VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM THỊ DƯƠNG
CẤP GIẤY CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ DOANH
NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ
HÀ NỘI - 2021
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM THỊ DƯƠNG
CẤP GIẤY CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ DOANH
NGHIỆP THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 8.38.01.07
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS NGUYỄN NHƯ PHÁT
HÀ NỘI - 2021
LỜI CAM ĐOAN
Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn khoa học của PGS.TS. Nguyễn Như Phát. Các nội dung nghiên
cứu, kết quả trong đề tài này là trung thực và chưa cơng bố dưới hình thức
nào trước đây. Những số liệu trong các bảng biểu phục bị cho việc phân tích,
nhận xét, đánh giá được chính tác giả thu thập từ các nguồn khác nhau có ghi
rõ trong phần tài liệu tham khảo.
Ngồi ra, luận văn cịn sử dụng một số nhận xét, đánh giá cũng như số
liệu của các tác giả khác, cơ quan tổ chức khác đều có trích dẫn và chú thích
nguồn gốc. Nếu phát hiện có bất kỳ sự gian lận nào, tơi xin hồn tồn chịu
trách nhiệm.
NGƯỜI CAM ĐOAN
Phạm Thị Dương
LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm trân trọng nhất, tác giả luận văn xin bày tỏ lời cảm ơn chân
thành, sâu sắc tới PGS.TS Nguyễn Như Phát, Thầy đã tận tình hướng dẫn,
giúp đỡ tác giả trong quá trình thực hiện luận văn: “Cấp Giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp theo Pháp Luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn
thành phố Hà Nội”.
Xin chân thành cảm ơn các anh chị Luật sư trong công ty đã chia
sẻ kinh nghiệm, những vướng mắc trong q trình làm việc, cơngtác; cũng xin
gửi lời cảm ơn đến các bạn bè đã quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện để tác giả
hoàn thành luận văn này.
Xin chân thành cảm ơn các Thầy, các Cô phản biện đã có những nhận
xét và góp ý kiến quý báu, bổ sung cho những hạn chế của tác giả và giúp tác
giả có điều kiện hồn thiện tốt Luận văn tốt nghiệp.
Xin trân trọng cảm ơn./.
Tác giả
Phạm Thị Dương.
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẤY CHỨNG NHẬN
ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ CẤP GIẤY
CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP .......................................... 7
1.1. Lý luận về cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp...................... 7
1.2. Lý luận pháp luật về cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp .... 13
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VỀ CẤP GIẤY CHỨNG
NHẬN ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG
TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI ......................................................................... 21
2.1. Thực trạng pháp luật về cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp .... 21
2.2. Thực tiễn cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp tại thành phố
Hà Nội. ...................................................................................................... 41
Chương 3: ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN QUI ĐỊNH CỦA PHÁP
LUẬT VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO HIỆU QUẢ
VIỆC THỰC HIỆN PHÁP LUẬT VỀ CẤP GIẤY CHỨNG NHẬN
ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP TẠI THÀNH PHỐ HÀ NỘI .................... 54
3.1 Định hướng và yêu cầu hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả
hoạt động cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp trên địa bàn
thành phố HàNội ....................................................................................... 54
3.2. Các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thi hành
pháp luật về cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp trên địa bàn
thành phố Hà Nội ...................................................................................... 56
KẾT LUẬN .................................................................................................... 65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 67
DANH MỤC VIẾT TẮT
CMND
Chứng minh nhân dân
CTCP
Công ty cổ phần
CTHD
Công ty hợp danh
ĐHĐCĐ
Đại hội đồng cổ đông
ĐKDN
Đăng ký doanh nghiệp
ĐKKD
Đăng ký kinh doanh
DN
Doanh nghiệp
DNTN
Doanh nghiệp tư nhân
DNXH
Doanh nghiệp xã hội
GCNĐKDN
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
HĐQT
Hội đồng quản trị
HĐTV
Hội đồng thành viên
LDN
Luật doanh nghiệp
LĐT
Luật đầu tư
NĐ
Nghị định
NHNN
Ngân hàng nhà nước
TNHH
Trách nhiệm hữu hạn
TNHH 1TV
Trách nhiệm hữu hạn một thành viên
TNHH 2TV
Trách nhiệm hữu hạn hai thành viên
VPĐD
Văn phòng đại diện
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là sự ghi nhận năng lực pháp lý
cho một doanh nghiệp, là cơ sở pháp lý đầu tiên đánh dấu sự ra đời của một
doanh nghiệp được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép hoạt động.
GCNĐKDN có ý nghĩa rất to lớn đối với một doanh nghiệp vì nó được pháp
luật thừa nhận, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, quyền sở hữu tên doanh
nghiệp đồng thời thể hiện trách nhiệm của doanh nghiệp đó phải thực hiện
nghĩa vụ với Nhà nước trong suốt quá trình tồn tại và phát triển.
Khoản 3 Điều 51, Hiến pháp năm 2013 đã quy định: “Nhà nước khuyến
khích, tạo điều kiện để doanh nhân, doanh nghiệp và cá nhân, tổ chức khác
đầu tư, sản xuất, kinh doanh; phát triển bền vững các ngành kinh tế, góp phần
xây dựng đất nước”. Trải qua các thời kỳ khác nhau, Doanh nghiệp được điều
chỉnh bởi những văn bản pháp luật khác nhau như: Luật Công ty năm 1990,
Luật Doanh nghiệp tư nhân năm 1990; Luật Doanh nghiệp năm 1999; Luật
Doanh nghiệp năm 2005 và
Luật Doanh nghiệp năm
2014.
Ngày
26/11/2014 Luật Doanh nghiệp sửa đổi đã được Quốc hội biểu quyết thông
qua thay thế cho Luật Doanh nghiệp năm 2005, có hiệu lực thi hành từ ngày
1/7/2015. Đánh dấu sự quyết tâm cải cách pháp luật đối với DN của Nhà nước
ta, Luật Doanh nghiệp 2014 đã có những thay đổi mang tính độ tphá, cụ thể
là sự chế hóa đầy đủ quyền tự do kinh doanh theo Hiến pháp năm 2013. Theo
đó, DN được tự do kinh doanh những ngành nghề mà pháp luật khơng
cấm. LDN 2014 ra đời đã có nhiều những tích cực, những thay đổi căn bản về
điều kiện và thủ tục thành lập doanh nghiệp như: việc đơn giản hóa thủ tục
thành lập của doanh nghiệp; rút ngắn thời gian ra nhập thị trường của doanh
nghiệp và đặc biệt là những thay đổi về thông tin được ghi trên GCNĐKDN
khi DN được cấp GCN.
1
Với những quy định được sửa đổi, bổ sung trong LDN 2014, một phần
phù hợp với thực tế kinh doanh của doanh nghiệp, mặt khác đã tháo gỡ được
những khó khăn, hạn chế, góp phần tạo điều kiện mở ra môi trường kinh
doanh thuận lợi phù hợp với xu hướng chung của thế giới. đặc biệt là trong
tạo dựng một khung khổ pháp lý thuận lợi cho doanh nghiệp thuộc mọi thành
phần kinh tế ra đời và hoạt động.
Luật Doanh nghiệp 2014 được xây dựng với tinh thần cải cách mạnh
mẽ, trao quyền tự chủ nhiều hơn cho nhà đầu tư, doanh nghiệp, tăng tính linh
hoạt, chủ động trong quản lý, điều hành doanh nghiệp, đặt yêu cầu cao hơn về
tính minh bạch, cơng khai thơng tin, bảo vệ cổ đơng… Tư duy cải cách trên
đã thực sự khích lệ tinh thần khởi nghiệp, tạo một làn sóng thành lập doanh
nghiệp nửa cuối năm 2015 và duy trì đà tăng cho đến nay. Trong các tháng
cuối năm 2015, số lượng doanh nghiệp đăng ký mới tăng cao đặc biệt. Tại
một số thời điểm, số vốn cam kết đưa vào thị trường tăng gần gấp đôi so với
cùng kỳ, đặc biệt Ở những thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí
Minh ... DN được thành lập với quy mơ và tốc độ tăng nhanh chóng.
Kểtừkhi LDN 2014 có hiệu lực thi hành, các thông tin cơ bản của
doanh nghiệp đã được công bố công khai trên Cổng thông tin, bao gồm các
thông tin như tên doanh nghiệp; mã số doanh nghiệp; ngày thành lập; địa chỉ
trụ sở chính; tên người đại diện theo pháp luật; thông báo mẫu con dấu;
ngành, nghề kinh doanh của doanh nghiệp… Các thông tin này góp phần tạo
ra một mơi trường kinh doanh minh bạch, hiệu quả, tăng cường khả năng
giám sát của cộng đồng đối với các doanh nghiệp; cắt giảm thời gian thực
hiện thủ tục đăng ký doanhn ghiệp (từ 05 ngày làm việc xuống còn 03 ngày
làm việc).
Trải qua một thời gian thi hành và áp dụng trong thực tiễn, LDN 2014
đã thể hiện những điểm tích cực và những hạn chế trong các quy định pháp
luật; quy định về điều kiện, thủ tục, quy trình cấp GCNĐKDN, qua đó đưa ra
2
những kiến nghị nhằm hồn thiện những quy định cịn chưa phù hợp, do đó
em xin lựa chọn đề tài “Cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp theo
Pháp Luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn thành phố Hà Nội” để thực hiện
Luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Luật Doanh nghiệp 2014 ra đời và thực thi trên thực tế, việc nghiên
cứu đề tài khoa học về vấn đề pháp luật về trình tự, thủ tục đăng ký doanh
nghiệp đã được một số tác giả tiến hành ở các góc độ, cách thức nghiên cứu,
đánh giá về Luật doanh nghiệp 2014 khác nhau.
Cụ thể:
- Luận văn thạc sĩ Luật “Trình tự, thủ tục đăng ký thành lập doanh
nghiệp theo pháp luật doanh nghiệp Việt Nam từ thực tiễn tỉnh Quảng Ninh”
Người thực hiện: ĐỗThị Thu Hiền;
- Luận văn thạc sĩ Luật “Trình tự, thủ tục giải thể doanh nghiệp theo pháp
luật doanh nghiệp ở Việt Nam hiện nay”. Người thực hiện: Phạm Nam Giang;
- Luận văn thạc sĩ Luật: Đăng ký doanh nghiệp theo Luật doanh
nghiệp năm 2014 và thực tiễn thi hành tại thành phố Hồ Chí Minh, Người
thực hiện: Trần Nguyễn Đan Quỳnh, Hồ Chí Minh, năm 2016;
- Luận văn thạc sĩ Luật:Thủ tục đăng ký doanh nghiệp năm 2014 và
thực tiễn thi hành thành phố Hà Nội, Người thực hiện: Trần Thị Nguyệt Lệ,
Hà Nội năm 2016;
- Hoàng Minh Chiến, Nội dung giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
- Đổi mới quan trọng của Luật Doanh nghiệp năm 2014 ,Tạp chí Dân
chủ và Pháp luật, Hà Nội, năm 2016.
Tuy nhiên, hiện nay chưa có cơng trình nghiên cứu nào đề cập trực
tiếp đến vấn đề“Cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp theo Pháp
Luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn thành phố Hà Nội”. Vì vậy, tác giả
3
lựa chọn đề tài này đề nghiên cứu trong quá trình thực hiện đề tài luận văn
thạc sỹ của mình.
3. Mục đíchvà nhiệm vụ nghiên cứu
3.1 Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở, mục đích nghiên cứu, tổng hợp các quy định của pháp luật từ
đó để làm sáng tỏ những vấn đề về điều kiện, trình tự, thủ tục, đến việc Cấp
GCNĐKDN theo Luật Doanh nghiệp 2014 tại thành phố Hà Nội. Đề tài phân
tích, đánh giá về thực trạng cấp GCNĐKDN Luật Doanh nghiệp 2014 tại
thành phố Hà Nội, từ đó chỉ ra những điểm tích cực, những bất cập và đề xuất
một số kiến nghị hoàn nhằm thiện pháp luật về việc cấp giấy chứng nhận
đăng ký doanh nghiệp từ thực tiễn tại thành phố Hà Nội theo Luật Doanh
nghiệp 2014.
3.2 Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu trên, luận văn đặt ra những nhiệm vụ
cụ thể như sau:
- Nghiên cứu các quy định pháp luật để làm sáng tỏ về điều kiện, thủ tục,
quy trình cấp GCNĐKDN.
- Phân tích, đánh giá thực trạng của pháp luật về điều kiện, thủ tục, quy
trình cấp GCNĐKDN theo Luật Doanh nghiệp 2014 từ thực tiễn tại thành phố
Hà Nội.
- Phân tích những điểm tích cực và bất cập trong quá trình thực hiện
pháp luật cấp GCNĐKDN từ thực tiễn tại thành phố Hà Nội.
- Đề xuất một số kiến nghị, giải pháp hoàn thiệnpháp luậtvề thể chế đối
với vấn đề đăng ký doanh nghiệp.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1 Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: là các quy định pháp luật điều kiện, thủ tục, quy
4
trình cấp GCNĐKDN Luật doanh nghiệp 2014 và thực tiễn việc cấp
GCNĐKDN tại thành phố Hà Nội.
4.2 Phạm vi nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu và phân tích các quy định pháp luật về điều
kiện, thủ tục, đến quy trình cấp GCNĐKDN; phân tích và đánh giá những điểm
ưu và bất cập của những thông tin được ghi trên GCNĐKDN theo Luật Doanh
nghiệp năm 2014 và thực tiễn áp dụng tại tỉnh thành phố Hà Nội.
Căn cứ pháp lý chủ yếu là dựa vào Luật Doanh nghiệp 2014 và các văn
bản hướng dẫn luật (Nghị định 78/2015/NĐ-CP về đăng ký doanh nghiệp,
Thông tư 20/2015/TT-BKHĐT hướng dẫn đăng ký doanh nghiệp)
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu các tài liệu pháp lý
liên quan, tác giả sử dụng phương pháp chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ
nghĩa duy vật biện chứng, kết hợp phân tích, tổng hợp lý thuyết, so với thực
tiễn để nghiên cứu và rút ra kết luận.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Luận văn được nghiên cứu dựa trên những quy định
của Luật doanh nghiệp 2014 với nhiều điểm mới mang tính cải cách, nhiều
quy định thống hơn, tạo những thuận lợi hơn về mặt pháp lý chodoanh
nghiệp. Luận văn chỉ ra những điểm mới, đánh giá về thực tiễn áp dụng pháp
luật về thủ tục cấp GCN ĐKDN thực tế ở thành phố Hà Nội.
Về mặt thực tiễn: Từ những phân tích, đánh giá, thực tiễn áp dụng, luận
văn chỉ ra những bất cập trong quá trình thực thi, áp dụng pháp luật thực tiễn
tại thành phố Hà Nội, qua đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần
hồn thiện pháp luật về việc cấp GCN ĐKDN nói chung, cũng như tại thành
phố Hà Nội nói riêng.
7. Kết cấu đề tài
5
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
đề tài“Cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp theo Pháp Luật Việt
Nam hiện nay từ thực tiễn thành phố Hà Nội” có 03 chương:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp và pháp luật về cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp.
Chương 2. Thực trạng pháp luật về cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp và thực tiễn áp dụng tại thành phố Hà Nội.
Chương 3. Định hướng hoàn thiện quy định của pháp luật và một số giải
pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện pháp luật về cấp giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp tại thành phố Hà Nội
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GIẤY CHỨNG NHẬN ĐĂNG KÝ
DOANH NGHIỆP VÀ PHÁP LUẬT VỀ CẤP GIẤY CHỨNG NHẬN
ĐĂNG KÝ DOANH NGHIỆP
1.1. Lý luận về cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm về giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
* Khái niệm về giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp (GCNĐKDN) là một thuật ngữ
được sử dụng phổ biến trong các văn bản pháp luật doanh nghiệp; đặc biệt kể từ
khi Luật doanh nghiệp năm 2005 được ban hành, và tiếp tục được đề cập trong
Luật doanh nghiệp năm 2014. Khái niệm về GCNĐKDN được quy định như
sau:
Luật Doanh nghiệp năm 2014 định nghĩa: “Giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp là văn bản hoặc bản điện tử mà Cơ quan đăng ký kinh doanh
cấp cho doanh nghiệp ghi lại những thông tin về đăng ký doanh nghiệp.”
Trước đây, Luật doanh nghiệp 2005 đều sử dụng “giấy chứng nhận
đăng ký kinh doanh” thay vì “giấy chứng đăng ký doanh nghiệp” như hiện
nay. Khái niệm giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp được ghi nhận đầu
tiên trong Luật Doanh nghiệp năm 2014.
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là “Giấy thơng hành” của
doanh nghiệp, nó được coi là văn bản ghi nhận sự cho phép các cá nhân, tổ chức
được phép thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ quan nhà nước có
thẩm quyền khi các chủ thể đáp ứng đầy đủ những quy định của pháp luật. Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đóng vai trị như “giấy khai sinh” – ghi nhận
ngày đăng ký kinh doanh lần đầu, và là căn cứ xác thực năng lực pháp lý cho một
doanh nghiệp.
7
Theo đó, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là chứng từ pháp lý
bắt buộc của một doanh nghiệp khi gia nhập thị trường kinh doanh, Đăng ký
doanh nghiệp có thể được nhìn nhận ở các góc độ sau:
Dưới góc độ kinh tế - xã hội: GCNĐKDN là điều kiện đầu tiên để
doanh nghiệp gia nhập thị trường hoạt động kinh doanh, việc thành lập doanh
nghiệp và lĩnh vực kinh doanh là để công khai, thông tin rộng rãi trên thị
trường, xã hội bên ngoài nhằm thu hút sự chú ý của cộng đồng doanh nghiệp.
Dưới góc độ Pháp lý: GCNĐKDN là một chứng từ pháp lý bắt buộc
nhằm để xác lập địa vị pháp lý cho một doanh nghiệp trước khi gia nhập thị
trường kinh doanh. Được cơ quan nhà nước có thẩm quyền xét duyệt, cơng
nhận, cấp phép và bảo hộ.
Như vậy, GCNĐKDN là giấy chứng nhận của cơ quan hành chính cơng
Nhà nước, ghi nhận một số thông tin cơ bản nhất của doanh nghiệp và là cơ
sở xác định nghĩa vụ bảo hộ quyền sở hữu tên doanh nghiệp của Nhà nước.
* Đặc điểm về giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
Dựa trên khái niệm cũng như những quy định của pháp luật liên quan,
có thể rút ra một số đặc điểm của Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp cụ
thể như sau:
- Thứ nhất, GCNĐKDN do cơ quan có thẩm quyền cấp.
Đây là loại giấy phép do cơ quan hành chính cơng của Nhà nước cấp
phép. Hiện nay,cơ quan đăng ký kinh doanh được quy định tại Điều 13 Nghị
định 78/2015/NĐ-CP là Phòng Đăng ký kinh doanh thuộc Sở Kế hoạch và
Đầu tư (sau đây gọi chung là Phòng Đăng ký kinh doanh).
- Thứ hai, đặc điểm về điều kiện cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh
nghiệp
Doanh nghiệp được cấp Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp khi có
đủ các điều kiện quy định pháp luật như:Ngành, nghề đăng ký kinh doanh
không bị cấm đầu tư kinh doanh; Tên của doanh nghiệp được đặt theo đúng
8
quy định; Có hồ sơ đăng ký doanh nghiệp hợp lệ; Nộp đủ lệ phí đăng ký
doanh nghiệp theo quy định pháp luật về phí và lệ phí….. Qua đó, sẽ sàng lọc
được tối đa về mặt chủ thể để thành lập doanh nghiệp có đủ năng lực tham gia
kinh doanh trên thị trường.
-Thứ ba, đặc điểm về nội dung GCNĐKDN
Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp thể hiện một vài nội dung cơ
bản sau:Mã số doanh nghiệp, tên doanh nghiệp; Địa chỉ trụ sở chính của
doanh nghiệp; Họ, tên, địa chỉ thường trú, quốc tịch, Giấy chứng minh nhân
dân, số Thẻ căn cước công dân, Hộ chiếu hoặc là chứng thực cá nhân hợp
pháp khác của người đại diện theo đúng pháp luật của doanh nghiệp đối với
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần; của những thành viên hợp
danh đối với công ty hợp danh; của chủ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp tư
nhân và vốn điều lệ…. Việc cần thiết có những nội dung trên đảm bảo tính
định danh và hợp pháp của các doanh nghiệp khi tham gia trên thị trường,.
Kể từ ngày Phòng Đăng ký kinh doanh cấp Giấy chứng nhận doanh
nghiệp thì những thông tin trên Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp bắt
đầu có giá trị pháp lý và doanh nghiệp có quyền hoạt động kinh doanh hợp
pháp, trừ những trường hợp kinh doanh ngành, nghề đầu tư kinh doanh có
điều kiện.
1.1.2. Giá trị pháp lý của giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
1.1.2.1. Giá trị pháp lý của giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đối với
Nhà nước
Thứ nhất, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là cơ sở để Nhà
nước thực hiện chức năng quản lý đối với doanh nghiệp.
Cấp GCNĐKDN là một hoạt động quản lý nhà nước đối với doanh
nghiệp nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền quản lý của Nhà nước cũng
như lợi ích của doanh nghiệp. GCNĐKDN là một trong những cơ sở quan
trọng giúp Nhà nước xây dựng điều chỉnh các quy định về thành lập doanh
9
nghiệp cũng như thực hiện nội dung quản lý Nhà nước về doanh nghiệp.
Thông qua hoạt động cấp GCNĐKDN, Nhà nước quản lý, nắm bắt và tổng
hợp được tất cả các chủ thể kinh doanh đang hoạt động trên thị trường, để
thực hiện chức năng thu thuế, đồng thời đặt cơ sở ban đầu cho công tác quản
lý hậu kiểm, điều tiết kinh tế vĩ mô và đảm bảo sự bình đẳng giữa các chủ thể
kinh doanh ngay từ khi ra nhập thị trường.
Thứ hai, GCNĐKDN giúp Nhà nước kiểm soát hoạt động của các
doanh nghiệp đối với từng ngành nghề mà doanh nghiệp thực hiện hoạt động
kinh doanh.
Để tránh tình trạng các chủ thể kinh doanh thực hiện kinh doanh trong
các lĩnh vực ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, sức khỏe con người, vi phạm
truyền thống đạo đức, vi phạm lợi ích cộng đồng vì mục đích kiếm lời, bởi
vậy khi muốn thực hiện hành vi kinh doanh, chủ doanh nghiệp phải thực hiện
các trình tự, thủ tục đăng ký kinh doanh để được cấp giấy chứng nhận đăng
ký doanh nghiệp. Thơng qua trình tự, thủ tục này, Nhà nước vừa thực hiện
quyền lực của mình trong việc quản lý, giám sát doanh nghiệp và bảo vệ lợi
ích của doanh nghiệp cũng như cộng đồng, đồng thờicó thể hạn chế và điều
tiết những ngành nghề kinh doanh không có lợi cho cộng đồng.
Thứ ba, thơng qua GCNĐKDN, Nhà nước lập nên một khung pháp lý
để các doanh nghiệp cùng tham gia, hoạt động kinh doanh trên tinh thần
cạnh tranh lành mạnh, tạo nên môi trường pháp lý thuận lợi, an tồn, hướng
đến mơi trường kinh doanh bình đẳng. Ngoài thể hiện chức năng quản lý Nhà
nước đối với việc cấp GCNĐKDN, Nhà nước còn điều chỉnh phương thức
quản lý hoạt động kinh doanh phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường,
hạn chế can thiệp vào quyền tự do kinh doanh của chủ thể kinh doanh, rút
ngắn trình tự, thủ tục hành chính và phân định rõ chức năng của các cơ quan
quản lý nhà nước.
10
Như vậy, giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là chứng nhận của cơ
quan hành chính cơng Nhà nước về việc công nhận và bảo hộ quyền sở hữu
doanh nghiệp.
1.1.2.1. Giá trị pháp lý của giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp đối với
Doanh nghiệp
Thứ nhất, doanh nghiệp có GCNĐKDN thuộc diện quản lý của Nhà
nước, được Nhà nước bảo hộ. Thực tế cho thấy, giữa các doanh nghiệp trong
nền kinh tế ln có sự cạnh tranh rất khốc liệt, cho nên khó tránh khỏi những
mâu thuẫn, vi phạm, làm ảnh hưởng đến quyền lợi của doanh nghiệp khác.Khi
tranh chấp xảy ra thì việc giải quyết tranh chấp là khơng hề đơn giản. Bởi
không phải trường hợp nào các doanh nghiệp cũng có thể giải quyết bằng
thương lượng hịa giải. Nếu bản thân doanh nghiệp khơng có địa vị pháp lý thì
dẫn đến việc khơng có cơ sở để giải quyết xung đột và việc tranh chấp sẽ xảy
ra với tần suất thường xuyên, liên tục làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh
doanh, gây xáo trộn cơ quan có chức năng xét xử. Tất cả những yếu tố đó
khơng thể tạo nên địa vị vững chắc do doanh nghiệp dù doanh nghiệp đó kiếm
được nhiều lợi nhuận đến đâu đi chăng nữa.
Thứ hai, tạo niềm tin giữa các doanh nghiệp với nhau và giữa khách
hàng với doanh nghiệp. Đối với doanh nghiệp khác, họ có thể tìm hiểu được
một doanh nghiệp được thành lập vào thời điểm nào, năng lực kinh doanh đến
đâu và tình hình tài chính như thế nào. Còn đối với khách hàng là người tiêu
dùng sản phẩm, dịch vụ của doanh nghiệp cũng có thể tìm được căn cứ chứng
minh về sản phẩm họ đang dùng có tốt, an tồn và hiệu quả hay khơng. Họ
cũng không thể phân biệt được doanh nghiệp với nhau khi có sự giống nhau
về tên gọi bởi tình trạng lừa đảo diễn ra thường xun hơn vì khơng có cơ
quan chức năng nào có hồ sơ doanh nghiệp.
11
Thứ ba, doanh nghiệp có GCNĐKDN đồng nghĩa với việc Nhà nước
sẽ coi doanh nghiệp như một tế bào quan trọng của nền kinh tế. Điều đó dẫn
đến tình trạng được áp dụng các đường lối chính sách quan tâm, hỗ trợ đến
hoạt động của doanh nghiệp, được giao lưu, hợp tác, kí kết, tham gia các diễn
đàn kinh tế chung để phát triển kinh tế. Cá nhân, tổ chức nước ngồi khó có
cạnh tranh với doanh nghiệp trong nước hơn, hạn chế việc lấn át thị trường,
khai thác tối đa nguồn lực trong nước gây ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế
và rộng hơn là sự ổn định chính trị, trật tự xã hội, an ninh quốc gia. Như vậy,
điều này đảm bảo quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp nhưng vẫn đặt
dưới sự quản lý của Nhà nước.
1.1.3. Sự cần thiết khách quan của hoạt động cấp giấy chứng nhận đăng ký
doanh nghiệp đối với doanh nghiệp
Thứ nhất, hoạt động cấp GCNĐKDN là cơ sở để Nhà nước thực hiện
chức năng quản lý về doanh nghiệp,cụ thể: Thông qua hoạt động xem xét và
cấp GCNĐKDN, cơ quan Nhà nước sẽ sàng lọc tối đa về mặt chủ thể thành
lập doanh nghiệp. Sự sàng lọc này nhằm đảm bảo lợi ích của nhà nước, tháo
gỡ được những vướng mắc trong quá trình hoạt động kinh doanh và hạn chế
sự kém minh bạch trong việc thành lập, quản lý doanh nghiệp. Đồng thời,
thơng qua đó, Nhà nước có thể nắm bắt được thơng tin về tình hình hoạt động
của doanh nghiệp trong phạm vi toàn quốc một cách nhanh chóng, chính xác,
đầy đủ để từ đó thực hiện chức năng thu thuế, và đặt cơ sở ban đầu cho công
tác quản lý hậu kiểm, điều tiết kinh tế vĩ mơ và đảm bảo sự bình đẳng giữa
các chủ thể kinh doanh ngay từ khi ra nhập thị trường.
Thứ hai, hoạt động cấp GCNĐKDN giúp bảo vệ quyền lợi của doanh
nghiệp, tạo nền tảng cho doanh nghiệp trở thành một thực tế kinh tế đủ điều
kiện tham gia vào thị trường. Đồng thời, qua hoạt động cấp GCNĐKDN, mọi
thông tin về doanh nghiệp được lưu trữ trên hệ thống thông tin điện tử và giá
trị pháp lý là thông tin gốc của doanh nghiệp. Qua hệ thống thông tin này, cơ
12
quan chức năng, đối tác, người tiêu dùng có thể nắm bắt được thơng tin cơ
bản nhất và chính xác nhất của doanh nghiệp.
Thứ ba, đánh dấu sự ra đời của một doanh nghiệp, được pháp luật thừa
nhận như một thực thể kinh tế tham gia vào thị trường với đầy đủ quyền và
nghĩa vụ, doanh nghiệp sau khi được cấp GCNĐKDN sẽ có tư cách pháp
nhân, có con dấu, tài khoản và mã số doanh nghiệp riêng.
Thứ tư, xác định tư cách chủ thể độc lập của doanh nghiệp trên thị
trường thông qua quy định về tên doanh nghiệp. Tên doanh nghiệp là cơ sở để
Nhà nước thực hiện vai trị quản lý của mình đối với doanh nghiệp và cũng là
cơ sở phân biệt chủ thể trong quan hệ hiệncác doanh nghiệp với nhau và với
người tiêu dùng.
1.2. Lý luận pháp luật về cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
1.2.1. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động cấp
giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
Bất kỳ một lĩnh vực nào, một quan hệ xã hội nào phát sinh trong đời
sống thực tế cũng rất cần đến sự điều chỉnh của pháp luật để làm cơ sở định
hướng cho quan hệ xã hội đó phát triển theo một trật tự, và định hướng quan
hệ đó theo ý chí của Nhà nước. Bởi vậy,sự điều chỉnh của pháp luật đối với
hoạt động cấp GCNĐKDN là tất yếu và không thể thiếu,bởi lẽ:
Thứ nhất, quản lý nhà nước bằng pháp luật đã trở thành nội dung mang
tính bắt buộc. Doanh nghiệp vốn được coi là cốt lõi của nền kinh tế mà nền
kinh tế là yếu tố quyết định mức độ phát triển của một quốc gia nên Nhà nước
không thể không ban hành những quy định của pháp luật để điều chỉnh thực
thể này. Sự can thiệp, quản lý của nhà nước bằng pháp luật là cơ sở kiểm sốt
việc cấp GCNĐKD. Qua đó,nếu doanh nghiệp thành lập tự phát theo ý chí
của chủ thể và trái với quy định của pháp luật vì khơng có cơ quan nào kiểm
sốt vấn đề này thì sẽ dẫn đến những quy định của cơ quan nhà nước về điều
kiện thành lập doanh nghiệp sẽ trở nên vô hiệu. Như vậy, để Nhà nước hiện
13
thực hóa quyền lực của mìnhđối với doanh nghiệp thì phải cần đến một thủ
tục nhất định được luật định buộc các chủ thể tham gia phải tuân theo.
Thứ hai, từ thực tiễn hoạt động quản lý Nhà nước về doanh nghiệp
trong thời gian vừa qua cho thấy không thể thiếu vai trò của pháp luật trong
việc điều chỉnh với hoạt động này. Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu gay
gắt như hiện nay, thì vai trị quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp nói
chung đóng một vai trị quan trọng hơn bao giờ hết. Nhà nước khơng chỉ dừng
lại ở việc quản lý đơn thuần mà còn là hoạch định đường lối, thực hiện chính
sách ưu đãi, thanh tra kiểm tra, xử lý vi phạm đối với doanh nghiệp…Vì vậy,
Nhà nước và doanh nghiệp cần có một mối ràng buộc lẫn nhau đó là thơng
qua pháp luật và phải điều chỉnh ngay từ thời điểm cấp giấy CNĐKDN.
Thứ ba, dưới góc độ quản lý Nhà nước về doanh nghiệp, pháp luật có
vai trị quan trọng bởi bằng pháp luật quy định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và trách nhiệm, các quy trình, thủ tục cụ thể, các cán bộ quản lý Nhà
nước về doanh nghiệp có thể đảm bảo thực hiện hoạt động cấp GCNĐKDN
trong giới hạn thẩm quyền của mình, trên tinh thần thượng tơn pháp luật và vì
lợi ích của người dân. Đây cũng là cơng cụ hữu hiệu để hạn chế tình trạng lạm
quyền, độc quyền và cửa quyền khi thực thi pháp luật có liên quan đến hoạt
động cấp GCNĐKDN.
Thứ tư, dưới góc độ quyền lợi của tổ chức, cá nhân pháp luật khơng chỉ
với vai trị, định hướng mà cịn với vai trong chỉ dẫn để tổ chức, cá nhân hiểu
được quyền và nghĩa vụ của mình khi đăng ký thành lập doanh nghiệp và
được cấp GCNĐKDN.
1.2.2. Khái niệm và cơ cấu pháp luật điều chỉnh pháp luật về cấp giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
* Khái niệm pháp luật về cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
Để có thể đưa ra khái niệm pháp luật về điều kiện và thủ tục thành lập
doanh nghiệp thì phải đề cập đến khái niệm pháp luật. Pháp luật là một hệ
14
thống các quy tắc xử sự do nhà nước đặt ra có tính quy phạm phổ biến, tính
xác định chặt chẽ về mặt hình thức và tính bắt buộc chung, thể hiện ý chí của
giai cấp nắm quyền lực của nhà nước và được nhà nước đảm bảo thực hiện
nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội” [12, tr.35].
Theo quy định tại khoản 12 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014: “Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là văn bản hoặc bản điện tử mà Cơ quan
đăng ký kinh doanh cấp cho doanh nghiệp ghi lại những thông tin về đăng ký
doanh nghiệp”.
Đối với mỗi doanh nghiệp, để gia nhập thị trường và thực hiện hoạt
động kinh doanh, sản xuất đòi hỏi trước tiên là phải được cấp GCNĐKDN,
trong đó yêu cầu rất nhiều điều kiện về vốn, địa điểm, ngành nghề kinh
doanh, … Sau khi đáp ứng được các yêu cầu này, doanh nghiệp bắt buộc phải
tiến hành đăng ký với cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhằm đánh dấu sự ra
đời của doanh nghiệp với tư cách là một thực thể pháp lý độc lập. Đây là quy
định mang tính bắt buộc và có ý nghĩa to lớn trong cơng tác quản lý của nhà
nước.
Trong q trình cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, cả doanh
nghiệp và cơ quan đăng ký kinh doanh cũng như các cơ quan nhà nước về
kinh tế có liên quan đều phải chịu sự tác động của pháp luật. Do vậy, có thể
định nghĩa: “Pháp luật về cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là tổng
thể các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa nhận nhằm
điều chỉnh những vấn đề về điều kiện, nội dung và trình tự, thủ tục cấp giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp bởi cơ quan đăng ký kinh doanh cho các
chủ thể kinh doanh”.
Từ khái niệm trên, có thể hiểu, pháp luật về cấp giấy chứng nhận đăng
ký doanh nghiệp là những quy phạm pháp luật điều chỉnh mối quan hệ giữa
chủ thể kinh doanh và cơ quan đăng ký kinh doanh trong việc cấp giấy chứng
nhận đăng ký doanh nghiệp.
15
Thông qua việc ban hành những quy phạm pháp luật về điều kiện để
được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, Nhà nước từ đó ghi nhận sự
ra đời của một doanh nghiệp, đồng thời kiểm sốt q trình hình thành, phát
triển của loại hình doanh nghiệp đó theo hướng tích cực, loại bỏ những doanh
nghiệp khơng đáp ứng đủ điều kiện của pháp luật, từ đó tạo nên một mơi
trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng, đảm bảo lợi ích của nền kinh tế và
của cộng đồng.
Hiện nay, pháp luật về cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
được hiểu là tổng hợp những quy định về giá trị pháp lý của GCNĐKDN,
điều kiện được cấp GCNĐKDN, thủ tục cấp GCNĐKDN và các biện pháp
chế tài bảo vệ việc cấp GCNĐKDN được thực hiện theo đúng quy định của
pháp luật.
* Cơ cấu pháp luật về cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
Để được cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, pháp luật đã đưa
ra các nhóm các quy phạmđiều chỉnh những nội dung khác nhau và liên quan
đến nhiều yếu tố trong hoạt động cấp GCNĐKDN được quy định tại nhiều
luật, văn bản dưới luật theo hệ thống nhất định, cụ thể
Nhóm 1: các quy phạm quy định về điều kiện chủ thể và khách thể
(tên doanh nghiệp, vốn của doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh; hồ sơ đăng
ký doanh nghiệp hợp lệ, nộp đủ lệ phí đăng ký doanh nghiệp theo quy định
pháp luật về phí và lệ phí….). Đây là quy phạm đặt ra không chỉ bắt buộc đối
với cán bộ triển khai hoạt động cấp GCNĐKDN phải xem xét thận trọng, kỹ
lưỡng và thấu đáo các điều kiện theo quy định của pháp luật để đối chiếu với
thực tế.
Nhóm 2: các quy phạm quy định về cơ quan nhà nước có thẩm quyền
cấp GCNĐKDN và quyền cũng như nghĩa vụ của cơ quan nhà nước trong
việc thực hiện hoạt động cấp GCNĐKDN.
16
Nhóm 3: các quy phạm quy định về trình tự, thủ tục cấp CNĐKDN sẽ
đảm bảo được giá trị pháp lý của GCNĐKDN khi được cấp cho các doanh
nghiệp cũng như xác nhận tư cách pháp lý của doanh nghiệp khi tham gia vào
thị trường. Đồng thời, giúp cho chủ thể có nhu cầu thành lập doanh nghiệp
biết được quyền và nghĩa vụ của mình thực hiện như thế nào và tại đâu. Qua
đó, chủ thể có nhu cầu cấp có thể thực hiện quyền của cơng dân về khiếu nại,
tố cáo nếu xét thấy cơ quan có thẩm quyền khơng làm đúng chức năng, nhiệm
vụ của mình, khơng tn theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định làm ảnh
hưởng đến quyền lợi của người được cấp giấy.
1.2.3.Các yếu tố chi phối, tác động và ảnh hưởng tới pháp luật cấp giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp
Thứ nhất, về chính sách, pháp luật:
Chính sách pháp luật là một yếu tố quan trọng, mang tính tổng hợp cả
về kinh tế, chính trị - xã hội, được Đảng và Nhà nước, nhân dân rất quan tâm.
Chính sách pháp luật về quản lý doanh nghiệp và cấp giấy CNĐKDN là vấn
đề quan trọng.Nóchi phối, tác động và ảnh hưởng đến pháp luật về
cấpGCNĐKDN, do vậy xây dựng hệ thống chính sách, pháp luật doanh
nghiệp phù hợp, đúng đắn góp phần quan trọng trong cơng tác thực hiện pháp
luật về doanh nghiệp nói chung và cấp GCNDKDN nói riêng từng bước được
tăng cường và hoàn thiện. Các quyền của doanh nghiệp sẽ được đảm bảo.
Thứ hai,tổ chức bộ máy năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ công
chức nhà nước. Để thực hiện pháp luật doanh nghiệp, cấp GCNĐKDN thì
cơng tác tổ chức bộ máy, cán bộ đóng vai trị chủ chốt. Đối với bộ máy các cơ
quan quản lý nhà nước hoạt động hiệu quả, cán bộ có nhận thức, trình độ
chuyên môn cao, đảm bảo yêu cầu của công việc sẽ triển khai, thực hiện công
vụ đúng các quy định của pháp luật; làm tăng cường năng lực quản lý nhà
nước về đất đai, đẩy nhanh hoạt động cấp GCNĐKDN, nói khơng với cơ chế
“xin – cho” trong hoạt động cơng vụ, thủ tục hành chính phiền hà.
17
Thứ ba, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội là một hệ thống các quan điểm,
mục tiêu cần mà mỗi quốc gia cần phải đạt được trong một thời kỳ nhất định.
Trong giai đoạn 2011-2020 của nước ta tại văn kiện Đại hội XI của Đảng, đã
nêu rõchiến lược phát triển kinh tế - xã hội là: Hoàn thiện thể chế để tháo gỡ
mọi rào cản, tạo điều kiện thuận lợi để giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực
lượng sản xuất, đẩy mạnh ứng dụng khoa học, cơng nghệ; huy động và sử
dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển. Đồng thời, phát triển nhanh,
hài hòa các thành phần kinh tế và các loại hình doanh nghiệp. Hồn thiện cơ
chế, chính sách nhằm thúc đẩy kinh tế tư nhân trở thành một trong những
động lực của nền kinh tế. Ngồi ra, khuyến khích thu hút vốn đầu tư nước
ngoài từ các nhà đầu tư nước ngồi phát triển theo quy hoạch.Tạo mơi trường
cạnh tranh bình đẳng, minh bạch giữa các nhà đầu tư trong nước và nước
ngoài. Tiếp tục hoàn thiện cơ chế quản lý của Nhà nước và các cơ quan có thẩm
quyền, bảo đảm cơng bằng lợi ích của các doanh nghiệp, để từ đó tạo động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Như vậy, với chiến lược phát triển kinh tế -xã hội đã được Đảng và
Nhà nước đề ra; đây là cơ sở từ đó xây dựng các các chính sách về đăng ký
cấp GCNĐKDN một cách có trọng tâm, trọng điểm nhằm khai thác và sử
dụng dữ liệu có hiệu quả phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của
đất nước.
Thứ tư, yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế
Hiện nay, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, vị thế Việt Nam ngày
càng được củng cố và khẳng định trên chính trường quốc tế, mối quan hệ
ngoại giao của nước ta hiện nay với các nước, các tổ chức quốc tế và vùng
lãnh thổ ngày càng được mở rộng hơn bao giờ hết. Trong bối cảnh quốc tế
hiện nay, xu thế hồ bình, ổn định, hợp tác để cùng phát triển là xu thế chung,
và cũng chính là thời cơ lớn cho sự phát triển của đất nước. Những năm qua,
18
dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự phát triển nền kinh tế của nước ta được định
hướng theo đường lối mở rộng quan hệ đối ngoại với phương châm độc lập,
tự chủ, đa phương hoá quan hệ quốc tế trên tinh thần chủ động, sẵn sàng hội
nhập, “sẵn sàng là bạn và là đối tác tin cậy”, nhưng không làm mất đi những
giá trị, tinh thần cốt lõi trong đường lối, chính sách của Đảng. Ngồi việc tăng
vị thế Việt Nam trên trường quốc tế, quá trình hội nhập cũng giúp chúng ta
thu hút được một số lượng đáng kể các nhà đầu tư nước ngoài và viện trợ phát
triển từ các tổ chức quốc tế; tiếp thu những thành tựu mới về khoa học, công
nghệ cũng như kinh nghiệm và kỹ năng quản lý để phát tiển nền kinh tế.
Song, bên cạnh những thuận lợi, cơ hội đạt được trong quá trình hội nhập
quốc tế, chúng ta cũng gặp khơng ít khó khăn, thách thức. Mặc dù, mơi
trường kinh doanh ở nước ta đã được cải thiện đáng kể, song hệ thống pháp
luật điều chỉnh lĩnh vực này còn một số hạn chế, như chưa đồng bộ, chưa đủ
rõ ràng và nhất quán. Các doanh nghiệp chỉ chú trọng vào tính kinh tế của
hàng hố mà ít được chú trọng vào tính xã hội của hàng hố như một số nước
văn minh, hiện đại ngày nay. Bộ máy hành chính cịn nhiều nhũng nhiễu,
quan liêu; tệ tham nhũng có phần tinh vi, phức tạp hơn. Do vậy, để khắc phục
những khó khăn, thách thức trong q trình hội nhập kinh tế quốc tế, việc đổi
mới công tác đăng ký, cấp giấy CNĐKDN chính là một yêu cầu cấp thiết cần
phải thực hiện.
19