Tải bản đầy đủ (.pdf) (91 trang)

Giáo trình ký sinh trùng và bệnh ký sinh trùng thú y phần 2

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (8.73 MB, 91 trang )

Phần thứ ba
ĐỘNG VẬT CHÂN ĐỐT KÝ SINH
VÀ BỆNH DO ĐỘNG VẬT CHÂN ĐỐT GÂY RA
Chương 7
ĐẠI CƯƠNG VỀ ĐỘNG VẬT CHÂN ĐỐT KÝ SINH
Động vật chân đốt ký sinh thuộc ngành Arthropoda (Arthros: chia đoạn,
poda: chân). Có đặc điểm: cơ thể và chân phân thành nhiều đốt, các đốt chân
khớp động với nhau, có vỏ kitin bọc ngồi.
Ngành Arthropoda hiện nay có khoảng 6 - 7 triệu lồi, thuộc 5 lớp:
- Lớp Crustacea: bao gồm tôm, cua, mối và một số loài khác.
- Lớp Onychaphora: bao gồm một số loài thuộc giống Peripatus, sống tự do.
- Lớp Myriapoda: bao gồm các loài rết và những động vật nhiều chân khác.
- Lớp Insecta: bao gồm tất cả các loại côn trùng.
- Lớp Arachnida: bao gồm nhện, ve, ghẻ và các lồi khác.
Trong 5 lớp trên, có 3 lớp liên quan đến Chăn nuôi thú y là lớp Insecta,
Arachnida và Crustacea.

1. ĐẶC ĐIỂM HÌNH THÁI, CẤU TẠO VÀ PHÂN LOẠI
1.1. Đặc điểm hình thái, cấu tạo
- Động vật chân đốt có cơ thể đối xứng 2 bên, phân đ ốt dị hình (các đốt có
xu hướng tập trung thành những nhóm đốt khác nhau). Cơ thể chia thành 3 phần:
đầu, ngực, bụng.
+ Đầu: gồm các đốt trên cùng, chứa bộ não, giác quan và các phần phụ miệng.
+ Ngực: do 3 đốt giữa dính lại (đốt ngực trước, đốt ngực giữa và đốt ngực sau).
+ Bụng: do các đốt còn lại tạo nên. Ở ve, bét, các đốt bụng dính lại thành một khối.
- Động vật chân đốt thường có chân, cánh (là những phần phụ gắn vào cơ
thể), luôn khớp động với cơ thể. Chân gồm nhiều đốt, cũng có khớp động với
nhau để hoạt động dễ dàng.
- Vỏ kitin là những lớp cuticun bọc ngoài cơ thể, do các tế bào hạ bì tiết ra.
Vỏ kitin rất có ý nghĩa với động vật chân đốt. Vỏ kitin của động vật chân đốt có
chất muối vơi (cacbonat hay photphat), hoặc các protein keo hoá, nên rất bền


vững với các nhân tố hoá học v à lý học. Ở các khớp động, do chất kitin nguyên
chất hơn nên dễ dàng hoạt động. Vỏ kitin thường có màu sắc khác nhau.
Vỏ kitin là bộ xương ngoài của động vật chân đốt , có tác dụng chống lại các
tác động của ngoại cảnh. Do vỏ kitin cản trở sự tăng trưởng của cơ thể nên khi
lớn lên, động vật chân đốt phải lột xác. Hiện tượng này có tính chu kỳ, nhưng
cũng có khi không đi đôi với sự lớn lên.
- Hệ thần kinh: gồm hạch não, vòng thần kinh hầu và chuỗi thần kinh bụng.
Hạch não tập trung thành khối, có cấu tạo phức tạp như một bộ não, gồm: não

210


trước, não giữa và não sau (như ở côn trùng). Não phát triển làm giác quan cũng
phát triển và dễ thích nghi với mơi trường sống.
- Cơ quan vận động: có chân phân đốt khớp động với cơ thể, hoạt độ ng
được linh hoạt và phức tạp. Một số loài có hai đơi hoặc một đơi cánh, có lồi do
sống ký sinh mà cánh đã bị tiêu giảm.
- Hệ tiêu hoá: hệ tiêu hoá của động vật chân đốt phát triển, gồm phần phụ
miệng, ống tiêu hoá phân thành nhiều phần, có tuyến nước bọt , gan và tụy để tiết
dịch tiêu hố.
- Hệ hơ hấp: có nhiều dạng. Động vật chân đốt ở nước, sống bằng mang ,
mang là những tấm mỏng có nhiều lá nhỏ để lấy oxy trong nước và thải khí CO 2
cùng cặn bã khác vào nước. Những lồi ở cạn hơ hấp bằng phổi hoặc ống khí .
Phổi là những túi đặc biệt, trong có nhiều lá kitin. Ống khí là những ống nhỏ,
phân nhánh, len lỏi đến các phần của cơ thể, nằm sâu trong cơ thể và có lỗ th ở
thơng với ngồi. Q trình trao đổi khí tiến hành được nhờ thân co rút.
- Hệ tuần hồn: gồm tim hình ống dài, có chỗ phình rộng thành túi tim và
những lỗ tim để máu trở về tim. Hệ mạch hở. Máu từ tim chảy vào xoang huyết ở
giữa các cơ quan. Một số lồi ký sinh trùng nhỏ (ghẻ) thì tim và hệ mạch tiêu
giảm hoàn toàn.

- Hệ bài tiết: thận chỉ là những ốn g thể xoang sắp xếp ở tuyến râu, tuyến
hàm (lớp giáp xác), ở tuyến háng (lớp hình nhện). Lớp hình nhện và lớp cơn
trùng có những ống Malpighi làm nhiệm vụ bài tiết, đổ vào ống tiêu hoá ở ranh
giới ruột giữa và ruột sau.
- Sinh sản: động vật chân đốt chỉ sinh sản hữu tính. Một số lồi có hiện
tượng xử nữ sinh (con cái đẻ trứng, không cần thụ tinh vẫn phát triển thành phơi).
Đa số lồi có phân tính: con đực, con cái riêng. Động vật chân đốt đẻ trứng.
Trứng phát triển có biến thái.
1.2. Phân loại
Ngành Arthropoda gồm 5 lớp như đã nói ở trên. Số lồi ký sinh, hút máu
thường tập trung vào 3 lớp: lớp giáp xác ( Crustacea), lớp hình nhện ( Arachnida)
và lớp cơn trùng ( Insecta).
- Lớp giáp xác (Crustacea) gồm 2 phân lớp:
Phân lớp giáp xác thấp ( Entomostraca): nhiều loài là ký chủ trung gian của
giun sán (ví dụ: thuỷ tao là ký chủ trung gian của sán dây Diphyllobothrium)
Phân lớp giáp xác cao ( Matacostraca): nhiều loài sống ở nơi đất ẩm trên cạn
như loài Asellus, Gamarus là ký chủ trung gian của một số lồi giun tr ịn.
- Lớp hình nhện ( Arachnida): đầu và ngực dính thành một khối.
Ví dụ: ve, mị, mạt....
- Lớp côn trùng ( Insecta): cơ thể chia 3 phần (đầu, ngực, bụng).
Sau đây là những đặc điểm chính để phân biệt 3 lớp trên:

211


Đặc điểm

Lớp giáp xác

Lớp hình nhện


Lớp cơn trùng

- Sự phân đốt - Gồm 2 phần chính: - Gồm 2 phần chính: - Gồm 3 phần
cơ thể
đầu ngực và bụng , đầu , ngực và bụng chính: đầu, ngực,
có phân đốt đa dạng. thành một khối.
bụng.
- Số râu

- 2 đôi râu

- Không râu

- 1 đôi râu

- Số chân

- 5 đôi

- 4 đôi

- 3 đôi

- Hô hấp

- Bằng mang

- Bằng phổi hay ống - Bằng ống khí
khí


2. ĐẶC ĐIỂM SINH HỌC, VAI TRÒ GÂY BỆNH VÀ BIỆN PHÁP
PHÒNG TRỪ ĐỘNG VẬT CHÂN ĐỐT
2.1. Đặc điểm sinh học
2.1.1. Vòng phát triển của động vật chân đốt
Vòng đời của động vật chân đốt ký sinh có thể tiến hành ngay trên ký chủ
hoặc ngồi cơ thể ký chủ. Các giai đoạn phát triển có tính chu kỳ. Con đực và
con cái giao phối xong, con đực chết, con cái đẻ trứng hoặc đẻ con. Trứng nở
thành ấu trùng. Ấu trùng phát triển qua các các giai đ oạn khác nhau:
- Ấu trùng phát triển thành thiếu trùng, thiếu trùng tiếp tục phát triển thành
dạng trưởng thành (thường gặp ở các loài ve, ghẻ). Giai đoạn phát triển thành
thiếu trùng cũng có thể qua nhiều thời kỳ khác nhau. Các giai đoạn phát triển
cũng t iến hành trên cơ thể ký chủ hoặc ở ngoài thiên nhiên.
Ví dụ: ve Boophilus microplus (ve 1 ký chủ). Các giai đoạn từ ấu trùng đến
thiếu trùng rồi đến ve trưởng thành đều phát triển, lột xác và hút máu ngay trên
cơ thể bò.
- Ấu trùng phát triển thành nhộng, rồi tiếp tục phát triển thành dạng trưởng
thành (thường gặp ở mòng, ruồi trâu...). Các giai đoạn này thường tiến hành ở
ngoài cơ thể ký chủ.
2.1.2. Đặc điểm dinh dưỡng và tuổi thọ của động vật chân đốt
* Đặc điểm dinh dưỡng
Mỗi lồi động vật chân đốt c ó thức ăn, cách ăn và hoạt động sau lúc ăn khác
nhau. Những động vật chân đốt chỉ hút máu người thì bệnh chỉ lan truy ền giữa
người và người. Những động vật chân đốt hút cả máu người và máu động vật,
bệnh sẽ lan truyền giữa người và động vật.
Những động vật hút máu như ve, khi hút máu bám rất chắc vào ký chủ.
Thời gian hút máu càng lâu thì khả năng truyền bệnh càng tăng.
Thời gian tiêu máu tuỳ lồi động vật chân đốt. Những lồi tiêu hố nhanh
thường nguy hiểm hơn , vì khi đói, chúng lại tiếp tục tìm ký chủ để hút máu. Có
những lồi có khả năng nhịn đói lâu ( ví dụ: ve Boophilus microplus có thể nhịn


212


đói 4 - 5 tháng trong mùa đơng). Nhờ khả năng này mà động vật chân đốt có thể
sống lâu ngoài thiên nhiên , trong những điều kiện sống bất lợi.
* Tuổi thọ của động vật chân đốt
Tuổi thọ của động vật chân đốt khác nhau tuỳ loài. Những loài sống lâu thì
nguy hiểm hơn, vì chúng giúp cho các loại mầm bệnh hoàn thành chu kỳ phát
triển trong cơ thể chúng. Phương pháp tính tuổi của động vật chân đốt thường
dựa vào việc x ác định số lần đẻ của chúng (sau mỗi lần đẻ có một nút xuất hiện
trên ống dẫn trứng, đếm số nút trên ống dẫn trứng sẽ xác định được số lần đẻ của
động vật chân đốt).
2.2. Vai trò gây bệnh của động vật chân đốt ký sinh
Bản thân động vật chân đốt ký sin h có thể gây bệnh trực tiếp, làm hại gia
súc, gia cầm. Một số loài là ký sinh trùng vĩnh viễn trên cơ thể động vật (rận,
ghẻ ...), một số loài là ký sinh trùng tạm thời (ve, muỗi, ruồi...). Trong quá trình
ký sinh, chúng hút máu, làm rách da, phá hoại lông gia súc, làm gia súc chậm
lớn, sinh sản kém. Nhiều loài động vật chân đốt làm thủng, rách da ký chủ, tiết
độc tố và các chất độc khác, gây ngứa, viêm các tổ chức dưới da và lỗ chân lơng.
Một số lồi gây bệnh nặng cho gia súc ( ví dụ: bệnh dịi, bệnh ghẻ).
Nguy hiểm hơn cả là vai trò cơ giới hoặc trung gian truyền các mầm bệnh
virut, vi khuẩn, ký sinh trùng đường máu, giun sán... , gây thành những vụ dịch
lớn, giết hại nhiều gia súc và người. Động vật chân đốt ký sinh truyền các mầm
bệnh bằng 3 cách:
* Truyền bệnh cơ giới
Khi hút máu, động vật chân đốt hút cả mầm bệnh cùng máu ký chủ vào ống
tiêu hoá. Mầm bệnh sống ở đó một thời gian ngắn và khơng sinh sản, phát triển
được. Khi hút máu ký chủ khác, chúng lại truyền mầm bệnh cho ký chủ mới.
Như vậy, động vật chân đốt chỉ làm nhiệm vụ vận chuyển mầm bệnh từ ký chủ

này sang ký chủ khác một cách máy móc (cơ giới).
Ví dụ: bọ chét hút máu động vật có vi khuẩn gây bệnh dịch hạch. Trong
điều kiện nhiệt độ và ẩm độ thích hợp, trong bọ chét sẽ hình thành nút chứa vi
khuẩn ở tiền vị dạ dày, làm tắc đường dẫn máu vào dạ dày. Vì vậy, máu của ký
chủ không vào dạ dày bọ chét được sẽ bị ứ lại ở thực quản, nên bọ chét ln có
cảm giác đói và tiếp tục hút máu. Khi hút máu ký chủ khác, do tác động co thắt
của thực quản, vi khuẩ n dịch hạch bị đẩy ra và xâm nhập vào ký chủ mới.
Trường hợp này bọ chét là vật môi giới (truyền bệnh một cách cơ học).
* Truyền bệnh sinh học
Động vật chân đốt hút máu súc vật ốm, mầm bệnh theo máu vào ống tiêu
hoá của động vật chân đốt và phát triển , sinh sản ở đó. Sau một thời gian nhất
định, mầm bệnh mới có khả năng gây nhiễm cho động vật khác. Trường hợp này ,
động vật chân đốt đóng vai trò là ký chủ trung gian truyền bệnh.
Như vậy, động vật chân đốt - ký chủ trung gian làm nhiệm vụ vận chuyển
mầm bệnh từ ký chủ này sang ký chủ khác một cách sinh học. Mỗi loại mầm
bệnh đòi hỏi loài ký chủ trung gian nhất định.

213


Ví dụ: lê dạng trùng phải qua thời gian phát triển trong cơ thể ve rồi mới có
gây
nhiễm cho bị khác được - ve là ký chủ trung gian.
thể
Người ta chia phương thức sống của mầm bệnh trong động vật chân đốt - ký
chủ trung gian - thành 3 loại:
+ Phương thức phát triển: có loại mầm bệnh (ví dụ, ấu trùng giun chỉ ) có thể
sống trong cơ thể muỗi và phát triển thành ấu trùng cảm nhiễm , nhưng chúng
không sinh sản được trong cơ thể muỗi.
+ Phương thức sinh sản: mầm bệnh sinh sản trong ký chủ trung gian, đến

một số lượng nào đó mới có thể thông qua ký chủ trung gian mà truyền bệnh cho
vật khác được (ví dụ : xoắn trùng).
+ Phương thức phát triển - sinh sản: ví dụ , lê dạng trùng và nhiều bào tử
trùng khác, sau khi phát triển và sinh sản trong cơ thể ve mới đủ sức cảm nhiễm
và gây bệnh cho ký chủ mới.
* Truyền bệnh có tính chất di truyền
Có những loại mầm bệnh có thể truyền qua trứng sang đời sau của động vật
chân đốt. Trường hợp này , động vật chân đốt là nguồn bệnh trong thiên nhiên.
Ví dụ: ve cái sau khi hút máu, mầm bệnh sinh sống trong dạ dày và ruột ve.
Sau một thời gian, mầm bệnh đến cơ quan sinh dục của ve, xâm nhập vào tế bào
trứng, truyền qua đời sau. Mầm bệnh sinh sản và phát triển trong cơ thể ve con
một thời gian , rồi mới có thể gây nhiễm cho gia súc khác ( trong trường hợp này ,
ve đời I bị cảm nhiễm mầm bệnh, song ve đời II lại có tác dụng truyền bệnh).
Trong phương thức này, mầm bệnh có tính ch ọn lọc nhất định đối với ký chủ
trung gian.
Như vậy, nếu không có động vật chân đốt ký sinh truyền bệnh thì các ổ dịch
thiên nhiên không thể lan tràn được.
2.3. Biện pháp cơ bản để phòng và diệt động vật chân đốt ký sinh
2.3.1. Phòng hộ cá nhân đối vớ i động vật chân đốt ký sinh
Động vật chân đốt ký sinh hút máu và truyền bệnh cho người. Khi hút máu
có thể gây đau, buốt ngay hoặc sau vài ngày mới thấy ngứa, nổi mẩn. Vì vậy, khi
vào rừng, đi trên đồng cỏ hoặc các chuồng gia súc, cần phải kiểm tra quần áo và
các phần của cơ thể (bẹn, nách...) để bắt sạch động vật chân đốt. Tốt hơn cả là
thay quần áo, ngâm vào nước trong nửa ngày để diệt động vật chân đốt. Diệt
động vật chân đốt ở trong nhà, không ngồi lâu trên các đồng cỏ, bụi cây, không
mang vác thú săn bắt được trên người. Những nơi có dịch (nhất là dịch sốt phát
ban) thì khơng cho chó vào nhà, vì chó đem động vật chân đốt mang mầm bệnh
từ bên ngoài vào.
Khi phải đi vào vùng có dịch và có chân đốt ký sinh, cần phải mặc quần liền
áo và có cổ cao. Cổ tay và gấu quần phải có chun. Chân đi tất dài hoặc xà cạp

buộc chặt để động vật chân đốt không chui vào cơ thể được.

214


Trước lúc vào rừng hoặc vào chuồng gia súc, gia cầm , cần bôi thuốc xua
động vật chân đốt ký sinh.
2.3.2. Biện pháp diệt động vật chân đốt k ý sinh
* Dùng biện pháp tổng hợp: diệt động vật chân đốt trên cơ thể gia súc,
gia cầm và cả ở ngồi thiên nhiên bằng các biện pháp hố học, tiệt sinh, sinh
học..., trong đó, biện pháp hố học là quan trọng nhất . Bởi vì, biện pháp này có
thể tiến hành được nhanh và trên quy mơ lớn. Muốn có hiệu quả, cần phải điều
tra thành phần loài, mối quan hệ của chúng với gia súc, gia cầm và người; nơi
sống, phát triển cũng như mùa vụ xuất hiện và hoạt động của chúng.
- Diệt động vật chân đốt ở ngoài thiên nhiên và chuồ ng trại: động vật chân đốt
ký sinh thường sống trên đồng cỏ, xung quanh hoặc trong chuồng trại. Diệt chúng
rất khó khăn và chỉ đạt được kết quả nhất định. Có 3 biện pháp thường dùng:
+ Phun hoá chất trên đồng cỏ và quanh chuồng trại.
+ Vệ sinh chuồng trại và phát quang đồng cỏ.
+ Cách ly cho động vật chân đốt chết đói.
- Diệt động vật chân đốt ký sinh trên cơ thể súc vật ni: những đàn gia súc

có s lượng ít thì có thể xát, bơi hoặc rắc thuốc bột lên cơ thể. Những đàn gia
súc, gia cầm có số lượng lớn phải phun, tắm các loại thuốc hố học thích hợp.
- Biện pháp tiệt sinh hay vô sinh: từ năm 1955 người ta đã dùng tia phóng xạ
để gây vơ sinh cho động vật chân đốt. Sau đó, đã tìm ra các thuốc hố học gây vơ
sinh cho các cơn trùng ký sinh và dùng phương pháp di truyền học để chọn thuốc
gây vơ sinh có hiệu quả. Thường dùng thuốc gây vô sinh kết hợp với thuốc nhử
côn trùng tự động tiếp xúc hoặc ăn thuốc này để trở thành vô sinh.
Thuốc gây vô sinh đã được áp dụng rộng rãi cho nhiều lồi cơn trùng gây

ại.
Với
ve, bé t thì thuốc còn đang được thử nghiệm.
h
- Biện pháp sinh học: trong thiên nhiên, có nhiều lồi là kẻ thù tự nhiên (hay
thiên địch) của động vật chân đốt ký sinh. Đó là các lồi động vật chân đốt ăn
thịt; nhiều lồi chim ăn ve, bét, cơn trùng có hại; nhiều lo ài nấm, vi khuẩn, virut;
nhiều loài cây cỏ cũng có tác dụng xua hoặc diệt động vật chân đốt.
- Biện pháp xua đuổi: bôi thuốc xua đuổi động vật chân đốt ký sinh lên cơ
thể; phun thuốc lên da, lông của gia súc, gia cầm; phun vào quần áo, lán trại của
người ở trong rừng. Biện pháp này có hiệu quả cao với các côn trùng ký sinh như
ruồi, muỗi, mòng....
* Dùng thuốc diệt động vật chân đốt ký sinh: đa số các thuốc diệt cơn
trùng (Insecticido) cũng có tác dụng diệt ve, bét (Acaricido) và được gọi chung là
Insecto - Acaricido - thuốc diệt ve, bét và côn trùng.
Các thuốc này khơng chỉ có tác dụng với ve, bét và cơn trùng mà thuốc cịn
có thể tích lũy trong cơ thể ký chủ (ở các mô và sữa). Tuỳ theo độ độc đối với cơ
thể động vật mà chia thành các loại sau:
Thuốc có độc lực cao (Lindan...)
Thuốc có độc lực trung bình (Chlorophos, Trichlometaphos - 3...)
Thuốc có độc lực thấp (Metoxichlor, Pentan...)

215


Dựa vào cấu trúc hoá học của thuốc diệt ve, bét và cơn trùng, người ta chia
thành 3 nhóm:
1. Hợp chất phosphororganic:
Gồm các thuốc sau:
Chlorophos (Dipterex): là thuốc tốt nhất của nhóm, có phạm vi tác dụng

rộng với các lồi ve, bét và cơn trùng ký sinh. Thuốc có tác dụng khi tiếp xúc,
hun, xông (qua cơ quan hô hấp và qua ruột ngay từ lúc côn trùng mới ký sinh).
Thời gian tác dụng lên côn trùng hút máu là 10 ngày, tác dụng lên ve , bét sau 7
ngày phun hoặc xát thuốc lên da súc vật. Sau khi đã phun chlorophos, không
được mổ thịt gia súc trong thời gian 2 tuần. Trong môi trường kiềm, chlorophos
bị khử hydro và clo thành dimetyl dichlor vinulphosphat có tác dụng tốt hơn 6 - 8
lần chlorophos. Tuy nhiên, thuốc này đã bị cấm sử dụng từ năm 2002.
Trichlometaphos - 3: dùng diệt ve, bét và côn trùng. Thường dùng tiêm
dưới da cho trâu, bò hoặc phun lên da , để chống ruồi, muỗi, ve, ghẻ. Thuốc còn
dùng diệt ve trong nhà ở. Vì thuốc có mùi đặc trưng nên gia súc trước khi giết
thịt 60 ngày không được bôi thuốc này.
Phosmamid: thuốc có mùi khó chịu, tác dụng với ve, bét trong khoảng 7 10 ngày, tác dụng lên ruồi trong 2 tháng. Khi dùng c hế thành nhũ tương để bơi
lên da ngựa, trâu, bị để chống ruồi, muỗi, ve (khơng dùng cho bị sữa).
Chế phẩm carbophos: có tác dụng lên ve 7 - 9 ngày. Thường được trộn vào
phân, rác để diệt ấu trùng của ruồi; hoà chế phẩm này vào nước để diệt bọ gậy;
phun vào chuồng trại để diệt cơn trùng có hại; phun lên da súc vật để chống
muỗi, đỉa vào mùa hè; phun lên lông gia cầm để chống rận ăn lông, mạt....
2. Hợp chất chlororganic . Gồm các thuốc sau:
- Hexachloral (666): là loại thuốc clo hữu cơ. Trước đây dùng đ ể chống ve,
bét và côn trùng ký sinh. Súc vật mẫn cảm với 666. Ngựa, trâu, bò (đặc biệt là bê
non dưới 6 tháng tuổi) mẫn cảm nhất, lợn chịu đựng tốt hơn. Có thể dùng dạng
nhũ tương ( trong mùa xuân) hoặc dạng bột (trong mùa đông) để bôi, rắc, phun
lên cơ thể gia súc.
Từ lâu , người ta đã cấm dùng 666 vì thuốc xâm nhập vào các cơ quan, lưu
lại trong mỡ và tiết vào sữa, gây độc cho gia súc và người tiêu dùng sản phẩm
chăn nuôi.
Trong thú y thường dùng chế phẩm creolin hexachloral - dung dịch nâu
sẫm, bôi lên da để chống ve, ghẻ. Chú ý: không dùng cho súc vật trước khi giết
mổ 1 tháng.
Nicochloral: chế từ hexachloral và nicotin, nhựa thông, dầu hoả, trộn thành

nhũ tương. Nhũ tương này dùng diệt ve, rận ăn lông của gia cầm, diệt muỗi và ấu
trùng ruồi trong các chuồng trại. Không được dùng nicochloral bôi lên da bò sữa
và súc vật trước lúc giết mổ 1 tháng.

216


Polychlorpinet: pha với nước ấm thành nhũ tương bền vững dùng để diệt
ĩn,
ruồi
nhà, ruồi trâu và cả ve, ghẻ. Thuốc cịn dùng để diệt bọ gậy trong nước.
d
Khơng phun, tắm cho bò sữa và súc vật khác trước lúc giết mổ 1 tháng.
Ete dicresyl: dễ hoà tan trong các dung môi hữu cơ. Dùng diệt ve mềm, rận ăn
lông, ve cứng, ghẻ. Thuốc được dùng khá rộng rãi để diệt động vật chân đốt ký sinh.
3. Hợp chất vô cơ :
Gồm các lo ại sau:
Arsenic natri: thuốc dễ bị phân huỷ trong khơng khí nên phải bảo quản
trong thùng sắt kín. Dùng dưới dạng dung dịch tắm để diệt ve cho trâu , bò, cừu,
xát hoặc phun cho ngựa. V ì đây là thuốc độc (bảng A), ve lại dễ quen thuốc nên
ở nhiều nước không dùng loại này.
Thuốc xua đuổi (repello): thuốc làm côn trùng , ve, bét ghê sợ và tránh xa.
Thuốc không độc cho gia súc. Thuốc gián tiếp làm giảm số lượng, thành phần
côn trùng hút máu (do không hút được máu nên mất khả năng sinh sản). Thường
dùng các loại thuốc xua đuổi sau:
Hexeamid: pha thành nhũ tương 3%, phun lên gia súc.
Dietyltoluamid: pha thành nhũ tương 3%, phun lên gia súc.
* Hiện nay, thường dùng một số thuốc trị động vật chân đốt sau :
- Diệt ve, ghẻ, rận: Ivermectin và các chế phẩm của Ivermectin, Hantox
spray, Hantox 200...

- Diệt ruồi, muỗi: Permethrin 50 EC, Termosant 10 SC, Fendona, Termido
25 EC, Viper 50 EC, K - Othrine 2 EM...

Hình 180a. Một số thuốc diệt ve, ghẻ, rận

Hình 180b. Một số thuốc di ệt ruồi, muỗi, dĩn

217


Chương 8
VE, GHẺ, CÔN TRÙNG KÝ SINH VÀ GÂY BỆNH
1. VE VÀ GHẺ
Ve, ghẻ thuộc bộ ve, bét, gồm nhiều loài ký sinh ở gia súc, gia cầm.
Bộ ve, bét thuộc lớp hình nhện ( Arachnida), ngành chân đốt (Arthropoda).
Có đặc điểm: phần phụ miệng tách khỏi phần thân làm thành đầu giả
(Capitulum). Sự phân đốt của cơ thể yếu hoặc mờ hẳn. Giai đoạn ấu trùng chỉ có 3 đơi
chân, giai đoạn thiếu trùng và trưởng thành có 4 đơi chân. Có thể có một rãnh thắt
ngang chia thân làm hai phần: phần trước và phần sau thân. Bộ ve, bét có 5 phân bộ:
- Phân bộ 1 - Onychopalpida. Đặc điểm: xúc biện ki ểu đặc biệt, có nhiều
đôi lỗ thở trên thân.
- Phân bộ 2 - Gamasoidea (mạt). Đặc điểm: chỉ có một đơi lỗ thở ở ngoài gốc
háng. Lỗ thở thường liên hệ với bao thở dài. Một số lồi chun ký sinh ở đường hơ
hấp của động vật có xương sống. Tấm dưới miệng khơng thích nghi với chích hút.
- Phân bộ 3 - ve Ixodoidea. Đặc điểm: có một đơi lỗ thở ở sau hay ngoài gốc
háng. Lỗ thở liên hệ với tấm thở ngắn. Tấm dưới miệng có răng hướng về phía
sau, rất thích hợp với kiểu chích đốt. Có cơ quan cảm giác Haller ở bàn chân 1 .
Là ve đa ký chủ.
- Phân bộ 4 - mị Trombidiformes. Đặc điểm: có một đơi lỗ thở nằm trên vịi
hay gần vịi, ít khi thiếu lỗ thở. Xúc biện tự do, khá phát triển. K ìm có cấu tạo

thích ứng với chích đốt, khơng có giác hậu mơn.
- Phân bộ 5 - ghẻ Sarcoptiformes. Đặc điểm: là những lồi khơng có tấm
thở. Hệ thống ống khí thơng với những vùng có nhiều lỗ thở trên cơ thể. Phần
phụ miệng có kìm với 2 càng khoẻ. Xúc biện đơn giản. Có lỗ thở giả hoặc khơng
có. Có giác hậu mơn.
1.1. Phân bộ Ixodoidea
Tất cả các loà i ve thuộc phân bộ này đều ký sinh. Gồm 3 họ:
1.1.1. Họ ve cứng (Ixodoidae)
* Hình thái, cấu tạo: có mai lưng bằng kitin cứng phủ ở mặt lưng ve
trưởng thành, ấu trùng và trĩ trùng. Cơ thể gồm 2 phần chính: đầu giả và thân.
Trên đầu giả mang một đơi kìm, tấm dưới miệng có nhiều hàng gai nhọn hướng
về phía sau và một đơi xúc biện. Đáy đầu giả có 2 hố hình trịn hoặc bầu dục ở
mặt lưng với nhiều lỗ nhỏ là cơ quan cảm giác. Mặt lưng có mai lưng phủ kín
(như ở ve đực) hoặc chỉ phủ một phần phía trước (như ở ấu trùng, thiếu trùng, ve
cái). Trên mai lưng thường có mắt, rãnh cổ, rãnh cạnh, rãnh giữa sau và mấu
đuôi. Mặt bụng mang 4 đôi chân. Mỗi chân gồm các đốt: háng, chuyển, đùi, ống,
trước bàn, bàn và đệm vuốt, vuốt. Lỗ sinh dục ở phía trước bụng. Lỗ hậu mơn ở
phía nửa sau bụng ve. Hầu hết ve cứng đều có rãnh hậu mơn (trừ ve Boophilus)
và các mai cạnh hậu môn, mai phụ, mai dưới hậu mơn. Ve đực thường có những
tấm mai bụng. Tấm thở hình trịn, bầu dục, hình trứng hoặc hình dấu phẩy, ở
dưới đốt háng của đôi chân IV.

218


Hình 181. Ve cứng (Ixodoidae)
* Vịng đời: ve đực và cái giao phối trên cơ thể ký chủ , sau khi hút no máu
rơi xuống đất. Ve cái đẻ trứng thành ổ trên mặt đ ất, có màng nhày bảovệ. Trứng ve
nhỏ, hình cầu, màu vàng nâu hay nâu sẫm. Sau một thời gian, trứng nở ra ấu trùng.
Ấu trùng bò lên cây cỏ, ẩn dưới lá cây (nhất là những lá cây có lơng như sim, mua,

cỏ tranh). Khi ký chủ đi qua, ấu trùng nhanh chóng bám vào ký chủ, hút no máu
rồi biến thái ngay trên ký chủ đó hoặc rơi xuống đất thành thiếu trùng. Thiếu trùng
lại hút no máu và phát triển thành ve trưởng thành. Chu kỳ lại tiếp tục như trên.
Mỗi loài ve trong vịng đời cần có số lượng ký chủ khác nhau. Chia 3 nhóm:
+ Nhóm ve một ký chủ: tất cả các giai đoạn phát triển đều hút máu và biến
thái ngay trên cùng một ký chủ (ví dụ: ve Boophilus microplus).
+ Nhóm ve hai ký chủ: ấu trùng hút no máu và biến thái thành thiếu trùng
trên cùng một ký chủ. Sau khi hút no máu, thiếu trùng rơi xuống đất biến thái
thành ve trưởng thành. Ve này bò lên lồi ký chủ khác (có khi lại vào lồi ký chủ
cũ) để hút máu. Hầu hết ve hai ký chủ ký sinh ở các lồi chân guốc (bị, cừu).
+ Nhóm ve ba ký chủ: mỗi giai đoạn phát triển từ ấu trùng, thiếu trùng đến
trưởng thành , sau khi hút no máu đều rơi xuống đất, biến thái, rồi lại bám vào ký chủ
mới (ký chủ này có thể thuộc nhiều loài hay là các cá thể khác nhau của cùng lồi).
Sự phát triển của ve cứng có thể tóm tắt như sau:
Trứng → Ấu trùng → Thiếu trùng → Trưởng thành
(3 đôi chân) (4 đôi chân) (4 đôi chân)
* Bệnh do ve cứng truyền cho người và gia súc: các bệnh ký sinh trùng
đường máu (bệnh lê dạng trùng, biên trùng, bệnh Richketsia...) cho gia súc nhai
lại, ngựa, chó....
* Một số giống thuộc họ ve cứng
- Giống Boophilus
+ Ở nước ta chỉ phát hiện được loài Boophilus microplus, có đặc điểm:
ve đực nhỏ hơn ve cái, có mấu đi nhỏ, nhọn. Háng I và III đều có 2 cựa. Tấm

219


cạnh hậu mơn có 2 cựa hẹp. Ve cái: háng I có cựa 2 trịn, rộng, cách xa nhau, ở
khoảng giữa lõm thành hình chữ V.


Hình 182. Ve giống Boophilus
+ Ve Boophilus là ve một ký chủ. Ký chủ thích hợp là trâu, bị, dê. Ngồi
ra cịn thấy ở thú ăn thịt, gặm nhấm, chim, chó.... Các giai đoạn phát triển đều ký
sinh trên ký chủ.
+ Ve B. microplus ở nước ta đẻ 3 - 4 lứa/ năm. Mỗi ve cái đẻ trung bình
2.500 trứng (tối đa là 3.500 trứng). Khi thời tiết hanh khô, trứng bị teo lại. Mưa
nhiều thì khả năng đẻ của ve giảm. Ve thích bám chỗ da mỏng (tai, vú, bẹn...) và
có thể sống ở khắp cơ thể ký chủ. Ve xuất hiện nhiều nhất từ tháng 4 đến tháng 8
hàng năm.
Ấu trùng ve B. microplus hút máu trong 4 - 13 ngày, lột xác thành thiếu trùng
sau 6 - 14 ngày. Ấu trùng có thể nhịn đói 4 - 5 tháng, có thể sống tới 7 tháng.
Thiếu trùng ve B. microplus hút máu trong 5 - 11 ngày, lột xác thành ve
trưởng thành sau 5 - 14 ngày.
Ve cái hút máu 6 - 8 ngày, sau khi rơi xuống đất 3 - 15 ngày bắt đầu đẻ
trứng. Thời gian đẻ trứng từ 5 - 30 ngày. Thời gian trứng nở từ 12 - 28 ngày.
+ Khả năng truyền bệnh: ve B. microplus có thể truyền bệnh Piroplasma
bigeminum, Babesiella berbera, Anaplasma marginale cho trâu, bò; B. ovis cho
cừu, Nuttallia equi cho ngựa, Theileria mutans cho trâu, bị. Ngồi ra ve cịn
truyền bệnh sốt phát ban, sốt vàng cho người khi hút máu.

Hình 183. Ve Boophilus microplus ký sinh trên bò

220


- Giống Haemaphysalis
Ở nước ta có 34 lồi thuộc giống n ày, có đặc điểm: khơng có màu ánh kim,
khơng có mắt. Có rua. Xúc biện thường ngắn, hình nón. Mặt bụng ve đực khơng có
tấm mai. Là mơi giới truyền bệnh vi rút, vi khuẩn và là ký chủ trung gian truyền nhiều
bệnh ký sinh trùng đường máu cho gia súc và người .

- Giống Rhipicephalus
Ở nước ta gặp 2 lồi, có đặc điểm: thường khơng có màu sắc . Có mắt và
rua. Tấm dưới miệng và xúc biện ngắn. Ve đực có mai bụng.
Ý nghĩa dịch tễ của ve Rhipicephalus rất lớn: nhiều lồi của giống này là
mơi giới truyền bệnh dịch hạch của loài gặm nhấm, bệnh viêm não của người,
bệnh sốt phát ban, các bệnh nguyên trùng, đặc biệt là bệnh lê dạng trùng của trâu,
bò, dê, cừu, ngựa, chó, lợn....
- Giống Ixodes
Có xúc biện dài, khơng màu, rãnh hậu mơn vịng trước lỗ hậu mơn, đầu giả dài,
khơng có mắt và rua. Ve đực có mai ở mặt bụng. Hầu hết các loài đều là ve ba ký
chủ. Ve truyền bệnh lê dạng trùng cho gia súc, bệnh viêm não, bại liệt cho người.
* Biện pháp phịng trừ ve cứng:
Muốn phịng trừ có hiệu quả, việc điều tra để biết thành phần loài, đặc điểm
sinh thái, vòng đời, mùa vụ xuất hiện, ký chủ, nơi sống của ve ở các khu vực
chăn nuôi... là rất cần thiết để xây dựng biện pháp phòng trừ tổng hợp. Biện pháp
gồm 3 nội dung:
- Diệt ve trên cơ thể gia súc: dùng biện pháp cơ học (quấn bông tẩm dầu hoả
bơi vào nơi có nhiều ve đang đốt, dầu hoả bịt lỗ thở làm cho ve rời kìm ra, rồi
dùng kẹp bắt ve); biện pháp hoá học (dùng thuốc Ivermectin và các chế phẩm của
Ivermectin, Hantox spray, Hantox 200...); biện pháp sinh học (cho gà, sáo ăn ve,
dùng những l oài nấm gây bệnh cho ve).
- Diệt ve ở chuồng trại: phun thuốc diệt ve (Hantox 200...) theo định kỳ.
- Diệt ve ở ngoài thiên nhiên: làm thay đổi môi trường (phát quang các bụi
cây lúp súp quanh chuồng trại, bãi chăn, đồng cỏ...), chăn dắt luân phiên đồng cỏ
để ve chết đói, dùng thuốc hố học diệt ve trên đồng cỏ (phương pháp này ít
dùng vì thuốc sẽ diệt cả sinh vật khác có lợi).
Bùi Thị Tho (2007) đã dùng hạt cây củ đậu chế thành dạng thuốc bột và thuốc
mỡ ở các nồng độ khác nhau trị ve ký sinh trên bò ở Gia Lâm (Hà Nội), kết quả cho
thấy: thuốc bột nồng độ 20% trong bột CaCO3, bôi 2 lần đạt tỷ lệ ve chết là 100%.
Thuốc mỡ nồng độ 20% chỉ cần bôi 1 lần đã sạch ve ký sinh trên cơ thể bò.

Cù Xuân Đức (2011), đã xác định được loại dung môi chiết xuất tốt nhất đố i
với phôi hạt na và hạt củ đậu là dung dịch NaOH 5%, thời gian ngâm chiết để chất
chiết có độc tính cao nhất với phôi hạt na là 36 giờ, với hạt củ đậu là 24 giờ. Dùng
chất chiết phôi hạt na nồng độ 5,5% và 9% đều có hiệu lực diệt ve trên chó tốt và
an tồn sau 2 lần phun. Khi dùng chất chiết hạt củ đậu nồng độ 0,17% và 0,25%
cũng cho kết quả tương tự sau 2 lần phun .

221


1.1.2. Họ ve mềm (Argasidae)
Họ ve mềm gồm những loài ve khơng có mai lưng và mai bụng, đầu giả
nằm dưới mặt bụng. Thường khơng có mắt ho ặc mắt nhỏ, nằm ở hai bên trước
gốc háng I. Có một đôi tấm thở ở sau gốc háng III. Ve cái lớn hơn ve đực. Ve
mềm ăn đêm, ban ngày nấp trong các khe tường, vách chuồng gia súc, gia cầm.
Khi ký sinh, ve mềm hút máu gây tác hại trực tiếp, ngồi ra cịn truyền bệnh
xoắn trùng cho gà vịt, truyền bệnh sốt hồi quy, bệnh sốt phát ban... cho người.
* Giống Argas
Ở nước ta có lồi Argas respertilionis.
Ve hình bầu dục, phía sau phình hơn phía trước. Khi đói ve màu vàng nhạt.
Khi no có hình trứng, màu xám hoặc xanh thẫ m. Ve ký sinh ở gia cầm, chim.

Argas respertilionis (mặt lưng)

Argas respertilionis (mặt bụng)

Argas reflexus (mặt lưng)

Argas reflexus (mặt bụng)


Hình 184. Ve Argas respertilionis và Argas reflexus
* Giống Otobinus
Trong giống này có lồi Otobinus megnini. Ve trưởng thành không ký sinh.
Ấu trùng và thiếu trùng ký sinh ở trong tai chó, ngựa, bị....

Hình 185. Ve Otobius megnini trưởng thành và ấu trùng

222


* Giống Orithodoros
Dạng thiếu trùng và trưởng thành ký sinh và hút máu người, gia súc, gia
cầm, chim... trong một thời gian ngắn. Ve này truyền Borrelia duttoni gây bệnh
sốt liên miên cho người.

Hình 186. Ve Orithodoros spp. và ve Orithodoros đang ký sinh
1.2. Phân bộ mạt (Gamasoidea)
Trong phân bộ này có lồi Dermanyssus gallinae ký sinh ở gà.
Mạt thường ký sinh ở gà. Cơ thể hình lê, màu trắ ng, khi hút máu no có màu
đỏ. Mạt ký sinh tạm thời. Ban ngày ẩn nấp ở chỗ kín, ban đêm mạt bò ra đốt, hút
máu ký chủ vài giờ hoặc hơn. Sau khi no máu, mạt đẻ 3 - 20 trứng vào ổ gà, đệm
lót.... Trứng nở thành ấu trùng, ấu trùng phát triển thành thiếu trùng rồi thành mạt
trưởng thành. Mạt có thể nhịn đói 4 - 5 tháng, sống được 6 - 7 tháng ở chuồng
trại bỏ trống.
Mạt gà truyền bệnh xoắn trùng, bệnh bạch cầu, bệnh dịch tả và bệnh viêm não.
1.3. Phân bộ mò (Trombidiformes)
Gồm: họ mị đỏ (Trombiculidae) và họ mị bao lơng (Demodicidae).
- Trong họ mị đỏ có một số lồi ký sinh ở gà nước ta. Mò gây viêm da,
ngứa ngáy cho ký chủ. Gà bị mò ký sinh nhiều vào cuối mùa hè đến đầu mùa thu.
Một số lồi mị ký sinh ở chó, mèo, cừu, ngựa, thỏ gây ngứa ngáy khó chịu.

Có thể dùng dầu hoả hoặc dầu thơng bơi để diệt mò cho gia súc, gia cầm.
- Trong họ mị bao lơng có các lồi thuộc giống Demodex ký sinh ở tuyến
nhờn bao lông của nhiều loại gia súc (chó, lợn, trâu , bị, dê, ngựa, mèo) và người.
Mị Demodex vào bao lông và tuyến nhờn gây viêm mạn tính, biểu bì phồng
lên nhanh, lơng rụng. Vi khuẩn khác xâm nhập, gây thành mụn mủ. Ký chủ bị
bệnh nặng thì gầy mịn dần rồi chết.
1.4. Phân bộ ghẻ (Sarcoptiformes)
Những loài ghẻ ký sinh ở gia súc, gia cầm phần lớn thuộc 2 họ ghẻ sau:

223


1.4.1. Họ ghẻ Sarcoptidae
Trong họ này có giống Sarcoptes ký sinh trên nhiều loài gia súc.
Bệnh ghẻ ngầm gây tác hại lớn cho trâu, bò, ngựa, lợn, dê, cừu.... hầu hết
đều do các phân loài của loài Sarcoptes scabiei gây ra.
BỆNH GHẺ NGẦM (SARCOPTOSIS)
* Hình thái ghẻ ngầm Sarcoptes scabiei
Con đực dài 0,2 - 0,35 mm, con cái dài 0,35 - 0,5 mm. Màu xám bóng hoặc
vàng nhạt. Thân hình bầu dục hay trịn. Mặt lưng có nhiều đường vân song song,
khoảng cách giữa các vân có nhiều tơ, gai và vẩy hình tam giác với mũi nhọn
hướng về phía sau. Khơng có mắt. Lỗ âm mơn của con cái ở sau đôi chân III. Lỗ
sinh dục của con đực ở giữa đơi chân III.
Lỗ hậu mơn ở phía sau mặt lưng. Có 4 đơi
chân, mỗi đơi chân gồm 5 đốt. Cuối bàn
chân có giác trịn với ống cán dài không
phân đốt. Giác bàn chân là một tiêu chuẩn
định loại và phân biệt ghẻ đực, cái (con
đực có giác bàn chân ở chân I, II, IV; con
cái chỉ có ở 2 chân trước). Chân có nhiều

tơ rất dài. Đầu giả ngắn, hình bầu dục, có
Hình 187.
một đơi xúc biện 3 đốt và một đơi kìm.
Ghẻ Sarcoptes scabiei

Hình 188.
Ghẻ Sarcoptes scabiei
1. Mặt lưng
2. Mặt bụng

1

2

* Vòng đời: ghẻ ngầm xâm nhập vào lớp biểu bì, đào rãnh, lấy dịch l âm ba
và dịch tế bào làm chất dinh dưỡng. Con đực và con cái giao phối ở rãnh. Con cái
đẻ 40 - 50 trứng trong 3 - 7 ngày, sau đó trứng nở thành ấu trùng. Ấu trùng gần
giống ghẻ trưởng thành , nhưng chỉ có 3 đơi chân, 2 đơi chân trước có giác bàn
chân, đơi thứ ba có tơ dài. Ít lâu sau, ấu trùng biến thành thiếu trùng có 4 đơi
chân, 2 đơi chân trước có giác bàn chân, 2 đơi chân sau có tơ như ghẻ trưởng
thành, nhưng chưa có lỗ sinh dục. Sau đó thiếu trùng phát triển thành ghẻ trưởng
thành. Thụ tinh xong, con đực chết, con cái tiếp tục đào rãnh trong biểu bì để đẻ
trứng. Ghẻ ln tiến về phía trước vì gai lưng có mũi nhọn hướng về phía sau
nên khơng lùi được. Trong rãnh ở đằng sau ghẻ cái thấy những điểm đen là phân
của ghẻ và cách quãng lại có trứng ở các giai đ oạn phát triển khác nhau. Sau khi

224


nở ra, ấu trùng có thể đào thủng mái của rãnh thành một lỗ để thốt ra ngồi, tiếp

tục đào rãnh khác (lúc này ấu trùng có thể nhiễm vào một ký chủ khác do tiếp
xúc). Hồn thành vịng đời cần 15 - 20 ngày (ở điều kiện thích hợp).
S. scabiei ký sinh ở da hầu hết gia súc, gây thành bệnh ghẻ ngầm, hay gặp ở
bị, trâu, chó, ngựa, lợn, cừu, dê. Bệnh lây truyền bằng tiếp xúc qua dụng cụ,
quần áo của người chăn nuôi hoặ c tiếp xúc , cọ sát giữa súc vật với nhau do
chuồng nuôi chật chội. Bệnh phát nhiều vào mùa đông và mùa thu, mùa hè ít hơn
vì ánh nắng mặt trời dễ làm ghẻ chết.
* Triệu chứng: có 3 triệu chứng chính là ngứa, rụng lơng và đóng vẩy.

Hình 189. Bị, lợn, cừu, dê bị ghẻ
- Ngứa: do ghẻ đào rãnh và tiết nước bọt có độc tố, kích thích vào cá c đầu
mút thần kinh cảm giác ở tổ chức biểu bì. Con vật ngứa nhiều, gãi bằng chân, cắn
những chỗ nó với tới, cọ sát liên tục vào tường, máng ăn, cây cối và cả những
con đứng cạnh.
- Rụng lông: lông rụng nhiều do viêm bao lông. Lông rụng thành những
đám tròn, lúc đầu chỉ 2 - 3 mm, sau đó ngày càng lan rộng ra xung quanh do ghẻ
cái sinh sản nhanh (một con ghẻ cái trong 3 tháng sản sinh ra một quần thể
150.000 con), chúng không tập trung ở một số nơi mà di cư khắp cơ thể. Vì vậy,
những chỗ rụng lơng lan rộng ra. Cần phân biệt hiện tượng rụng lông do các
nguyên nhân khác nhau:
+ Rụng lơng do ghẻ ngầm: lơng rụng tồn bộ, đều và lan ra chậm.
+ Rụng lông do rận ăn lông: những chỗ rụng không đều, không rụng hết
lông, lông như bị cắt.
+ Rụng lông do mạt (ở ngựa): những chỗ rụng rộng 5 - 10 mm, lan rộng rất
nhanh, chỉ sau 1 - 2 đêm là khắp cơ thể.

225


- Đóng vẩy: những chỗ ngứa đều có mụn nước to bằng đầu đinh ghim. Mụn

nước phát triển xung quanh một con ghẻ cái do nước bọt của ghẻ kích thích tạo
nên. Con vật gãi, cọ sát l àm mụn vỡ ra, để lại những vết thương, rồi tương dịch
chảy ra, cùng với máu và những mảnh thượng bì khơ tại chỗ đóng thành vẩy màu
nâu nhạt, có khi dày đến 3 - 4 mm ở những chỗ rụng lông. Chỗ rụng lông tiếp tục
lan rộng và tăng thêm, nối liền nhau thành nh ững mảng ngày càng rộng. Sau 5 - 6
tháng, da con vật hoàn toàn trơ trụi, đóng vẩy, dày và nhăn nheo, có mùi rất hơi
do chất nhờn trong các tuyến da tiết ra quá nhiều rồi lên men. Đó là đặc điểm của
bệnh ghẻ ngầm toàn thân.
Bệnh ghẻ ngầm làm cho chức năng c ủa da không thực hiện được. Con vật
ngứa ngáy liên tục, không ăn, không ngủ được, gầy dần và chết.
Như vậy, bệnh tiến triển qua 3 thời kỳ: thời kỳ đầu tạo thành điểm lỗ chỗ,
thời kỳ thứ hai tạo thành mảng, th ời kỳ thứ ba lan ra toàn thân.
* Bệnh tích: viêm nội bì nặng, trong da có nhiều rãnh, trong rãnh có ghẻ
cái, có trứng ở những giai đoạn phát triển khác nhau và có phân ghẻ là những
chấm đen trong rãnh.
* Chẩn đoán: kết hợp các phương pháp như tìm trứng ghẻ, soi kính tìm
ghẻ và căn cứ vào tình hình dịch tễ để chẩn đốn.
- Cách lấy bệnh phẩm: dùng nước ấm và xà phòng hoặc thuốc tím 1% rửa
ạch
da, cắt lơng chỗ có bệnh tích mới (giao điểm giữa chỗ da có bệnh tích và
s
chỗ da lành, vì ghẻthường tập trung ở đây). Dùng dao cạo thẳng vào da đến chảy
máu ra là được, cho bệnh phẩm vào ống nghiệm, đậy nút kín.
- Phương pháp kiểm tra ghẻ chết trong da:
+ Dùng dầu hoả: đặt vẩy ghẻ lên phiến kính, cho vài giọt dầu hoả lên, ép một
phiến kính khác lên cho nát vẩy. Soi kính hiển vi để phát hiện con ghẻ đã chết.
+ Phương pháp ngưng cặn: cho vẩy ghẻ vào một ống nghiệm có 5 - 10 ml
NaOH 10%, ngâm 2 giờ rồi đun nóng vài phút, ly tâm 5 phút. Lấy cặn soi kính
có thể tìm thấy trứng, ấu trùng, thiếu trùng và ghẻ trưởng thành trong cặn.
+ Phương pháp phù nổi: lấy cặn theo cách ngưn g cặn trên cho vào ống

nghiệm có natri hyposunfit 60% gần đầy ống, để yên 10 phút, vớt lớp váng trên
bề mặt dung dịch đưa lên phiến kính, soi kính hiển vi có thể tìm thấy trứng, ghẻ
trưởng thành hoặc các dạng ấu trùng, thiếu trùng.
- Phương pháp kiểm tra ghẻ sống: có thể làm phương pháp trực tiếp hoặc
dùng nước nóng.
+ Phương pháp trực tiếp: cho bệnh phẩm lên phiến kính, nhỏ lên đó 1 - 2
giọt glyxerin 50%. Soi kính tìm con ghẻ sống.
Có thể lấy lưỡi dao sạch có bơi glyxerin 50% cạo vào da, chất bám ở da rồi
cho lên phiến kính để soi kính hiển vi tìm con ghẻ sống.
+ Dùng nước nóng: dùng dao sạch lấy mụn ghẻ cho vào đĩa petri, cho nước
nóng 37 - 400C xâm xấp vẩy mụn, giữ nóng trong 1 - 2 giờ. Do tác dụng của
nhiệt, ghẻ sẽ bò lên mặt vẩy mụn. Cho lên phiến kính để soi kính tìm con ghẻ.
* Điều trị: để điều trị có hiệu quả, cần chú ý những vấn đề sau:
- Cắt lông, cạo các mụn ghẻ, tắm xà phịng trước khi bơi thuốc.

226


- Tránh không để con ghẻ vương vãi ra xung quanh.
- Phải chữa lần thứ hai, thứ ba thì ghẻ mới chết hết.
- Chọn phương pháp chữa thích hợp: tắm, xát, phun với từng loại gia súc.
Ví dụ, xát thuốc khi số lượng gia súc bị ghẻ ít và phạm vi nhiễm ghẻ hẹp.
- Chữa thí nghiệm trước khi chữa trên diện rộng.
- Sau khi chữa, vệ sinh và tiêu độc chuồng trại.
- Dùng một trong các thuốc sau để phun, tắm, bơi hoặc xát cho gia súc.
Có thể dùng lá cây ba chạc, lá đào đun nước tắm; dùng nhựa cây máu chó
bơi tại chỗ ; tắm nước muối cho con vật.
Có thể dùng một trong những loại thuốc sau:
+ D.E.P (dietyl phtalat): là thuốc có tác dụng diệt ghẻ nhanh và rẻ tiền, ít
độc tính. Bơi ngày 2 - 3 lần.

+ Benzyl benzoat (ascabiol, scabitox, zylate) là thuốc rất tốt, độ an tồn cao.
Bơi hoặc xịt ngày 2 lần, cách nhau 15 phút. Sau 24 giờ, tắm cho gia súc.
+ Eurax (crotamintan) 10%, thuốc có tác dụng chống ngứa và diệt ghẻ. Cứ
6 - 10 giờ bôi 1 lần. Thuốc an toàn đối với gia súc.
+ Permethrin cream 5% (Elimite): là thuốc chữa ghẻ ít độc tính nhất, có thể
dùng cho gia súc non và gia súc có thai.
+ Lindane (gamma - benzen hexachlorid): xịt thuốc vào toàn bộ da từ cổ đến
chân. Sau 8 - 12 giờ, tắm cho gia súc. Xịt thuốc 2 lần/tuần. Thuốc chữa ghẻ nhanh ,
nhưng độc với thần kinh, nên không dùng cho gia súc non và gia súc có thai.
- Xây bể tắm ở chỗ bằng phẳng, có nguồn nước, có bãi chăn ấm, ít lộng gi ó,
khơng bị ơ nhiễm mầm bệnh truyền nhiễm, không ảnh hưởng đến vệ sinh chung.
Quy mơ bể tắm có thể cho 100 - 10.000 con (nếu nhiều gia súc), nếu ít gia súc và
gia súc nhỏ thì có thể dùng thùng gỗ hay thùng tơn để tắm. Cần an tồn cho
người và gia súc.
1.4.2. Họ ghẻ Psoroptidae
Trong họ này có các lồi thuộc hai giống: Psoroptes và Chorioptes.
* Trong giống Psoroptes có lồi P. communis phổ biến ở gia súc. Lồi này
lại có những phân loài sau:
- P. communis ovis: ký sinh ở da cừu.
- P. communis equi: ký sinh ở cổ, lưng, đuôi ngựa.
- P. communis caprae và P. cuniculi: ký sinh ở tai dê và thỏ.
- P. communis bovis: ký sinh ở đi trâu, bị.
Hình thái chung: thân hình bầu dục, chân dài hơn giống Sarcoptes, nhất là 2
chân trước. Con đực chân I, II và III đều có giác bàn chân. Con cái chân I, II và
IV có giác bàn chân.
- Vòng đời: gần giống vòng đời của ghẻ Sarcoptes, song thời gian hồn
thành vịng đời ngắn hơn (9 - 10 ngày).
- Triệu chứng, bệnh tích, chẩn đốn và phịng, trị: giống ghẻ Sarcoptes.
* Trong giống Chrioptes có các lồi ký sinh ở ngựa (C. equi), ở cừu (C.
ovis), ở dê ( C. caprae), ở thỏ (C. cuniculi). Khác với ghẻ Psoroptes là, giác bàn

chân có ống cán ngắn khơng chia đốt. Phòng, trị giống bệnh ghẻ ngầm.

227


2. CƠN TRÙNG KÝ SINH
Lớp cơn trùng (Insecta) là lớp có nhiều lồi nhất (chiếm 70% tổng số lồi
động vật).
Trong lớp này có một số lồi ký sinh và truyền bệnh cho người và vật nuôi,
chúng thuộc hai bộ (bộ hai cánh và bộ rận).
2.1. Đặc điểm hình thái, cấu tạo của côn trùng ký sinh
Côn trùng ký sinh chủ yếu sống trên cạn. Cơ thể gồm 3 phần: đầu, ngực,
bụng. Có 1 đơi râu cảm giác (gọi là ăng ten), có 3 đơi chân và 2 đơi cánh (nhiều
lồi chỉ có 1 đơi cánh). Hơ hấp bằng hệ thống ống khí.
Cơn trùng ký sinh dài từ vài mm đến vài cm. Bên ngoài là lớp vỏ cuti n (hợp
chất của protein và kitin), tiếp theo là lớp hạ bì, trong cùng là lớp màng gốc mỏng.
- Đầu được bọc trong bao kitin , tạo thành "hộp sọ" để bảo vệ bộ não. Trên
đầu có 1 đơi mắt kép lớn, có thể có thêm mắt đơn, một đơi râu cảm giác gồm
nhiều đốt, phần phụ miệng. Đầu khớp động với ngực.
- Ngực do 3 đốt gắn lại, mỗi đốt mang 1 đơi chân. Có 2 đơi cánh dính vào
đốt 2 và 3. Một số cơn trùng chỉ có 1 đơi cánh (ruồi, muỗi, mịng), có lồi khơng
có cánh (rận, bọ chét).
- Bụng gồm 9 - 10 đốt, không mang chân. Cuối thân có lỗ hậu mơn, lỗ sinh
dục, gai giao hợp.
- Cơ quan vận động: cơn trùng có hệ cơ phát triển, có khả năng co rút đặc
biệt, có chân và cánh để vận động. Chân gồm nhiều đốt, tận cùng có 1 - 2 móc để
bám. Các đốt khớp động với nhau.
- Phần phụ miệng khác nhau theo loài, gồm các kiểu: kiểu nghiền (thường có ở
dạng ấu trùng), kiểu nghiền hút (ở mòng Tabanus), kiểu liếm hút (ở ruồi nhà), kiểu
chích hút (ở muỗi cái, rận, rệp, bọ chét...), kiểu đốt hút (ở ruồi trâu Stomoxys...).

- Hệ tiêu hoá gồm: miệng, thực quản, dạ dày, tuyến nước bọt, ruột, hậu môn.
Thức ăn của côn trùng ký sinh là máu động vật, có khi con đực lại ăn thực
vật (ví dụ: muỗi).
- Hệ hơ hấp khá phát triển, gồm: hệ thống ống khí phân nhánh khắp cơ thể .
Hơ hấp nhờ hệ thống ống khí phối hợp với sự hoạt động của cơ bụng.
- Hệ tuần hoàn: hệ tuần hồn hở, tim hình ống, máu khơng màu hoặc màu
vàng đỏ.
- Hệ bài tiết: gồm các ống Malpighi hấp phụ các sản phẩm dị hố trong
máu, rồi thải ra ngồi qua ruột.
- Hệ thần kinh: các hạch thần kinh tập trung thàn h bộ não gồm não trước,
não giữa và não sau ; có chuỗi hạch thần kinh bụng điều hồ hoạt động của hệ hơ
hấp và tim; có các hạch ngực điều khiển hoạt động của chân và cánh.
- Hệ sinh dục: con đực có 2 tinh hồn, 2 ống dẫn tinh đổ vào ống phóng tinh
và thơng với cơ quan giao cấu, có tuyến sinh dục phụ. Con cái có 2 buồng trứng ,
2 ống dẫn trứng, 1 âm đạo, tuyến sinh dục phụ và túi nhận tinh.

228


Cơn trùng thường đẻ trứng, có lồi đẻ con (ấu trùng), hoặc đẻ trứng nở ngay
thành nhộng.
2.2. Các côn trùng ký sinh và truyền bệnh
Những cơn trùng này có 1 đơi cánh hoặc khơng có cánh. Phần phụ miệng
biến đổi để thích nghi với kiểu đốt, hút.
Vịng đời phát triển của cơn trùng gây bệnh có 2 kiểu biến thái:
- Biến thái khơng hồn tồn (biến thái thiếu): trứng nở thành ấu t rùng rất
giống dạng trưởng thành, chỉ khác là cơ quan sinh dục chưa đầy đủ ( ví dụ: rận
hút máu, rệp hút máu).
- Biến thái hoàn toàn (biến thái đủ): trứng nở thành ấu trùng hoàn toàn khác
dạng trưởng thành về hình dạng và hoạt động. Sau khi ấu trùng lột xác thì thành

dạng trưởng thành ( ví dụ: ruồi, mịng).
2.2.1. Phân loại cơn trùng ký sinh
Ngành động vật chân đốt (Athropoda)
Lớp côn trùng (Insecta)
Bộ hai cánh ( Diptera)
Bộ phụ râu dài ( Nematocerca)
Họ muỗi (Culicidae): trong họ này có các lồi truyền bệnh sốt rét.
Họ ruồi vàng ( Simulidae): đốt, hút máu, tiết chất độc.
Họ dĩn ( Chironomidae): hút máu, truyền bệnh giun chỉ, vi rút.
Họ muỗi cát ( Psychodidae): hút máu, truyền bệnh giun chỉ.
Bộ phụ râu ngắn (Brachycera)
Họ mòng (Tabanidae): hút máu, truyền bệnh ký sinh trùng đường máu.

B phụ (Cyclorrhapha)
Họ ruồi ( Muscidae)
Giống Stomoxys: hút máu và truyền bệnh ký sinh trùng đường máu.
Giống Musca (ruồi nhà)
Giống Glossina: truyền bệnh tiên mao trùng cho gia súc.
Họ Oestridae
Giống Oestrus
Loài O. ovis: ấu trùng ký sinh ở mũi dê, cừu.
Họ Hypodermatidae
Giống Hypoderma: ấ u trùng ký sinh dưới da bò ( gây bệnh dòi da).
Họ Gasterophilidae: ấu trùng ký sinh ở dạ dày ngựa gây bệnh dòi dạ dày.
Họ Tachinidae (nhặng xanh): ấu trùng nở ra ở các vết thương, gây
viêm và nhiều tác hại khác.
Bộ rận ( Anorplura)
Họ Haemotopinidae:
Giống Haematopinus: hút máu trâu, bò, lợn, ngựa.
Họ Linognathtidae


229


Giống Solenopotes: hút máu bò.
Giống Linognathus: hút máu cừu, bê, chó
Bộ rận ăn lơng (Mallophaga)
Bộ phụ (Ischnocera): có một số lồi ký sinh ở chó, bị, ngựa, gà, vịt....
Bộ phụ (Amblycera): có một số lồi ký sinh ở gà, bồ câu.
Bộ bọ chét (Siphonaptera): ký sinh ở chó, mèo, người, gà, vịt....
2.2.2. Một số bệnh do côn trùng gây ra ở gia súc
(1) Bệnh dòi dạ dày và ruột của ngựa
* Căn bệnh: là ấu trùng của ruồi Gastrophilus spp.
* Vòng đời
Ruồi trưởng thành hoạt động suốt mùa xuân, sống khoảng 2 - 3 tuần. Sau
khi đẻ trứng, ruồi chết. Mỗi ruồi cái đẻ 600 - 700 trứng, thường đẻ trứng ở trên
lông ngựa.
Trứng màu đen hoặc vàng nhạt, dài, có đầu nhọn dính vào lơng ngựa. Sau
khoảng 10 ngày trứng nở ra ấu trùng. Khi ngựa liếm, những ấu trùng này thường
lẫn vào dịch nhờn của miệng rồi xuống hầu. Sau 21 - 28 ngày ấu trùng đến
thượng vị dạ dày, có màu đỏ hoe hoặc vàng nhạt
Ấu trùng sống trong ký chủ 10 - 12 tháng rồi theo phân ra ngồi. Một vài ấu
trùng có thể sống trong ký chủ đến mùa xuân mới ra khỏi ký chủ. Sau 3 - 5 tuần,
biến thái thành thiếu trùng (nhộng), rồi thành ruồi trưởng thành.
* Bệnh lý, lâm sàng
Giai đoạn đầu, ấu trùng làm tổn thương hầu, lưỡi, làm niêm mạc bị loét,
sưng. Miệng và hầu sưng to, lưỡi bị tê liệt, ngựa ho, nuốt khó, nếu nặng có thể
chết. Khi ấu trùng vào tới dạ dày và tá tràng thì gai móc của chúng xun vào
niêm mạc gây viêm, gây rối loạn tiêu hoá. Số lượng ấu trùng nhiều làm trở ngại
sự vận động và tiết dịch vị của dạ dày, có khi làm tắc thượng vị và làm thủng tá

tràng. Độc tố của chúng làm cho ngựa thiếu máu và bệnh càng nặng thêm.
* Chẩn đoán
Căn cứ vào thời vụ phát bệnh, sự hoạt động của ruồi và những triệu chứng
có thể thấy. Tìm trứng ruồi trên lơng ngựa, tìm ấu trùng ở chỗ loét trên niêm mạc
miệng, mơi hoặc tìm ấu trùng trong phân ngựa.
* Điều trị
Thuốc có hiệu lực tốt là Ivermectin với liều 0,2 mg/kg TT, tiêm dưới da.
(2) Bệnh dòi da bò
* Căn bệnh: bệnh do ấu trùng của ruồi Hypoderma bovis và Hypoderma
lineatum gây ra.
* Vòng đời
Ruồi trưởng thành hoạt động mạnh vào mùa xuân và những ngày nắng ấm,
nhất là tháng 6, 7. Chúng đẻ trứng trên lơng bị, trứng dài khoảng 1 mm.

230


H. bovis đẻ từng trứng một, H. lineatum đẻ từng dãy khoảng 6 - 7 trứng
hoặc nhiều hơn trên một lông. Mỗi ruồi cái đẻ khoảng 100 trứng hoặc nhiều hơn.
Sau 4 ngày, trứng nở thành ấu trùng rồi bò xuống da và chui vào da.
Ấu trùng H. lineatum đi vào vách thực quản, nằm dưới tổ chức liên kết tới hết
mùa hè và mùa thu, lớn dần đến khi dài khoảng 12 - 16 mm. Chúng ở đây suốt
tháng 1, 2 rồi vào ống cột sống, đến tháng 4 lại về tổ chức dưới da lưng. Ấu trùng
H. bovis đôi khi cũng vào ống cột sống, nhưng rồi chúng trở lại vị trí dưới da ngay.
Khi chúng ký sinh dưới da gây viêm tấy thành cục tròn , đường kính khoảng 3 cm.
Chỗ viêm sưng tấy và bị thủng lỗ, ấu trùng thở qua lỗ thủng đó. Giai đoạn này kéo
dài khoảng 30 ngày.
Ấu trùng non có màu trắng, sau đó chuyển thành màu vàng rồi màu nâu và
lúc này đã là ấu trùng thành thục. Ấu trùng phát triển trải qua 2 lần lột xác. Ấu
trùng thành thục của H. bovis dài 27 - 28 mm, của H. lineatum dài 25 mm.

Vào mùa xuân, ấu trùng chui khỏi lỗ nhỏ trên da, rơi xuống đất. Ở đó,
chúng biến thái thành thiếu trùng , được bọc trong kén màu đen. Sau 35 - 36 ngày
ruồi trưởng thành chui ra khỏi kén.
* Bệnh lý và lâm sàng
Ấu trùng H. bovis và H. lineatum xuyên qua da bò và di hành trong cơ thể
làm bị khơng n, đau và ngứa. Khi di hành, ấu trùng gây tổn thương các tổ
chức, gây viêm thực quản, có khi gặp ấu trùng ở nộ i tạng. Độc tố của ấu trùng
gây thiếu máu. Khi nhiễm nặng, bò gầy, chậm lớn, giảm sản lượng sữa.
Ấu trùng ký sinh dưới da lưng gây xuất huyết, viêm da và thủng lỗ. Nếu bị
nhiễm vi khuẩn, vi rút thì vết thương mưng mủ, chảy nước vàng và lâu khỏi.
* Chẩn đoán
Chỉ khi ấu trùng di hành đến da lưng mới phát hiện được. Lúc đầu sờ thấy
có mụn rắn hình trịn, sau 1 - 1,5 tháng sờ thấy những u to, trên da có những lỗ
nhỏ. Có thể tìm thấy ấu trùng ở tổ chức liên kết dưới da.
* Điều trị
Diệt các lồi ruồi gây bệnh dịi da, hiệu quả nhất là diệt dòi ở trên da ký chủ
và ngồi thiên nhiên.
Có thể dùng các thuốc sau:
- Dùng xilanh bơm tetraclorua cacbon (CCl4) vào mỗi vết thương 1 - 2 ml.
- Dùng cao chế từ: Axit cacbonic 1 phần
Vazơlin 9 phần
Bôi vào vết thương sau khi đã cắt lơng, nặn hết mủ.
* Có thể dùng thuốc nam kết hợp thuốc tây theo cách sau:
- Làm cho dòi ra khỏi vết thương: lấy khoảng 100 gam măng vòi mọc trên cây
tre (măng tay tre), bóc hết vỏ giã nhỏ, cho ít muối, vắt lấy nước. Dùng xila nh bơm
nước măng vào vết thương. Nước măng đắng làm cho dòi chui ra hết sau 1 - 3 giờ.

231



- Rửa bên trong vết thương bằng thuốc sát trùng . Dùng một trong hai dung
dịch: Rivanol 0,5% hoặc nước oxy già 3% để rửa vết thương. Dùng xilanh bơm
dung dịch sát trùng v ào vết thương , nặn hết dịch, mủ. Làm 2 lần liền.
- Cho thuốc chống viêm vào vết thương: dùng 5 gam Sulfamerazin hoặc 5
gam Sulfaguanidin trộn với 1 gam Streptomycin, nhét hỗn hợp bột này vào vết
thương, sau đó băng lại bằng băng dính để hạn chế súc vật liếm vào vết thương.
Ngày thay băng một lần, cho thuốc vào vết thương, làm trong khoảng 2 - 3 ngày.
- Tiêm thuốc chống nhiễm trùng cho bò: nếu vết thương rộng, bị viêm nặng,
sau khi xử lý như trên, cần phải tiêm thuốc kháng sinh chống viêm cho bò. Dùng
Ampicillin, liều 30 mg/kg TT, phối hợp với Streptomycin , liều 20 mg/kg TT,
dùng liên tục trong 3 ngày.
- Phòng chống ruồi, nhặng đẻ trứng vào vết thương: dùng 1 trong 2 loại
dung dịch: Cresyl 5% hay D.E.P. (thuốc chữa ghẻ) bơi quanh vùng da có vết
thương để xua đuổi, hạn chế ruồi, nhặng đậu và đẻ trứng.
(3) Bệnh rận hút máu
Rận hút máu Bộ Anoplura gồm 4 họ: Haematopinidae, Linognathidae,
Hoplopleuridae, Pediculidae. Họ Haemalopinidae và Linognathidae có liên quan
nhiều đến thú y. Họ Hoplopleuridae ký sinh ở loài gặm nhấm. Họ Pediculidae ký
sinh ở người.
* Họ Haematopinidae
Đầu kéo dài về phía trước thành góc đỉnh. Ngực rộng. Có những tấm hơng,
trên mỗi đốt bụng có một vịng gai.
Họ này có những lồi sau ký sinh trên gia súc:
- Rận trâu Haematopinus tubereulatus: con đực dài 1 mm, con cái dài 5 mm.
Đầu kéo dài về phía trước, cuối thân trịn. Ngực có chiều rộng lớn hơn chiều dài,
bụng hình bầu dục, bờ cạnh các đốt bụng hình răng cưa.
+ Ký chủ: trâu, trâu rừng.
+ Dịch tễ: rận hút máu có ở cả đồng bằng, trung du và miề n núi. Tháng 3
chúng phát triển nhiều nhất, sau đó giảm dần. Nhiệt độ cao có thể ảnh hưởng đến
sinh sản của rận, các tháng nóng, trâu đầm nhiều cũng làm giảm số lượng rận.

+ Phân bố: ở Italia, Ấn Độ, Philippin, Việt Nam (hầu khắp các nơi).
+ Tác dụng gây bệnh: ngồi hút máu, rận trâu cịn l à môi giới cơ học truyền
bệnh Tiên mao trùng do Trypanosoma evansi, mầm bệnh ở trong rận có khả năng
tồn tại và gây bệnh trong 2 giờ.
- Rận bò Haematopinus eurysternus: con đực dài 2 mm, con cái dài 3 mm.
Đỉnh đầu tròn, n gang râu rộng. Mép cạnh các đốt bụng trịn với một túm lơng
ngắn, ngực có chiều rộng và chiều dài bằng nhau.
+ Ký chủ: bò.

232


+ Tác dụng gây bệnh: loài này phổ biến ở cả miền núi, trung du và đồng
ằng.
Gặp nhiều ở trong tai, bờ trên cổ, lưng, hơng. Bị ngứa nê n phải cọ vào cây
b
cối, tường vách hoặc liếm làm rụng từng mảng lông.
+ Điều trị: dùng dung dịch Ivermectin, tiêm dưới da, liều 0,2 mg/ kgTT.
+ Phòng bệnh: chủ yếu là cách ly bị có rận, tiêu độc chuồng.
- Rận lợn Haematopinus suis: con đực dài 2,6 mm, con c ái dài 3,6 mm.
Đỉnh đầu tròn, ngực ngắn hơn đầu. Mép cạnh các đốt bụng trịn, có viền tấm
hơng bằng kitin, có ít lơng ngắn ở giữa khoảng cách các đốt bụng.
+ Ký chủ: lợn nhà, lợn rừng, có khi cả ở người.
+ Tác dụng gây bệnh: gây ngứa, nhất là ban đêm, gây mụn đỏ, dễ làm tróc da.
- Rận ngựa Haematopinus asini: ký sinh và hút máu ngựa
* Họ Linognathidae
Da bụng mỏng, có nhiều lơng trên mỗi đốt. Đôi chân thứ nhất nhỏ nhất. Ký
sinh phần lớn trên thú guốc chẵn. Gồm các loài:
- Solenopoles capillatus: ký sinh trên bò châu Âu, châu Mỹ và châu Úc. Ở
Việt Nam đã gặp ở Hà Nội.

- Linognathus ovillus: ký sinh và hút máu cừu. Đầu có chiều dài dài hơn
chiều rộng và dài hơn ngực.
- Linognathus vituli: ký sinh và hút máu bê. Đầu và thân dài.
- Linognathus selosu: ký sinh và hút máu chó. Có thể ký sinh cả ở chồn, cáo, người.
- Linognathus stelopsis: ký sinh và hút máu dê.

1

2

3

Hình 190. Một số lồi rận ký sinh ở gia súc
1. Haematopinus tubereulatus
2. Haematopinus eurysternus
3. Haematopinus suis
4. Haematopinus asini

233

4


TÀI LIỆU THAM KHẢO (Phần thứ ba)
(CHƯƠNG 7: ĐẠI CƯƠNG VỀ ĐỘNG VẬT TIẾT TÚC KÝ SINH
CHƯƠNG 8: VE, GHẺ VÀ CÔN TRÙNG KÝ SINH)
* Tài liệu tiếng Việt
1. Cù Xuân Đức (2011), Đặc điểm dịch tễ bệnh ve chó ở hai huyện, thị của tỉnh
Thái Nguyên, thử nghiệm thảo dược trong trị ve cho chó , Luận văn thạc sĩ
khoa học nông nghiệp, Trường Đại học Nông Lâm Thái Nguyên

2. Lương Văn Huấn, Lê Hữu Khương (1997), Ký sinh và bệnh ký sinh ở gia súc,
gia cầm, tập II (Phần động vật chân đốt và nguyên bào), Viện Đại học
Quốc gia, TP. Hồ Chí Minh.
3. Phạm Văn Khuê, Phan Lục (1996), Ký sinh trùng thú y, Nxb Nông nghiệp, Hà
Nội tr. 214 - 229, 257 - 278.
4. Nguyễn Thị Kim Lan, Nguyễn Văn Quang, Nguyễn Quang Tuyên (1999), Ký
sinh trùng thú y (Giáo trình dùng cho bậc Đại học), Nxb Nông nghiệp, Hà
Nội, tr. 163 - 180.
5. Phạm Sỹ Lăng, Nguyễn Hữu Nam, Nguyễn Văn Thọ, Nguyễn Văn Quang, Hạ
Thuý Hạnh (2009), Bệnh trâu, bò, ngựa và lợn , Nxb Nông nghiệp, H à Nội.
6. Phạm Sỹ Lăng, Nguyễn Thị Kim Lan, Lê Ngọc Mỹ, Nguyễn Thị Kim Thành,
Nguyễn Văn Thọ, Chu Đình Tới (2009), Ký sinh trùng và bệnh ký sinh
trùng ở vật nuôi, Nxb Giáo dục, Việt Nam.
7. Nguyễn Thị Tho (2007), "Tác dụng điều trị ve ký sinh trên bị của h ạt củ đậu",
Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thú y, Tập XIV, số 1, tr. 55 - 58.
* Tài liệu tiếng Anh
8. Kaufmann J. (1996), Parasitic Infections of Domestic Animals: A Diagnostic
Manual, Basel, Boston, Berlin.
9. Leland S., Shapiro (2005), Pathology & Parasitology for Veterinary technicians.
10. Soulsby E. J. L. (1982), Helminth, Arthropods and Protozoa of domestic
animal, Lea, Febiger - Philadelphia.
11. Urquhart G. M., Armour J., Duncan J. L., Dunn A. M., Jennings F. W.
(1996), Veterinary Parasitology, Blackwell Science.

234


×