Tải bản đầy đủ (.pdf) (105 trang)

Nghiên cứu tổng hợp nano bạc bằng tác nhân khử tanin chiết tách từ vỏ cây keo lá tràm và ứng dụng làm chất kháng khuẩn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3 MB, 105 trang )


15
Khả năng diệt khuẩn của nano bạc Bạc (trong tiếng Latinh có tên là
Argentum) là một trong những chất diệt khuẩn hiệu quả được biết đến từ rất sớm
trong lịch sử nhân loại. Người cổ đại thường dùng các lọ hay bình bằng bạc để chứa
nước. Những người khai hoang châu Mỹ đặt một đồng tiền bằng bạc vào trong cốc
sữa trước khi uống. Năm 1700, bạc nitrat được sử dụng để chữa các bệnh hoa liễu,
áp xe hậu môn và xương. Các nhà thờ thường dùng các ly, cốc làm bằng bạc. Bạc
và các muối bạc đã được sử dụng rộng rãi từ đầu thế k XIX đến giữa thế k XX để
điều trị các vết bỏng và khử trùng
Những năm 1940, sau khi penicilin được đưa vào, việc sử dụng bạc để xử lý
nhiễm trùng do vi khuẩn giảm đi. Bạc quay trở lại vào những năm 1960 khi Moyer
sử dụng 0,5

AgNO3 để chữa vết bỏng. Ông ta đề xuất rằng dung dịch này không

gây trở ngại với sự phát triển biểu bì và có tính chất chống khuẩn
Staphylococcus aureus, Pseudomonas aeruginosa và Escherichia coli.
Năm 1968, AgNO3 kết hợp với sulfonamide để tạo thành kem sulfadazine,
làm tác nhân chống khuẩn được phổ biến rộng rãi để chữa vết bỏng. Bạc
sulfadazine hiệu quả trong việc chống các loại khuẩn như E.coli, S. aureus,
Klebsiella sp., Pseudomonas sp, nó cũng có tác dụng chống nấm, chống virut.
Bạc là một nguyên tố có tính kháng khuẩn tự nhiên, có khả năng tiêu diệt
phổ rộng các loài vi sinh vật gây bệnh tuy nhiên nano bạc không gây ra các tác dụng
độc hại đối với cơ thể con người và động vật nếu được sử dụng với liều lượng phù
hợp.
Các đặc tính kháng khuẩn của bạc bắt nguồn từ tính chất hóa học của các ion
Ag+. Vi khuẩn là rất nhạy cảm với những hoạt động của ion bạc ở nồng độ rất thấp
(35 ppb). Hạt nano bạc ở kích thước 5-15 nm có t lệ phần trăm số nguyên tử nằm
trên bề mặt rất lớn (hầu hết các nguyên tử tập trung tại bề mặt của hạt nano bạc). Có
một số ít các nguyên tử nằm phía trong, các nguyên tử nằm ở bề mặt với số lượng


lớn và hầu hết chúng khơng bị che chắn bởi các lớp, chính vì thế năng lượng bề mặt
là rất nhỏ do đó chúng dễ dàng tách ra khỏi lớp bề mặt khiến chúng trở thành linh
động hơn. Được biết các hạt kim loại nhỏ khoảng 5nm xuất hiện những hiệu ứng


16
electron, chúng được xác định như sự thay đổi ở trong vùng cấu trúc điện tử của bề
mặt. Đó là những hiệu ứng làm tăng khả năng phản ứng của các hạt nano bề mặt.
Qua nghiên cứu cho thấy, do sự tăng lên của nguyên tử bề mặt nên so với bạc tinh
thể, tác dụng sát khuẩn của các hạt bạc siêu nhỏ có kích thước nano được nhân lên
gấp bội, 1 gam nano bạc có thể sát khuẩn cho hàng trăm mét vng chất nền. Như
vậy, có thể hiểu rằng, nếu như ở vật liệu thông thường (vật liệu khối, khơng phải
kích thước nano) chỉ một số ít ngun tử nằm trên bề mặt, còn phần lớn các nguyên
tử cịn lại nằm sâu phía trong, bị các lớp ngồi che chắn. Trong cấu trúc của vật liệu
nano, hầu hết các nguyên tử đều được "phơi" ra bề mặt hoặc bị che chắn khơng
đáng kể vì thế mà diện tích bề mặt của vật liệu nano tăng lên rất nhiều so với vật
liệu thông thường. Với các hạt nano bạc có kích thước nhỏ, phần lớn các ngun tử
tập trung nhiều tại bề mặt của hạt, chúng sẽ ít bị cản trở bởi lực hút của hạt nhân,
các nguyên tử trở lên linh động hơn do năng lượng bề mặt giảm vì thế các nguyên
tử rất dễ tách ra và các hạt nano bạc dễ dàng giải phóng các ion bạc mang diện
dương (Ag+), các ion Ag+ này có tác dụng diệt nấm khuẩn gây bệnh theo cơ chế đặc
thù. Hoạt động kháng khuẩn của nano bạc là khơng hồn tồn rõ ràng, nhưng chắc
chắn rằng nó hoạt động kháng khuẩn của hạt bạc tăng lên cùng với sự giảm kích
thước của chúng và nó đã được chứng minh rằng một vai trị quan trọng cũng có các
hình thái hạt, hiệu quả nhất là các hạt nano bạc có kích thước khoảng 25 nm; chúng
nó hoạt tính kháng khuẩn rất gần với hoạt tính kháng khuẩn của các ion bạc
Hiện nay tồn tại một số quan điểm giải thích cơ chế diệt khuẩn của bạc được
nhiều người ủng hộ. Các quan điểm đó chủ yếu dựa trên sự tương tác tĩnh điện giữa
ion bạc mang điện tích dương và bề mặt tế bào vi khuẩn mang điện tích âm và dựa
trên sự vơ hiệu hóa nhóm Thiol trong enzym vận chuyển oxy, hoặc trên sự tương

tác của ion bạc với ADN dẫn đến sự dime hóa pyridin và cản trở quá trình sao chép
ADN của tế bào vi khuẩn. [23], [28]
Cơ chế diệt vi khuẩn của nano bạc được diễn tả theo một số quan điểm sau:
+ Các nhà khoa học thuộc hãng INOVATION Hàn Quốc cho rằng:
Bạc tác dụng trực tiếp lên màng bảo vệ của tế bào vi khuẩn. Màng này là


17
một cấu trúc gồm các glycoprotein được liên kết với nhau bằng cầu nối axit amin để
tạo độ cứng cho màng. Các ion Ag+ vừa mới được giải phóng ra từ bề mặt các hạt
nano bạc tương tác với các nhóm Peptidoglican và ức chế khả năng vận chuyển oxy
của chúng vào bên trong tế bào, dẫn đến làm tê liệt vi khuẩn. Các tế bào động vật
thuộc nhóm sinh vật bậc cao (Sinh vật đa bào: động vật nói chung bao gồm cả con
người là động vật bậc cao) có lớp màng bảo vệ hồn tồn khác so với tế bào vi sinh
vật đơn bào (Nấm, Vi khuẩn và Virus). Chúng có hai lớp Lipoprotein giàu liên kết
đơi bền vững có khả năng cho điện tử do đó khơng cho phép các ion Ag+ xâm
nhập, vì vậy chúng khơng bị tổn thương khi tiếp xúc với các Ag+. Điều này có nghĩa
nano bạc hồn tồn khơng gây hại đến con người và động vật nói chung, do cấu trúc
màng tế bào bền vững và dày hơn các vi sinh vật đơn bào gây bệnh như nấm, vi
khuẩn và virus theo Hình 1.2.
Phá hủy
Ức chế quá trình

màng tế bào

sao chép ADN

Ức chế enzyme

Ion Ag+


Hình 1.2. Cơ chế diệt nấm, vi khuẩn của nano bạc
– Tương tác của các ion Ag+ lên tế bào vi khuẩn
+ Cơ chế tác động của các ion bạc lên vi khuẩn được các nhà khoa học Trung
Quốc làm việc trong hãng ANSON mô tả như sau:
Khi ion Ag+ tương tác với lớp màng của tế bào vi khuẩn gây bệnh, nó sẽ đi
vào bên trong tế bào, sẽ phản ứng với nhóm Sunphohydril - SH của phân tử enzyme


18
vận chuyển oxy. Các enzym này bị vơ hiệu hóa dẫn đến ức chế q trình hơ hấp của
tế bào vi khuẩn theo sơ đồ sau:

Ngoài ra, các ion bạc cịn có khả năng ức chế q trình phát triển của vi
khuẩn bằng cách sản sinh ra oxy nguyên tử siêu hoạt tính trên bề mặt của hạt nano
bạc: 2Ag + + O 2- → 2Ag 0 + O 0
+ Theo các nhà khoa học Nga, hiện nay có nhiều lý thuyết về cơ chế tác
dụng diệt vi khuẩn của nano bạc đã được đề xuất, trong đó lý thuyết hấp phụ được
nhiều người chấp nhận hơn cả. Bản chất của thuyết này là ở chỗ tế bào vi khuẩn bị
vơ hiệu hóa là do kết quả của q trình tương tác tĩnh điện giữa bề mặt mang điện
tích âm của tế bào vi khuẩn và ion Ag+ được hấp phụ lên đó, các ion này sau đó xâm
nhập vào bên trong tế bào vi khuẩn và vơ hiệu hóa chúng. Ion Ag+ hút mạnh các
nhóm mang điện tích âm trong các phân tử sinh học như sulfohydryl, cacboxyl,
photphat phân bố ở khắp nơi trên các tế bào vi khuẩn. Phản ứng ràng buộc này làm
thay đổi cấu trúc phân tử của các phân tử lớn, tạo ra các lỗ hổng làm thay đổi tính
thấm và sự hơ hấp của tế bào. Bạc đồng thời tấn công vào rất nhiều vị trí trong tế
bào làm mất khả năng hoạt động của các chức năng như sự tổng hợp thành tế bào,
màng vận chuyển, sự tổng hợp các axit nucleic, gây bất hoạt enzym và làm rối loạn
quá trình sao mã ADN (Hình 1.3). Khơng có các chức năng này, các vi sinh vật bị
kiềm chế hoặc bị chết.



19

Hình 1.3. Các hạt nano tương tác với tế bào vi khuẩn bằng lực bám hút tĩnh điện
và phá vỡ cấu trúc màng
+ Xét trên góc độ sinh học các nhà nghiên cứu đều có một quan điểm thống
nhất rằng nano bạc diệt khuẩn theo một trong những cơ chế sau:
Một là: Nano bạc phá hủy chức năng hô hấp.
Hai là: Nano bạc phá hủy chức năng của thành tế bào.
Ba là: Nano bạc liên kết với ADN của tế bào vi sinh vật và ức chế chức năng
sao chép của chúng, kìm hãm chúng, khơng cho chúng phát triển mạnh (Hình 1.4).

Hình 1.4. Ion bạc liên kết với các base của ADN


20
Ứng dụng của nano bạc
Một số nhà khoa học còn cho rằng nano bạc có khả năng vơ hiệu hóa các loài
virus gây bệnh đậu mùa, bệnh cúm A-1, B, adenovirus và HIV, cho hiệu quả điều trị
tốt đối với các bệnh virus Marburg, virus bệnh đường ruột (enteritis) và virus bệnh
chó dại. Tuy nhiên, để có thể vơ hiệu hóa hồn tồn virus bacteriophag đường ruột
N163, virus Koksaki serotyp A-5, A-7, A-14 cần đến nồng độ bạc cao hơn (0.5 – 5.0
mg lít) so với trường hợp xử lý Escherichia, Salmonella, Shigellia và các loài virut
đường ruột khác (0.1 – 0.2 mg/lít). Để chế tạo vật liệu chứa nano bạc với các hạt
nano bạc được tạo ra có kích thước nhỏ, hàm lượng cao, phân tán đồng đều và được
cố định trên chất mang, vật liệu chứa nano bạc có hoạt tính cao, tuổi thọ tốt trong
lĩnh vực khử khuẩn và làm xúc tác cho các phản ứng Hóa học được nghiên cứu
trong Nghiên cứu chế tạo vật liệu nano bạc /chất mang ứng dụng trong xử lý môi
trường, của Trần Quang Vinh (2015), Viện Hóa học, Viện Hàn lâm Khoa học và

Công nghệ Việt Nam, Hà Nội. [19]
Nano bạc thể hiện mạnh mẽ khả năng diệt nấm: tại nồng độ 0,1 mg/L (0,1
ppm), với mật độ 105 tế bào lít, nấm Candida albicans có thể bị vơ hiệu hóa hồn
tồn sau 30 phút tiếp xúc với các hạt nano Bạc.
Nhiều lĩnh vực từ y tế đến sản xuất hàng tiêu dùng đã sử dụng nano bạc như
một tác nhân giúp cho các sản phẩm tạo ra có được khả năng chống khuẩn, giúp
chăm sóc và bảo vệ sức khỏe con người. Trong nghiên cứu hóa học, bạc được biết
đến với hai ứng dụng chủ yếu làm vật liệu diệt khuẩn và làm xúc tác cho các phản
ứng hóa học. Các nghiên cứu dựa trên hai ứng dụng này được thực hiện nhằm mục
đích chế tạo các vật liệu trên cơ sở nano bạc có hoạt tính cao và tối ưu hóa hiệu quả
các q trình trên. Nano bạc cũng được ứng dụng trong nông nghiệp, nuôi trồng
thủy sản. đem lại hiệu quả kinh tế cao, bền vững, giảm chi phí đầu tư trong quản lý
dịch bệnh trên tơm, cá nói chung. Nano bạc được sử dụng để xử lý môi trường nước
ô nhiễm, xử lý đáy ao (đầm nuôi) trước khi thả cá, tôm giống, diệt mầm bệnh trong
mơi trường ni một cách an tồn, hiệu quả nhanh mà không gây ảnh hưởng đến


21
thủy sản. Ngồi ra cịn rất nhiều thử nghiệm khoa học đã chứng minh phổ diệt
khuẩn rất rộng của nano bạc.
b. Các phương pháp tổng hợp nano bạc
Nano bạc có thể được tổng hợp sử dụng nhiều phương pháp khác nhau. Tùy
vào mục đích, yêu cầu sử dụng, các phương pháp có thể được áp dụng một cách
linh hoạt. Các phương pháp tổng hợp nano bạc có thể được chia thành hai nhóm
chính bao gồm nhóm các phương pháp Hóa học và Vật lý.
Phương pháp Hóa học:
Phương pháp Hóa học là phương pháp truyền thống và được ứng dụng nhiều
nhất trong tổng hợp nano bạc. Ưu thế của phương pháp Hóa học là dễ thực hiện,
khơng cần thiết bị phức tạp, có thể điều khiển được kích thước các hạt nano bạc
bằng cách thay đổi linh hoạt các hóa chất sử dụng về nồng độ, hàm lượng các chất

tham gia phản ứng, loại hóa chất khử với độ khử mạnh yếu khác nhau, loại chất ổn
định... Ngồi ra, kích thước các hạt nano bạc tạo ra cũng có thể được điều khiển
bằng cách thay đổi các yếu tố như nhiệt độ, tốc độ khuấy trộn, tốc độ nhỏ giọt hay
thời gian khử... Phương pháp Hóa học cũng có thể được kết hợp với một số kỹ thuật
vật lý như sử dụng tia bức xạ hay sử dụng kỹ thuật điện hóa trong q trình thực
hiện giúp tối ưu và điều khiển được sự hình thành các hạt nano bạc. Phương pháp
Hóa học được chia thành các phương pháp như sau:
+ Phương pháp khử hóa học:
Phương pháp được sử dụng nhiều nhất trong nghiên cứu cũng như trong thực
tế để tổng hợp dung dịch chứa nano bạc và vật liệu chứa nano bạc. Đây cũng là
phương pháp được sử dụng xuyên suốt trong luận án này. Phương pháp này dùng
các tác nhân hóa học để khử bạc ion thành bạc kim loại. Thông thường, phản ứng
được thực hiện trong dung dịch lỏng nên cịn gọi là phương pháp hóa ướt. Các chất
khử thường dùng là: natribohidrua, natrixitrat, fomandehit, glyxerol, etylenglycol,
hydrazin, axit ascorbic… Khi sử dụng chất khử mạnh như natribohydrua hay
hydrazin, phản ứng xảy ra nhanh, tạo ra các phân tử rất nhỏ. Tuy nhiên, khi nồng độ
bạc tương đối cao, sự khuếch tán của ion bạc trên các chất bảo vệ, ví dụ các phân tử


22
PVP (polyvinylpyrolidon), bị hạn chế, cùng với tốc độ khử cao, có thể dẫn đến kết
quả là độ chuyển hóa cao, tuy nhiên sự phân bố kích thước hạt rộng. Khi sử dụng
tác nhân khử vừa phải như focmandehyt, có thể thu được các phân tử bạc có kích
thước trung bình cỡ 30 nm với nồng độ bạc ban đầu khoảng 0,1M. Với chất khử yếu
ví dụ như glucozo, phân tử nano bạc tạo ra có kích thước khoảng 20 nm, nhưng sản
phẩm thu được không đồng đều. Cũng với chất khử là glucozo, khi sử dụng nguồn
bạc là Ag2O, các phân tử bạc thu được có kích thước nằm trong khoảng từ 10 – 50
nm. Trong phương pháp khử hóa học, t lệ chất khử, nồng độ ion Ag +, pH của dung
dịch, nồng độ polyme ảnh hưởng đến hiệu suất khử và kích thước hạt bạc. Thơng
thường kim loại bạc được điều chế từ muối bạc (thường là AgNO3):

R-CHO + 2Ag+ + 3NH3 + H2O → R-COONH4 +2Ag + 2NH 4
R-CHO + 2AgNO3 + 3NH3 + H2O → R-COONH4 +2Ag + 2NH4NO3
Nếu tác nhân khử là andehit focmic, phản ứng xảy ra như sau:
H-CHO + 4AgNO3 + 6NH3 + 2H2O → (NH4)2CO3 + 4Ag + 4NH4NO3
Nếu tác nhân khử là natri bohydrua (NaBH4), phản ứng khử xảy ra như sau
AgNO3 +NaBH4 → Ag + H2+ B2H6 + NaNO3
- Phương pháp phản ứng thế: Phương pháp này được sử dụng chủ yếu để
tổng hợp dung dịch chứa nano bạc. Người ta sử dụng một kim loại có khả năng khử
bạc ion thành bạc kim loại từ dung dịch muối bạc có mặt của chất ổn định. Ví dụ
như đồng (Cu) kim loại phản ứng thế với bạc nitrat trong dung dịch PVP, chế tạo
được keo nano bạc, có kích thước hạt khoảng 50 nm.
- Phương pháp khử hóa bức xạ: Bức xạ gamma có thể được sử dụng trong
quá trình khử ion Ag+ thành Ag kim loại với nguồn bức xạ thường được sử dụng là
bức xạ gama phát ra từ đồng vị Co-60 , Cs-137 và máy phát chùm tia điện tử gia
tốc. Phương pháp khử hóa học sử dụng bức xạ ion hóa để chế tạo vật liệu nano kim
loại đã thu hút nhiều sự quan tâm nghiên cứu phát triển do có một số tính ưu việt:
Không sử dụng các chất khử nên thân thiện với mơi trường, sản phẩm thu
được có độ tinh khiết cao. Tác nhân khử tự sinh trong quá trình chiếu xạ phân tán
đều trong tồn hệ phản ứng, chuyển hóa hồn toàn bạc ion thành bạc kim loại.


23
Dễ dàng kiểm sốt được kích thước và phân bố kích thước thơng qua việc
chủ động điều chỉnh nồng độ ion bạc ban đầu và liều xạ.
Phản ứng thực hiện trong điều kiện nhiệt độ và áp suất thường nên có thể sử
dụng các chất ổn định khơng bền với nhiệt.
Phương pháp chế tạo giản tiện, có khả năng sản xuất khối lượng lớn, có hiệu
quả kinh tế và đảm bảo an tồn cho mơi trường.
Phương pháp khử hóa bức xạ cũng có thể sử dụng nguồn bức xạ UV từ đèn
cực tím xenon - thủy ngân (150W) để chiếu xạ hỗn hợp dung dịch bạc ion, isopropanol, axeton và các polyme làm chất ổn định. Hạt nano bạc có kích thước trung

bình khoảng 7 nm được tạo ra do sự khử bạc ion bởi tia cực tím và gốc tự do như
phương pháp khử bức xạ. Để tổng hợp dung dịch chứa nano bạc, phương pháp khử
hóa bức xạ cho thấy có hiệu quả tốt. Tuy nhiên phương pháp này chưa được nghiên
cứu nhiều trong chế tạo các vật liệu chứa nano bạc với chất mang có cấu trúc mao
quản, có thể do hạn chế về khả năng khử hoàn toàn các ion bạc trong hệ mao quản
của vật liệu mang.
- Phương pháp điện hóa: Hạt nano bạc có kích thước trung bình khoảng 17
nm được tổng hợp trong bình điện phân, sử dụng tấm Pt làm cực âm và sợi bạc làm
cực dương, hai cực cách nhau 5 cm. Dung dịch điện phân chứa dimetylformamid,
Bu4NPF6, viologen-cavitand (MVCA-C58+). Trong q trình điện phân, bạc ion sẽ
giải phóng từ điện cực bạc vào dung dịch và dưới tác dụng của chất khử điện hóa
MVCA-C58+, các hạt nano bạc sẽ được hình thành trong dung dịch. Phương pháp
điện hóa tạo nano bạc cũng có thể được thực hiện theo ngun lí dùng phương pháp
điện phân kết hợp với siêu âm để tạo hạt nano. Phương pháp điện phân thơng
thường chỉ có thể tạo được màng mỏng kim loại. Trước khi xảy ra sự hình thành
màng, các nguyên tử kim loại sau khi được điện hóa sẽ tạo các hạt nano bám lên
điện cực âm. Lúc này người ta tác dụng một xung siêu âm đồng bộ với xung điện
phân thì hạt nano kim loại sẽ rời khỏi điện cực và đi vào dung dịch. Do hạn chế về
việc lựa chọn đối tượng vật liệu mang làm điện cực và quy mô, khả năng triển khai
nên phương pháp này được sử dụng kém phổ biến hơn so với các phương pháp hóa


24
học khác.
Phương pháp Vật lý
Phương pháp vật lý nhìn chung về khía cạnh kỹ thuật rất hiệu quả trong việc
chế tạo nano bạc, sử dụng các kỹ thuật vật lý ở các điều kiện điều khiển chính xác.
Do vậy các hạt nano bạc tạo ra có độ tinh khiết cao, kích thước khá đồng đều. Tuy
nhiên, về khía cạnh kinh tế, các phương pháp vật lý cần đầu tư các thiết bị yêu cầu
khá cao do các điều kiện cho việc chế tạo nano bạc bằng phương pháp vật lý khá

nghiêm ngặt. Do đó, giá thành chế tạo nano bạc so với các phương pháp chế tạo
khác còn khá cao. Các phương pháp kỹ thuật trong phương pháp vật lý bao gồm:
- Phương pháp bay hơi vật lý: Bay hơi vật lý là một phương pháp hữu ích,
đóng góp nhiều cho sự phát triển công nghệ nano. Bay hơi vật lý bao gồm các kỹ
thuật ngưng tụ khí trơ, đồng ngưng tụ và ngưng tụ dòng hơi phun mạnh lên bia rắn.
Kỹ thuật ngưng tụ khí trơ: cho hóa hơi sợi dây bạc tinh khiết ở nhiệt độ cao trong
điều kiện chân khơng, sau đó dịng hơi bạc ngun tử quá bão hòa được ngưng tụ và
phát triển thành hạt bạc khi tiếp xúc với khí heli được làm lạnh bởi nitơ lỏng.
Kỹ thuật đồng ngưng tụ: Quá trình phát triển hạt xảy ra trên lớp bằng dung mơi
thích hợp đồng ngưng tụ (thường là iso-propanol). Kỹ thuật ngưng tụ khí trơ và
đồng ngưng tụ được thực hiện ở nhiệt độ cao (>2000oC), sản phẩm có độ tinh khiết
cao, kích thước hạt nano bạc trung bình 75 nm (phương pháp ngưng tụ khí trơ) và
15 nm (phương pháp đồng ngưng tụ). Ngồi ra lớp mỏng hạt nano bạc có kích
thước trung bình từ 15 - 50 nm lắng đọng trên nền thạch anh hay thủy tinh được làm
lạnh sâu cũng được tạo ra bằng kỹ thuật ngưng tụ dòng hơi phun mạnh lên bia rắn ở
nhiệt độ và áp suất cao.
- Phương pháp ăn mòn laze: thường được sử dụng để tổng hợp dung dịch
chứa nano bạc Vật liệu ban đầu là một tấm bạc được đặt trong một dung dịch có
một lớp chất hoạt hóa bề mặt. Một chùm laze dạng xung có bước sóng 532 nm, độ
rộng xung là 10 nm, tần số là 10 Hz, năng lượng mỗi xung là 90 mJ, đường kính
vùng kim loại bị tác dụng là 1 - 3 mm. Dưới tác dụng của chùm laze xung, các hạt


25
nano có kích thước khoảng 10 nm được hình thành và được bao phủ bởi chất hoạt
hoá bề mặt CnH2n+1SO4Na với n = 8; 10; 12; 14 và nồng độ từ 0,001 - 0,1 M.
- Phương pháp phân hủy nhiệt: được sử dụng để tổng hợp nano bạc dạng rắn.
Các hạt nano bạc có thể được hình thành bằng phương pháp phân hủy nhiệt các hợp
chất phức bạc hữu cơ. Hạt nano bạc kích thước trung bình 10 nm được tổng hợp
bằng phương pháp gia nhiệt phức bạc oleat đến 290oC, ổn định 1 giờ, sau đó hạ

nhiệt độ đến nhiệt độ phịng.
- Phương pháp bức xạ vi sóng điện từ: thường được sử dụng để tổng hợp
dung dịch chứa nano bạc. Dung dịch hỗn hợp ban đầu gồm bạc ion, chất khử và
chất ổn định được chiếu xạ vi sóng điện từ. Dưới tác dụng của sóng ngắn và nhiệt
nóng phân bố đều trong dung dịch sẽ xúc tiến quá trình khử và phát triển thành hạt
bạc kim loại nhanh chóng. Dung dịch keo bạc thu được có kích thước hạt trung bình
khoảng 15 nm, tùy thuộc vào điều kiện phản ứng. Các phương pháp vật lý thường
được nghiên cứu để tổng hợp một trong hai đối tượng là dung dịch chứa nano bạc
hoặc vật liệu chứa nano bạc. Khơng có phương pháp nào cho thấy có thể đáp ứng
được cả hai đối tượng nêu trên.
Qua phân tích các phương pháp chế tạo nano bạc khác nhau, có thể thấy
được ưu điểm của mỗi phương pháp. Tuy nhiên, phương pháp khử hóa học nói
riêng so với các phương pháp hóa học cịn lại cũng như so với phương pháp vật lý,
trên phương diện ưu điểm dễ thực hiện, đặc biệt phương pháp khử hóa muối bạc
bằng dịch chiết thực vật là thực hiện ở điều kiện không khắc nghiệt dễ dàng tổng
hợp được nano bạc. Đồng thời, phương pháp này không gây ô nhiễm môi trường,
gel nano bạc tổng hợp được sẽ khơng có tạp chất nguy hiểm ảnh hưởng đến việc sử
dụng trong cuộc sống. Trong đề tài này, mục đích tổng hợp nano bạc từ tanin chiết
xuất từ vỏ keo lá tràm là phương pháp tổng hợp xanh, thân thiện với môi trường.
1.3. TỔNG QUAN VỀ KEO LÁ TRÀM
Chi Keo ( danh pháp khoa học Acacia) là một trong những nhóm thân bụi đa
dạng nhất trên trái đất; thuộc phân họ Trinh nữ ( Mimosoideae), và thuộc họ Đậu
(Fabaceae). Chi Keo có nguồn gốc từ Gondwana. Hiện nay có khoảng 1300 lồi cây


26
keo trên thế giới, trong đó có khoảng 950 lồi có nguồn gốc từ Australia, phần cịn
lại phổ biến trong các khu vực khô ở các vùng nhiệt đới và ôn đới ẩm ở cả hai bán
cầu, gồm Châu Phi, miền Nam Châu Á và Châu Mỹ.
Chi Keo được ứng dụng rộng rãi trong mọi lĩnh vực khác nhau, như một số

cung cấp gỗ có giá trị, cung cấp nguyên liệu dùng để sản xuất giấy. Vỏ các loài keo
khác nhau giàu tanin.
Keo lá tràm, có tên khoa học là: Acacia auriculiformis A.Cunn. ex Benth,
thuộc chi: keo (Acacia), họ Đậu (Leguminosae), họ phụ: Trinh nữ (Mimosoideae),
là cây gỗ nhỡ, sinh trưởng, sinh trưởng nhanh, có nguồn gốc từ Australia, được
nhập vào nước ta từ những năm 1960, nhưng từ năm 1976 được phát triển rộng rãi ở
nhiều vùng ở nước ta. Ở Việt Nam thường gọi là Acacia auriculifomis. Ngoài ra, ở
miền Nam cịn gọi là tràm bơng vàng vì lá của nó giống lá cây tràm nhưng có hoa
màu vàng.
1.3.1. Đặc điểm hình thái
- Thân cây:
Là lồi cây đa mục đích, cao 25 – 30m, đường kính 60 – 80cm. Thân hình
trịn thẳng. Vỏ thân màu xám đen, nứt dọc, nhỏ, sâu 2 – 3mm. Thịt vỏ dày 7 – 9
mm, màu trắng xám. Hình dáng thân cây thay đổi tùy thuộc vào lập địa gây trồng,
nơi đất tốt, khí hậu thích hợp thì cây sinh trưởng nhan, thân thẳng. Ngược lại, nơi
đất xấu, khí hậu khắc nghiệt thì thân hình dạng xấu. Vỏ cây màu xám hoặc nâu,
nhẵn khi cịn non, xù xì, nứt dọc khi cây về già.
- Phân nhánh thấp, có tán cây thường dày, rậm, rộng.
- Lá keo lá tràm là dạng lá đơn nguyên, mọc cách. Lá cây là lá giả do lá thật
bị tiêu giảm, bộ phận quang hợp là lá giả, được biến thái từ cuống cấp một, quan sát
kỹ có thể thấy dấu vết của tuyến hình chậu, cịn ở cuối lá giả có hình dạng cong lưỡi
liềm, màu xanh lục, nhẵn bóng, kích thước lá giả rộng từ 3 – 4cm, dài từ 6 – 13cm,
trên lá giả có hoảng 6 – 8 gân hình cung dạng song song, ở cuối lá có một tuyến
hình chậu, biến đổi theo từng giai đoạn, đặc biệt ở giai đoạn cây mầm. (Hình 1.5)


27

Hình 1.5. Hình ảnh của cây Keo lá tràm
- Hoa lưỡng tính tự dạng bơng dài từ 8 – 10 cm mọc thành từng đôi ở các

nách lá gần đầu cành, nó nở hoa mỗi năm một lần vào tháng 6 – 7 và quả chín vào
tháng 9 – 10.
1.3.2. Đặc điểm sinh lý – sinh thái
- Keo lá tràm có khả năng chịu hạn và chịu nóng, áp suất thẩm thấu của dịch
tế bào của các loài keo khá cao ( 12,0

) có khả năng chịu hạn tốt. Ngồi ra, khả

năng giữ nước bề mặt của lá cũng là một trong những đặc trưng chịu nóng và chịu
hạn của thực vật. Khả năng giữ nước bề mặt lá được thể hiện qua lượng nước mất
bề mặt của lá. Lượng nước mất qua bề mặt của lá càng ít chứng tỏ sức giữ nước của
lá càng tốt. Với keo lá tràm lượng nước mất qua bề mặt lá chỉ từ 33 – 34 g/m2 giờ,
cho nên khả năng chịu nóng và chịu hạn của keo lá tràm khá tốt.
- Khả năng chịu lạnh: khi nhiệt độ thấp dưới 10oC cây vẫn phát triển, nhưng
chậm, cây có hiện tượng vàng lá rồi rụng dần, sang mùa xuân tiếp tục đâm chồi nảy
lộc. Từ Đà Nẵng, Quảng Nam trở vào thì nhiệt độ mùa đơng tương đối cao ( trung
bình trên 20oC ) cây phát triển xanh tốt quanh năm, nên keo lá tràm được trồng phổ


28
biến từ Đà Nẵng trở vào.
- Đặc điểm gỗ và thành phần hóa học: Keo lá tràm là loại cây sợi ngắn, chiều
dài sợi khoảng 840mm ở giai đoạn dưới 10 tuổi. T lệ gỗ giác thường lớn hơn gỗ lõi
hoặc chưa có lõi. Hàm lượng xenlulo chiếm 47,89 – 50,58 ; hàm lượng lignin là
23,41 – 24,75%; pentozan là 19,56 – 22,47 ; các chất tan trong dung dịch NaOH là
11,42 – 13,42 ; các chất tan trong nước nóng là 1,89 – 2,94 ; các chất tan trong
nước lạnh là 1,02 – 2,02% và tro là 0,31 – 0,32%.
1.3.3. Công dụng
- Làm vật liệu xây dựng; đồ mộc gia dụng;
- Làm bột giấy;

- Làm chất đốt;
- Khả năng cải tạo đất;
- Tách chiết tanin: vỏ của các loài keo (Acacia) thường chứa hàm lượng tanin
lớn, vỏ keo lá tràm chứa khoảng 13 . Tanin từ vỏ của các lồi keo được dùng
nhiều trong cơng nghệ thuộc da chất lượng cao. Ngoài ra, một số sản phẩm tách từ
tanin còn được dùng làm keo dán, chất tẩy làm sạch nước, gột tẩy len dạ, chất
nhuộm màu...
- Hoa của đa số các lồi keo có nhiều phấn và mật giàu protein, nhất là hoa
của keo lá tràm có màu sặc sỡ hấp dẫn các lồi ong. Trong điều kiện khí hậu nóng
ẩm, keo lá tràm ra hoa nhiều lần trong năm, đó là nguồn mật và phấn hoa tự nhiên
quan trọng để tạo điều kiện cho nghề nuôi ong phát triển. Ngồi ra, keo lá tràm cịn
có thể trồng làm cây chủ để ni thả cánh kiến đỏ.
1.3.4. Tình trạng phân bố trên thế giới và ở Việt Nam
Trên thế giới, keo lá tràm củ yếu phân bố ở Australia và trồng phổ biến ở
Đông Nam Á, một số đảo ở khu vực Thái Bình Dương, như quần đảo Samoa Manu,
quần đảo Bắc Mariana, Hawai...Ấn Độ Dương, như quần đảo Palau, quần đảo
Xolomong, khu vực giáp Thái Bình Dương: Malaysia, Indonesia, Trung Quốc...
Ở nước ta, keo lá tràm được trồng nhiều ở các tỉnh đặc biệt từ Đà Nẵng trở
vào đến Kiên Giang. Chúng được trồng phân tán hoặc tập trung. [12]


29
1.4. TỔNG QUAN VỀ TANIN
1.4.1. Khái niệm
Từ “Tanin” được dùng đầu tiên vào năm 1976 để chỉ những chất có mặt
trong dịch chiết thực vật có khả năng kết hợp với protein của da sống động vật làm
cho da biến thành da thuộc khơng thối và bền. Do đó, tanin được định nghĩa là
những hợp chất polyphenolic có trong thực vật, có vị chát được phát hiện với “thí
nghiệm thuộc da” và được định lượng dựa vào mức độ hấp phụ trên bột da sống
chuẩn. Định nghĩa này không bao gồm những phenol đơn giản hay gặp cùng với

tanin như acid gallic, các chất catechin, acid chlorogenic... mặc dù những chất này ở
những điều kiện nhất định có thể cho kết tủa với gelatin và một phần nào bị giữ trên
bột da sống, chúng được gọi là pseudotanin.
Phân tử khối tanin phần lớn nằm trong khoảng 500 – 5.000
Khi đun chảy tanin trong môi trường kiềm thường thu được những chất sau:
OH

OH

OH
OH

OH

OH

OH

COOH

Pyrocatechin

Pyrogallol

Axitpyrocatechic

OH
HO

OH

OH

HO

OH

COOH

Acid gallic

Phloroglucin


30
Tanin có trong vỏ, trong gỗ, trong lá và trong quả của những cây như các loại
keo lai, sồi, sú, vẹt, thông, đước, chè,…Đặc biệt một số tanin lại được tạo thành do
bệnh lý khi một vài loại sâu chích vào cây để đẻ trứng tạo nên “Ngũ bội tử”. Một số
loại ngũ bội tử chứa đến 50

– 70% tanin.

1.4.2 Phân loại
Theo Eminlophichse và K.Phoraydangbe, thì tanin được chia làm hai nhóm
chính sau:
- Tanin thủy phân được hay cịn gọi tanin pyrogallic;
- Tanin ngưng tụ hay còn gọi là tanin pyrocatechic.
a. Tanin pyrogallic
Tanin pyrogallic là những este của gluxit, thường là glucozơ với một hay
nhiều axit trihiđroxibenzencacboxylic ( Hình 1.6).
Khi thủy phân bằng axit hoặc bằng enzym tanase thì giải phóng ra phần

đường thường là glucose, đơi khi gặp đường đặc biệt, ví dụ đường hamamelose.
Phần khơng phải đường là các axit. Axit hay gặp là axit gallic. Các axit gallic nối
với nhau theo dây nối depsid để tạo thành axit digallic, trigallic. Ngồi axit gallic
người ta cịn gặp các axit khác. Ví dụ axit ellagic, axit luteolic, dạng mở 2 vòng
lacton của axit elagic, axit chebulic.
Phần đường và phần không phải đường nối với nhau qua dây nối ester nên
người ta coi loại này là những pseudoglycosid.
Đặc điểm chính của loại tanin này:
- Khi cất khô ở 1800C – 2000C thì thu được pyrogallol là chủ yếu.
- Cho kết tủa bơng với chì axetat 10%.
- Cho kết tủa màu xanh đen với muối sắt (III).
- Thường dễ tan trong nước.


31
O

OH

OH

OH
O
OH

HO

OH

HO


OH
Axit galic

OH

O

O

O

OH

O

O

O

O

OH

O

HO
OH

O

OH

O

HO

OH

OH

OH

OH

β-1,2,3,4,6-pentagaloyl-O-D-glucozơ

G

O

O
H
HO

OH

O

O
G


O

O

OH

G

Galoyl este (G)

G

O
G

β- 1,2,2,3,6-pentagaloyl-O-D-glucozơ
OH

OH
OH

O

HO

O

HO


O

OH

Naringenin

OH

O

Eriodictyol
G

O

O
H

O

O
G

OH

O

O
O
G


+H2O
G

+
HO

OH

HO
HO

OH
G

β- 1,2,2,3,6 - pentagaloyl - O - D - glucose

G là este của acid gallic

Hình 1.6. Một số loại polyphenol thuộc nhóm tanin pyrogallic

O
OH
OH


32

b. Tanin pyrocatechic
Tanin nhóm này được tạo thành do sự ngưng tụ từ các đơn vị flavan-3-ol

hoặc flavan - 3,4-diol. Dưới tác dụng của axit hoặc enzim thì khơng bị thủy phân
mà tạo thành chất đỏ tanin hay phlobaphen. Phalobaphen ít tan trong nước là sản
phẩm của sự trùng hợp kèm theo oxi hóa, do đó tanin pyrocatechic cịn được gọi là
phlobatanin ( Hình 1.7).
OH
HO

O

OH
OH
OH

OH
HO

O

OH
OH

OH

B-2-Epicatechin-(4β →8)-epicatechin

B-1- Epicatechin-(4β → 8)-epicatechin

OH

OH


OH

HO

HO

O

O

OH

OH

OH

OH

Catechin (C)

OH

Epicatechin (EC)

Hình 1.7. Một số loại polyphenol thuộc nhóm tanin pyrocatechic
1.4.3. Tính chất và định tính tanin
Đặc điểm chủ yếu của loại tanin này là:
- Khi cất khô cho pyrocatechin là chủ yếu.
- Cho kết tủa màu xanh đậm với muối sắt ba.

- Cho kết tủa bơng với nước brom.
- Khó tan trong nước hơn pyrogallic.


33
Tanin có vị chát, làm săn da, tan được trong nước, kiềm lỗng, cồn, glyxerol
và axeton và hầu như khơng tan trong dung mơi hữu cơ.
- Thí nghiệm thuộc da của tanin
Lấy một miếng da sống chế sẵn ngâm vào dung dịch HCl 2

rồi rửa với nước

cất, sau đó thả vào dung dịch tanin trong vòng 5 phút. Rửa lại với nước cất rồi
nhúng vào dung dịch sắt (III) sunfat 1 . Miếng da sẽ chuyển sang màu nâu hoặc
nâu đen.
- Kết tủa với gelatin
Dung dịch tanin 0,5-1

khi thêm vào dung dịch gelatin 1

có chứa 10

NaCl

thì sẽ có kết tủa.
- Kết tủa với alkaloid:
Tanin tạo kết tủa với các alkaloid hoặc một số dẫn chất hữu cơ có chứa nitơ
khác như hexamethylen tetramin, dibazol…
- Kết tủa với muối kim loại:
Tanin cho kết tủa với các muối kim loại nặng như chì, thủy ngân, kẽm, sắt, nên

làm giảm sự hấp thụ của những chất này trong ruột. Vì vậy tanin được dùng để giải
độc trong trường hợp ngộ độc kim loại nặng, ancaloid.
- Phản ứng Stiasny (để phân biệt 2 loại tanin):
Lấy 50 mL dung dịch tanin, thêm 10 mL formol và 5 mL HCl đun nóng trong
vịng 10 phút. Tanin pyrogallic khơng kết tủa cịn tanin pyrocatechic thì cho kết tủa
đỏ gạch. Nếu trong dung dịch có cả 2 loại tanin thì sau khi lọc kết tủa, cho vào dịch
lọc CH3COONa rồi thêm muối sắt (III), nếu có mặt tanin pyrogallic thì sẽ có kết tủa
xanh đen.
- Tanin bị oxi hóa hồn tồn dưới tác dụng của KMnO4 hoặc hỗn hợp cromic
trong mơi trường axit. Tính chất này dùng để định lượng tanin với chất chỉ thị là
indigocarmin.
- Tạo phức với ion kim loại:
Các hợp chất polyphenol có khả năng tạo phức với các ion kim loại. Các nhóm
phenol đa có ái lực với một số kim loại có từ tính, như sắt. Sự giống nhau giữa các


34
nhóm thế ortho – dihydroxi và các nhóm thế trong tanin thủy phân được và không
thủy phân được cho thấy rằng tanin có ái lực lớn với nhiều kim loại. Các phức chất
giữa ion kim loại và poly phenol thường có màu. Do đó dựa vào màu sắc riêng của
mỗi loại phức chất, có thể xác định được vị trí sắp xếp của các nhóm polyphenol.
Tuy nhiên, phương pháp này chưa được thử nghiệm để chính thức sử dụng. Sự tạo
phức với các ion kim loại có thể làm thay đổi khả năng oxi hóa của ion kim loại, có
thể làm tăng hoặc giảm khả năng tham gia phản ứng oxi hóa - khử của tanin.
1.4.4. Cơng dụng của tanin
Ở trong cây, tanin tham gia vào quá trình trao đổi chất, các q trình oxi hóa
khử, là những chất đa phenol, tanin có khả năng kháng khuẩn nên có vai trị bảo vệ
cho cây.
Tanin là một hợp chất có khá nhiều ứng dụng trong điều trị:
- Do có tính tạo tủa với protein, khi tiếp xúc với niêm mạc, tổ chức da bị tổn

thương hay vết loét,… tanin sẽ tạo một màng mỏng, làm máu đông lại, ngừng chảy
nên ứng dụng làm thuốc đông máu và thuốc săn se da.
- Tanin có tính kháng khuẩn, kháng virus, được dùng trong điều trị các bệnh
viêm ruột, tiêu chảy mà búp Ổi, búp Sim, vỏ Ổi và vỏ Măng cụt là những dược liệu
tiêu biểu đã được dân gian sử dụng.
- Tanin dùng làm thuốc chữa bỏng, làm tiêu độc vì tanin có thể kết hợp với các
độc tố do vi khuẩn tiết ra, cũng như với các chất độc khác như muối bạc, muối thủy
ngân, muối chì, kẽm….Tanin tạo kết tủa với các alcaloid và các muối kim loại nặng
này nên làm giảm sự hấp thu của những chất này trong ruột, vì vậy được ứng dụng
để giải độc trong những trường hợp ngộ độc alcaloid và kim loại nặng. Cũng vì lý
do này, khơng nên uống thuốc với nước trà.
- Trong bào chế hiện đại, tanin được tinh chế rồi bào chế thành những chế
phẩm như dung dịch có nồng độ 1-2

hoặc thuốt bột, thuốc mỡ dùng ngoài 10-

20%.
- Tanin có ứng dụng quan trọng trong cơng nghệ thuộc da, làm cho da biến
thành da thuộc không thối và bền, làm chất cầm màu trong nhuộm vải bông. Sở dĩ


35
tanin được dùng thuộc da là do cấu trúc hoá học của tanin có nhiều nhóm OH
phenol tạo được nhiều liên kết hydro với các mạch polypeptid của protein trong da.
Phân tử tanin càng lớn thì sự kết hợp này càng chặt chẽ.
1.4.5. Tình hình nghiên cứu và sử dụng tanin hiện nay
a. Trên thế giới
Các sản phẩm Tannin riche, Tannin riche Extra, Quer Tannin được sản xuất
với sản lương lớn ở các nước Châu Âu để tăng hương, vị cho rượu và bảo quản
rượu nho. Giá trị của các hợp chất tanin chiết xuất từ thực vật liên tục được nghiên

cứu.
- Gần đây, khi nghiên cứu về dược tính của chè xanh, các nhà khoa học đã tin
rằng các chất chống oxi hóa giữ vai trị chủ đạo. Chất chống oxi hóa trong chè là
polyphenol có hiệu lực gấp 100 lần vitamin C, gấp 25 lần vitamin E (theo kết quả
nghiên cứu của Bác sĩ Weisburger).
- Tanin chiết xuất từ vỏ và hạt lựu có tác dụng làm da mịn màng.
Những nghiên cứu gần đây về các vấn đề ứng dụng khác của tanin được các
nhà khoa học quan tâm:
- Sản xuất keo-formaldehyde cho gỗ dán nội thất từ bột bắp-tanin
- Tanin chất kết dính cho gỗ ép.
(Theo ‘The Journal of Adhesion Science and Technology, 2006, Volume 20, Number
8, Page 829-846’)
- Đánh giá khả năng phản ứng của formaldehyde và tanin tạo chất kết dính
bằng sắc ký khí.
- Chất kết dính sinh học liên kết gỗ từ tanin.
(Theo ‘The European Journal of Wood and Wood Products Volume 52, Number 5,
Page 311-315 ’)
- Tổng hợp nano bạc bằng tác nhân khử tanin và chất ổn định là natricacbonat
(Na2CO3) (Theo “Preparation of silver nanoparticles in silver nitrate solution using
tannin,Eur. Chem. Bull., 2015, 4(1),Page 30-32”). [20], [25]


36
b. Tại Việt Nam
Hiện nay tiềm năng khai thác tanin rất lớn nhưng việc nghiên cứu và hiệu quả
sử dụng vẫn chưa cao. Nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu về tanin, như: Nghiên
cứu tính chất ức ăn mịn thép CT3 trong dung dịch NaCl 3,5% của tanin tách từ lá
chè xanh, của PGS. TS Lê Tự Hải, Phạm Thị Thùy Trang (2008) [5]; Nghiên cứu
chiết tách và xác đinh thành phần hóa học của hợp chất polyphenol nhóm tanin từ
vỏ keo lá tràm, của PGS. TS Lê Tự Hải, Nguyễn Thị Lan Anh, Lưu Vũ Diễm Hằng

(2011) [6]. Nghiên cứu tối ưu hóa q trình chiết tách tanin từ vỏ một số loài cây
keo ở Quảng Nam, của Phan Thị Lan (2015) [8] . Trong thời gian gần đây, một số
nhà khoa học đã bước đầu nghiên cứu và thử tác dụng chống oxi hóa của
polyphenol từ cây chè. Ngoài việc làm thuốc chữa bệnh và các chất phụ gia có giá
trị cao trong cơng nghiệp thực phẩm, tanin cũng cần được nghiên cứu để sử dụng có
hiệu quả hơn trong cơng nghiệp thuộc da và chống ăn mịn kim loại, khả năng tổng
hợp nano bạc từ tanin, dùng trong kháng khuẩn, như: Nghiên cứu chiết tách tanin từ
vỏ cây keo lai và thử ứng dụng đến một số tính chất của da, của Lê Thị Thảo
(2011),
1.4.6. Những thực vật chứa nhiều tanin
Tanin phân bố rộng rãi trong thiên nhiên, chúng có trong các lồi thực vật,
chủ yếu các lồi keo. Các lồi keo (acacia) khác nhau có hàm lượng tanin khác
nhau. Lồi có hàm lượng tanin lớn nhất là keo đen (acacia mearsi) có tới 40 – 43%
tanin, lồi acacia cepebricta có hàm lượng tanin từ 15 – 20 . Cây sồi chứa khoảng
từ 7 đến 10

tanin. Bạch đàn: vỏ bạch đàn vùng Biển Đen chứa khoảng 10 – 12%.

Cây chè cũng có hàm lượng tanin khá lớn: lá chè chứa khoảng 20

tanin.

Nhìn chung, tanin có nhiều trong thực vật 2 lá mầm như: Loài keo lai (keo lá
tràm), Lồi thơng (Rubiaceae), sến (Sapotaceae), cỏ roi ngựa (Verbennaceae), họ cúc,
hoa

mõm

chó


(Convolvulaceae),

(Scrophulariaceae),
hoa

mơi

trúc

(Labiatea),

đào
thầu

(Apocynaceae),
dầu

khoai

lang

(Ecephorbiaceae),

đậu

(Leguminoseae), trơm (Sterculiaceae), đào lộn hột (Anacardiaceae), chùm ớt
(Bignoniaceae) và oro (Acanthaceae); dẻ (Fagaceae), thông Caribe (pinus caribaea)….


37

Đặc biệt, có một số tanin được tạo thành do thực vật bị một bệnh lý nào đó,
như vị thuốc Ngũ bội tử là những túi được hình thành do nhộng của con sâu ngũ bội
tử gây ra trên cành và cuống lá của cây Muối (Rhus semialata, thuộc họ
Anacardiaceae). Hàm lượng tanin trong dược liệu thường khá cao, chiếm từ 6-35%,
đặc biệt trong Ngũ bội tử có thể lên đến 50-70 . Ở trong cây, tanin tham gia vào
quá trình trao đổi chất và oxy hố khử, đồng thời nhờ có nhiều nhóm phenol nên
tanin có tính kháng khuẩn, bảo vệ cây trước những tác nhân gây bệnh từ bên ngồi.
1.5. GIỚI THIỆU TƠM THẺ CHÂN TRẮNG
Tên tiếng Anh: White Shrimp
Tên khoa học: Lipopenaeus vannamei .Tên khác: Penaeus vannamei
Hình ảnh của tơm thẻ chân trắng ở Hình 1.8

Hình 1.8. Tôm thẻ chân trắng
1.5.1. Đặc điểm
Tôm chân trắng vỏ mỏng có màu trắng đục nên có tên là tơm Bạc, bình
thường có màu xanh lam, chân bị có màu trắng ngà nên gọi tôm chân trắng. Chuỳ
là phần kéo dài tiếp với bụng. Dưới chuỳ có 2 - 4 răng cưa, đơi khi có tới 5 - 6 răng
cưa ở phía bụng. Những răng cưa đó kéo dài, đơi khi tới đốt thứ hai. Vỏ đầu ngực
có những gai gân và gai râu rất rõ, khơng có gai mắt và gai đi (gai telssm), khơng
có rãnh sau mắt, đường gờ sau chuỳ khá dài đôi khi từ mép sau vỏ đầu ngực. Gờ
bên chuỳ ngắn, chỉ kéo dài tới gai thượng vị. Có 6 đốt bụng, ở đốt mang trứng, rãnh
bụng rất hẹp hoặc khơng có. Telsson (gai đi) khơng phân nhánh. Râu khơng có
gai phụ và chiều dài râu ngắn hơn nhiều so với vỏ giáp. Xúc biện của hàm dưới thứ


38
nhất thon dài và thường có 3 - 4 hàng, phần cuối của xúc biện có hình roi. Gai gốc
(basial) và gai ischial nằm ở đốt thứ nhất chân ngực.
1.5.2. Phân bố
Tôm Lipopenaeus vannamei (Bone 1931) là tôm nhiệt đới, phân bố vùng ven

bờ phía Đơng Thái Bình Dương, từ biển Pêru đến Nam Mê-hi-cô, vùng biển
Equađo. Hiện tôm chân trắng đã được di giống ở nhiều nước Đông Á và Đông Nam
Á như Trung Quốc, Thái Lan, Philippin, Indonexia, Malaixia và Việt Nam.
1.5.3. Khả năng thích nghi với mơi trƣờng sống
a. Nền đáy thủy vực
Ở vùng biển tự nhiên, tơm chân trắng thích nghi sống nơi đáy là bùn, độ sâu
khoảng 72 m. Tơm chân trắng là lồi ăn tạp giống như những lồi tơm khác. Song
khơng địi hỏi thức ăn có hàm lượng đạm cao như tơm sú.
Tơm chân trắng có tốc độ sinh trưởng nhanh, chúng lớn nhanh hơn tôm sú ở
tuổi thành niên. Trong điều kiện tự nhiên từ tôm bột đến tôm cỡ 40 g con mất
khoảng thời
gian 180 ngày hoặc từ 0,1 g có thể lớn tới 15 g trong giai đoạn 90 - 120 ngày.
b. Nhiệt độ
Nhiệt độ là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến mọi hoạt động sống của tôm,
khi nhiệt độ trong nước thấp dưới mức nhu cầu sinh lý của tơm sẽ ảnh hưởng đến
q trình chuyển hố vật chất bên trong cơ thể (biểu hiện bên ngoài là sự ngừng bắt
mồi, ngưng hoạt động và nếu kéo dài thời gian có nhiệt độ thấp tơm sẽ chết). Khi
nhiệt độ q giới hạn chịu đựng kéo dài thì tơm bị rối loạn sinh lý và chết (biểu hiện
bên ngoài là cong cơ, đục cơ, tơm ít hoạt động, nằm n, ngừng ăn, tăng cường hơ
hấp). Các lồi tơm khác nhau có sự thích ứng với sự biến đổi nhiệt độ khác nhau,
khả năng thích ứng này cũng theo các giai đoạn phát triển của tơm trong vịng đời,
Tơm con có khả năng chịu đựng về nhiệt độ kém hơn tơm trưởng thành.
Nhiệt độ thích hợp 25 - 32oC, tuy nhiên chúng có thể sống được ở nhiệt độ
12 - 28oC.


×