Tải bản đầy đủ (.doc) (68 trang)

Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất theo pháp luật đất đai ở Việt Nam hiện nay từ thực tiễn huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (289.67 KB, 68 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

LÊ ĐỖ KIM CHI

BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VĨNH CỬU,
TỈNH ĐỒNG NAI

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

Hà Nội, năm 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
----------

LÊ ĐỖ KIM CHI

BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC
THU HỒI ĐẤT THEO PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY TỪ THỰC TIỄN HUYỆN VĨNH CỬU,
TỈNH ĐỒNG NAI
Ngành: Luật kinh tế
Mã số: 8380107

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. PHẠM HỮU NGHỊ





MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài

Cuộc sống xã hội nước ta ngày càng phát triển mạnh mẽ và trong thời kỳ
đổi mới. Nhờ đường lối đúng đắn của Đảng và nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam có định hướng thích hợp đã giúp cho nước ta có sự phát triển
mạnh mẽ, bứt phá trong hầu hết các lĩnh vực chính trị, văn hóa, kinh tế, xã hội,
… Nhiều dự án đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng được triển khai thực thi cùng với
xu hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nền kinh tế nước Việt Nam là nền kinh tế nông nghiệp, do đó, nơng
nghiệp là một ngành kinh tế vơ cùng quan trọng ở hệ thống kinh tế nước ta,
chiếm tỷ trọng cao trong cơ cấu kinh tế. Cơ sở để phục vụ cho sự phát triển
nền kinh tế nông nghiệp gồm nơng dân và đất đai, trong đó (i) nơng dân là
người trực tiếp tạo ra sản phẩm bằng cách tác động đến đất đai phục vụ cho
cuộc sống hàng ngày, đáp ứng nhu cầu sử dụng trong xã hội; (ii) Đất đai là tư
liệu sản xuất để tạo ra sản phẩm giúp nông dân làm việc. Mỗi nước trên thế
giới đều có quỹ đất riêng để phát triển nơng nghiệp, phục vụ sản xuất và Việt
Nam cũng không phải là nước ngoại lệ.
Nền kinh tế phát triển dẫn đến tốc độ đơ thị hóa tăng nhanh dẫn đến mục
đích sử dụng đất thay đổi thường xuyên, nhu cầu thu hồi đất phục vụ cho các
mục đích khác. Song song với lợi ích của việc thu hồi đất là phát triển đất
nước trở thành nền kinh tế cơng nghiệp hóa thì thách thức của việc thu hồi đất
chính là diện tích đất bị thu hẹp, người dân sẽ sinh sống như thế nào, vấn đề
lương thực, đảm bảo an ninh trật tự xã hội, người bị thu hồi đất có đồng tình
hay khơng, việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư được giải quyết ra sao.
Việc thu hồi đất vì mục đích an ninh, quốc phịng hoặc vì kinh tế xã hội,
… gây nhiều nguồn dư luận trong xã hội. Tuy vấn đề này khơng cịn xa lạ với

bối cảnh hiện nay nhưng nó chưa bao giờ cũ, ln là vấn đề “nóng bỏng” và
tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây rối loạn trật tự xã hội trong thời kỳ “đất chật

1


người đơng” như hiện nay. Đây là sự việc có mối quan hệ chặt chẽ giữa
quyền và lợi ích hợp pháp của người dân, người bị thu hồi đất.
Qua từng giai đoạn, Nhà nước ln tìm mọi giải pháp để cải tiến, bổ
sung, hoàn thiện các quy định pháp luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ, tái định
cư khi nhà nước thu hồi đất. Tuy nhiên, các văn bản hướng dẫn thi hành quy
định pháp luật vẫn tồn tại những hạn chế, các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo
vẫn xảy ra.
Hiến pháp năm 2013 ban hành và Luật Đất đai năm 2013 được Quốc
hội thơng qua đã có những thay đổi theo hướng tích cực, hồn thiện dần trong
chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Tuy vậy,
thực tế áp dụng các quy định về vấn đề này còn nhiều hạn chế, thiếu sót, điển
hình như con số 70% các vụ kiện liên quan đến lĩnh vực đất đai do Thanh tra
Chính Phủ đánh giá năm 2020.
Vấn đề được đặt ra ở đây là “Nếu như các quy định pháp luật về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất hồn thiện thì tình trạng
khiếu nại, tố cáo cịn xảy ra nhiều như vậy hay khơng?”
Với mục đích đi sâu tìm hiểu các quy định của pháp luật đất đai Việt
Nam hiện nay về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất, qua
đó tìm ra những hạn chế, giải pháp khắc phục những vướng mắc, khó khăn
trong q trình thực hiện. Xuất phát từ mong muốn trên, tác giả lựa chọn đề
tài “Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
đất đai ở Việt Nam hiện nay từ thực tiễn huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai”
làm luận văn tốt nghiệp Thạc sĩ Luật kinh tế của mình. Hy vọng qua đề tài
này, tác giả có thể phần nào làm rõ được một số vấn đề lý luận và thực tiễn

của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài

Trong tình hình hiện nay, với chủ đề nhạy cảm, nóng bỏng và đầy sự
phức tạp của việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất đai,
ở nước ta đã có nhiều cơng trình nghiên cứu về vấn đề này, điển hình như:


Luận văn Thạc sĩ Luật học với đề tài “Pháp luật về bồi thường khi nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp và thực tiễn thi hành tại quận Dương Kinh,
thành phố Hải Phòng” của tác giả Nguyễn Duy Thơ, Khoa Luật kinh tế Viện Đại học Mở Hà Nội, năm 2017. Luận văn đã khái quát một cách tổng thể
về những lý luận của pháp luật bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nơng
nghiệp và ảnh hưởng của nó đến người bị thu hồi đất. Từ những lý luận đó,
bài viết đã phân tích, dẫn chứng thực trạng pháp luật về bồi thường khi nhà
nước thu hồi đất nông nghiệp ở quận Dương Kinh, thành phố Hải Phòng. Tại
thành phố Hải Phịng nói chung và Quận Dương Kinh nói riêng, bài viết có
nghiên cứu về tình trạng và có những giải pháp nhằm hồn thiện quy định
pháp luật, góp phần nâng cao hiệu quả công tác quản lý. Bài viết có những
nghiên cứu về kinh nghiệm của các nước trên thế giời.
Luận văn Thạc sĩ Luật học với đề tài “Pháp luật bồi thường, tái định cư
cho người bị thu hồi đất từ thực tiễn huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định” của
tác giả Lưu Văn Dũng, Trường Đại học Mở Hà Nội, năm 2019. Luận văn đã
hệ thống quy định pháp luật, nêu lên những vấn đề thực tế tại địa phương
huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định. Từ đó, đưa ra các giải pháp, kiến nghị, đề
xuất phù hợp với thực tiễn khu vực.
Luận văn Thạc sĩ về "Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu
hồi đất nông nghiệp và thực tiễn áp dụng tại Hà Nam", tác giả Trần Thị
Huyền Lê, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2015. Bài viết làm sáng tỏ một lý
luận cơ bản cho việc bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước thu hồi đất nơng nghiệp.
Sau đó định hướng và đề xuất các giải pháp góp phần hồn thiện hệ thống

pháp luật và nâng cao tính hiệu quả trong công tác thực thi pháp luật khi Nhà
nước thu hồi đất. Luận văn chỉ đề cập đến việc bồi thường và hỗ trợ mà chưa
đi sâu vào vấn đề tái định cư khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
Luận văn Thạc sĩ về "Pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất từ thực tiễn huyện Củ Chi, Thành phố. Hồ Chí Minh",
tác giả Nguyễn Văn Vững, Học viện Khoa học xã hội, năm 2016. Luận văn


đã xác định và hệ thống hóa lý luận của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất theo pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, Luận
văn chưa so sánh quy định giữa các nước với nhau.
Luận án Tiến sĩ Luật học về “Pháp luật về bồi thường khi thu hồi đất
nông nghiệp ở Việt Nam” của tác giả Phạm Thu Thủy, Đaị học Luật Hà Nội,
năm 2014. Luận án đã khái quát hóa giúp phần nào làm rõ thêm lý luận cơ sở
về bồi thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của người dân. Luận án
đi sâu vào làm rõ các khái niệm, đặc điểm và giá trị bên trong của việc bồi
thường. Từ đó rút ra những bài họ kinh nghiệm cho nước ta trong thời kỳ
hoàn thiện quy định pháp luật. Bên cạnh đó, Luận án cũng đã phân tích các
quy định của pháp luật đất đai về bồi thường đất nông nghiệp khi nhà nước
thu hồi đất, đánh giá hạn chế còn tồn tại và chỉ ra nguyên nhân của những hạn
chế đó. Trên nền tảng cơ sở, quy định pháp luật có thêm những yêu cầu, định
hướng và các giải pháp nâng cao tính hiệu quả do tác giả đề xuất về bồi
thường khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp.
Luận văn Thạc sĩ Luật học kinh tế với đề tài “Bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp theo pháp luật Việt Nam và
thực tiễn huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình” của tác giả Nguyễn Thị Phương,
Học viện Khoa học xã hội, năm 2019. Luận văn nêu rõ hơn về vấn đề lý luận
và tình hình thực tế tại huyện n Mơ, tỉnh Ninh Bình về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi nhà nước thu hồi đất của người sử dụng đất. Từ đó, phân tích
những thành tựu đã đạt được, những hạn chế còn đang vướng mắc và đưa ra

các giải pháp, định hướng, kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật,
nâng cao hiệu quả thực thi khi áp dụng từ lý thuyết đến thực tế trong quá trình
thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nông
nghiệp. Tuy nhiên, Luận văn nêu lên những vấn đề chủ yếu của đất nơng
nghiệp nói riêng mà chưa nêu lên vấn đề tổng thể của đất đai nói chung khi
nhà nước thu hồi đất.


Ngồi ra cịn một số luận văn, bài viết trên các tạp chí với nội dung liên
quan đến vấn đề bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất như:
Tạp chí Luật học số 10 năm 2010 về “Chính sách hỗ trợ khi nhà nước thu hồi
đất” của tác giả Trần Quang Huy; Tạp chí Luật học số 01 năm 2009 về “Vấn
đề xung quanh khái niệm bồi thường, thu hồi đất” của tác giả Nguyễn Quang
Tuyến; Tạp chí Luật học số 5 năm 2011 về “Những tồn tại, vướng mắc phát
sinh trong quá trình áp dụng các phương thức bồi thường khi nhà nước thu
hồi đất” của tác giả Nguyễn Thị Nga; Luận văn Thạc sĩ Quản lý đất đai
“Đánh giá công tác bồi thường, hỗ trợ, tái định cư thực hiện một số dự án thu
hồi đất để quản lý theo quy hoạch tại Thành phố Yên Bái, tỉnh Yên Bái” của
tác giả Phan Long, Đại học Thái Nguyên - Trường Đại học Nông Lâm, năm
2019;…..
Kết quả nghiên cứu nêu trên kết hợp với việc triển khai điều tra và tổng
hợp số liệu thứ cấp là tài liệu quan trọng cho tác giả trong việc kế thừa, đề
nghị hoàn thiện quy định pháp luật có liên quan.
Các cơng trình khoa học nói trên chủ yếu đi sâu vào việc nghiên cứu,
phân tích các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi
đất, về sự bất cập của giá đất Luật Đất đai năm 2003. Các tác giả còn bỏ ngỏ
một số nội dung như sự hạn chế của việc áp dụng các phương pháp định giá
đất trong thời điểm hiện nay; sự chia sẻ lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và
người có đất bị thu hồi trên cơ sở tiếp cận từ việc đánh giá lợi ích được thụ
hưởng trong giới hạn ở một địa phương riêng lẻ là huyện Vĩnh Cửu, tỉnh

Đồng Nai theo Luật Đất đai năm 2013 cũng như các quy định pháp luật có
liên quan đến nội dung này.
Việc kế thừa, tiếp tục phát triển các kết quả nghiên cứu về thu hồi đất
dưới góc độ lý luận, đánh giá thực trạng áp dụng các quy định về nội dung
này trên địa bàn huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai và đề xuất những giải pháp
hoàn thiện pháp luật về thu hồi đất là hết sức cần thiết và chưa trùng lặp với
bất kỳ cơng trình nghiên cứu nào đã thực hiện trước đây.


3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu

Thơng qua tìm hiểu tại huyện Vĩnh Cửu, tình Đồng Nai, tác giả thực
hiện nghiên cứu luận văn nhằm làm rõ các vấn đề lý luận và thực tiễn về pháp
luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
Việt Nam hiện nay. Đồng thời, đánh giá những thành công, hạn chế và tìm ra
nguyên nhân những hạn chế của việc thực hiện pháp luật đất đai về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Từ những cơ sở trên, tác
giả đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật đất đai và nâng cao hiệu quả thực
hiện pháp luật trong vấn đề này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận văn cần giải quyết các vấn đề dưới đây để đạt được mục đích
nghiên cứu trên:
Hệ thống hố các quy định pháp luật nhằm làm sáng tỏ những vấn đề lý



luận về pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật nói chung và thực tiễn thực hiện




pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất trên địa
bàn huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đổng Nai nói riêng. Trên cơ sở đó, chỉ ra những
thành tựu đạt được cũng như những hạn chế, sai sót đang cịn tồn tại của hoạt
động này và nguyên nhân của chúng;
Lấy kết quả của nghiên cứu lý luận pháp luật nêu trên để đề xuất giải pháp



hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật bồi thường, tái
định cư cho người bị thu hồi đất hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng là các văn bản quy phạm pháp luật đất đai và thực tiễn thực
hiện pháp luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi
đất.


4.2. Phạm vi nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu hoạt động thực hiện pháp luật đất đai về bồi thường,
hỗ trợ tái định cư cho người có đất bị thu hồi trên địa bàn huyện Vĩnh Cửu,
tỉnh Đồng Nai.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu

Đề tài “Bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất theo
pháp luật đất đai ở Việt Nam hiện nay từ thực tiễn huyện Vĩnh Cửu, tình

Đồng Nai” được tìm hiểu, nghiên cứu trên nền tảng quan điểm của Đảng, cơ
quan nhà nước và phương pháp luận nghiên cứu khoa học xã hội về các chính
sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất theo pháp luật
đất đai Việt Nam hiện nay.
Luận văn được áp dụng các biện pháp nghiên cứu như sau:


Phương pháp phân tích các thơng tin, số liệu thứ cấp: Đây là phương pháp
chủ yếu được áp dụng trong bài luận văn này.
Một là, phân tích các tài liệu, số liệu, báo cáo chuyên ngành, các giấy tờ
liên quan đến việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư, các văn vản nghị định,
thơng tư hướng dẫn của Chính phủ, các quyết định, văn bản đặc thù, chỉ đạo
giải quyết những trường hợp vướng mắc riêng và kinh phí phải chi trả cho
việc bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất ở các dự án, định mức giá trị đất
của Nhà nước và kinh phí phải chi trả cho việc bồi thường được áp dụng cho
huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.
Hai là, số liệu về tình hình sử dụng đất, diện tích đất bị thu hồi, số hộ bị
thu hồi đất, kinh phí giải phóng mặt bằng trong các Báo cáo hàng năm, Báo
cáo theo giai đoạn 2018-2020 của UBND huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai,
Hội đồng giải phóng mặt bằng, phịng Tài ngun và Mơi trường; phịng
Thống kê, các phịng, ban của huyện và UBND các xã, thị trấn trên địa bàn
huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai.



Phương pháp phân tích các thơng tin, số liệu sơ cấp: Bên cạnh việc sử
dụng nguồn dữ liệu thứ cấp, luận văn sử dụng nguồn dữ liệu sơ cấp nhằm


đánh giá thực trạng pháp luật đất đai và thực hiện pháp luật đất đai về bồi

thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất trên địa bàn huyện.


Phương pháp phân tích, tổng hợp: Từ nguồn thơng tin nêu trên, bài viết
dùng phương pháp phân tích, tổng hợp dữ liệu để hệ thống hóa quy định pháp
luật và nêu lên những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và đánh giá khách
quan việc thực hiện quy định pháp luật đất đai về chính sách bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư tại huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Sau đó, tác giả đưa ra các
giải pháp nhằm hồn thiện việc thực hiện công tác bồi thường, hỗ trợ tái định
cư khi nhà nước thu hồi đất tại huyện Vĩnh Cửu trong thời gian tới.



Phương pháp so sánh: Để nhìn thấy rõ sự khác nhau, giống nhau giữa các
dữ liệu, toàn bộ số liệu và chỉ tiêu sẽ được chia thành các nhóm để so sánh
những ưu điểm và những hạn chế của kết quả thực hiện, ví như so sánh kết
quả đạt được của chuỗi ngày dài thực hiện mục tiêu so với kết quả của mục
tiêu đặt ra ban đầu.



Phương pháp thống kê mô tả: Phương pháp thống kê mơ tả được áp dụng
nhằm phân tích và tổng hợp các mô tả tổng quan, mô tả chi tiết tư liệu để có
góc nhìn đa chiều, đầy đủ, chính xác trong quản lý việc thực hiện chính sách
bồi thường, hỗ trợ tái định cư khi nhà nước thu hồi đất theo pháp luật đất đai
ở Việt Nam hiện nay tại huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai. Phương pháp này
cho phép lượng hóa kết quả, đánh giá đúng hiệu quả của cơng tác giải phóng
mặt bằng hiện nay.




Phương pháp quan sát thực địa: Quan sát thực địa giúp bài viết có cái
nhìn từ nhiều khía cạnh khác nhau, chân thực từ thực tế về q trình thực hiện
chính sách bồi thường, hỗ trợ tái định cư trên địa bàn huyện.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Về lý luận, luận văn đã hệ thống hóa cơ sở lý luận của chính sách bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư và quy trình thực hiện chính sách bồi thường, hỗ
trợ tái định cư. Dùng nền tảng là cơ sở sở lý luận sau khi được hệ thống,
người bị thu hồi đất có cơ hội tiếp cận, phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện


chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư. Từ đó, đưa ra những ưu điểm, hạn
chế, nguyên nhân những hạn chế của việc thực hiện pháp luật đất đai về bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất và đề xuất giải pháp hoàn
thiện pháp luật đất đai, nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật.
Về mặt thực tiễn, huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai có thể lấy kế quả
nghiên cứu này làm tài liệu tham khảo sử dụng trong thực tiễn khi thực hiện
việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trên địa bàn huyện. Ngồi ra, cơng trình
nghiên cứu này cũng là một trong những nguồn tham khảo cho những ai quan
tâm nghiên cứu pháp luật đất đai Việt Nam khi nhà nước thu hồi đất chính
sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho người bị thu hồi đất.
7. Kết cấu của luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ,
tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
Chương 2: Thực trạng pháp luật đất đai và thực tiễn thực hiện pháp
luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất tại

huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật đất đai và nâng cao hiệu quả
thực hiện pháp luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất từ thực tiễn huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN PHÁP LUẬT VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ
TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT
1.1. Các khái niệm “bồi thường”, “hỗ trợ”, “tái định cư” khi Nhà

nước thu hồi đất
1.1.1. Khái niệm bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất

Tất cả các thiệt hại được đền bù một cách tương xứng được gọi là sự bồi
thường, những thiệt hại ấy có thể là thiệt hại về vật chất hoặc thiệt hại về tinh
thần hoặc bao gồm cả thiệt hại về vật chất và tinh thần.
Cá nhân, pháp nhân có quyền dân sự bị xâm phạm được bồi thường
toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác
Pháp luật dân sự quy định trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm
trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần. Trách nhiệm bù đắp
tổn thất về vật chất thực tế, được tính thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ gây
ra gồm các thiệt hại về tài sản, chi phí để hạn chế tối đa thiệt hại thu nhập
thực tế bị mất, bị giảm sút được gọi là trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật
chất. Người gây thiệt hại tình thần cho người khác ngồi việc chấm dứt hành
vi vi phạm, xin lỗi, cải chính cơng khai thì cịn phải bồi thường một khoảng
tiền cho người bị thiệt hại..
Trong q trình hình thành và phát triển, đã có nhiều văn bản pháp luật
quy định về bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất như:
Theo Nghị định số 151/TTg ngày 14/04/1959 quy định tạm thời về trưng

dụng ruộng đất và Luật cải cách ruộng đất năm 1954 là văn bản quy phạm
pháp luật đầu tiên của nước ta quy định về bồi thường đất. Là văn bản sơ khai
nên các quy định này còn đơn giản sao cho đáp ứng đầy đủ yêu cầu hiện tại
và được sự chấp thuận của người dân.
Sau thời gian đất nước thống nhất, việc quản lý đất đai được nhà nước
hoàn thiện chế độ quản lý thể hiện tại Luật đất đai năm 1987 trên cơ sở Hiến


pháp năm 1980. Luật đất đai năm 1987 quy định cụ thể, rõ ràng, chi tiết hơn
việc thu hồi đất và trách nhiệm bồi thường của cơ quan nhà nước.
Xã hội không ngừng phát triển, đời sống phức tạp dần dần. Do đó, các
quy định cũng theo đó phát triển, đổi mới theo từng thời kỳ. Luật đất đai năm
1993 đã cụ thể hóa nguyên tắc việc bồi thường khi nhà nước thu hồi đất như
quy định tại Điều 27 về các trường hợp được thu hồi đất, Điều 28 về cơ quan
có thẩm quyền quyết định việc thu hồi đất và quyền của người sử dụng đất là
được bồi thường thiệt hại tại Điều 73.
Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất bị thu hồi
cho người bị thu hồi đất là định nghĩa đầu tiên được nêu một cách rõ ràng về
bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, thể hiện tại Luật đất đai năm 2003. Tuy
nhiên, Điều 4 Luật đất đai 2003 chỉ quy định bồi thường về giá trị quyền sử
dụng đất mà khơng tính đến các tài sản vơ hình và giá trị tài sản ở trên đất
khác khi nhà nước bồi thường cho việc thu hồi đất.
Quy định chưa cụ thể và chặt chẽ trước đó buộc Luật đất đai năm 2013 ra
đời, định nghĩa về bồi thường đất được thể hiện như sau: “Bồi thường về đất là
việc Nhà nước trả lại giá trị quyền sử dụng đất đối với diện tích đất thu hồi cho
người sử dụng đất”. Luật này không chỉ quy định bồi thường về giá trị quyền sử
dụng đất khi nhà nước bồi thường cho việc thu hồi đất mà còn quy định cụ thể
về việc hỗ trợ, bồi thường những tài sản gắn liền với đất, chi phí đầu tư vào đất
và các tài sản vơ hình khác theo quy định của pháp luật Việt Nam.
Nhìn chung, ta có thể hiểu bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất là các

khoản chi trả của nhà nước cho người sử dụng đất bị nhà nước thu hồi khi
người sử dụng đất đáp ứng đủ các yêu cầu do luật định nhằm bù đắp những
thiệt hại về đất, tài sản và chi phí đầu tư trên đất cho người bị thu hồi đất.
1.1.2. Khái niệm hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất

Từ ngàn xưa, ông cha ta đã sử dụng từ ngữ “hỗ trợ” nhằm diễn đạt tinh
thần giúp đỡ, tương thân, tương ái giữa mọi người với nhau và đặc biệt là
cùng nhau vượt qua gian lao, vất vả trong cuộc sống hàng ngày vẫn đang diễn


ra. Không chỉ được dùng trong cuộc sống hàng ngày mà thuật ngữ hỗ trợ còn
được nhắc đến ở nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó lĩnh vực khơng thể thiếu
trong hệ thống pháp luật chính là pháp luật về đất đai.
Đất đai là nguồn lực cực kỳ quan trọng của mỗi người nơng dân, do đó
khi bị thu hồi quyền sử dụng đất, cuộc sống người sử dụng đất bị thu hồi ít
nhiều có sự xáo trộn, mất việc, mất đi công cụ kiếm kế sinh nhai thường
ngày.
Thu hồi đất kéo theo nhiều hệ luỵ, do đó hạng mục hỗ trợ khi thu hồi đất
là điều không thể bỏ xót trong pháp luật về thu hồi và bồi thường đất.
Nhà nước bày tỏ trách nhiệm đối với người sử dụng đất bị thu hồi thông
qua sự bồi thường và hỗ trợ. Nhà nước không những bù đắp những tổn thất về
quyền và lợi ích của người bị thu hồi đất mà cịn trợ giúp những mất mát của
người có quyền sử dụng đất bị thu hồi. Bên cạnh đó, chúng ta có thể hiểu biện
pháp bù đắp nhiều hơn nữa cho bồi thường là hỗ trợ nhằm giúp các quy định
pháp luật được hoàn thiện hơn, bảo vệ lợi ích hợp pháp của người có quyền
sử dụng đất bị thu hồi.
Do vậy, trong Luật đất đai năm 2013, tại Điểu 3 đã nêu rõ định nghĩa về
việc hỗ trợ khi thu hồi đất như sau: Hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất là việc
Nhà nước trợ giúp cho người có đất thu hồi để ổn định đời sống, sản xuất và
phát triển. Từ đây, ta có thể hiểu: Nhà nước giúp đỡ người có đất bị thu hồi

vượt qua tình trạng khó khăn, khơi phục kinh tế thường ngày, phát triển đời
sống và ổn định sản xuất như hỗ trợ tạo việc làm, tái định cư, di chuyển, thay
đổi ngành nghề làm việc, ổn định đời sống.
1.1.3. Khái niệm tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất

Tại Việt Nam, pháp luật đất đai quy định rằng các cơ quan của bộ máy
nhà nước có thẩm quyền chuẩn bị nơi ở mới đáp ứng đầy đủ các điều kiện do
luật quy định khi nhà nước thu hồi đất ở của người bị thu hồi để giúp họ
nhanh chóng ổn định cuộc sống là tái định cư.


Sau khi bị nhà nước thu hồi đất, cá nhân, hộ gia đình, người sử dụng đất
bị thu hồi phải di chuyển đi nơi khác, di chuyển chỗ ở vì đất ở bị thu hồi hay
phần diện tích cịn lại sau thu hồi ít hơn hạn mức giao đất ở mới tại địa
phương, ngoại trừ người sử dụng đất bị thu hồi, hộ gia đình, cá nhân khơng
có nhu cầu tái định cư sau khi bị thu hồi.
1.2. Sự cần thiết và các yêu cầu của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ,

tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất
1.2.1 Sự cần thiết của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất
Việc thu hồi đất luôn đi liền với yêu cầu bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi nhà nước thu hồi đất. Có thể kể đến các trường hợp: Bồi thường kinh phí
đầu tư vào đất cịn lại khi nhà nước thu hồi đất vì mục đích quốc phịng, an
ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì lợi ích quốc gia, công cộng; khi nhà nước
thu hồi đất nông nghiệp của cá nhân, hộ gia đình, nhà nước khi thu hồi đất bồi
thường về đất, chi phí đầu tư vào đất cịn lại; Bồi thường về đất, kinh phí
dành cho đầu tư vào đất còn lại khi nhà nước thu hồi đất nông nghiệp của tổ
chức kinh tế, cộng đồng dân cư, tổ chức sự nghiệp công lập tự chủ tài chính,
cơ sở tơn giáo; Nhà nước khi thu hồi đất nhà ở buộc bồi thường cho người bị

thu hồi đất; Đất nông nghiệp không phải là đất ở của hộ gia đình, cá nhân khi
bị nhà nước thu hồi; Nhà nước thu hồi đất phi nông nghiệp của tổ chức không
phải là tổ chức kinh tế, sự nghiệp công lập tự chủ tài chính, tổ chức tơn giáo,
tín ngưỡng, cộng đồng dân cư.
Bản chất các quy định của những văn bản quy phạm pháp luật có nét đặc
thù, bao gồm cả sự tự do thực hiện xen lẫn sự bắt buộc nhất định, có tính
cưỡng chế thực hiện và thích nghi phù hợp trong đời sống. Nhờ vào đặc trưng
ấy, xã hội được nhà nước quản lý hiệu quả thông qua áp dụng pháp luật, tạo
luật chơi cho xã hội. Khi nhà nước thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
cho người bị thu hồi đất là vấn đề nhạy cảm, chạm đến lợi ích cá nhân của
mỗi người, ấn dấu các rủi ro có thể xảy ra như khiếu nại, tranh chấp, ….


Để bảo đảm cho việc thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà
nước thu hồi đất diễn ra trong trật tự, ổn định, bảo đảm quyền và lợi ích của
người có đất bị thu hồi thì các quan hệ phát sinh trong quá trình này phải
được được điều chỉnh bằng pháp luật.
Việc điều chỉnh bằng pháp luật các quan hệ, hành vi trong chu trình thu
hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất nhằm:
- Xác định được quyền và nghĩa vụ của các chủ thể tham gia vào quan hệ

thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất;
- Xác định được các nguyên tắc của bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà

nước thu hồi đất;
- Xác định được các trường hợp, các điều kiện mà người có đất bị thu hồi

được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất;
- Xác định được trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà


nước thu hồi đất; bảo đảm tính cơng khai, minh bạch của trình tự, thủ tục này;
- Xác định được cách tính giá tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà

nước thu hồi đất;
- Xác định việc giải quyết các tranh chấp và xử lý vi phạm về bồi thường,

hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
1.2.2. Các yêu cầu của pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi
Nhà nước thu hồi đất
Là nguồn tài nguyên quý giá của quốc gia, quản lý đất đai hiệu quả là điều
vô cùng quan trọng và phải tuân theo các yêu cầu nhất định nhằm bảo đảm
quyền và lợi ích của các chủ thể, hạn chế các trường hợp khiếu kiện, tố cáo về
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất. Các yêu cầu gồm:
Một là: yêu cầu toàn diện, đồng bộ: Pháp luật bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất đảm bảo nguyên tắc toàn diện, đồng bộ. Nó
được thể hiện qua sự thống nhất, có sự phối hợp đồng nhất, không mâu thuẫn
hay trùng lặp, chồng chéo giữa các văn bản hướng dẫn áp dụng thực hiện việc


bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với người bị thu hồi đất khi nhà nước thu
hồi đất.
Hai là: yêu cầu về tính thống nhất: Sự phù hợp, nhất trí, khơng mâu
thuẫn của pháp luật ở nhiều góc độ không giống nhau, giữa tổng thể các quy
phạm pháp luật điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội gần gũi, cùng tính chất pháp
luật, các quy phạm pháp luật trong một chế định pháp luật cũng phải thống
nhất. Quy định pháp luật đất đai khi được ban hành không được trùng lặp,
chồng chéo chức năng, không chỉ đảm bảo sự thống nhất mà cịn đảm bảo
tính thứ tự.
Ba là: u cầu các quy định pháp luật phải được ban hành phù hợp:
Các quy định của pháp luật phải gắn liền với tình hình thực tiễn thì khi đó các

văn bản quy phạm pháp luật được ra đời mới giải quyết được các vấn đề thực
tại. Sự phù hợp là yếu tố cực kì quan trọng nhằm đảm bảo tính thực thi, hiệu
quả của quy định pháp luật thông qua các văn bản luật với các quy luật khách
quan của sự phát triển kinh tế - xã hội. Pháp luật sẽ dễ dàng thực hiện, áp
dụng vào đời sống thực tiễn khi nó đáp ứng được các yêu cầu thực tế và phù
hợp với quy luật phát triển và điều kiện kinh tế - xã hội sẽ làm cho pháp luật
dễ dàng được thực hiện và ngược lại.
Bốn là: yêu cầu các quy định của pháp luật phải có khả năng thực hiện
được. Không một văn bản nào ban hành ra mà chủ thể ban hành mong muốn
văn bản ấy không thực hiện được, do đó, nhà ban hành các quy định pháp luật
phải xác định thời điểm sao cho ban hành đúng lúc và kịp thời đáp ứng những
nhu cầu mà cuộc sống đang đặt ra. Khơng những vậy mà nó còn phải phù hợp
với cơ chế thực hiện và áp dụng pháp luật hiện hành.
Năm là: yêu cầu về cơ chế quản lý. Pháp luật về đất đai sẽ có những ảnh
hưởng đáng kể đến nền kinh tế thị trường. Do đó, thuộc phạm vi, cơ chế quản
lý phải chặt chẽ, có tầm nhìn xa và lường trước được một số rủi ro khi tình
hình kinh tế nước Việt Nam chuyển snag nền kinh tế thị trường, phát triển đa
dạng thành phần kinh tế.


1.3. Cơ cấu về nội dung pháp luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ, tái

định cư cho khi Nhà nước thu hồi đất
Pháp luật được hiệu chỉnh và thay đổi theo thời gian nhằm đáp ứng được
yêu cầu, chuyển biến của xã hội. Qua từng giai đoạn, mục tiêu hướng đến giải
quyết vấn đề của pháp luật khác nhau, căn cứ dựa trên mục tiêu kinh tế toàn
quốc gia. Mỗi thời kỳ sẽ có sự thay đổi nhất định, tuy nhiên vẫn tồn tại điểm
chung cần giải quyết.
Pháp luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cho khi Nhà nước thu hồi
đất cần có các nhóm quy phạm sau đây:

Một là: nguyên tắc và điều kiện bồi thường thu hồi đất của nhà nước.
Nó là nền tảng, mang tính định hướng và là cơ sở cho việc thực thi các quy
định pháp luật đất đai về bồi thường sau khi nhà nước thu hồi đất. Các điều
kiện bồi thường là căn cứ để nhà nước xác định chủ thể bị thu hồi đất đó có
được hưởng các chế độ về bồi thường sau khi bị nhà nước thu hồi đất hay
không. Nguyên tắc và điều kiện bồi thường này được xây dựng trên phương
hướng lợi ích hợp pháp cho người sử dụng rất, rõ ràng, minh bạch, cụ thể với
từng địa phương khác nhau.
Hai là: trình tự và thủ tục bồi thường. Nó là phương thức, quy trình mà
theo đó nhà nước và người dân bị thu hồi đất buộc thực hiện để tìm ra phương
án giải quyết cho việc bồi thường sau khi nhà nước thu hồi đất. Dựa trên nền
tảng các văn bản quy định chi tiết về cách lập hồ sơ, bổ sung hồ sơ, thẩm định
nội dung, thực hiện kế hoạch bồi thường và trách nhiệm của cơ quan có thẩm
quyền trong bồi thường thiệt hại cho người bị thu hồi đất. Những trình tự và
thủ tục hành chính này được đảm bảo công bằng, rõ ràng, dễ áp dụng và thực
hiện nhanh chóng. Tuy nhiên, nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, giá
trị đất tăng cao, nhà nước không tránh khỏi những bất bình, thắc mắc, khiếu
nại, khiếu kiện của người dân bị nhà nước thu hồi đất.
Ba là: nội dung về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đối với người bị nhà
nước thu hồi đất. Nội dung là các quy định pháp luật để nhà nước làm căn cứ


xác định chính sách bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
gồm có các cơ chế quy định về phạm vi bồi thường thiệt hại. Đó là bồi thường
về đất, các khoản đầu tư vào đất và bồi thường thiệt hại về tài sản có trên đất,
trong những trường hợp nhất định Nhà nước có thể hỗ trợ nhằm ổn định đời
sống sản xuất; Về giá đất, nhà nước tính theo giá đất được định giá vào
khoảng thời gian thu hồi đất để chi trả phần bồi thường cho người bị thu hồi
đất; nhà nước có thể bồi thường bằng cách bồi thường tiền mặt tương đương
với tổng giá trị quyền sử dụng đất nhà nước thu hồi hoặc bồi thường bằng đất

có cùng mục đích sử dụng tương ứng với đất bị thu hồi.
Bốn là: các quy định về giải quyết khiếu nại, tố cáo. Khiếu nại, tố cáo là
cách mà người bị thu hồi đất yêu cầu nhằm đòi hỏi quyền lợi của mình. Giải
quyết khiếu nại, tố cáo là việc nhà nước giải đáp thắc mắc, kiểm tra, giám sát
kịp thời để tránh các hành vi sai sót, vi phạm pháp luật trong bồi thường khi
nhà nước thu hồi đất. Luật Khiếu nại năm 2011; Luật Tố tụng Hành chính
năm 2015; Khoản 2, Điều 204 và Khoản 2, Điều 205 trong Luật Đất đai năm
2013; Luật Tố cáo số 25/2018/QH14 năm 2018, ..... là một số quy định pháp
luật quy định về vấn đề giải quyết khiếu nại, tố cáo liên quan đến việc bồi
thường khi nhà nước thu hồi đất. Dựa trên tình hình thực tế, việc bồi thường
được áp dụng thực thi qua các cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Người
sử dụng đất bị nhà nước thu hồi được quyền khiếu nại, tố cáo khi họ nhận
thấy quyền lợi hợp pháp của mình bị xâm phạm, điều này được pháp luật cho
phép thực hiện thông qua các quy định pháp luật. Từ những khiếu nại, tố cáo
của người dân, nhà nước có căn cứ để đánh giá năng lực, trình độ, các thức
làm việc, ý thức tuân thủ của cơ quan nhà nước khi được giao nhiệm vụ. Thực
tiễn cho thấy, cơng tác bồi thường có nhiều khó khăn, bất cập xảy ra trong
quá trình giải quyết và công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo cũng không phải
là ngoại lệ. Bên cạnh khó khăn về sự chồng chéo, chưa rõ ràng của các quy
định cịn có sự khó khăn trong việc tìm ra ý chí chung của hai bên (chính
quyền và người dân) trong việc xác định mức bồi thường khi nhà nước thu
hồi đất.


TIỂU KẾT CHƯƠNG 1
Nước ta đang trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, điều
này gây ảnh hưởng đến đất đai rất nhiều. Khi nhà nước thu hồi đất, vấn đề về
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư ln là tiêu điểm đáng chú ý, có vị trí cực kì
quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Các quy định về bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư cũng thay đổi liên tục.

Vì vậy, người bị thu hồi đất trong dự án thực hiện thu hồi ở thời gian dài,
năm này sang năm khác, hoặc qua dự án có thời gian nhất định có tình trạng
so bì, khiếu kiện.
Bên cạnh đó, quy định yêu cầu để bảo đảm khi tái định cư trước khi thu
hồi đất có nguồn vốn xây dựng và có quỹ đất ở Luật đất đai năm 2013 là chưa
có. Một số dự án cịn chưa rõ ràng, thiếu cơng khai, minh bạch trong việc lên
phương án bồi thường thiệt hại. Do đó, khi nhà nước thu hồi đất, cơ chế về
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư trở thành yếu tố mang tính tất yếu trong pháp
luật đất đai Việt Nam hiện nay.
Nội dung chương 1 đã khái quát hoá hệ thống pháp luật qua việc tổng
hợp, phân tích nội dung của luật, sự cần thiết và các yêu cầu đề ra.
Song song việc làm sáng tỏ các định nghĩa về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi đất của người dân bị nhà nước thu hồi, tác giả còn đi sâu vào phân
tích và luận giải rõ hơn các quy định pháp luật. Cùng với đó là sự chỉ ra
nguyên tắc, cơ cấu nội dung của pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất.
Đây là tiền đề giúp tác giả có cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng pháp
luật và thực thiện tực hiện pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà
nước thu hồi đất trong chương 2.


Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI VÀ THỰC TIỄN THỰC HIỆN
PHÁP LUẬT ĐẤT ĐAI VỀ BỒI THƯỜNG, HỖ TRỢ, TÁI ĐỊNH CƯ
KHI NHÀ NƯỚC THU HỒI ĐẤT TẠI HUYỆN VĨNH CỬU, TỈNH
ĐỒNG NAI
2.1. Thực trạng pháp luật đất đai về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư

khi Nhà nước thu hồi đất
2.1.1.


Các quy định về nguyên tắc của pháp luật đất đai bồi thường,

hỗ trợ, tái đinh cư khi Nhà nước thu hồi đất
Đất đai là nguồn tài nguyên vơ giá của mỗi quốc gia, do đó, quản lý đất
đai là việc mang tầm quan trọng rất lớn có những nguyên tắc nhất định cần
phải tuân theo. Đối với vấn đề nhạy cảm và thường xảy ra việc khiếu nại
khiếu kiện như về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất thì
càng cần phải tuân theo những nguyên tắc cơ bản khi áp dụng các quy định
pháp luật vào thực tiễn.
Trước khi Luật Đất đai năm 2013 được ban hành, các quy định về
nguyên tắc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất nằm rải
rác ở nhiều văn bản hướng dẫn thi hành Luật Đất đai năm 2003 như trong
Điều 14 Nghị định 69/2009/NĐ-CP ngày 13/8/2009, Điều 18 Nghị định
197/2004/NĐ-CP ngày 3/12/2004… Kể từ năm 2013, các nguyên tắc này đã
được Luật hóa thành các điều luật cụ thể như Điều 74, Điều 83 và Điều 88
Luật Đất đai năm 2013, VBHN số 07/VBHN-BTNMT đã hợp nhất các thông
tư quy định chi tiết về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất
của Bộ TN&MT ký ban hành ngày 12/9/2019; Nghị định 06/2020/NĐ-CP sửa
đổi Điều 17 Nghị định số 47/2014/NĐ-CP quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi nhà nước thu hồi đất để các cơ quan Nhà nước, tổ chức, cá nhân
khi tham gia vào quan hệ bồi thường, hỗ trợ về đất đai phải thống nhất và
nghiêm túc thực hiện. Các nguyên tắc này gồm:


Một là: phải đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của pháp luật thì
người bị thu hồi đất mới được bồi thường, hỗ trợ, tái định cư.
Theo quy định của Luật Đất đai năm 2013, chỉ khi Nhà nước thu hồi đất
để sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh; phát triển kinh tế - xã hội vì
lợi ích quốc gia, cơng cộng thì mới phát sinh việc bồi thường cho người bị thu

hồi đất. Tuy nhiên, người bị thu hồi đất phải thỏa mãn những điều kiện do
pháp luật quy định tại Điều 75 Luật Đất đai năm 2013 thì mới được bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư. Nguyên tắc này được khẳng định tại Điều 74. Bên
cạnh đó, tại Điều 76 cũng quy định đối với các trường hợp được bồi thường
về chi phí đầu tư vào đất nhưng không được bồi thường về đất. Nhà nước quy
định về việc bồi thường về tài sản gắn liền với đất và tài sản sản xuất, kinh
doanh khi người bị thu hồi đáp ứng đủ các điều kiện pháp luật quy định tại
Điều 88 của Luật này.
Ngoài việc Nhà nước bồi thường, nghĩa là trả lại những thiệt hại trực
tiếp cho người sử dụng đất do việc thu hồi đất gây ra, thì người sử dụng đất
khi bị thu hồi đất còn được “Nhà nước xem xét hỗ trợ” theo quy định tại Điều
83 Luật Đất đai năm 2013. Đơn cử đối với trường hợp thu hồi đất nơng
nghiệp: ngồi việc bồi thường, Nhà nước cịn phải hỗ trợ đào tạo, chuyển đổi
nghề, bố trí việc làm mới để người bị thu hồi đất nhanh chóng ổn định cuộc
sống. Đây là việc làm khơng chỉ mang tính chất hồn thành nghĩa vụ pháp lý,
mà cịn cách Nhà nước ta thể hiện tính nhân đạo, bởi đất nơng nghiệp không
chỉ là tư liệu sản xuất đặc biệt mà cịn là sinh kế sống cịn của người nơng
dân.
Hai là: Khi thu hồi đất của người bị thu hồi, Nhà nước phải bồi thường
các thiệt hại mà người sử dụng đất phải chịu.
Một nguyên tắc quan trọng để bảo vệ lợi ích chính đáng của người dân
có đất bị thu hồi mà Nhà nước ta đặt ra chính là bồi thường các thiệt hại mà
người sử dụng đất phải chịu khi bị thu hồi đất. Nguyên tắc này được quy định
rõ tại Khoản 2 Điều 74 Luật Đất đai năm 2013. Xuất phát từ việc khi Nhà
nước thu hồi đất thì người sử dụng đất khơng chỉ mất đất mà còn thiệt hại tài


sản trên đất. Vì thế khi thu hồi đất, Nhà nước vừa phải bồi thường về đất, vừa
phải bồi thường về tài sản trên đất và tài sản sản xuất, kinh doanh thì mới có
thể được xem là bồi thường đầy đủ các thiệt hại cho người dân.

Như vậy, khi bị thu hồi đất người sử dụng đất sẽ được Nhà nước đảm
bảo bồi thường đầy đủ các thiệt hại nếu các thiệt hại đó xảy ra. Nghĩa là Nhà
nước sẽ chỉ bồi thường tài sản nếu chủ sở hữu tài sản đó hợp pháp và bồi
thường sản xuất, kinh doanh nếu việc thu hồi đất làm ngừng lại hoạt động sản
xuất, kinh doanh.
Bên cạnh đó, Nhà nước cũng có thể lựa chọn phương án bồi thường cho
người bị thu hồi đất bằng tiền theo giá đất tại thời điểm thu hồi hoặc bằng đất
cùng mục đích sử dụng. Điều đó thể hiện được tính linh hoạt của Nhà nước,
tạo điều kiện cho cơ quan có thẩm quyền và người bị thu hồi có thể lựa chọn
phương thức bồi thường phù hợp với từng trường hợp. Khi quỹ đất nông
nghiệp của địa phương cịn, Nhà nước có thể áp dụng phương án bồi thường
đất cùng mục đích sử dụng. Phương án này sẽ tránh cho việc kiện tụng, lợi
dụng, tranh chấp trong việc bồi thường đất. Ví dụ: trường hợp người sử dụng
đất nông nghiệp tự ý sử dụng, chuyển đổi sang đất phi nơng nghiệp, khi bị thu
hồi thì yêu cầu được bồi thường tiền theo giá đất phi nông nghiệp. Đây là
phương án đảm bảo được sự công bằng giữa những người dân bị thu hồi đất.
Đối với các địa phương khơng cịn quỹ đất thì việc bồi thường bằng tiền là
điều không thể tránh khỏi. Từ thực tiễn nêu trên, nhằm hạn chế trường hợp
tranh chấp, khiếu kiện kéo dài về vấn đề bồi thường khi thu hồi đất thì Nhà
nước đã ban hành những quy định pháp luật nêu rõ đối với trường hợp nêu tại
ví dụ trên đây thì chỉ được bồi thường theo giá đất nông nghiệp.
Ba là: Người sử dụng đất khi bị thu hồi đất được bồi thường mức giá
hợp lý so với mức giá trên thị trường do nhà nước chi trả.
Nhằm đảm bảo và củng cố lợi ích cho người bị thu hồi đất, việc bồi
thường ở mức kỳ vọng, thoả đáng của nhà nước giúp người có quyền sử dụng
đất sẵn sàng giao trả lại đất đã được giao.


Người bị thu hồi đất được bồi thường bằng tiền dựa trên giá đất đã
được xác định của từng loại đất do UBND cấp tỉnh quy định vào thời khắc

thu hồi đất theo điều 74 Luật Đất đai năm 2013.
Chi phí đầu tư vào đất được bồi thường phù hợp với giá cả trên thị
trường tại thời gian có quyết định thu hồi đất thể hiện qua Điều 3 Nghị định
số 47/2014/NĐ-CP. Như vậy, về mặt lý thuyết thì giá bồi thường đất theo giá
thực tế bị thiệt hại như tại các quy định nêu trên. Nhưng trong thực tế, giá bồi
thường đất thường thấp hơn rất nhiều so với giá thị trường, ngồi ra giá bồi
thường đất nơng nghiệp cũng thấp hơn nhiều so với giá bồi thường đất phi
nơng nghiệp. Bên cạnh đó thì việc người bị thu hồi đất cũng không nhận được
tiền bồi thường ngay tại thời điểm có quyết định thu hồi đất mà phải chờ một
thời gian rất dài sau đó bởi việc thực hiện đầy đủ những trình tự thủ tục của
các cơ quan Nhà nước còn nhiều vướng mắc. Đây là một trong những ngun
nhân chính gây bức xúc dẫn đến tình trạng khiếu kiện kéo dài của người bị
thu hồi đất.
Bốn là: việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phải được công khai, minh
bạch, dân chủ, kịp thời đúng quy định của pháp luật.
Một trong những nguyên tắc quan trọng nhất giúp cho việc nâng cao
hiệu quả áp dụng và thực thi pháp luật chính là việc bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư phải được công khai, minh bạch, dân chủ, kịp thời đúng quy định của
pháp luật. Do đó, Điều 75 và Điều 83 Luật Đất đai năm 2013 đã nhấn mạnh
nguyên tắc này.
Có thể xem việc bồi thường và hỗ trợ về đất mang bản chất như là một
giao dịch, một sự trao đổi giữa người bị thu hồi đất và Nhà nước. Khi đó bên
bị thu hồi đất là người sử dụng đất chỉ chấm dứt quyền sử dụng của mình khi
được bên thu hồi đất là Nhà nước bồi thường, hỗ trợ một cách thỏa đáng, kịp
thời theo đúng quy định của pháp luật. Như vậy, việc cơng khai, minh bạch,
dân chủ các trình tự, thủ tục liên quan đến bồi thường, hỗ trợ khi thu hồi đất
sẽ giúp cho người dân vừa có thể ý kiến trực tiếp về quyền và lợi ích của



×