/2002 (Nghị quyết số 08 - NQ/TW) và Nghị quyết số 49 NQ/TW của Bộ chính trị ngày 02/06/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm
2020. Ngoài ra, trong quá trình triển khai nghiên cứu đề tài, học viên đã sử dụng kết
hợp nhiều phương pháp nghiên cứu, thể hiện tính đặc thù của khoa học tố tụng


11

hình sự như: Kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, phương pháp phân tích - tổng hợp,
phương pháp thống kê, so sánh, phương pháp hệ thống,…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về

hoạt động áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố các vụ án xâm phạm
sức khỏe của con người.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn sẽ là một tài liệu tham khảo bổ ích dành cho các
nhà nghiên cứu, các cán bộ giảng dạy pháp luật, các nghiên cứu sinh, học viên cao
học và sinh viên thuộc chuyên ngành luật hiến pháp và luật hành chính tại các cơ sở
đào tạo luật.
Kết quả nghiên cứu của luận văn còn phục vụ cho việc trang bị những kiến thức
chuyên sâu cho các cán bộ đang công tác tại các Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát,
Tòa án trong quá trình giải quyết vụ án xâm phạm sức khỏe của con người được
khách quan, có căn cứ và đúng pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài iệu tham khảo nội dung của
luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận và Quy định của pháp luật về áp dụng pháp luật
trong thực hành quyền công tố đối với các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng pháp luật về thực hành quyền công tố đối với các
vụ án xâm phạm sức khỏe của con người tại huyện Hoằng Hóa, tỉnh Thanh Hóa.
Chương 3: Một số giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật trong thực
hành quyền công tố đối với các vụ án xâm phạm sức khỏe của con người tại huyện
Hoằng

Hoá

tỉnh

Thanh

Hoá,

trong


thời

gian

tới


12

CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT TRONG HOẠT
ĐỘNG THỰC HÀNH QUYỀN CÔNG TỐ ĐỐI VỚI VỤ ÁN XÂM PHẠM SỨC
KHỎE CỦA CON NGƯỜI
1.1. Khái quát chung về các tội xâm phạm sức khỏe của con người
1.1.1. Khái niệm tội xâm phạm sức khỏe con người
Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe là “những hành vi nguy hiểm cho xã hội do
người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện, có lỗi, gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn
hại đến quyền con người, quyền sống, quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người”.

1

Trong đó, sức khỏe con người "là trạng thái thoải mái đầy đủ về thể chất, tâm thần
mà không chỉ có ý nghĩa là khơng có bệnh hay thương tật, cho phép mỗi người thích ứng
nhanh chóng với biến đổi môi trường, giữ được lâu dài khả năng lao động và lao động có
2

hiệu quả" . Do đó quyền được bảo vệ sức khỏe là một biểu hiện cụ thể của quyền con
người, “là nhu cầu tự nhiên, vốn có của con người được ghi nhận và bảo vệ trong pháp
3


luật quốc gia và các thỏa thuận pháp lý quốc tế” Xâm phạm sức khỏe con người là gây
lên mức độ thương tật hoặc làm mất khả năng lao động trong một chừng mực nhất định.
Tùy theo tính chất của hành vi phạm tội và mức độ lỗi của người phạm tội mà Luật hình
sự quy định mức độ gây thương tích cho người khác phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Khái niệm một nhóm tội phạm cụ thể - các tội xâm phạm sức khỏe con người,
chính là sự cụ thể hóa khái niệm tội phạm (chung) đã nêu ở trên. Trên cơ sở tổng kết các
1 Nguồn: Trần Văn Luyện, Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm của con người, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000
2 Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (2005), Từ điển bách khoa Việt Nam, Nxb
Từ điển bách khoa, Hà Nội, tr.835
3 Nguồn: Khoa Luật,Đại học Quốc gia Hà Nội, (2009), “Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người”,
Nxb, Hà Nội. tr.45


13

quan điểm khác nhau trong khoa học và căn cứ vào các quy định của BLHS năm 2015,
khái niệm các tội xâm phạm sức khỏe con người là hành vi dùng vũ lực hoặc các hành vi
khác làm tổn hại sức khỏe của người khác do người có năng lực TNHS và đủ tuổi chịu
TNHS thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý, xâm phạm đến quan hệ nhân thân là quyền bất
khả xâm phạm về thân thể con người.
Bộ luật hình năm 2015 quy định các tội xâm phạm sức khỏe của con người gồm
các tội: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều
134); Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng
thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 135); Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khoẻ của người khác do vượt quá giới hạn phịng vệ chính đáng hoặc do vượt q
mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội (Điều 136); Tội gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ (Điều 137); Tội vơ ý gây
thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác (Điều 138); Tội vô ý gây

thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề
nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 139); Tội hành hạ người khác (Điều 140).
1.1.2. Các dấu hiệu pháp lý hình sự của các tội xâm phạm sức khỏe con người
Các dấu hiệu pháp lý đặc trưng của các tội xâm phạm sức khỏe con người bao
gồm:
Khách thể của tội phạm: Hành vi xâm phạm đến sức khỏe con người là dùng tác
động ngoại lực hoặc dùng bất kỳ hình thức nào làm cho người đó yếu đi hoặc gây tổn
thương, cố tật ở các bộ phận của con người, gây nên bệnh tật làm tổn hại đến sức khỏe
dẫn đến hoạt động (lao động, sinh hoạt) bị suy giảm, hoặc mất khả năng suy nghĩ, học tập,
lao động sáng tạo của nạn nhân. Khái niệm sức khỏe của con người được xem xét ở đây là
tình trạng sức khỏe vốn có ban đầu của nạn nhân khi chưa bị xâm phạm và sau khi bị xâm
phạm. Đây chính là cơ sở quan trọng để xem xét, đánh giá mức độ nguy hiểm của hành
vi. Do đó, khách thể của nhóm tội này là quyền được tôn trọng và bảo vệ sức khỏe. Đối


14

tượng của nhóm này là những chủ thể có quyền được tơn trọng và bảo vệ sức khỏe. Đó là
những người đang sống, đang tồn tại với tư cách là con người thực thể tự nhiên và xã hội.
Mặt khách quan của tội phạm: Hành vi khách quan của tội xâm phạm sức khỏe là
những hành vi có tính chất dùng những tác động vật chất gây tổn hại cho sức khỏe của
con người (tác động vào thân thể người khác trái pháp luật) như đấm, đá, đâm, chém,
đánh, bắn… “Các tội phạm này được tiến hành bằng những hành vi ai cũng có thể tri giác
được, cịn người bị hại bao giờ cũng phải chịu một thiệt hại mà khi mất đi thì khơng thể
4

bù đắp lại được về sự hoàn thiện đối với thân thể và sức khỏe”. Những hành vi đó có thể
là hành động hoặc có thể là không hành động (chủ yếu là với tội vơ ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy
tắc hành chính, Điều 139 BLHS).

Hậu quả của hành vi khách quan nói trên là những thiệt hại gây cho quyền được
tôn trọng và bảo vệ sức khỏe thể hiện dưới dạng thiệt hại về thể chất là thương tích hoặc
tổn hại cho sức khỏe, “thơng qua việc thực hiện các hành vi xâm phạm tính mạng, sức
khỏe của con người, người phạm tội mới thực hiện được mục đích phạm tội khác của
mình hoặc hậu quả của tội phạm (làm chết người, gây thương tích) là bộ phận cấu thành
5

tội phạm riêng biệt” . Một vấn đề đặt ra là quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả
thương tích hoặc tổn thương khác, khi đã xác định có hành vi xâm phạm sức khỏe và có
hậu quả thương tích hoặc hậu quả tổn thương khác, địi hỏi phải xác định hậu quả này là
do chính hành vi đó gây ra.
Cơng cụ, phương tiện phạm tội: để thực hiện hành vi xâm phạm sức khỏe người
khác, người phạm tội dùng cơng cụ phương tiện gì. Các tội xâm phạm sức khỏe con
người, người phạm tội dùng rất nhiều cơng cụ phương tiện phạm tội, có thể là công cụ
phương tiện được chế tạo tinh vi, cũng có những cơng cụ có sẵn trong tự nhiên. Nhưng
4 Nguồn: Bùi Văn Thịnh, Đặc điểm, nguyên nhân của tội phạm cố ý gây thương tích và hoạt động phịng ngừa
của lực lượng Cảnh sát nhân dân, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2007, tr.11.
5 Đinh Văn Quế, Bình luận khoa học Bộ luật hình sự. Tập 1, Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự của con người: Bình luận chuyên sâu, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 2002, tr.172


15

vấn đề đặt ra là công cụ, phương tiện nào được coi là hung khí nguy hiểm và đối với vấn
đề cấu thành tội phạm là phải chứng minh được quan hệ nhân quả giữa công cụ, phương
tiện gây án và hậu quả là thương tích, tổn hại để lại trên cơ thể nạn nhân, xác định thương
tích đó là do cơng cụ, phương tiện đó gây ra.
- Đối với lỗi cố ý có thể là cố ý trực tiếp hoặc lỗi cố ý gián tiếp, người phạm tội có
thể mong muốn hậu quả thương tích hoặc hậu quả tổn hại cho sức khỏe nhưng cũng có
thể chỉ chấp nhận hậu quả đó.

Ngồi dấu hiệu năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi luật định, chủ thể đòi
hỏi phải có quan hệ lệ thuộc với nạn nhân, trong đó nạn nhân là người lệ thuộc vào người
phạm tội (Điều 140 BLHS) hoặc phải là người đang trong khi thi hành công vụ (Điều 137
BLHS).
1.2. Tổng quan về pháp luật điều chỉnh hoạt động áp dụng pháp luật trong
thực hành quyền công tố các vụ án xâm phạm sức khỏe con người
Thực hành quyền công tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc
nội dung quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người
phạm tội trong các giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử"

6

như vậy, THQCT trong các vụ

án xâm phạm sức khỏe con người là hoạt động của VKSND trong việc truy cứu trách
nhiệm hình sự đối với người phạm tội xâm phạm sức khỏe con người và thực hiện buộc
tội người đó tại Tịa án.
Để đảm bảo cho Cơ quan THQCT thực hiện tốt quyền năng của mình, pháp luật
quy định cho cơ quan này chức năng, vị trí, tổ chức bộ máy cụ thể, độc lập, rõ ràng. Theo
đó, nội dung pháp luật THQCT có thể phân chia thành hai nhóm: Nhóm quan hệ xác lập
chức năng, vị trí, tổ chức bộ máy của Cơ quan THQCT và nhóm quan hệ điều chỉnh các
hoạt động cụ thể của Cơ quan THQCT.

6 Phạm Tuấn Khải (1999), "Vài ý kiến về quyền công tố và thực hiện quyền công tố", Kỷ yếu đề tài khoa học cấp
Bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ 1945 đến nay,
VKSNDTC, Hà Nội, tr. 95-103.


16


Ngành KSND cũng ban hành và đảm bảo cả về mặt số lượng và chất lượng của các
văn bản trong nội bộ ngành để phục vụ cho hoạt động nghiệp vụ, cụ thể như sau:
- Hiến pháp:
Hiến pháp là sự kiện đặc biệt quan trọng, đánh dấu bước ngoặt trong lịch sử lập
hiến nước ta, là cơ sở pháp lý hiến định để thực hiện mục tiêu xây dựng, bảo vệ và phát
triển đất nước trong giai đoạn mới. Hiến pháp năm 2013 đã thể chế hóa sâu sắc và toàn
diện chủ trương đổi mới của Đảng trên nhiều lĩnh vực, đặc biệt là tư tưởng vì con người,
đó là tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Trên cơ sở kế thừa và
đổi mới thể chế, Hiến pháp năm 2013 tiếp tục quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
của VKSND để hoàn thiện về tổ chức và hoạt động của bộ máy.
Vì vậy, đối với các vụ án xâm hại sức khỏe, trách nhiệm của VKSND phải tổ chức
cơng cuộc đấu tranh, phịng chống loại tội phạm này theo tinh thần chủ đạo của Hiến
pháp, đó là đề cao, tơn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, quyền cơng dân, góp
phần tăng cường dân chủ xã hội chủ nghĩa.
* Hệ thống pháp luật hình sự
Xét về bản chất, áp dụng pháp luật trong THQCT các vụ án xâm phạm sức khỏe
con người là hoạt động mang tính quyền lực nhà nước của VKSND nhằm cá biệt hóa các
quy phạm pháp luật nói chung và các quy phạm pháp luật hình sự nói riêng đối với các
chủ thể trong quá trình giải quyết các vụ xâm phạm sức khỏe con người. “Việc bảo vệ các
quyền con người đã và vẫn đang là vấn đề trung tâm và có ý nghĩa thời đại vì nó khơng
chỉ là vấn đề mang tính lịch sử từ bao đời nay, mà cịn mang tính thời sự quốc tế, không
những là mục tiêu cơ bản trong cuộc đấu tranh của các dân tộc vì hịa bình, tự do, dân chủ
và cơng lý, mà cịn là mối quan tâm thường xuyên của nhân loại tiến bộ trên toàn trái
đất”.

7

7Nguồn: Lê Cảm, Những vấn đề lý luận về bảo vệ các quyền con người bằng pháp luật trong lĩnh vực tư pháp hình
sự, Tạp chí Tịa án nhân dân, số 11(6)/2006, tr.15.



17

Trong đó, dưới góc độ nội dung tội phạm, nhóm tội xâm phạm sức khỏe con người
được điều chỉnh bởi các văn bản pháp luật sau đây:
- Bộ luật hình năm 2015: Với nhiệm vụ cụ thể hóa Hiến pháp, Bộ luật Hình sự năm
2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) và có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018 đã quy định
tội phạm và hình phạt tại Chương XIV (từ Điều 123 đến Điều 156) đối với các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người để bảo vệ một cách có
hiệu quả các quyền trên. Trong đó, riêng nhóm tội về xâm phạm sức khỏe được BLHS
năm 2015 quy định 06 điều luật, từ Điều 134 đến Điều 140.
Ngoài việc quy định các dấu hiệu của cấu thành tội phạm để VKSND có thể đối
chiếu trong việc định tội danh, định khung hình phạt và đề xuất hình phạt áp dụng trong
quá trình xét xử, phê chuẩn, hủy bỏ, thay đổi các biện pháp ngăn chặn… BLHS cịn lượng
hóa tỷ lệ thương tật hoặc tỷ lệ tổn hại sức khỏa của người bị hại do hành vi phạm tội gây
ra để các cơ quan tiến hành tố tụng nói chung và VKSND nói riêng thuận lợi trong việc áp
dụng. Trong đó, để cá thể hóa hình phạt đối với người phạm tội, BLHS đã quy định “tổn
thương cơ thể” thay cho cụm từ “tỷ lệ thương tích hoặc tổn hại sức khỏe” của người bị hại
do hành vi phạm tội gây ra. Tại nhóm tội gây thương tích (bao gồm cả 2 hình thức lỗi cố ý
hoặc vô ý) và được quy định trong 2 trường hợp:
Trường hợp thứ nhất, quy định tỷ lệ tổn thương cơ thể của người bị hại trong cấu
thành tội phạm cơ bản. Quy định này giúp Kiểm sát viên đối chiếu với thực tế để định tội
danh, tức là ‘‘xác định và ghi nhận về mặt pháp lý sự phù hợp chính xác giữa các dấu hiệu
của hành vi được thực hiện với các dấu hiệu của cấu thành tội phạm do quy phạm pháp
8

luật hình sự quy định". Trong trường hợp này Bộ luật Hình sự đã quy định tỷ lệ tổn
thương cơ thể của người bị hại từ 11% đến 30% đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây
tổn hại sức khỏe của người khác hay từ 31% đến 60% đối với các tội gây thương tích hoặc
gây tổn hại cho sức khỏe của người khác còn lại.


8Nguồn: Kuđriavtxev V. N. Lý luận chung về định tội danh. Nxb. Sách pháp lý, Maxcơva, 1972, tr.8 (tiếng Nga).


18

Trường hợp thứ hai, quy định tổn thương cơ thể của người bị hại trong khung tăng
nặng trách nhiệm hình sự. Trong trường hợp này Bộ luật Hình sự đã quy định tổn thương
cơ thể của người bị hại từ 31% đến 60% đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác và từ 61% trở lên đối với các tội gây thương tích hoặc gây
tổn hại cho sức khỏe của người khác còn lại.
Để giải quyết triệt để các vụ án xâm phạm sức khỏe con người, các cơ quan tiến
hành tố tụng nói chung và Viện kiếm sát nói riêng còn cần đến hệ thống các văn bản
“dưới luật”, đây là hệ thống những quy phạm được ban hành để cụ thể hóa các nội dung
được các văn bản luật quy định trên nguyên tắc không được trái với quy định của hiến
pháp và các văn bản luật về tư pháp hình sự. Bao gồm:
- Nghị quyết số: 04-HĐTPTANDTC/NQ ngày 29 tháng 11 năm 1986 của Hội
đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn Tòa án các cấp áp dụng thống nhất một số quy định
trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự. Trong đó các nội dung liên quan đến các tội
xâm phạm sức khỏe con người được hướng dẫn tại Chương 2 như tình trạng tinh thần bị
kích động, hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân đối với người phạm tội hoặc
đối với người thân thích của người đó, phân biệt giữa thương tích với thương tích nặng,
giữa tổn hại cho sức khỏe với tổn hại nặng cho sức khỏe…
- Nghị quyết số: 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17 tháng 4 năm 2003 của Hội đồng
thẩm phán TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự về một số
tình tiết định tội, định khung hình phạt như tình tiết "gây cố tật nhẹ cho nạn nhân", trường
hợp làm mất một bộ phận cơ thể của nạn nhân, trường hợp làm giảm chức năng một bộ
phận cơ thể của nạn nhân, khái niệm “vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm
khác”… Nghị quyết là văn bản quan trong để các cơ quan tố tụng áp dụng đúng và thống
nhất các quy định của Bộ luật Hình sự về loại tội phạm này.

- Nghị quyết số 01/2006/NQ – HĐTP ngày 12 tháng 5 năm 2006 của Hội đồng
Thẩm phán TANDTC, trong đó có hướng dẫn các tình tiết "người phạm tội tự nguyện sửa
chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả", tình tiết "phạm tội đối với trẻ em, phụ nữ


19

có thai, người già", Tình tiết "dùng hung khí nguy hiểm", Tình tiết "đối với thầy giáo, cơ
giáo của mình"…
* Hệ thống pháp luật tố tụng hình sự
- Bộ luật tố tụng hình sự:
Bộ luật tố tụng hình sự bao gồm hệ thống các quy phạm pháp luật điều chỉnh các
quan hệ xã hội phát sinh trong hoạt động khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
BLTTHS hiện hành ra đời để thể chế hóa đầy đủ các chủ trương cải cách tư pháp của
Đảng và Hiến pháp năm 2013, bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được phát hiện và
xử lý nghiêm minh, chính xác, kịp thời, chống bỏ lọt tội phạm, chống làm oan người vô
tội. Đối với các tội xâm phạm sức khỏe con người BLTTHS cịn có vai trị tăng cường
trách nhiệm của các cơ quan tố tụng trong việc bảo vệ quyền con người, quyền cơng dân;
cụ thể hóa các trình tự, thủ tục để người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng thực
hiện đầy đủ quyền và trách nhiệm luật định, kĩ thuật lập pháp của BLTTHS hiện hành còn
giúp cho các cơ quan tiến hành tố tụng hạn chế tối đa việc phải chờ văn bản hướng dẫn thi
hành trong quá trình áp dụng.
Trong hoạt động áp dụng pháp luật về tố tụng hình sự để giải quyết các vụ án xâm
phạm sức khỏe con người, các cơ quan tiến hành tố tụng đối chiếu với các quy phạm về
những nguyên tắc cơ bản, các chế định về cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố
tụng, về người tham gia tố tụng, về chứng cứ và chứng minh, các biện pháp ngăn chặn,
biện pháp cưỡng chế, các chế định cụ thể quy định trình tự thủ tục trong từng giai đoạn tố
tụng để tiến hành giải quyết.
- Các văn bản thi hành pháp luật tố tụng hình sự dạng văn bản hướng dẫn:
+ Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC

ngày 29 tháng 12 năm 2017 của Bộ Cơng an, Bộ Quốc phịng, Bộ Tài chính, Bộ Nơng
nghiệp và Phát triển nơng thơn, VKSND tối cao quy định việc phối hợp giữa các cơ quan
có thẩm quyền trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS năm 2015 về tiếp nhận,
giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố. Đây là văn bản có ý nghĩa quan


20

trọng trong quá trình Viện kiểm sát áp dụng các quy định của pháp luật để giải quyết vụ
việc, vụ án xâm phạm sức khỏe con người, bảo đảm THQCT sớm hơn, triệt để hơn nhằm
tránh bỏ lọt tội phạm.
+ Thông tư liên tịch số 04/2018 ngày 19 tháng 10 năm 2018 của VKSND tối cao,
Bộ Công an, Bộ Quốc phòng quy định về phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm
sát trong việc thực hiện một số quy định của BLTTHS. Thông tư này quy định về phối
hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của
BLTTHS về khởi tố, điều tra và truy tố. Cơ quan điều tra các cấp của Công an nhân dân,
Cơ quan điều tra các cấp trong Quân đội nhân dân, Cơ quan điều tra của VKSND tối cao,
VKSND, Viện kiểm sát quân sự các cấp, người tiến hành tố tụng thuộc các cơ quan trên
và Cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có liên quan áp dụng các quy định của Thơng tư để bảo
đảm tuân thủ đúng chức năng, nhiệm vụ của mỗi cơ quan theo quy định của pháp luật,
bảo đảm giải quyết vụ án nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật, bảo đảm bí mật nhà
nước, bí mật cơng tác theo quy định của pháp luật và quy định của mỗi ngành.
Ngồi ra, pháp luật cịn có nhiểu văn bản điều chỉnh các trường hợp đặc biệt trong
giải quyết các vụ án hình sự nói chung, các vụ án xâm phạm sức khỏe con người nói riêng
như Thơng tư liên tịch số 02/2017/TTTLT - VKSNDTC - TANDTC- BCA-BQP ngày
22/12/2017 của VKSND tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Cơng an, Bộ Quốc phịng
quy định việc phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trong thực hiện một số quy
định của BLTTHS về trả hồ sơ để điều tra bổ sung; Thông tư số 06/2018/TTLTVKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 của VKSND tối cao, Tòa
án nhân dân tối cao, Bộ công an, Bộ tư pháp, Bộ lao động thương binh xã hội về phối hợp
thực hiện một số quy định của BLTTHS về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi;

Thơng tư số 01/2020/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP-BNN&PTNT-BTC-BTP
của VKSNDTC, Tịa án nhân dân tối cao, Bộ Cơng an, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp quy
định phối hợp thực hiện một số điều của BLTTHS về quản lý, giải quyết các vụ án, vụ
việc tạm đình chỉ….


21

- Hệ thống văn bản pháp luật về giám định
Với đặc thù của loại án này, công tác giám định là vấn đề quan trọng, thậm chí có
ý

nghĩa quyết định đối với viêc phát hiên và xử lý vụ án xâm phạm sức khỏe con người

nói riêng. Trong đó các cơ quan tiến hành tố tụng bắt buộc phải trưng cầu giám định khi
cần xác định tính chất thương tích, mức độ tổn hại sức khoẻ hoặc khả năng lao động…

9

Do đó, để giải quyết triệt để vụ việc xâm hại sức khỏe con người mà nội dung đầu tiên là
hoạt động định tội đến các hoạt động định khung hình phạt và quyết định hình phải đều
phải dựa trên cơ sở kết quản giám định. Nói cách khác, trong vụ án xâm phạm sức khỏe
con người, kết quả giám định là căn cứ bắt buộc để tiến hành khởi tố vụ án và là một
trong những tài liệu, chứng cứ quan trọng để xác định những tình tiết khác cần chứng
minh trong vụ án.
+ Luật giám định tư pháp:
Luật giám định tư pháp số 13/2012/QH13 được Quốc hội thông qua ngày 20 tháng
6 năm 2012 quy định về giám định viên tư pháp; tổ chức giám định tư pháp; người giám
định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định tư pháp theo vụ việc; hoạt động giám định tư
pháp; chi phí giám định tư pháp, chế độ, chính sách trong hoạt động giám định tư pháp và

trách nhiệm của cơ quan nhà nước đối với tổ chức, hoạt động giám định tư pháp trong đó
có lĩnh vực giám định pháp y. Về bổ nhiệm giám định viên pháp y, Điều 9 của luật quy
định Bộ trưởng Bộ Y tế bổ nhiệm giám định viên pháp y và Bộ Quốc phịng, Bộ Cơng an
có trách nhiệm lựa chọn người có đủ tiêu chuẩn quy định để đề nghị Bộ trưởng Bộ Y tế bổ
nhiệm giám định viên pháp y thuộc bộ mình. Việc quản lý nhà nước về lĩnh vực giám định
pháp y, ban hành quy chuẩn chuyên môn, quy định cụ thể tiêu chuẩn giám định viên pháp
y, đào tạo, bồi dưỡng và cấp chứng chỉ nghiệp vụ giám định pháp y do Bộ Y tế chịu trách
nhiệm. Vì vậy, đây là đạo luật có ý nghĩa hết sức quan trọng để các tổ chức giám định,
Giám định viên và đặc biệt là các cơ quan tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tố tụng
áp dụng trong xử lý các vụ việc xâm phạm sức khỏe con người.

9Quốc hội (2015), Bộ luật TTHS, Điều 206, Hà Nội


22

Để bảo đảm tính thống nhất với quy định của pháp luật tố tụng và đáp ứng nhu cầu
giám định của hoạt động tố tụng trong tình hình mới, Luật giám định tư pháp sửa đổi bổ
sung 2020 được thông qua đã mở rộng phạm vi giám định tư pháp theo hướng giám định
tư pháp được trưng cầu, thực hiện ngay từ giai đoạn “khởi tố”, thay vì từ giai đoạn điều
tra vụ án hình sự như quy định trước đây (khoản 1 Điều 2). Luật còn quy định cụ thể hơn
cơ chế thông tin, phối hợp giữa cơ quan trưng cầu và tổ chức được trưng cầu giám định tư
pháp, sửa đổi quy định về kết luận giám định theo hướng cụ thể hơn, nâng cao hơn nữa
trách nhiệm của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Ủy ban nhân dân
cấp tỉnh và các cơ quan tiến hành tố tụng đối với công tác giám định tư pháp.
+ Hệ thống văn bản dưới luật về giám định tư pháp:
Nghị định số 85/2013/NĐ-CP ngày 29 tháng 7 năm 2013 của Chính phủ (được
sửa đổi bổ sung một số nội dung tại Nghị định Số: 157/2020/NĐ-CP) là văn bản quy định
chi tiết và biện pháp thi hành Luật giám định tư pháp. Nghị định này quy định về tổ chức,
chức năng, nhiệm vụ của tổ chức giám định tư pháp công lập; việc thành lập và đăng ký

hoạt động của Văn phịng giám định tư pháp; chính sách ưu đãi đối với Văn phòng giám
định tư pháp; công bố danh sách người giám định tư pháp theo vụ việc, tổ chức giám định
tư pháp theo vụ việc; nhiệm vụ, quyền hạn của Bộ, cơ quan ngang Bộ, Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đối với hoạt động giám định tư pháp. Trong đó
Điều 3, Điều 4, Điều 5, Điều 6 quy định cụ thể về chức năng, nhiệm vụ của Viện pháp y
quốc gia thuộc Bộ Y tế, Trung tâm pháp y cấp tỉnh, Viện pháp y quân đội thuộc Bộ Quốc
phòng và Trung tâm giám định pháp y thuộc Viện khoa học hình sự, Bộ Cơng an. Cũng
theo quy định của Nghị định này, việc ban hành Quy chế phối hợp giữa Trung tâm pháp y
cấp tỉnh và Phịng Kỹ thuật hình sự thuộc Cơng an cấp tỉnh, các cơ quan có liên quan
trong việc tiếp nhận trưng cầu và thực hiện giám định pháp y do Bộ Y tế chủ trì và phối
hợp với Bộ Công an, Bộ Tư pháp.
Ngày 31 tháng 12 năm 2013, theo đề nghị của Cục trưởng Cục Quản lý Khám,
chữa bệnh, Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành Thơng tư số 47 /2013/TT-BYT, trong đó ban hành
kèm theo quyết định về quy trình giám định pháp y. Nội dung thơng tư quy định quy trình
giám định pháp y, bao gồm: Quy trình giám định pháp y (54 quy trình); Quy trình


23

giám định hóa pháp (29 quy trình); Quy trình giám định ADN (10 quy trình). Thơng tư
cũng ban hành các biểu mẫu sử dụng trong giám định pháp y để các cơ quan trưng cầu và
cơ quan giám định sử dụng trong quá trình điều tra vụ án như biểu mẫu về bản kết luận
giám định pháp y về thương tích, bản kết luận giám định pháp y về tử thi, về tình dục, về
giới tính, về độ tuổi, biểu mẫu bản kết luận giám định pháp y trên hồ sơ...Do đó, những
quy định này là cơ sở quan trọng để KSV thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, đối chiếu để đề
ra các yêu cầu giám định một cách khoa học và khả thi, đánh giá kết luận giám định một
cách chính xác để kịp thời yêu cầu giải tích, bổ sung…nhằm phục vụ tối đa hiệu quả việc
giải quyết các vụ án xâm phạm sức khỏe con người.
Về vấn đề tiêu chuẩn, hồ sơ, thủ tục bổ nhiệm, miễn nhiệm giám định viên pháp y
được quy định tại Thông tư 02/2014/TT-BYT của Bộ Y tế, đây là quy định nhằm đảm bảo

tính hợp pháp trong việc thu thập chứng cứ của cơ quan tố tụng nói chung và VKSND nói
riêng. Trong đó đáng chú ý Giám định viên pháp y phải là bác sỹ, dược sỹ đại học hoặc tốt
nghiệp đại học trở lên các chuyên ngành khác phù hợp với lĩnh vực giám định pháp y, có
thời gian làm việc theo đúng chuyên ngành được đào tạo tại cơ sở y tế từ đủ 05 năm trở
lên, trường hợp người được đề nghị bổ nhiệm giám định viên pháp y là người trực tiếp
giúp việc trong hoạt động giám định ở tổ chức giám định pháp y thì thời gian hoạt động
thực tế chuyên môn phải từ đủ 03 năm trở lên. Người được bổ nhiệm giám định viên pháp
y phải có chứng chỉ do Viện Pháp y Quốc gia hoặc cơ sở đào tạo có Bộ mơn Pháp y cấp
cho người đã tham gia khóa đào tạo hoặc bồi dưỡng nghiệp vụ giám định từ đủ 03 tháng
trở lên theo chương trình đào tạo đã được Bộ Y tế phê duyệt, người đã có bằng hoặc
chứng chỉ định hướng chuyên khoa trở lên về pháp y thì không phải qua đào tạo hoặc bồi
dưỡng nghiệp vụ giám định.
Thông tư số 22/2019/TT-BYT ngày 28 tháng 8 năm 2019 của Bộ y tế quy định về
tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể sử dụng trong giám định pháp y, giám định pháp y tâm
thần. Đây là văn bản làm căn cứ để Giám định viên tiến hành nghiên cứu giám định để từ
đó ban hành kết luận giám định pháp y phục vụ công tác điều tra, truy tố, xét xử. Nội
dung Thông tư quy định chi tiết về nguyên tắc giám định (Điều 3), nguyên tắc xác định tỷ
lệ phần trăm tổn thương cơ thể, phương pháp xác định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể


24

và ban hành chi tiết bảng tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể để giám định viên đối chiếu
kết luận. Thơng tư này được đính chính một số nội dung tại Quyết định 5135/QĐ-BYT
năm 2019.
- Quy chế nghiệp vụ của ngành Kiểm sát nhân dân
Song song với việc áp dụng các văn bản pháp luật, trong quá trình THQCT, Kiểm
sát viên còn phải chấp hành các quy định trong quy chế nghiệp vụ của ngành. Đây là
những văn bản do Viện trưởng VKSNDTC ban hành, trong đó chứa đựng các quy phạm
pháp luật, quy phạm nghiệp vụ của ngành KSND và có hiệu lực bắt buộc thi hành đối với

tất cả các Kiểm sát viên và các Viện kiểm sát trên toàn quốc. Trong các vụ án xâm phạm
sức khỏe con người, Kiểm sát viên phải áp dụng các quy định nổi bật trong các văn bản
của ngành KSND sau đây:
+ Quy chế công tác THQCT, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố được ban
hành kèm theo Quyết định số 111/QĐ-VKSTC ngày 17 tháng 4 năm 2020 của Viện
trưởng VKSNDTC. Nội dung chính của quy chế là các thao tác nghiệp vụ mà Kiểm sát
viên phải tuân thủ trong quá trình thực thi nhiệm vụ, giải quyết mối quan hệ với Cơ quan
điều tra và các cá nhân, tổ chức có liên quan.
+ Quy chế cơng tác THQCT, kiểm sát xét xử vụ án hình sự, ban hành kèm theo
Quyết định 505/QĐ-VKSTC ngày 18/12/2017 của Viện trưởng VKSNDTC.
Ngồi ra ngành KSND cịn ban hành các Quy chế nghiệp vụ bán hành kèm theo
các quyết định như Quyết định số 590/QĐ-VKSTC-V3 ngày 05/12/2014 về lập hồ sơ
kiểm sát và Quyết định số 190/QĐ-VKSTC-VP ngày 06 tháng 4 năm 2016 của Viện
trưởng VKSND tối cao ban hành quy định chế độ hồ sơ công tác nghiệp vụ của ngành
KSND, Quyết định số 599/QĐ-VKSTC ngày 06/12/2019 của VKSNDTC quy định về
công tác hướng dẫn, giải đáp vướng mắc về pháp luật, nghiệp vụ; báo cáo thỉnh thị, trả lời
thỉnh thị trong ngành KSND...Với việc quy định cụ thể tại các văn bản nghiệp vụ liên
quan trực tiếp đến quá trình giải quyết vụ án hình sự, trong đó có nhiều quy định khẳng


25

định vị trí, vai trị, chức năng và nhiệm vụ đã giúp các Kiểm sát viên có căn cứ và cơ sở
pháp lý vững chắc để thực hiện tốt các hoạt động mà thực tiễn đặt ra đối với loại án này.
1.3. Khái quát chung về áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố các
vụ án xâm phạm sức khỏe con người
1.3.1. Khái niệm, đặc điểm áp dụng pháp luật trong thực hành quyền công tố
các vụ án xâm phạm sức khỏe con người
* Khái niệm:
10


Trước tiên, “thực hành” là “làm để áp dụng lý thuyết vào thực tiễn” . Như vậy,
VKSND thực hiện quyền công tố thực chất là một hoạt động thực hiện pháp luật trong
việc nhân danh Nhà nước truy tố người phạm tội và tội phạm ra trước Tòa án, kết quả của
hoạt động này được Toà án dùng làm căn cứ và sử dụng để xét xử người phạm tội. Vì vậy,
THQCT chính là áp dụng các quy định của pháp luật cả về nội dung (pháp luật hình sự)
và pháp luật hình thức (pháp luật tố tụng hình sự) để tiến hành các hành vi tố tụng cần
thiết theo quy định của pháp luật nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự người phạm tội, đưa
người phạm tội ra xét xử trước Tòa án và bảo vệ sự buộc tội đó. Do đó, có thể hiểu: "thực
hành quyền cơng tố là việc sử dụng tổng hợp các quyền năng pháp lý thuộc nội dung
quyền công tố để thực hiện việc truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội
11

trong các giai đoạn khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử" . Vì vậy, trên cơ sở khái niệm các
tội xâm phạm sức khỏe con người đã phân tích ở trên, có thể hiểu, THQCT trong các vụ
án xâm phạm sức khỏe con người là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân thông qua
hành vi của các Kiểm sát viên phát sinh từ khi tiếp nhận, giải quyết nguồn tin về tội phạm
và trong suốt quá trình giải quyết vụ án để buộc tội đối với người có hành vi gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác nhằm bảo đảm vụ án được giải quyết
theo đúng quy định của pháp luật.
10

Nhà xuất bản Khoa học xã hội, (1994), Từ điển tiếng Việt, Hà Nội, tr.973

11 Phạm Tuấn Khải (1999), "Vài ý kiến về quyền công tố và thực hiện quyền công tố", Kỷ yếu đề tài khoa học
cấp Bộ: Những vấn đề lý luận về quyền công tố và việc tổ chức thực hiện quyền công tố ở Việt Nam từ 1945 đến
nay, VKSNDTC, Hà Nội, tr. 95-103.



×