TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
LỚP K2018 VB2/TP2
HỆ VĂN BẰNG 2 - VỪA HỌC VỪA LÀM
CHUYÊN NGÀNH LUẬT KINH DOANH
MÔN: LUẬT HIẾN PHÁP
GIẢNG VIÊN: LƯU ĐỨC QUANG
ĐỀ TÀI:
THỰC TIỄN VẬN DỤNG CÁC NGUYÊN TẮC HIẾN PHÁP NĂM 2013
VỀ QUYỀN CON NGƯỜI VÀ QUYỀN CÔNG DÂN
SINH VIÊN THỰC HIỆN: NHÓM 2
1. LƯU QUANG HƯNG
- MSSV: HCMVB220182032
2. LIÊNG THỊ NGỌC TRÂM
– MSSV: HCMVB220182022
3. LIÊNG THỊ NGỌC TRÂN
– MSSV: HCMVB220182023
4. LÊ HOÀNG
– MSSV: HCMVB220182017
5. LÊ THỊ NGỌC HỒNG
– MSSV: HCMVB220182026
6. Ủ VĂN MINH HÙNG
– MSSV: HCMVB220182041
7. TRẦN THỊ KIM TUYẾN
- MSSV: HCMVB220182037
TP. HỒ CHÍ MINH, THÁNG 10 NĂM 2018
1
Lý do chọn đề tài:
Việc chọn đề tài thông qua kết quả bốc thăm chia nhóm của Lớp. Đề tài nghiên
cứu nhằm hiểu sâu và rõ hơn về thực tiễn việc vận dụng các nguyên tắc Hiến pháp
năm 2013 về quyền con người và quyền công dân.
Hạn chế của đề tài: việc đọc hiểu các luật liên quan còn hạn chế do thời gian
tiếp cận ngắn và việc hiểu biết cịn hạn chế.
Qua bài viết, chúng tơi hy vọng sẽ mang lại một cái nhìn tồn diện về quyền
con người và quyền công dân trong bản Hiến pháp năm 2013 và thực tế việc vận dụng
nó trong thực tiễn.
Bố cục đề tài:
1. Giới thiệu tổng quát về quyền con người và quyền công dân theo Hiến pháp
năm 2013.
2. Thực tiễn việc vận dụng các nguyên tắc Hiến pháp năm 2013 về quyền con
người.
2.1 Giới thiệu về quyền con người.
2.2 Thực tiễn việc vận dụng quyền con người trong Hiến pháp 2013.
3. Thực tiễn việc vận dụng các nguyên tắc Hiến pháp năm 2013 về quyền công
dân.
3.1 Giới thiệu về quyền công dân.
3.2 Thực tiễn việc vận dụng về quyền công dân trong Hiến pháp 2013.
4. Kết luận.
5. Danh mục tài liệu tham khảo.
NỘI DUNG CHÍNH
1. Giới thiệu tổng quát về quyền con người và quyền công dân theo Hiến pháp
năm 2013.
Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội (khóa XIII) thơng qua tại kỳ họp thứ 6, gồm
11 chương, 120 điều có hiệu lực từ ngày 01/01/2014, giảm 01 chương và 27 điều so
với Hiến pháp năm 1992. Hiến pháp năm 2013 đã quy định bao quát hầu hết các quyền
cơ bản về chính trị, dân sự, kinh tế, xã hội, văn hóa của con người. Nếu như Hiến pháp
năm 1992 quy định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được tại chương V thì ở
Hiến pháp năm 2013 chương về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân là chương II, chỉ xếp sau chương về chế độ chính trị. Đây khơng phải là sự ngẫu
nhiên hoặc cơ học mà đây là một điểm mới, thể hiện tầm quan trọng của quyền con
người trong Hiến pháp. Hiến pháp đã làm rõ hơn các quyền, nghĩa vụ cơ bản của công
dân và trách nhiệm của Nhà nước trong việc bảo đảm thực hiện quyền con người,
quyền công dân; thể hiện rõ bản chất dân chủ của Nhà nước ta.
Về tên chương cũng có sự thay đổi, nếu như ở Hiến pháp năm 1992 là "Quyền và
nghĩa vụ cơ bản công dân", đến Hiến pháp năm 2013 chương này có tên là "Quyền
2
con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân". Qua đó để khẳng định quyền con
người được Nhà nước thừa nhận, tôn trọng và cam kết bảo vệ theo Công ước quốc tế
mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia.
Tại Điều 14 quy định: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền
con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công
nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật; Quyền con người,
quyền công dân chỉ có thể bị hạn chế theo quy định của luật trong trường hợp cần
thiết vì lý do quốc phịng, an ninh quốc gia, trật tự, an tồn xã hội, đạo đức xã hội, sức
khỏe của cộng đồng". So với Hiến pháp năm 1992 thì Hiến pháp năm 2013 quy định
rõ quyền con người, quyền công dân chỉ sẽ hạn chế trong một số trường hợp nhất định,
tránh tình trạng xâm phạm quyền con người, quyền công dân.
So với Hiến pháp năm 1992, Hiến pháp năm 2013 thay cụm từ "mọi công
dân" thành "mọi người", cụ thể tại Điều 16 quy định "Mọi người đều bình đẳng trước
pháp luật. Không ai bị phân biệt đối xử trong đời sống chính trị, dân sự, kinh tế, văn
hóa, xã hội". Bổ sung thêm quy định: "Mọi người có quyền sống. Tính mạng con
người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái pháp luật" tại Điều
19 Hiến pháp sửa đổi năm 2013.
Tại khoản 3 Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có quyền hiến
mơ, bộ phận cơ thể người và hiến xác theo quy định của luật. Việc thử nghiệm y học,
dược học, khoa học hay bất kỳ hình thức thử nghiệm nào khác trên cơ thể người phải
có sự đồng ý của người được thử nghiệm”, đây là điểm mới so với Hiến pháp năm
1992, thể hiện được quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến xác của mọi người
để chữa bệnh cho người thân, cũng như đề cao vai trò của bộ phận cơ thể người phục
vụ cho việc nghiên cứu, chữa bệnh trong y học hiện nay.
Về quyền tự do kinh doanh: Tại Điều 57 Hiến pháp 1992 quy định: “Cơng dân có
quyền tự do kinh doanh” thì tại Điều 33 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Mọi người có
quyền tự do kinh doanh trong những ngành nghề mà pháp luật không cấm” đã mở rộng
hơn về đối tượng được kinh doanh và ngành nghề được kinh doanh tạo điều kiện mọi
người tự do kinh doanh làm giàu chính đáng, tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội.
Ngoài một số nội dung cơ bản trên, Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền con
người, quyền và nghĩa vụ cơ bản công dân đã quy định rõ ràng, cụ thể và bổ sung đầy
đủ hơn so với Hiến pháp năm 1992 như gộp các điều 65, 66, 67 và bổ sung thêm một
số nội dung thành Điều 37 Hiến pháp năm 2013; tách Điều 53 Hiến pháp năm 1992
quy định về cơng dân có quyền biểu quyết khi Nhà nước trưng cầu ý dân thành Điều
29 Hiến pháp năm 2013: “Công dân đủ mười tám tuổi trở lên có quyền biểu quyết khi
Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân”…
Về cách thức thể hiện, Hiến pháp năm 2013 có sự đổi mới quan trọng theo hướng
ghi nhận mọi người có quyền, cơng dân có quyền và quyền con người là quyền tự
nhiên, bất cứ ai cũng cũng có quyền đó; quyền cơng dân là quyền của người có quốc
tịch Việt Nam… Để mọi người, công dân thực hiện quyền của mình thì Hiến pháp năm
2013 quy định trách nhiệm của Nhà nước là phải ban hành văn bản pháp luật để tạo
điều kiện thuận lợi cho mọi người và công dân thực hiện đầy đủ các quyền của mình.
3
Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản
của công dân là sự kế thừa tinh hoa tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Hiến
pháp năm 1946, đồng thời, đã thể chế hóa chủ trương, đường lối, quan điểm của Đảng
và nhà nước ta về quyền con người, coi con người là chủ thể, là động lực quan trọng
của sự phát triển đất nước trong thời kỳ cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhằm hướng
đến mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Hiến pháp năm 2013 thúc đẩy việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Nhà nước pháp quyền phải là nhà
nước mà trong đó các quyền con người được ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm.
Theo nghĩa đó, thúc đẩy nhà nước pháp quyền cũng có nghĩa là thúc đẩy sự tơn trọng,
bảo vệ và bảo đảm các quyền con người
Nếu như tại Điều 83 của Hiến pháp năm 1992 trước đây quy định: “Quốc hội là
cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp” và Điều 147 quy định: “Chỉ Quốc
hội mới có quyền sửa đổi Hiến pháp” thì từ nhận thức mới về quyền lập hiến, chủ
quyền nhân dân, quyền con người và quyền công dân, Hiến pháp năm 2013 đã bỏ nội
dung trên và thay vào đó là quy định về sự kết hợp giữa thẩm quyền lập hiến của Quốc
hội, sáng kiến lập hiến của các cơ quan Nhà nước, của đại biểu Quốc hội với quyền lập
hiến của nhân dân dưới hình thức trưng cầu ý dân về Hiến pháp tại khoản 4 Điều 120
“…việc trưng cầu ý dân về Hiến pháp do Quốc hội quyết định”. Như vậy, Hiến pháp
năm 2013 mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, khẳng định mạnh mẽ chủ quyền nhân
dân. Quyền làm chủ của nhân dân (hay chủ quyền nhân dân) đã được ghi nhận ngay từ
Hiến pháp năm 1946, đến Hiến pháp năm 2013 tiếp tục khẳng định và cụ thể hóa tư
tưởng về quyền làm chủ của nhân dân thông qua một loạt quy định: Trong Lời nói đầu
nêu rõ chủ thể xây dựng, thi hành và bảo vệ Hiến pháp là nhân dân; Điều 2 Hiến pháp
năm 2013 khẳng định nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam do nhân dân làm chủ,
tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân… Những nội dung này tạo nền tảng vững
chắc bảo đảm thực hiện quyền con người, quyền công dân ở nước ta.
Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi năm 2001) đã bổ sung tại Điều 2 một nội dung
quan trọng, đó là cơ chế thực hiện quyền lực nhà nước: “Quyền lực nhà nước là thống
nhất, có sự phân cơng và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện
các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”. Để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, bảo đảm quyền con người, quyền công dân, Đại hội
đại biểu toàn quốc lần thứ XI năm 2011 của Đảng khẳng định sự cần thiết phải xác
định rõ ràng thiết chế tổ chức quyền lực và cần thiết bổ sung nội dung kiểm soát quyền
lực vào thành một yếu tố mới của cơ chế quyền lực nhà nước ở nước ta. Hiến pháp
năm 2013 đã hiến định nội dung mới này, xác định rõ ba bộ phận của quyền lực nhà
nước, trong đó Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền
lực nhà nước cao nhất, thực hiện quyền lập hiến, quyền lập pháp và giám sát tối cao
đối với hoạt động của Nhà nước; Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất,
thực hiện quyền hành pháp; Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền tư
pháp. Viện kiểm sát nhân dân thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.
Đáng chú ý là khoản 3 Điều 2 Hiến pháp năm 2013 đã bổ sung “kiểm soát” vào thiết
chế tổ chức quyền lực để bảo đảm tổ chức bộ máy được tổ chức có hiệu lực, hạn chế
lạm quyền dẫn đến vi phạm quyền con người, quyền công dân: “Quyền lực nhà nước
4
là thống nhất, có sự phân cơng, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp”.
Hiến pháp năm 2013 xác định Tòa án nhân dân là cơ quan xét xử, thực hiện quyền
tư pháp, sứ mệnh của Tòa án nhân dân được xác định là bảo vệ công lý, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Đây là những điểm mới có ý
nghĩa quan trọng trong lịch sử lập hiến Việt Nam, khẳng định những nguyên tắc của một
nền tư pháp hiện đại vì con người, cụ thể là nguyên tắc hai cấp xét xử mà thực chất là
một bảo đảm để thúc đẩy quyền của người bị buộc tội được yêu cầu xem xét lại bản án;
nguyên tắc về quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của
đương sự; nguyên tắc về sự tham gia xét xử của Hội thẩm nhân dân. Những nguyên tắc
trên đây phản ánh tính dân chủ và đề cao quyền tiếp cận công lý của người dân, bảo đảm
quyền con người, quyền công dân trong hoạt động tư pháp.
Cơ cấu của chương quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công
dân trong Hiến pháp 2013:
Tại Chương II Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân được
chia thành 4 phần, cụ thể như sau:
-
Phần thứ nhất, các quy tắc chung của quyền con người, quyền và nghĩa vụ của
cơng dân:
• Điều 14: Trách nhiệm của Nhà nước và giới hạn quyền của cơng dân.
• Điều 15: Quyền và nghĩa vụ của cơng dân.
• Điều 16: Bình đẳng trước pháp luật
• Điều 17: Chính sách bảo hộ đối với cơng dân
• Điều 18: Người Việt Nam định cư ở nước ngoài
-
Phần thứ hai, các quyền cơ bản của con người quyền và nghĩa vụ của công dân:
•
Điều 19: Quyền sống
•
Điều 20: Bảo đảm quyền con người
•
Điều 21: Bảo đảm quyền bí mật đời tư
•
Điều 22: Bảo đảm quyền và chỗ ở
•
Điều 23: Quyền tự do đi lại và cư trú của cơng dân
•
Điều 24: Quyền tự do tín ngưỡng và tơn giáo
•
Điều 25: Quyền tự do ngơn luận, báo chí, thơng tin, hội họp, lập hội và biểu
tình
•
Điều 26: Bình đẳng giới
•
Điều 27: Tuổi bầu cử, ứng cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân
•
Điều 28: Công dân tham gia quản lý Nhà nước
5
-
•
Điều 29: Quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu dân ý
•
Điều 30: Quyền khiếu nại, tố cáo
•
Điều 31: Quyền cơ bản trong lĩnh vực tư pháp hành sự
•
Điều 32: Quyền sở hữu trí tuệ
•
Điều 33: Quyền tự do kinh doanh
•
Điều 34: Quyền an sinh xã hội
•
Điều 35: Quyền làm việc của cơng dân
•
Điều 36: Hơn nhân và gia đình
•
Điều 37: Trẻ em thành niên và người cao tuổi
•
Điều 38: Quyền được bảo vệ, chăm sóc sức khỏe
•
Điều 39: Học tập là quyền và nghĩa vụ
•
Điều 40: Quyền nghiên cứu khoa học công nghệ, sáng tạo văn học nghệ thuật
và thụ hưởng lợi ích từ hoạt động đó
•
Điều 41: Quyền thụ hưởng và tiếp cận các giá trị văn hóa
•
Điều 42: Quyền xác định dân tộc và sử dụng ngơn ngữ
•
Điều 43: Quyền và nghĩa vụ với mơi trường
Phần 3: Nghĩa vụ của cơng dân:
• Điều 44: Nghĩa vụ trung thành với Tổ quốc
• Điều 45: Bảo vệ Tổ quốc
• Điều 46: Nghĩa vụ tuân theo Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ an ninh quốc gia
• Điều 47: Nghĩa vụ nộp thuế
-
Phần 4: Người nước ngồi.
• Điều 48: Nghĩa vụ của người nước ngoài cư trú tại Việt Nam
• Điều 49: Cho phép người nước ngồi dấu tranh vì chủ nghĩa xã hội mà bị bức
hại được cư trú tại Việt Nam.
2. Thực tiễn việc thực hiện nguyên tắc Hiến pháp 2013 về quyền con người
2.1 Giới thiệu về quyền con người
Quyền con người là những quyền cơ bản nhất của con người, được có một cách
tự nhiên, gắn bó mật thiết với con người. Một trong những nhiệm vụ quan trọng nhất
của Nhà nước là phải bảo vệ những quyền đó. Vì vậy, quyền con người luôn được nêu
trong các bản Hiến pháp của một quốc gia: Chương II Hiến pháp Việt Nam năm 2013,
Phần I Hiến pháp Tây Ban Nha năm 1978, Chương II Hiến pháp Thụy Điển 1974,
chương III Hiến pháp Nhật Bản năm 1946, phần II Hiến pháp Hy Lạp năm 1975, phần
6
IV Hiến pháp Singapore năm 1963, chương II Hiến pháp Hàn Quốc năm 1948, chương
II Hiến pháp Ba Lan năm 1997, chương II Hiến pháp Trung Quốc năm 1982, chương
II Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993…
Quyền con người là phạm trù chính trị - pháp lý, sự ra đời của khái niệm quyền
con người gắn liền với cuộc cách mạng dân chủ tư sản lật đổ chế độ phong kiến, xã hội
thần dân thế kỷ XVII, XVIII. Ở Anh, khái niệm đó nằm trong Luật về các quyền
(1989); ở Mỹ, nằm trong Tuyên ngôn độc lập (1776) và Hiến pháp (bổ sung, 1789); ở
Pháp, nằm trong Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền (1789); và về sau khái niệm
này được ghi nhận trong các văn kiện quốc tế do Liên Hiệp Quốc khởi xướng.
Trong các điều kiện đảm bảo thực hiện quyền con người như: chính trị, kinh tế,
văn hóa giáo dục và pháp luật... thì pháp luật có vị trí, vai trị quan trọng hàng đầu, bởi
vì: pháp luật là phương tiện chính thức hóa giá trị xã hội của quyền con người; là công
cụ sắc bén của nhà nước trong việc thực hiện và bảo vệ quyền con người; pháp luật tạo
cơ sở pháp lý để công dân đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Hiến pháp là đạo luật tối cao trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, vì lẽ đó
quyền con người cần phải được quy định cụ thể trong bản Hiến pháp.
Tiếp thu tinh thần về quyền con người của Hiến pháp năm 1992, bản Hiến pháp
năm 2013 được Quốc hội khóa XIII thơng qua ngày 28/11/2013, với tuyệt đại đa số đại
biểu Quốc hội biểu quyết tán thành (sau đây gọi là Hiến pháp năm 2013) tiếp tục
khẳng định các quyền cơ bản như: quyền bầu cử và quyền ứng cử vào Quốc hội, Hội
đồng nhân dân; quyền tự do ngơn luận, tự do báo chí, tiếp cận thơng tin, hội họp, biểu
tình, quyền và cơ hội bình đẳng giới…
2.2 Thực tiễn việc vận dụng quyền con người trong Hiến pháp 2013
Quyền con người được thể hiện trong Hiến pháp 2013 tại các điều khoản sau:
Điều khoản
Thực tiễn về việc thực hiện quyền con người
Điều 16
Tại Việt Nam, mọi người đều bình đẳng trước pháp luật
1. Mọi người đều bình đẳng nếu loại trừ các mặt tiêu cực trong mối quan hệ giữa chính
quyền với nhân dân.
trước pháp luật.
2. Không ai bị phân biệt đối Điển hình, CSGT vẫn cịn nhẹ tay trong việc xử phạt do
xử trong đời sống chính trị, một số người vi phạm luật giao thơng có ơng, cha, chú,
dân sự, kinh tế, văn hóa, xã bác,… làm quan hoặc có phong bì.
hội.
Tuyển dụng cơng chức dựa vào tiêu chí: “Nhất quan hệ,
nhì tiền tệ, ba hậu duệ, bốn trí tuệ”.
Điều 19
Quyền sống (hay quyền được sống) là quyền cơ bản và
Mọi người có quyền sống. quan trọng nhất của con người, đây cũng là một trong
Tính mạng con người được những nội dung quan trọng của Nhân quyền.
pháp luật bảo hộ. Không ai bị Một thực tiễn về quyền sống được Chính quyền Việt Nam
tước đoạt tính mạng trái luật.
thể hiện trong mối quan hệ giữa hình phạt tử hình và
quyền sống. Cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới,
xuất phát từ yêu cầu khách quan về phòng chống tội phạm,
pháp luật nước ta vẫn cịn duy trì hình phạt tử hình, song
7
đang thu hẹp dần phạm vi áp dụng hình phạt này.
Điều 20
Trên thực tế, để bảo đảm thực thi quyền bất khả xâm phạm
về thân thể, danh dự, nhân phẩm, Bộ luật Hình sự đã quy
định tội bức cung, tội dùng nhục hình và một số hành vi
xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm con người có
thể bị coi là tra tấn trong một số trường hợp nhất định.
Hình phạt đối với các hành vi phạm tội nêu trên là rất
nghiêm khắc; tùy theo từng tội phạm và các yếu tố tăng
nặng trách nhiệm hình sự mà hình phạt có thể là tù chung
thân hoặc tử hình. Đồng thời, những hành vi đồng phạm
với hành vi tra tấn nêu trên đều bị xử lý theo quy định.
1. Mọi người có quyền bất
khả xâm phạm về thân thể,
được pháp luật bảo hộ về sức
khoẻ, danh dự và nhân phẩm;
không bị tra tấn, bạo lực, truy
bức, nhục hình hay bất kỳ
hình thức đối xử nào khác
xâm phạm thân thể, sức khỏe,
xúc phạm danh dự, nhân
phẩm.
Ở Việt Nam, quyền hiến mô, bộ phận cơ thể người và hiến
2. Không ai bị bắt nếu không xác được quy định cụ thể tại Điều 35 Bộ luật Dân sự 2015
có quyết định của Tồ án nhân và “Luật Hiến, lấy, ghép mô, bộ phận cơ thể người và hiến,
dân, quyết định hoặc phê lấy xác năm 2006”, cụ thể, tại Điều 5 của Luật này quy
chuẩn của Viện kiểm sát nhân định như sau: “Người từ đủ 18 tuổi trở lên, có năng lực
dân, trừ trường hợp phạm tội hành vi dân sự đầy đủ có quyền hiến mơ, bộ phận cơ thể
quả tang. Việc bắt, giam, giữ của mình khi cịn sống, sau khi chết và hiến xác”. Tuy
nhiên, thực tế, trường hợp các tử tù xin hiến xác cho y học
người do luật định.
vẫn không được chấp nhận do: Theo quy định tại Điều 59
3. Mọi người có quyền hiến Luật Thi hành án hình sự năm 2010 thì Thi hành án tử hình
mơ, bộ phận cơ thể người và được thực hiện bằng tiêm thuốc độc. Việc tiến hành tiêm
hiến xác theo quy định của thuốc độc vào cơ thể của tử tù sẽ khiến cho các bộ phận,
luật. Việc thử nghiệm y học, cơ quan chức năng trong cơ thể tử tù bị nhiễm độc và
dược học, khoa học hay bất khơng có chun gia xác định các mơ, bộ phận cơ thể cịn
kỳ hình thức thử nghiệm đáp ứng được nhu cầu của y học hay không và pháp luật
nào khác trên cơ thể người cũng chưa có quy định về điều này.
phải có sự đồng ý của người
được thử nghiệm.
Điều 21
Hiện nay Việt Nam đã công nhận và bảo hộ quyền về đời
1. Mọi người có quyền bất sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình trong các
khả xâm phạm về đời sống văn bản pháp luật như Bộ luật dân sự và pháp luật chuyên
riêng tư, bí mật cá nhân và bí ngành.
mật gia đình; có quyền bảo vệ Điều 159 Bộ luật hình sự năm 2015 quy định: “1. Người
danh dự, uy tín của mình.
nào thực hiện một trong các hành vi sau đây, đã bị xử lý kỷ
Thông tin về đời sống riêng luật hoặc xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà
tư, bí mật cá nhân, bí mật gia cịn vi phạm, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 20.000.000
đình được pháp luật bảo đảm đồng đến 50.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam
giữ đến 03 năm:
an tồn.
a) Chiếm đoạt thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn
2. Mọi người có quyền bí mật
thư tín, điện thoại, điện tín và bản khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu
các hình thức trao đổi thơng chính, viễn thơng dưới bất kỳ hình thức nào;
8
tin riêng tư khác.
b) Cố ý làm hư hỏng, thất lạc hoặc cố ý lấy các thơng
Khơng ai được bóc mở, kiểm tin, nội dung của thư tín, điện báo, telex, fax hoặc văn bản
soát, thu giữ trái luật thư tín, khác của người khác được truyền đưa bằng mạng bưu
điện thoại, điện tín và các chính, viễn thơng;
hình thức trao đổi thông tin
c) Nghe, ghi âm cuộc đàm thoại trái pháp luật;
riêng tư của người khác.
d) Khám xét, thu giữ thư tín, điện tín trái pháp luật;
đ) Hành vi khác xâm phạm bí mật hoặc an tồn thư
tín, điện thoại, điện tín, telex, fax hoặc hình thức trao đổi
thơng tin riêng tư khác của người khác…”
Thực tiễn thực thi pháp luật về đời sống riêng tư, bí mật cá
nhân, bí mật gia đình cịn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc,
đặc biệt là chưa có cơ chế pháp lý đặc thù và phù hợp để
xử lý.
Ví dụ như vướng mắc trong cách hiểu ‘‘điểm thi của học
sinh có phải bí mật cá nhân, đời sống riêng tư’’ hay không.
Vấn đề này thời gian vừa qua được Bộ Giáo dục và Đào
tạo, các trường trung học phổ thông và cơ quan báo chí rất
quan tâm khi cơng bố cơng khai điểm thi tốt nghiệp trung
học phổ thơng của thí sinh. Theo Nghị định số
56/2017/NĐ-CP ngày 09 tháng 5 năm 2017 quy định chi
tiết một số điều của Luật trẻ em, tại Điều 33 quy định
“Thơng tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật cá nhân của
trẻ em là các thơng tin về: tên, tuổi; đặc điểm nhận dạng
cá nhân; thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được
ghi trong bệnh án; hình ảnh cá nhân; thơng tin về các
thành viên trong gia đình, người chăm sóc trẻ em; tài sản
cá nhân; số điện thoại; địa chỉ thư tín cá nhân; địa chỉ,
thông tin về nơi ở, quê quán; địa chỉ, thông tin về trường,
lớp, kết quả học tập và các mối quan hệ bạn bè của trẻ
em; thông tin về dịch vụ cung cấp cho cá nhân trẻ em”.
Quy định này khẳng định kết quả học tập, cụ thể là điểm
thi của trẻ em là thơng tin bí mật đời sống riêng tư, bí mật
cá nhân của trẻ em. Điều 1 Luật trẻ em năm 2016 quy định
“Trẻ em là người dưới 16 tuổi”. Do đó, có thể khẳng định
đối với những thí sinh dưới 16 tuổi thì điểm thi được coi là
bí mật cá nhân, đời sống riêng tư. Cịn đối với những thí
sinh trên 16 tuổi thì pháp luật chưa có quy định điểm thi có
là thơng tin bí mật cá nhân, đời sống riêng tư hay không.
Điều này gây ra sự lúng túng trong thực thi pháp luật của
các cơ quan có thẩm quyền và phần nào ảnh hưởng tới
quyền lợi của thí sinh trên 16 tuổi.
Điều 22
Các quy định của pháp luật Việt Nam không chỉ ghi nhận
9
2. Mọi người có quyền bất
khả xâm phạm về chỗ ở.
Không ai được tự ý vào chỗ ở
của người khác nếu khơng
được người đó đồng ý.
và thể hiện sự tơn trọng quyền bất khả xâm phạm về chỗ ở
mà còn đề ra các biện pháp để bảo vệ quyền này. Các biện
pháp xử phạt vi phạm hành chính thậm chí xử lý hình sự
đã được đặt ra để bảo vệ quyền nói trên khỏi sự xâm phạm.
Theo đó, cơng dân có quyền được các cơ quan nhà nước và
mọi người tôn trọng chỗ ở, không ai được tự ý vào chỗ ở
của người khác nếu khơng được người đó đồng ý, trừ
trường hợp pháp luật cho phép. Cụ thể:
Theo quy định tại Điều 158 – Bộ luật hình sự năm
2015 về tội xâm phạm chỗ ở của người khác như sau:
“1. Người nào thực hiện một trong các hành vi sau đây
xâm phạm chỗ ở của người khác, thì bị phạt cải tạo không
giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02
năm:
a) Khám xét trái pháp luật chỗ ở của người khác;
b) Dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, gây sức ép về tinh
thần hoặc thủ đoạn trái pháp luật khác buộc người khác
phải rời khỏi chỗ ở hợp pháp của họ;
c) Dùng mọi thủ đoạn trái pháp luật nhằm chiếm, giữ chỗ
ở hoặc cản trở trái phép, không cho người đang ở hoặc
quản lý hợp pháp chỗ ở được vào chỗ ở của họ;
d) Tự ý xâm nhập chỗ ở của người khác mà không được sự
đồng ý của chủ nhà hoặc người quản lý hợp pháp.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị
phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:
a) Có tổ chức;
b) Lợi dụng chức vụ, quyền hạn;
c) Phạm tội 02 lần trở lên;
d) Làm người bị xâm phạm chỗ ở tự sát;
đ) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.
3. Người phạm tội cịn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ
nhất định từ 01 năm đến 05 năm.”
Điều 24
Theo dòng chảy của lịch sử, Việt Nam là một quốc gia đa
tôn giáo, kể cả tôn giáo nội sinh và tôn giáo ngoại nhập.
Người có tín ngưỡng, tơn giáo ở Việt Nam được yên tâm
và an toàn hành đạo theo đúng nghĩa của một đạo giáo
chân chính.
1. Mọi người có quyền tự do
tín ngưỡng, tơn giáo, theo
hoặc khơng theo một tơn giáo
nào. Các tơn giáo bình đẳng
trước pháp luật.
Thống kê sơ bộ, tính đến năm 2017, cả nước có 41 tổ chức
tôn giáo thuộc 14 tôn giáo khác nhau (với hơn 25 triệu tín
10
2. Nhà nước tơn trọng và bảo đồ, 53 nghìn chức sắc, hơn 133 nghìn chức việc, 28 nghìn
hộ quyền tự do tín ngưỡng, cơ sở thờ tự) được Nhà nước công nhận và cho phép hoạt
tôn giáo.
động. Các tôn giáo đã có hệ thống đào tạo quy mơ trong cả
3. Không ai được xâm phạm nước. Hoạt động hợp tác quốc tế trên lĩnh vực tơn giáo
tự do tín ngưỡng, tơn giáo được chú trọng, đẩy mạnh. Chính phủ đã tạo điều kiện cho
hoặc lợi dụng tín ngưỡng, tơn các tôn giáo được mở rộng quan hệ quốc tế rộng rãi; nhiều
đồn tơn giáo quốc tế đến thăm, làm việc và nhiều đồn
giáo để vi phạm pháp luật.
tơn giáo trong nước đi thăm, làm việc, học tập ở nước
ngoài. Việc đăng ký điểm nhóm Tin lành đã được Chính
phủ quan tâm phê duyệt. Hiện nay, các tỉnh Tây Nguyên và
Bình Phước có khoảng 500 nghìn tín đồ thuộc 31 tổ chức,
hệ phái, nhóm Tin lành, trong đó có hơn 400 nghìn người
đang sinh hoạt tại 240 chi hội và 1.300 điểm nhóm đã đăng
ký với chính quyền địa phương,...
Hệ thống pháp luật về tín ngưỡng, tơn giáo được sửa đổi,
bổ sung, ngày càng hoàn thiện, mà điểm nhấn là năm
2017, Quốc hội đã thơng qua Luật Tín ngưỡng tơn giáo và
Luật này có hiệu lực từ ngày 01-01-2018, là cơ sở pháp lý
quan trọng nhằm đảm bảo ngày càng tốt hơn quyền của
người dân trong thực hiện quyền tự do tín ngưỡng, tơn
giáo.
Ngày 1/12/2016, tại phiên họp Ủy ban Liên Chính phủ về
bảo vệ di sản văn hóa phi vật thể lần thứ 11 của UNESCO
diễn ra tại thành phố Addis Ababa, nước Cộng hòa dân chủ
Liên bang Ethiopia, di sản “Thực hành Tín ngưỡng thờ
Mẫu Tam phủ của người Việt” đã chính thức được
UNESCO ghi danh tại Danh sách Di sản văn hóa phi vật
thể đại diện của nhân loại.
Điều 30
Bản chất của quyền khiếu nại, tố cáo là quyền tự vệ hợp
pháp trước những hành vi vi phạm để tự bảo vệ mình hoặc
bảo vệ quyền và lợi ích của xã hội. Đó là quyền hiến định,
quyền phản hồi, quyền dân chủ và hơn thế nữa, đó là
quyền để bảo vệ quyền.
1. Mọi người có quyền khiếu
nại, tố cáo với cơ quan, tổ
chức, cá nhân có thẩm quyền
về những việc làm trái pháp
luật của cơ quan, tổ chức, cá Khiếu nại, tố cáo là một phương thức thể hiện quyền dân
nhân.
chủ của nhân dân và là một trong những phương thức thực
hiện quyền giám sát của nhân dân đối với bộ máy Nhà
nước. Xuất phát từ tư tưởng "lấy dân là gốc", từ bản chất
chính trị của chế độ dân chủ nhân dân.
Quyền khiếu nại, tố cáo được quy định trong các văn bản
Luật sau đây: Luật Khiếu nại 2011, Nghị định 75/2012/NĐ
– CP hướng dẫn Luật khiếu nại; Luật Tố cáo 2011, Nghị
định 76/2012/NĐ – CP hướng dẫn Luật tố cáo.
11
Về thực trạng công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo ở Việt
Nam hiện nay thì cịn những hạn chế:
- Cơng tác tiếp dân ở một số nơi cịn hình thức, chưa bố
trí được nơi tiếp dân độc lập, phổ biến là ở cấp huyện.
Một số thủ trưởng cơ quan Thi hành án dân sự không
trực tiếp tiếp dân định kỳ và đột xuất.
- Một số cán bộ làm nhiệm vụ tiếp dân chưa ý thức được
tầm quan trọng của công tác này, thiếu kỹ năng tiếp
dân, thái độ tiếp dân chưa phù hợp, ứng xử không đúng
mực khi thực hiện nhiệm vụ.
- Kỹ năng ứng xử, thái độ giải quyết vụ việc khiếu nại, tố
cáo của người có thẩm quyền chưa phù hợp dẫn đến
tình trạng dân bức xúc.
- Có trường hợp người có thẩm quyền khi giải quyết
khiếu nại tố cáo có dấu hiệu nể nang, lịng vịng, né
tránh, đùn đẩy trách nhiệm cho cơ quan cấp trên.
Điều 32
Bằng các quy phạm pháp luật, Nhà nước xác nhận và quy
định phạm vi những quyền của một chủ sở hữu đối với tài
sản của họ. Mặt khác, Nhà nước dùng pháp luật như một
công cụ pháp lý để bảo vệ các quyền năng đã được pháp
luật công nhận và ngăn ngừa những hành vi xâm phạm đến
quyền của các chủ sở hữu
1. Mọi người có quyền sở hữu
về thu nhập hợp pháp, của cải
để dành, nhà ở, tư liệu sinh
hoạt, tư liệu sản xuất, phần
vốn góp trong doanh nghiệp
hoặc trong các tổ chức kinh tế Ngành luật hình sự bảo vệ quyền sở hữu bằng việc quy
khác.
định một số hành vi nhất định xâm phạm đến quyền sở hữu
2. Quyền sở hữu tư nhân và là tội phạm và quy định mức hình phạt tương xứng với
quyền thừa kế được pháp luật những loại hành vi phạm tội đó.
bảo hộ.
Ngành luật dân sự bảo vệ quyền sở hữu bằng việc quy định
3. Trường hợp thật cần thiết vì những phương thức kiện dân sự trước tòa án để chủ sở hữu
lý do quốc phịng, an ninh có thể thơng qua đó mà địi lại tài sản của mình đang bị
hoặc vì lợi ích quốc gia, tình người khác chiếm giữ bất hợp pháp…
trạng khẩn cấp, phòng, chống
thiên tai, Nhà nước trưng mua
hoặc trưng dụng có bồi
thường tài sản của tổ chức, cá
nhân theo giá thị trường.
Điều 33
Hiện thực hóa quyền này, 2 bộ luật liên quan đến doanh
Mọi người có quyền tự do nghiệp là Luật Doanh nghiệp năm 2014 và Luật Đầu tư
kinh doanh trong những năm 2014 đã được xây dựng với cách tiếp cận về quyền tự
ngành nghề mà pháp luật do kinh doanh theo hướng đơn giản hóa điều kiện, thủ tục
cấp phép, dỡ bỏ hàng loạt hạn chế, bất cập của quy định
không cấm.
cũ, mở rộng các nhóm quyền tự quyết của doanh nghiệp.
12
Một điểm nổi bật là hướng tiếp cận mới, liệt kê một số
ngành nghề cấm kinh doanh, ngoài các ngành nghề này,
mọi chủ thể đều có quyền kinh doanh.
Tại Điều 7 về quyền của doanh nghiệp trong Luật Doanh
nghiệp năm 2014 minh thị rằng, doanh nghiệp được “tự do
kinh doanh trong những ngành, nghề mà luật không cấm”.
Vậy luật cấm gì? Điều 6 của Luật Đầu tư năm 2014 cấm
đầu tư kinh doanh trong 6 ngành nghề sau: kinh doanh ma
túy; kinh doanh hóa chất, khống vật cấm; kinh doanh
động, thực vật hoang dã, nguy cấp, quý hiếm có nguồn gốc
từ tự nhiên; kinh doanh mại dâm; mua, bán người, mô, bộ
phận cơ thể người và các hoạt động kinh doanh liên quan
đến sinh sản vơ tính trên người. Để làm rõ hơn giới hạn
cấm này, trong phụ lục 1 và 2, Luật Đầu tư năm 2014 còn
liệt kê chi tiết danh mục chất ma túy, danh mục động, thực
vật, khoáng vật cấm kinh doanh đầu tư. Trong lịch sử lập
pháp Việt Nam, có lẽ đây là lần đầu tiên một văn bản luật,
nhưng lại có các phụ lục quy định chi tiết và tỉ mỉ như vậy.
Bên cạnh đó, vẫn cịn những cản trở chẳng hạn như: tình
trạng chồng chéo luật gây rủi ro cho doanh nghiệp. Các
chủ thể dù có quyền tự do kinh doanh trong khn khổ
pháp luật, nhưng do luật ở Việt Nam còn phức tạp, nhiều
quy định chồng chéo ở các luật chuyên ngành, nên thực tế
doanh nghiệp cũng không dám tự do thực hiện quyền của
mình, với lo ngại là có thể ở đâu đó có quy định cấm, hoặc
hạn chế quyền này. Có tình trạng là trong khi Luật Doanh
nghiệp “mở”, thì các Luật chuyên ngành lại “đóng”, hoặc
các luật của Quốc hội, văn bản của Chính phủ thì quy định
thơng thống nhưng văn bản của các cơ quan quản lý lại
“siết chặt” bằng những loại giấy phép “con” hay bằng
những thủ tục phiền hà khơng đáng có.
Điều 38
Đảng và Nhà nước ta đã luôn xác định sức khỏe là điều
1. Mọi người có quyền được kiện cơ bản nhất để phát triển con người, phát triển xã hội
bảo vệ, chăm sóc sức khỏe, và xem việc đảm bảo quyền được chăm sóc sức khỏe của
bình đẳng trong việc sử dụng người dân là một quyền cơ bản, tất yếu.
các dịch vụ y tế và có nghĩa Khơng chỉ được ghi nhận trong các Công ước quốc tế mà
vụ thực hiện các quy định về Việt Nam tham gia, quyền được chăm sóc sức khỏe của
phòng bệnh, khám bệnh, chữa người dân còn được ghi nhận cụ thể trong Hiến pháp và
bệnh.
nhiều đạo luật quan trọng. Từ năm 1992, chính sách bảo
2. Nghiêm cấm các hành vi đe hiểm y tế (BHYT) được triển khai thực hiện trong phạm vi
dọa cuộc sống, sức khỏe của cả nước. Luật Bảo hiểm y tế năm 2008 (sửa đổi, bổ sung
năm 2014) đã góp phần hồn thiện chính sách, pháp luật
người khác và cộng đồng.
về BHYT nói riêng và chính sách chăm sóc sức khỏe nhân
13
dân nói chung.
Nếu chính sách BHYT của Nhà nước là sự hỗ trợ về mặt
kinh tế, san sẻ gánh nặng tài chính về chi phí y tế cho
người dân, thì Luật Khám bệnh và chữa bệnh năm 2009 lại
quy định về mặt thủ tục, hình thức đối với quá trình khám
bệnh, cụ thể là các quyền và nghĩa vụ của người bệnh,
người hành nghề khám chữa bệnh, các điều kiện hành
nghề khám chữa bệnh, quy định về chuyên môn kỹ thuật
trong khám chữa bệnh, điều kiện bảo đảm công tác khám
bệnh, chữa bệnh, áp dụng kỹ thuật, phương pháp mới trong
khám chữa bệnh, sai sót chun mơn kỹ thuật, giải quyết
khiếu nại, tố cáo và tranh chấp trong khám chữa bệnh, điều
kiện bảo đảm công tác khám bệnh, chữa bệnh. Đây là
những quy định cơ bản của pháp luật, đảm bảo cho người
dân quyền được chăm sóc sức khỏe, một trong những
quyền cơ bản của con người.
Điều 40
Để quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn
Mọi người có quyền nghiên học, nghệ thuật được diễn ra một cách lành mạnh, thì vấn
cứu khoa học và cơng nghệ, đề sở hữu trí tuệ nên được Chính quyền Việt Nam giải
sáng tạo văn học, nghệ thuật quyết mạnh mẽ hơn.
và thụ hưởng lợi ích từ các Thực trạng ở Việt Nam, đã có nhiều trường hợp vi phạm
hoạt động đó.
quyền sở hữu trí tuệ như: tình trạng hàng giả, hàng nhái;
xâm phạm bản quyền tác giả,…
Hiện nay, các biện pháp hành chính vẫn chưa đủ sức răn
đe, do đó, cần có biện pháp mạnh hơn như truy cứu trách
nhiệm hình sự các hành vi sao chép với mức độ nhiều và
thiệt hại lớn. Cần xây dựng được văn hóa tơn trọng quyền
sở hữu trí tuệ, nâng cao ý thức của người sử dụng, những
người trực tiếp thụ hưởng tài sản trí tuệ, làm sao để người
dân trong xã hội cảm thấy khi sử dụng sách lậu, xem phim
lậu, nghe nhạc lậu là vấn đề về đạo đức, là hành vi xâm
phạm đến quyền tác giả và các quyền liên quan.
Điều 41
Mọi người có quyền hưởng
thụ và tiếp cận các giá trị văn
hố, tham gia vào đời sống
văn hóa, sử dụng các cơ sở
văn hóa.
Nói đến văn hóa, chúng ta thường đề cập đến các vấn đề
như bản sắc văn hóa, di sản văn hóa, biểu tượng văn hóa,
chuẩn mực văn hóa, giá trị văn hóa... Trong đó, giá trị văn
hóa là yếu tố cốt lõi của văn hóa, nó được sáng tạo và kết
tinh trong quá trình lịch sử của mỗi cộng đồng, tương ứng
với môi trường tự nhiên và xã hội nhất định. Giá trị văn
hóa hướng đến thỏa mãn những nhu cầu và khát vọng của
cộng đồng về những điều tốt đẹp (chân, thiện, mỹ), từ đó
bồi đắp và nâng cao bản chất con người.
Hàng loạt các văn bản pháp luật được ban hành, sửa đổi và
14
bổ sung cho phù hợp với điều kiện kinh tế, xã hội của đất
nước nhằm đảm bảo hiệu quả các quyền con người nói
chung và quyền hưởng thụ các giá trị văn hố nói riêng,
tạo ra một hành lang pháp lý đảm bảo quyền hưởng thụ và
tiếp cận các giá trị văn hoá cho người dân Việt Nam. Cụ
thể:
Luật Giáo dục năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009)
đã xác định học tập là quyền và nghĩa vụ của công dân.
Mọi công dân không phân biệt dân tộc, tôn giáo, tín
ngưỡng, nam nữ, nguồn gốc gia đình, địa vị xã hội, hồn
cảnh kinh tế đều bình đẳng về cơ hội học tập. Nhà nước ưu
tiên, tạo điều kiện cho con em dân tộc thiểu số, con em gia
đình ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó
khăn, đối tượng được hưởng chính sách ưu đãi, người tàn
tật, khuyết tật và đối tượng được hưởng chính sách xã hội
khác thực hiện quyền và nghĩa vụ học tập của mình. Đảm
bảo quyền được học tập là một cơ hội cụ thể cho mọi
người được tiếp cận với các giá trị văn hóa.
Luật Xuất bản năm 2012, hoạt động xuất bản thuộc lĩnh
vực văn hóa, tư tưởng nhằm phổ biến, giới thiệu tri thức
thuộc các lĩnh vực của đời sống xã hội, giá trị văn hóa dân
tộc và tinh hoa văn hóa nhân loại, đáp ứng nhu cầu đời
sống tinh thần của nhân dân, nâng cao dân trí, xây dựng
đạo đức và lối sống tốt đẹp của người Việt Nam, mở rộng
giao lưu văn hóa với các nước, phát triển kinh tế - xã hội,
đấu tranh chống mọi tư tưởng và hành vi làm tổn hại lợi
ích quốc gia, góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Luật Báo chí năm 2016 được ban hành đã góp phần tích
cực vào việc đảm bảo quyền tự do tiếp cận thông tin của
người dân. Báo chí có nhiệm vụ thơng tin trung thực về
tình hình đất nước và thế giới phù hợp với lợi ích của đất
nước và của nhân dân; góp phần ổn định chính trị, phát
triển kinh tế - xã hội, nâng cao dân trí, đáp ứng nhu cầu
văn hóa lành mạnh của nhân dân, bảo vệ và phát huy
truyền thống tốt đẹp của dân tộc; phát hiện, nêu gương
người tốt, việc tốt, nhân tố mới, điển hình tiên tiến; góp
phần giữ gìn sự trong sáng và phát triển tiếng Việt, tiếng
của các dân tộc thiểu số Việt Nam; mở rộng sự hiểu biết
lẫn nhau giữa các nước và các dân tộc.
Điều 43
Mơi trường trong lành có thể hiểu là mơi trường sạch đẹp,
Mọi người có quyền được thuần khiết, khơng có ơ nhiễm, suy thối mơi trường.
sống trong mơi trường trong Trong mơi trường đó, con người và sinh vật sống thoải
15
lành và có nghĩa vụ bảo vệ mái, khỏe mạnh, hữu ích và hài hịa với thiên nhiên. Ở
mơi trường.
bình diện quốc tế, quyền được sống trong môi trường trong
lành đã được ghi nhận trong nhiều văn kiện, công ước
quốc tế như Tuyên bố thế giới về nhân quyền năm 1948,
Nghị quyết của Đại hội đồng Liên Hợp Quốc năm 1962 về
phát triển kinh tế và bảo vệ thiên nhiên; Cơng ước quốc tế
về các quyền chính trị, dân sự; Cơng ước quốc tế về các
quyền kinh tế, văn hóa và xã hội năm 1966… Với việc ký
nhiều cam kết quốc tế, Việt Nam đã thừa nhận quyền được
sống trong môi trường trong lành của mọi người ở nhiều
văn bản pháp luật khác nhau, mà trực tiếp nhất là hệ thống
văn bản pháp luật về bảo vệ môi trường, cụ thể là Luật Bảo
vệ mơi trường năm 2005.
Có thể nói, trong điều kiện nước ta thuộc nhóm nước có
thu nhập bình quân đầu người thấp trên thế giới nên chúng
ta đã tập trung cho tăng trưởng kinh tế, ưu tiên cho cơng
nghiệp hóa, hiện đại hóa, vì vậy thời gian qua, quyền được
sống trong môi trường trong lành của người dân chưa được
đảm bảo tốt. Cùng với những thành tựu phát triển kinh tế
là sự hủy hoại, ô nhiễm môi trường khá nghiêm trọng ở
nước ta. Cụ thể như sau:
Về ô nhiễm không khí, Việt Nam đứng thứ 123/132 quốc
gia trong bảng xếp hạng. Hà Nội và thành phố Hồ Chí
Minh, nồng độ bụi cao hơn tiêu chuẩn cho phép nhiều lần
và nằm trong nhóm 10 đơ thị ơ nhiễm nhất thế giới. Về
môi trường nước, phần lớn chất lượng nước sông ở nước ta
đạt loại B. Tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh, hầu hết
sơng, hồ nội thị đều bị ơ nhiễm. Ơ nhiễm mơi trường ở
Việt Nam đang tác động tiêu cực đến quyền được sống
trong môi trường trong lành của người dân cũng như nhiều
quyền thiết yếu khác của con người, trong đó có quyền
sống, quyền sức khỏe của con người. Số người mắc bệnh
ung thư ở Việt Nam mỗi năm đều tăng lên.
Các loại thuế, phí về mơi trường mới chỉ bước đầu tạo
nguồn thu cho ngân sách mà chưa phát huy được vai trị
cơng cụ kinh tế điều tiết vĩ mơ, hạn chế gây ô nhiễm môi
trường, thúc đẩy các hoạt động kinh tế - xã hội theo hướng
hài hòa với thiên nhiên, thân thiện với môi trường và phát
triển bền vững.
Điều 47
Mọi người có nghĩa
nộp thuế theo luật định.
vụ
16
3. Thực tiễn thực hiện nguyên tắc Hiến pháp năm 2013 về quyền công dân.
3.1. Giới thiệu về quyền công dân.
Quyền con người là quyền tự nhiên, vốn có của con người từ lúc sinh ra; quyền
công dân trước hết cũng là quyền con người nhưng việc thực hiện nó gắn liền với quốc
tịch, tức là vị thế pháp lý của công dân trong quan hệ với Nhà nước, được Nhà nước
bảo đảm đối với cơng dân của nước mình. Chỉ những người có quốc tịch mới được
hưởng quyền cơng dân của quốc gia đó như quyền bầu cử, ứng cử, tham gia quản lý
nhà nước…
Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân là cơ sở để xác định địa vị pháp lý của
công dân, là cơ sở cho mọi quyền và nghĩa vụ khác. Trong lịch sử lập Hiến nước ta,
nội dung chế định về nghĩa vụ cơ bản của công dân hết sức phong phú, ngày càng đầy
đủ và hồn thiện hơn., Quyền cơng dân được quy định trong Hiến pháp, điều chỉnh
những quan hệ đặc biệt quan trọng giữa công dân và nhà nước, là cơ sở tồn tại của cá
nhân và hoạt động bình thường của xã hội.
So với Hiến pháp trước, Hiến pháp năm 2013 đã khắc phục được sự nhầm lẫn giữa
quyền con người với quyền cơng dân, khơng cịn đồng nhất quyền con người với
quyền công dân như ở Điều 50 của Hiến pháp năm 1992, mà đã phân biệt và sử dụng
hai thuật ngữ “mọi người” và “công dân” cho việc chế định các quyền con người và
quyền công dân.
Quyền công dân bao gồm các quyền về chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục
và các quyền tự do cá nhân.
Việc đảm bảo địa vị pháp lý của công dân là một trong những nhân tố quyết định
thành bại của nhà nước pháp quyền. Tuy nhiên, địa vị đó không chỉ cần được "trang
điểm” bằng một bản văn Hiến pháp mỹ miều. Việc nó được "ni dưỡng” và "trưởng
thành” như thế nào mới là điều quyết định đối với sự thịnh vượng của nhà nước pháp
quyền.
3.2 Thực tiễn việc vận dụng quyền công dân trong Hiến pháp 2013
Quyền công dân được thể hiện trong Hiến pháp 2013 tại các điều khoản sau:
Điều khoản
Thực tiễn thực hiện quyền công dân
Điều 15
- Theo nguyên tắc này nghĩa là: Công dân được pháp luật trao
1. Quyền cơng dân các quyền thì phải thực hiện các nghĩa vụ tương ứng.
không tách rời nghĩa - Nguyên tắc này thể hiện ý thức và trách nhiệm của công dân.
vụ công dân
Công dân hưởng các quyền đồng thời phải thực hiện những
bổn phận nhất định. Điều này giúp ích cho sự phát triển của
cá nhân mỗi công dân đồng thời tạo điều kiện cho sự phát
triển của người khác, của cộng đồng xã hội. Bởi trong xã hội
khơng thể có hai loại cơng dân: Một loại công dân chuyên
hưởng quyền, một loại công dân chuyên thực hiện nghĩa vụ
Điều 17
Trách nhiệm của Nhà nước và những bảo đảm của Nhà nước
17
Điều khoản
Thực tiễn thực hiện quyền công dân
1. Công dân nước được có thể thể hiện cụ thể qua sự việc bảo hộ cơng dân ở
Cộng hịa xã hội chủ nước ngoài, như sau:
nghĩa Việt Nam là - Vụ việc mới nhất về nghi phạm Đồn Thị Hương ở
người có quốc tịch Malaysia
Việt Nam.
+ Vụ án tại Malaysia, Đoàn Thị Hương là nghi phạm có
2. Cơng dân Việt Nam
tính chất đặc biệt nghiêm trọng và phức tạp, liên quan
không thể bị trục
đến công dân nhiều quốc gia. Các biện pháp bảo hộ trong
xuất, giao nộp cho
vụ này bị giới hạn trong khuôn khổ cho phép của pháp
nhà nước khác.
luật quốc gia sở tại, đó là pháp luật Malaysia.
3. Cơng dân Việt Nam + Thực hiện các quy định phù hợp với thơng lệ quốc tế, cơ
ở nước ngồi được
quan đại diện Việt Nam tại Malaysia đã thực hiện đúng
Nhà nước Cộng hịa
chức năng nhiệm vụ của mình liên quan đến bảo hộ cơng
xã hội chủ nghĩa
dân Đồn Thị Hương. Cụ thể: Đại sứ quán Việt Nam đã
Việt Nam bảo hộ.
làm việc với cơ quan chức năng sở tại làm rõ các thông
tin liên quan, theo dõi chặt chẽ để xác minh thông tin.
Tuy nhiên, đây là vụ án nghiêm trọng do vậy phía
Malaysia chưa cho phép tiếp xúc lãnh sự đối với các nghi
phạm ngay sau khi bị bắt giữ. Sau đó, Đại sứ quán Việt
Nam tại Malaysia đã được phép tiếp xúc lãnh sự và hỏi
thăm sức khỏe của Đoàn Thị Hương.
+ An ninh được thắt chặt bên ngoài phiên tịa xét xử Đồn
Thị Hương hơm 1/3/2017
+ Tại phiên tòa ngày 1/3/2017, đại diện Đại sứ quán Việt
Nam tại Malaysia đã có mặt để bảo vệ quyền lợi hợp
pháp cho Đồn Thị Hương tại tịa.
+ Ngày 2/3/2017, đại diện Cục Lãnh sự - Bộ Ngoại giao đã
có cuộc gặp với gia đình cơng dân Đồn Thị Hương để
giải thích tiến trình tố tụng của vụ án và hướng dẫn gia
đình về việc hỗ trợ pháp lý cho Đồn Thị Hương theo
đúng quy định của pháp luật nước sở tại và thơng lệ quốc
tế. Trước đó, Cục Lãnh sự - Bộ Ngoại giao đã thơng báo
cho gia đình cơng dân Đoàn Thị Hương về việc thăm
lãnh sự và sức khỏe của Đoàn Thị Hương.
+ Đại sứ quán Việt Nam tại Malaysia vẫn đang tiếp tục
triển khai các biện pháp bảo hộ công dân trong phạm vi
thẩm quyền để bảo đảm tiến trình tố tụng diễn ra cơng
bằng, khách quan, khơng phân biệt đối xử, cũng như đảm
bảo mọi quyền lợi hợp pháp của cơng dân Việt Nam,
trong đó có việc hỗ trợ tìm luật sư phù hợp với quy định
pháp luật của nước sở tại.
18
Điều khoản
Thực tiễn thực hiện quyền cơng dân
Việt Nam có các quy định pháp luật về bảo hộ công dân Việt
Nam vi phạm pháp luật nước ngoài trong pháp luật, thực tiễn
quốc tế và quy định của pháp luật Việt Nam, cụ thể như sau:
1. Pháp luật và thực tiễn quốc tế:
Công ước Vienna về quan hệ ngoại giao năm 1961 (Điều 3)
và Công ước Vienna về quan hệ lãnh sự năm 1963 (Điều 5)
đều quy định “cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan đại
diện lãnh sự có chức năng bảo vệ quyền lợi của cơng dân
của nước mình trong phạm vi cho phép của luật pháp quốc
tế”.
2. Pháp luật Việt Nam:
-
Hiến pháp 2013 (Khoản 3 Điều 17) quy định: Cơng dân
Việt Nam ở nước ngồi được nhà nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ.
-
Luật quốc tịch 2008 (Điều 6) quy định: Nhà nước Cộng
hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam bảo hộ quyền lợi chính
đáng của cơng dân Việt Nam ở nước ngồi. Các cơ
quan nhà nước ở trong nước, cơ quan đại diện Việt
Nam ở nước ngồi có trách nhiệm thi hành mọi biện
pháp cần thiết, phù hợp với pháp luật của nước sở tại,
pháp luật và tập quán quốc tế để thực hiện sự bảo hộ
đó.
-
Luật cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài (Điều 8,
các khoản 1, 2 và 3) quy định:
+ Bảo hộ lãnh sự đối với lợi ích hợp pháp của công
dân trên cơ sở tuân thủ pháp luật Việt Nam, pháp
luật quốc gia tiếp nhận (nước sở tại) và điều ước
quốc tế mà Việt Nam và quốc gia tiếp nhận là thành
viên, phù hợp với pháp luật và thông lệ quốc tế;
+ Thực hiện việc thăm lãnh sự và liên hệ, tiếp xúc với
công dân Việt Nam trong trường hợp họ bị bắt, tạm
giữ, tạm giam, xét xử hoặc đang chấp hành hình
phạt tù tại quốc gia tiếp nhận.
+ Trong trường hợp công dân Việt Nam không thể bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình theo pháp
luật và thực tiễn của quốc gia tiếp nhận, cơ quan đại
diện có thể tạm thời đại diện hoặc thu xếp người đại
diện cho họ tại tòa án hoặc cơ quan có thẩm quyền
của quốc gia tiếp nhận cho đến khi có người khác
làm đại diện cho họ hoặc họ tự bảo vệ được quyền
19
Điều khoản
Thực tiễn thực hiện quyền cơng dân
và lợi ích của mình.
Thực hiện thăm lãnh sự và liên hệ, tiếp xúc với công dân trong
trường hợp họ bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, xét xử hoặc đang
chấp hành hình phạt tù; Trong trường hợp công dân, pháp
nhân không thể bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, cơ
quan đại diện tạm thời đại diện hoặc thu xếp người đại diện
cho cơng dân và pháp nhân tại tịa án hoặc cơ quan có thẩm
quyền nước tiếp nhận.
Điều 22
- Nhà ở và quyền có nhà ở hợp pháp là một trong những yếu
1. Cơng dân có quyền tố phản ánh bản chất của xã hội. Nhà ở là tài sản quan trọng,
có liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh
có nơi ở hợp pháp.
tế - xã hội như quy hoạch, đất đai, tài chính, đầu tư,… và có
liên quan đến nhiều chủ thể khác nhau như chính quyền,
doanh nghiệp, cơng dân.
- Vấn đề nhà ở luôn được coi là vấn đề quan trọng, đặc biệt
đối với con người Việt Nam, bởi tư tưởng “an cư lạc nghiệp”
đã ăn sâu, bén rễ trong suy nghĩ từ ngàn đời nay. Việc hiến
định về quyền có nơi ở hợp pháp trong Hiến pháp 2013 thể
hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước ta trong việc thực
hiện chính sách an sinh xã hội, nhằm giải quyết chỗ ở ổn
định của người dân, bảo đảm được khả năng tái tạo sức lao
động của họ cũng như sự phát triển của thế hệ trẻ, thúc đẩy
sự phát triển của nền kinh tế, văn hóa, xã hội.
- Theo đó, Nhà nước có trách nhiệm bảo đảm quyền có nơi ở
của cơng dân và cần phải coi đây là yếu tố cần thiết để phát
triển con người một cách toàn diện, đồng thời là nhân tố
quyết định để phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho sự
nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.
Điều 23
Cơng dân có quyền tự
do đi lại và cư trú ở
trong nước, có quyền ra
nước ngồi và từ nước
ngoài về nước. Việc
thực hiện các quyền
này do pháp luật quy
định.
- Theo Luật cư trú số 81/2006/QH11 cụ thể hóa quyền cư trú
của công dân theo Hiến pháp 2013, theo đó cơng dân được
quyền tự do cư trú (Điều 3). Nhìn chung Luật này đã tạo
điều kiện thuận lợi cho người dân thực hiện quyền đăng ký
lưu trú của mình. Tuy nhiên, Luật này vẫn có một số bất cập
sau:
+ Tại Điều 19. Điều kiện đăng ký thường trú tại tỉnh có quy
định: “Cơng dân có chỗ ở hợp pháp ở tỉnh nào thì được
đăng ký thường trú tại tỉnh đó. Trường hợp chỗ ở hợp
pháp do thuê, mượn, ở nhờ của cá nhân thì phải được
người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ đồng ý bằng văn
bản”. Trong khi đó Khoản 1 - Điều 20. Điều kiện đăng ký
thường trú tại thành phố trực thuộc trung ương: “Có chỗ
20
Điều khoản
Thực tiễn thực hiện quyền công dân
ở hợp pháp và đã tạm trú liên tục tại thành phố đó từ một
năm trở lên. Trường hợp chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn,
ở nhờ của cá nhân thì phải được người cho thuê, cho
mượn, cho ở nhờ đồng ý bằng văn bản”.
Hai Điều này đã tạo ra sự phân biệt giữa Thành phố
thường trực trung ương và các tỉnh còn lại và hạn chế
quyền tự do cư trú của người dân ngoại tỉnh nhập cư vào
thành phố trung ương. Với quy định về điều kiện thời
gian công dân đăng ký tạm trú để được đăng ký thường
trú tại các quận nội thành, việc cơng dân trước đó có hộ
khẩu thường trú ở tỉnh ngoài hay hộ khẩu tại ngoại thành
của thành phố trực thuộc trung ương đó đều là như nhau.
Trong khi đó, cơng dân ở tỉnh ngồi muốn nhập hộ khẩu
thường trú vào các địa bàn ngoại thành của thành phố
trực thuộc trung ương phải tạm trú tại địa phương đó từ
đủ 1 năm trở lên. Từ thực tế đó theo quan điểm người
viết, cần thiết có sự phân biệt giữa hai trường hợp vừa
nêu dưới góc độ điều kiện đăng ký thường trú để đánh
giá đúng tính chất cư trú, cũng như các tác động về sức
ép dân số đối với các thành phố trực thuộc Trung ương
nói chung. Vậy, quyền tự do cư trú của công dân đã bị
thu hẹp phạm vi so với quy định Hiến pháp 2013
+ Liên quan đến vấn đề đăng ký nơi thường trú, hồ sơ đăng
ký hộ khẩu thường trú gồm: Phiếu báo thay đổi hộ khẩu,
nhân khẩu; Bản khai nhân khẩu; Giấy chuyển hộ khẩu
(đối với các trường hợp phải cấp giấy chuyển hộ khẩu
quy định tại khoản 2 Điều 28 Luật Cư trú); Giấy tờ, tài
liệu chứng minh chỗ ở hợp pháp theo quy định tại Điều
6 Nghị định số 31/2014/NĐ-CP. Nếu chỗ ở hợp pháp do
thuê, mượn, ở nhờ thì phải được người cho thuê, cho
mượn, cho ở nhờ đồng ý cho đăng ký thường trú vào chỗ
ở của mình và ghi vào phiếu báo thay đổi hộ khẩu, nhân
khẩu. Nếu người cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ đồng ý
cho thường trú bằng văn bản vào chỗ ở của mình thì
khơng phải ghi vào phiếu báo thay đổi hộ khẩu, nhân
khẩu. Chỗ ở hợp pháp do thuê, mượn, ở nhờ tại thành
phố trực thuộc Trung ương phải có xác nhận của UBND
cấp xã về điều kiện diện tích bình qn bảo đảm theo quy
định của Hội đồng nhân dân thành phố trực thuộc Trung
ương. Theo quy định hiện hành thì diện tích tối thiểu nhà
ở để nhập hộ khẩu với người ở thuê, ở nhờ là 5m2/người.
Tuy nhiên, mới đây ngành chức năng của thành phố Hồ
21
Điều khoản
Thực tiễn thực hiện quyền cơng dân
Chí Minh đưa ra dự thảo và đang lấy ý kiến theo đề xuất
của Sở Xây dựng và Cơng an TP Hồ Chí Minh. Theo đó
dự thảo quy định diện tích nhà ở bình quân/người để áp
dụng khi người dân đăng ký thường trú vào chỗ ở do
thuê, mượn, ở nhờ của tổ chức, cá nhân trên địa bàn tăng
lên là 16m²/người đối với địa bàn 19 quận và 8m²
sàn/người đối với 5 huyện. Việc tăng này nhằm mục đích
giải quyết tình trạng thuê, mượn và nhập nhờ vào hộ
khẩu, chỗ ở của mình để trục lợi hoặc cho nhập hộ khẩu
vào cùng một chỗ ở nhưng khơng bảo đảm diện tích sàn
tối thiểu trên đầu người theo quy định... tạo áp lực lên hệ
thống cơ sở hạ tầng xã hội. Tuy nhiên, theo phân tích của
nhiều chuyên gia, phần lớn người nhập cư và lao động có
thu nhập thấp đang thuê nhà tại các quận trên địa bàn
thành phố với diện tích rất nhỏ (trung bình chỉ dưới
10m2/người), do đó, diện tích mà các cơ quan chức năng
TP Hồ Chí Minh đang đề xuất vơ tình đánh mất cơ hội
cho nhiều đối tượng đang có nhu cầu đăng ký hộ khẩu
+ Luật Cư trú hạn chế người nhập hộ khẩu vào nội thành,
thành phố trực thuộc trung ương bằng rào cản kéo dài
thời hạn tạm trú, nhưng thực tế cho thấy quy định này chỉ
hạn chế nhập khẩu chứ không hạn chế được nhập cư.
Theo thống kê, hằng năm, thành phố Hồ Chí Minh phải
"đón" hàng chục nghìn người nhập cư, trong đó phần lớn
là lao động và sinh viên. Số lượng người dân cư trú từ
các tỉnh, thành phố khác đến làm ăn là xu hướng tất yếu.
Điều này cũng đồng nghĩa, nhu cầu nhập hộ khẩu vào
Thành phố hiện nay rất lớn. Tuy nhiên, các quy định hiện
hành về nhập khẩu đã gây khó khăn cho người dân, đặc
biệt là đối tượng nhập cư, lao động có thu nhập thấp dẫn
tới có một tỷ lệ lớn người dân tạm trú khơng ổn định gây
khó khăn trong quản lý cư trú và ổn định an ninh, trật tự
tại địa phương. Hơn thế nữa, việc khó khăn trong nhập
khẩu cịn ảnh hưởng đến quyền lợi tối thiểu của người
dân khi con cái của họ sẽ bị thiệt thòi về cơ hội học tập,
chăm sóc y tế,... Việc quy định tăng thời hạn tạm trú chưa
phải là giải pháp tối ưu giải quyết được vấn đề “hạ nhiệt”
mật độ dân cư tăng rất nhanh theo từng năm tại các quận
nội thành và cũng không đáp ứng hết được công tác quản
lý nhà nước về dân cư, nhất là khu vực nội thành của các
thành phố lớn mà ngược lại càng gây khó khăn cho công
dân trong việc thực hiện quyền tự do cư trú của mình.
Quy định phải tạm trú 02 năm hoặc 03 năm vừa làm khó
22
Điều khoản
Thực tiễn thực hiện quyền công dân
người dân vừa bất hợp lý, vì như thế họ phải tạm trú trên
chính ngơi nhà của mình
+ Luật Cư trú cũng chưa quy định cụ thể về cách hiểu và áp
dụng đối với cụm từ “thường xuyên sinh sống”. Theo quy
định tại khoản 1 Điều 5 Nghị định 31/2014/NĐ-CP: “Mỗi
công dân chỉ được đăng ký thường trú tại một chỗ ở hợp
pháp và là nơi thường xuyên sinh sống”. Vậy hiểu như
thế nào là thường xuyên?
Điều 25
- Nếu Hiến pháp năm 1992 chỉ quy định cơng dân “có quyền
được thơng tin” (Điều 69), thì Hiến pháp năm 2013, ở Điều
25, thay chữ “được” bằng cụm từ “tiếp cận”. Nhờ quyền tiếp
cận thông tin, mọi cơng dân có thể tiếp cận thơng tin, cả về
các quyền thực định cũng như về hoạt động tư pháp, để thụ
hưởng đầy đủ và bảo vệ các quyền của mình theo Hiến pháp
và pháp luật.
Cơng dân có quyền tự
do ngơn luận, tự do báo
chí, tiếp cận thơng tin,
hội họp, lập hội, biểu
tình. Việc thực hiện các
quyền này do pháp luật
quy định.
- Quyền tiếp cận thông tin quy định ở Điều này rất khó thực
hiện được trên thực tế, trong khi Điều 21 của Hiến pháp này
mới chủ yếu quy định phạm vi thông tin (về đời sống riêng
tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình) và nội dung thơng tin
(thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thơng
tin riêng tư khác) trong quyền được bảo vệ thông tin. Theo
Luật Nhân quyền quốc tế và hiến pháp của nhiều nước trên
thế giới, quyền tiếp cận thông tin thường bao gồm ba quyền
phái sinh là: quyền được thơng tin, quyền được tìm kiếm
thơng tin, quyền được phổ biến thơng tin. Do đó, cần xây
dựng luật để bảo đảm đầy đủ quyền tiếp cận thông tin, trên
cơ sở đã được quy định trong Hiến pháp năm 2013.
- Trong năm 2018, trước khi Quốc hội thông qua Luật An ninh
mạng số 24/2018/QH14 ngày 12/6/2018, có nhiều ý kiến
phản biện lo ngại rằng quyền tiếp cận thông tin của người
dân bị hạn chế, gây ra cản trở đối với nhân quyền, các quyền
tự do như biểu đạt, tư tưởng, thơng tin, báo chí của người
dân trong cộng đồng, xã hội. Với số phiếu đạt tỷ lệ 86,86%,
dự luật được thông qua, phạm vi điều chỉnh của luật an ninh
mạng là đảm bảo các hoạt động sử dụng không gian mạng
không gây phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự an tồn
xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Tuy
nhiên để đảm bảo khơng ảnh hưởng đến nhân quyền thì Nhà
nước cần khéo léo, thận trọng trong việc thực thi Luật này,
tránh xảy ra việc cơ quan chuyên trách về an ninh mạng lạm
dụng nghiệp vụ an ninh mạng để xâm phạm quyền và lợi ích
hợp pháp của các tổ chức, cá nhân xâm phạm an ninh quốc
23
Điều khoản
Thực tiễn thực hiện quyền công dân
gia.
Điều 26
1. Công dân nam, nữ
bình đẳng về mọi
mặt. Nhà nước có
chính sách bảo đảm
quyền và cơ hội
bình đẳng giới
- Trên nền tảng Điều 26 trong Hiến pháp năm 2013, Quốc hội
thông qua các Luật: Bình đẳng giới số 73/2006/QH11 và các
văn bản trực tiếp hướng dẫn thi hành Luật; Luật phòng,
chống bạo lực gia đình, các quy định về Bình đẳng giới trong
các luật (Luật hơn nhân và gia đình, Luật trẻ em, Bộ luật lao
động có 1 chương riêng về các quy định đối với lao động nữ,
một số quy định trong Bộ luật hình sự, Luật ngân sách nhà
nước, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng
nhân dân…) đã tạo nên hệ thống quy định pháp luật tương
đối hồn thiện, đồng bộ về Bình đẳng giới, phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội và xu thế hội nhập quốc tế của đất nước
trong thời kỳ mới.
- Tuy nhiên, theo Báo cáo về việc thực hiện mục tiêu quốc gia
và Bình đẳng giới có nêu công tác ban hành văn bản quy
định chi tiết và hướng dẫn thi hành Luật Bình đẳng giới và
các quy định về Bình đẳng giới cịn hạn chế, cụ thể:
+ Thứ nhất, việc ban hành văn bản hướng dẫn Luật Bình
đẳng giới cịn chậm nên thời gian đầu nhiều địa phương
bị động, lúng túng trong triển khai thực hiện Luật; một số
chính sách trong Luật sau 7-8 năm mới có văn bản quy
định chi tiết đã ảnh hưởng không nhỏ đến quyền lợi của
người được hưởng chính sách.
+ Thứ hai, đến nay, sau 10 năm thi hành, vẫn còn quy định
của Luật Bình đẳng giới chưa có đủ văn bản hướng dẫn
thi hành.
+ Thứ ba, một số văn bản còn thiếu khả thi hoặc tổ chức
thực hiện cịn khó khăn, như Chiến lược mục tiêu quốc
gia về Bình đẳng giới đưa ra nhiều chỉ tiêu không cung
cấp được số liệu hoặc số liệu khơng đảm bảo đúng tiêu
chí của chỉ tiêu; chính sách hỗ trợ cho phụ nữ thuộc hộ
nghèo là người dân tộc thiểu số khi sinh con đúng chính
sách dân số, chính quyền một số xã, thị trấn chưa nắm
được, có nơi đã triển khai nhưng khơng cân đối được
kinh phí nên chưa thực hiện.
+ Thứ tư, qua thực tiễn thi hành, một số văn bản cần được
điều chỉnh, thay thế cho phù hợp với các quy định của
pháp luật liên quan song chưa thực hiện được như: Văn
bản hướng dẫn về lồng ghép vấn đề Bình đẳng giới trong
xây dựng VBQPPL; Bộ chỉ tiêu thống kê phát triển giới
của quốc gia cũng như chế độ báo cáo thống kê tổng hợp
24
Điều khoản
Thực tiễn thực hiện quyền công dân
áp dụng đối với bộ, ngành, địa phương.
Điều 27
Công dân đủ mười tám
tuổi trở lên có quyền
bầu cử và đủ hai mươi
mốt tuổi trở lên có
quyền ứng cử vào Quốc
hội, Hội đồng nhân
dân. Việc thực hiện các
quyền này do luật định.
- Nếu Hiến pháp năm 1992 (Điều 6) quy định nhân dân sử
dụng quyền lực nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng
nhân dân, nghĩa là chỉ thơng qua hình thức dân chủ đại diện
thì Hiến pháp năm 2013 (Điều 6) quy định rõ những cách
thức để nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước là dân chủ
trực tiếp và dân chủ đại diện. Quy định này của Hiến pháp
năm 2013 đặt nền tảng cho việc hồn thiện một hình thức
dân chủ cao nhất là chế định bầu cử, qua đó, thực hiện đầy
đủ hơn, thực chất hơn quyền bầu cử của công dân và trách
nhiệm của đại biểu dân cử. Hiến pháp năm 2013 quy định
Hội đồng bầu cử quốc gia như một thiết chế hiến định độc
lập để thực hiện quyền công dân quan trọng này.
- Ở Việt Nam hiện nay, việc tổ chức bầu cử đại biểu Quốc hội
được tiến hành theo Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và đại
biểu HĐND (sau đây gọi tắt là Luật Bầu cử). Theo đó, Luật
Bầu cử xác định nguyên tắc bầu cử ở Việt Nam là: Phổ
thơng, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín
- Về điểm này - quyền ứng cử - ở Việt Nam cịn tiến bộ, thơng
thống hơn cả Mỹ. Đồng thời, Luật Bầu cử cũng quy định rõ
các nội dung và trình tự tiến hành bầu cử, như: Cơ cấu, thành
phần và phân bổ đại biểu Quốc hội, xác định ngày bầu cử,
phương thức tổ chức đơn vị bầu cử, khu vực bỏ phiếu, tổ
chức phụ trách bầu cử, lập danh sách cử tri, ứng cử và hiệp
thương giới thiệu người ứng cử, tổ chức vận động bầu cử,
trình tự bỏ phiếu, kiểm phiếu và xác định kết quả bầu cử.
Trình tự và nội dung đó được tổ chức thực hiện công khai,
dân chủ, với sự giám sát chặt chẽ của cơ quan chức năng và
nhân dân, chứ khơng phải là "hình thức", hoặc mang tính
"trình diễn"
- Chẳng hạn, việc giới thiệu ứng cử và tự ứng cử được quy
định cụ thể: Các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội,
tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị lực lượng vũ trang, có
quyền giới thiệu người của mình ra ứng cử và các cá nhân có
quyền tự ứng cử. Bởi vậy, trong thực tế, không chỉ Đảng
Cộng sản Việt Nam, mà mọi tổ chức, cá nhân đều thực hiện
quyền giới thiệu người ứng cử hoặc tự ứng cử; mọi hành vi
cản trở việc đó đều vi phạm pháp luật và bị xử lý theo luật
định. Tuy nhiên, muốn có tên trong danh sách bầu cử, mọi
ứng cử viên, không phân biệt, đều phải trải qua các vòng
hiệp thương do Mặt trận Tổ quốc chủ trì, để cử tri nơi cơng
tác và nơi cư trú góp ý, lựa chọn bằng hình thức bỏ phiếu tín
25