Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tiến trình văn học Chủ nghĩa hiện sinh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (257.83 KB, 21 trang )

ĐẠI HỌC HUẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM
KHOA NGỮ VĂN
_ _ _ _ __ _ _ _ _

BÀI TẬP NHÓM 6
HỌC PHẦN :
TIẾN TRÌNH VĂN HỌC
ĐỀ TÀI:
CHỦ NGHĨA HIỆN SINH

Giảng viên

Sinh viên thực hiện:

Huế, 20/ 01/ 2021


A.THUYẾT HIỆN SINH
I. CHỦ NGHĨA HIỆN SINH THẾ GIỚI
1. Khái niệm.
Thuật ngữ “Existentialism”(Chủ nghĩa hiện sinh), có gốc từ “Existence”có
nghĩa là sự tồn tại hay hiện hữu, nhưng không phải là sự tồn tại của các sự vật,
hiện tượng vật lý hay sự tồn tại của sinh vật mà là sự tồn tại của con người.
2. Sự hình thành chủ nghĩa hiện sinh
Chủ nghĩa hiện sinh ra đời ở Đức cuối chiến tranh thế giới thứ nhất với hai đại
biểu lớn là Martin Heidegger (1889-1976) và Karl Jasper (1883 - 1969), sau đó
lan nhanh sang Pháp tạo nên các tên tuổi như Jean Paul Sartre (1905-1980),
Garbie Marcel (1889 -1978), Albert Camus (1913-1960), Merleau Ponty (19081961).
Ban đầu, chủ nghĩa hiện sinh là một trào lưu văn học phản ánh triết lý sống tự
nhiên, tự tại, tự do bằng các hình thức tiểu thuyết, truyện, kịch, thi ca, nhật ký,


tiểu luận, v.v... Theo dịng thời gian, triết lý sống đó được đa số người chấp
nhận và lý luận hóa, trừu tượng hóa trở thành một trường phái triết học, một
phong trào xã hội, ảnh hưởng sâu rộng trong lối sống giới trẻ.
Sự ra đời của chủ nghĩa hiện sinh là hiện tượng xã hội tất yếu phù hợp với xu
hướng phát triển tâm lý thời đại chống lại bản thể luận và nhận thức luận trong
siêu hình học truyền thống, theo đó các triết gia mải mê tìm kiếm nguồn gốc vũ
trụ, lý giải quá trình nhận thức mà bỏ quên thân phận và kiếp sống con người,
không lý giải mối quan hệ phụ thuộc giữa cá nhân và xã hội, giữa tự do và tất
yếu. Tuy khoa học kỹ thuật có mặt để giảm nhẹ sức lao động, nhưng rồi chẳng
mấy chốc máy móc đã ép con người theo guồng quay và trở thành nơ lệ của nó.
Trong cuộc sống hiện đại, để tồn tại con người nhiều lúc phải tự đánh mất mình,
bị đổi ngơi từ “nhân vị” thành “đại từ”, từ “chủ thể” thành “đối tượng”, từ “tơi”
thành “nó”. Chung quy là buộc phải tha hóa đúng như nhận định của triết gia
Nitschez: “Con người đã chết”.
Chủ nghĩa hiện sinh đồng thời là sự đáp trả tư tưởng tư biện trừu tượng triết học
Hegel trong quá trình đi tìm các khái niệm phổ biến mà không quan tâm đến đời
sống hiện thực của con người và chủ nghĩa lãng mạn trong văn học cổ điển đã
lý tưởng hóa tình yêu và cuộc sống, dẫn dắt con người ngày càng xa rời hiện
thực. Triết học truyền thống quá lý thuyết, chủ nghĩa lãng mạn văn học cổ điển


lún sâu miêu tả những chuyện tình lâm ly bi tráng, trong khi đó con người sống
càng ngày càng tự do và thực dụng, giao tiếp giữa người và người trở nên cởi
mở, thẳng thắn, đời sống con người đòi hỏi mọi vấn đề phải cụ thể hơn, sát thực
hơn, dấn thân hay “hiện sinh hơn”.
3. Những tiền đề lý luận của chủ nghĩa hiện sinh
Chủ nghĩa hiện sinh không phải là sản phẩm nhất thời của thời hiện đại mà có
nguồn gốc sâu xa trong lịch sử. Quan niệm về đời người và thân phận con người
đã manh nha trong triết lý Phật giáo khi Đức Phật Thích Ca đắc đạo, đứng giữa
trời đất, chỉ tay nói: “Thiên thượng, Địa hạ, duy Ngã độc tôn”. “Tứ diệu đế”, tức

bốn chân lý tối cao mà Đức Phật “ngộ” ra trong những năm tháng tu hành khổ
luyện đã phản ánh chân thành cụ thể đời sống con người và nỗi khổ của nó - đó
là một cuộc hành trình tn theo luật nhân quả “Sinh - Lão - Bệnh - Tử” và
“Luân hồi, Nghiệp báo”. Triết lý nhân sinh Phật giáo đã đặt ra tình huống có
vấn đề về con người, mà cốt lõi là làm gì và làm như thế nào để giải thoát con
người khỏi “tam độc” (Tham, Sân, Si) đưa con người đến tự do, sống ung dung
tự tại trong thế giới đầy vật dục và biến động.
Ở phương Tây cổ đại, triết gia Socrate với luận điểm “con người hãy tự nhận
thức chính mình” đã mở đầu giai đoạn nhận thức con người. Theo ông, mọi tư
tưởng và hoạt động phải làm gia tăng ý nghĩa của tồn tại con người, bởi vì, đối
với con người vấn đề không phải là sống mà là sống tốt, sống có ích cho xã hội.
Cái chết của ơng là một đề tài và nguồn cảm hứng bất tận của triết học và văn
học nghệ thuật chứng minh cho sự bi đát của một kiếp người khao khát làm điều
thiện, nhưng bị tha nhân lên án, kết tội và bức tử.
Xét về phương diện văn học, Kinh thánh (The Bible) của Đạo Ky tô là một tiểu
thuyết miêu tả đời sống nhân quần buổi khai thiên lập địa. Hình tượng Adam và
Eva đại diện cho hai giới sống mù lịa, cơ đơn buồn tủi đành phải ăn trái cấm để
được sáng mắt, sáng lòng trên vườn địa đàng báo hiệu một lịch sử đau buồn và
phạm tội của nhân loại. Abraham được miêu tả như một vị anh hùng sẵn sàng
hiến tế đứa con trai yêu dấu cho Thiên chúa, hành vi “bất đắc dĩ” này phản ánh
mâu thuẫn giằng xé nội tâm trong sự lựa chọn của con người giữa một bên là
tình cảm, bên kia là lý tưởng cao thượng.
Đầu thời trung đại, Thánh Augustin đã tuyên bố: ''Hãy đi sâu vào bản thân, chân
lý nằm trong nội tâm con người''. Bằng luận điểm đó, ơng đã đi sâu phân tích
thế giới nội tâm để qua đó khám phá nguồn gốc bất an và lo âu của con người.
Tác phẩm Xưng tội (Confession) của ông đã lý giải về nguồn gốc thần thánh


của con người, về đời sống tâm linh phức tạp của nó, về mối quan hệ giữa người
và thần, theo đó Chúa đã sáng tạo và chi phối đời sống con người, do vậy để

đền đáp công ơn này, mỗi người cần phải dấn thân vào đời sống, phải yêu
thương nhau, vì cái ác, sự đau khổ chỉ xuất hiện khi thiếu vắng tình yêu thương,
khi con người hành động theo ý chí tự do nên bị sa ngã.
Đến thời khai sáng, triết gia người Pháp - Pascal trong tác phẩm Các suy
tư (Pensses) đã phát biểu rằng, “con người chỉ là một cây sậy yếu ớt trong mọi
tạo vật, nhưng là một cây sậy biết tư duy”. Qua việc đề cập đến tư tưởng tôn
giáo và triết học, Pascal đã miêu tả sinh động việc nhân loại ngập chìm trong
cảnh bao la vô tận của vũ trụ. Theo ông, “tất cả phẩm giá con người là ở tư
tưởng”, nhưng còn một cái quan trọng hơn, cao hơn cả tư tưởng là con tim., bởi
vì “con tim có lý lẽ riêng của nó mà lý trí khơng biết được”. Có thể nói, quan
niệm của Pascal mở đầu cho một khuynh hướng mới về nghiên cứu thân phận
con người - phát hiện tính mâu thuẫn trong giá trị người - một giá trị vừa cao
thượng vừa thấp hèn, nhỏ mọn. “Con người - Pascal viết - một vật mới lạ! Một
quái vật, một sự hỗn mang, một sự mâu thuẫn, một điều kỳ diệu! Là quan tịa
xét xử mn lồi và đồng thời là một con giun đất đần độn; là kho chân lý, và là
bể chứa sự hoang mang và sai lầm; là niềm kiêu hãnh và là căn bã của vũ trụ”.
Bước sang thời cận đại, văn hào Nga Dostoievsky - trong các tác phẩm văn học
của mình, đặc biệt là trong tiểu thuyết Tội ác và sự trừng phạt đã miêu tả trạng
thái tâm lý của các nhân vật dựa trên luận đề xuất phát: “Nếu khơng có thượng
Đế, thì mọi điều đều có thể làm”. Luận đề này tuy đặt ra một tình huống giả
định, nhưng thực tế đã khẳng định vai trò của thần học và tôn giáo trong việc
củng cố đạo đức con người, phản ánh tính mâu thuẫn trong suy nghĩ và hành
động của con người, đặt nền móng cho việc nghiên cứu đời sống tâm lý. Khi
trích dẫn luận đề này, triết gia hiện sinh người Pháp Paul Sactre cho rằng, “đây
chính là điểm xuất phát của chủ nghĩa hiện sinh”.
Chủ nghĩa hiện sinh hiện đại trực tiếp dựa trên quan niệm về con người của triết
gia Đan Mạch - Kỉerkegaard (1813-1855), ông đã sớm nhìn thấy tính chất tư
biện của Hegel khi triết gia này tìm cách thâu tóm mọi thực tại vào trong hệ
thống triết học của mình và trong quá trình luận giải thế giới ơng đã đánh mất
yếu tố quan trọng là tồn tại người. Trong khi đó đây lại là điều cốt yếu của triết

học, vì tồn tại trước hết phải là tồn tại của một cá thể người, sống, khát vọng,
lựa chọn và dấn thân.Thuyết hiện sinh của Kierkegaard có thể tóm lược trong
quan niệm cho rằng, “mọi con người phải được hiểu như là sở hữu bản chất cốt
yếu là người”.


Nhìn chung, sự ra đời của chủ nghĩa hiện sinh như một liệu pháp tâm lý giải tỏa
những ức chế của đời sống xã hội đã bị giam hãm một thời gian dài, bị cầm tù
bởi những cấm kỵ của chế độ phong kiến, lên án thói đạo đức giả và sự tha hóa
con người trong xã hội biến động về khoa học công nghệ, mong ước cứu vớt
con người trước thảm họa chiến tranh, đưa con người trở về ngơi vị làm người
chân chính.
4. Quan niệm hiện sinh về con người và thân phận con người
Triết lý của chủ nghĩa hiện sinh xoay quanh chủ đề con người, trọng tâm là bản
tính, thân phận, thế giới nội tâm, quan hệ giữa con người và hoàn cảnh sống.
Quan hệ giữa tồn tại và bản chất của con người. Theo chủ nghĩa hiện sinh, tồn
tại của con người có trước bản chất của nó. Định nghĩa con người là khơng thể,
bởi con người khơng là gì khác ngồi sự hiện hữu hay hiện diện (của thể xác).
Paul Sartre cho rằng, “con người trước hết phải hiện hữu, gặp gỡ nhau, xuất
hiện ra trong thế giới đã, rồi theo đó tự định nghĩa mình. Con người, nếu khơng
thể định nghĩa được, chính là vì trước hết nó là hư vơ. Nó chỉ tồn tại sau đó, và
sẽ là tồn tại như những gì nó sẽ tự tạo nên... Con người khơng chỉ tồn tại như nó
được quan niệm, mà cịn tồn tại như nó muốn thể hiện... Con người khơng là gì
khác ngồi những gì mà nó tự tạo nên. Đó là nguyên tắc đầu tiên của thuyết hiện
sinh. Đó cũng là điều mà người ta gọi là tính chủ thể... con người có một phẩm
giá cao hơn hịn đá hay cái bàn... con người trước hết là một dự phóng (project)
đang sống về mặt chủ thể, thay vì là một thứ rêu, một thứ nấm mốc hay một búp
súp lơ... con người trước hết sẽ là những gì mà nó dự định tồn tại” .Như vậy,
con người là tồn tại tối cao, vượt lên trên mọi tồn tại khác của vũ trụ. Tồn tại
người có trước, sau đó mới hình thành bản chất người. Bản chất người hiện diện

trong mọi cá thể riêng biệt, thể hiện qua hành động và tính cách của nó, khơng
có bản chất người chung chung, trừu tượng.
Con người là một cá thể chịu trách nhiệm trước cộng đồng. Khi đã hiện hữu hay
có mặt ở đời, con người phải dấn thân vào cuộc sống, suy nghĩ và hành động để
bộc lộ thái độ sống của mình. Tuy nhiên, không phải mỗi cá nhân sống theo
cách riêng của mình, mà phải hịa nhập vào cuộc sống chung cộng đồng. Do
vậy, “nếu đúng là tồn tại đi trước bản chất, thì con người chịu trách nhiệm về
những gì nó đang tồn tại. Bước đi đầu tiên của thuyết hiện sinh là... lên con
người toàn bộ trách nhiệm về sự hiện hữu của mình, nhưng khơng phải về cái cá
nhân chật hẹp mà chịu trách nhiệm cho tất cả mọi người”. Con người là một tồn
tại có lý trí, lý trí giúp con người tổ chức cuộc sống, từ mơ hình gia đình, đến


cộng đồng và toàn nhân loại. “Trách nhiệm của chúng ta lớn lao hơn nhiều so
với những gì mà chúng ta có thể nghĩ đến, vì nó liên quan đến tồn thể nhân
loại... Tơi chịu trách nhiệm với chính mình và với mọi người, và tôi đã sáng tạo
ra một hình ảnh nào đó về con người mà tơi đã lựa chọn, khi chọn lấy chính tơi,
tơi chọn con người”
Con người là một thực thể tự do và khơng có gì khác ngồi đời sống của chính
mình. Con người cũng là một tồn tại, nhưng tồn tại người khác tồn tại vật ở chỗ,
con người có lý trí, nên nó ít bị chi phối bởi quy luật tất yếu mà có tự do - tự do
lựa chọn, tự do hành động. Jasper cho rằng, “chỉ mình con người có lịch sử,
nghĩa là không sống bằng di sản sinh lý như lồi vật mà cịn sống bằng cả di sản
tinh thần. Nên đời sống con người không trôi dạt theo tự nhiên mà phải được
hướng dẫn bằng tự do” .Triết gia Paul Sactre khẳng định: “Khơng có thuyết tất
định, con người là tự do, con người được tự do... và không có một bản tính con
người nào khác để tơi có thể đặt nền tảng trên đó” .
Tuy nhiên, vì con người sống trong xã hội, nên tự do hiểu theo nghĩa hiện sinh
không phải là tự do tùy tiện mà tự do trong khuôn khổ tôn trọng sự tự do của
người khác, bởi vì “trong khi muốn tự do, chúng ta phát hiện ra rằng tự do của

chúng ta hoàn toàn phụ thuộc vào tự do của những người khác, và tự do của
những người khác phụ thuộc vào tự do của chúng ta” .Phụ thuộc hay thông cảm
lẫn nhau giữa người và người là điều làm các nhà hiện sinh trăn trở, bởi theo họ
thân phận làm người là phải vậy, cho nên “ta tự do là khi ta công nhận ta phải
phục tùng một số yêu sách. Thỏa mãn những yêu sách ấy hay không là tùy ở
quyền ta định đoạt. Nghĩa là chúng ta không thể phủ nhận rằng: chúng ta phải
quyết định và mỗi khi quyết định là quyết định về chính mình. Nói tóm lại,
chúng ta là những con người có trách nhiệm” .
Con người là một sinh vật tồn tại trong những giới hạn nhất định, muốn vượt
qua những giới hạn đó thì cần phải dấn thân. “Thân phận con người bị giam
hãm trong những hoàn cảnh cố định... như chết, đau khổ, chiến đấu, lệ thuộc
những cảnh ngộ bất ngờ, luẩn quẩn trong những xiềng xích của tội lỗi,... tức là
những hồn cảnh bất khả vượt và bất khả di dịch”
Như đã nói, bản chất con người nằm trong hành động của nó, nên “con người
khơng là gì khác ngồi dự phóng của mình, nó chỉ tồn tại trong giới hạn có hiện
thực hóa bản thân, vì vậy con người khơng là gì khác ngồi tồn bộ các hành vi
của mình, khơng có gì khác ngồi đời sống của nó” .“Một người tự dấn thân vào
cuộc sống, vẽ nên gương mặt của mình, và khơng có gì ngồi gương mặt ấy cả...


một con người khơng có gì khác ngồi một loạt những công việc mà họ đảm
nhiệm. Con người là tổng số, tổ chức toàn bộ các quan hệ cấu thành những công
việc ấy”
Quan hệ giữa con người và người khác (Tha nhân) là nguyên nhân của tha hóa
và tâm lý lo âu. bản tính, con người là một thực thể tự do, nhưng do tội tổ tông
truyền kiếp, con người ln bị trói buộc vào hồn cảnh sống, bị lệ thuộc vào xã
hội và những người lân cận gọi là “người khác” hay tha nhân (Autre, Another).
Tha nhân có từ thời khởi thuỷ lồi người, khi Adam khơng thể sống một mình,
Chúa đành phải tạo nên “người khác” là Eva. Từ đó Adam đành phải sống cùng
Eva và mãi mãi vẫn thế, vì con người khơng thể sống cơ độc. Tha nhân là niềm

vui đồng thời là nỗi buồn của mỗi cá thể, là người tranh chấp, dẫm chân lên địa
vị của ta. “Để có sự hiểu biết đúng thật về mình, tơi cần phải thơng qua người
khác. Người khác là cần thiết cho sự hiện hữu của tôi về chính mình. Trong
những điều kiện ấy, tự cõi lịng, khi tơi phát hiện ra chính mình thì đồng thời tơi
phát hiện ra người khác, như là một hữu thể tự do được đặt đối diện tôi, suy
nghĩ về tôi và chỉ muốn ủng hộ hoặc chống đối tôi”.
Hậu quả khi tiếp xúc với tha nhân là làm cho mỗi người trở nên xa lạ với chính
mình hay bị “tha hóa” (Degeneration), tức sống khác với bản tính thật của mình.
Tha hóa có nguồn gốc từ sự tơn thờ một mẫu người lý tưởng, một vị thánh nào
đó làm cho người ta tự cuộn trịn mình lại mà khơng dám hành động. Tha hóa
đồng thời là tự đánh mất nhân cách, tự biến mình thành một cái máy (con rối)
vơ hồn hành động theo tư tưởng chỉ đạo của người khác, của tập đồn khác mà
khơng thể nào dứt ra được.
Do tha hóa là làm khác mình nên tạo nên trong mỗi con người sự lo
âu (Angoisse, Worry). Lo âu thể hiện trách nhiệm của con người trước thân
phận của mình và đồng loại. “Vì mang thân phận làm người là đương nhiên
chúng ta sống trong dục vọng, trong lo âu và bó buộc chúng ta phải cảm nghiệm
những gì thuộc thế sự, bằng nước mắt cũng như bằng nụ cười” .Lo âu sớm
muộn sẽ dẫn con người đến tuyệt vọng (Desespoir) và tiếp sau đó là những hành
động liều lĩnh. Và lẽ dĩ nhiên chỉ có cái chết (The death) mới chấm dứt được lo
âu. Nhưng cái chết lẽ dĩ nhiên sẽ chấm dứt sự hiện hữu của con người. Bởi vậy,
khi còn sống con người cần phải dấn thân, tức phải sống hết mình, khơng mặc
cảm với q khứ, khơng toan tính chuyện tương lai, chỉ sống cho hiện tại.
“Chúng ta càng có quyền hy vọng vào tương lai nếu ta càng dấn thân vào hiện
tại, nghĩa là nếu ta biết tìm chân lý và những tiêu chuẩn giá trị trong thân phận
con người” . Từ logic trên chủ nghĩa hiện sinh kết luận: Con người sống trong


trần gian như những kẻ bị bỏ rơi, những kẻ lưu đày. Hiện diện trong cuộc đời
mà con người không biết mình sẽ đi đâu, về đâu. Việc con người sinh ra ở đời

giống như bị ném vào hoàn cảnh “bất đắc dĩ”, đành phải sống và hành động.
Bởi vậy, chủ nghĩa hiện sinh nêu cao khẩu hiệu: ''Con người hãy tự cứu lấy
chính mình''. Vì khơng ai có thể cứu vớt được con người ngồi bản thân nó.
II. Sự hình thành chủ nghĩa hiện sinh ở Việt Nam
Ở Việt Nam, một cách tự phát, chủ nghĩa hiện sinh đã manh nha trong Cung oán
ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều khi ông miêu tả thân phận của những thiếu
nữ được tuyển vào cung Vua phủ chúa chờ ngày ân ái. Thơng qua đó, tác giả nói
lên thân phận “bèo dạt mây trơi” của kiếp làm người nói chung: “Thảo nào khi
mới chơn nhau / Đã mang tiếng khóc ban đầu mà ra/ Khóc vì nỗi thiết tha sự
thế/ Ai bày trò bãi bể nương dâu/ Trắng răng đến thuở bạc đầu...Trăm năm cịn
có gì đâu - Chẳng qua một nấm cổ khâu xanh rì” . Tiếp theo Cung ốn ngâm
khúc, Truyện Kiều của Nguyễn Du cũng là một thi phẩm phản ánh đời sống
“hồng nhan bạc phận” của nàng Kiều với những tiếng kêu xé lòng đứt
ruột: “Trăm năm trong cõi người ta/ Những điều trơng thấy mà đau đớn
lịng...Đau đớn thay phận đàn bà/ Lời rằng bạc mệnh cũng là lời chung” . Mười
lăm năm sống lưu lạc của nàng Kiều là một bản cáo trạng lên án chế độ phong
kiến đương thời, một chế độ “nhất nam viết hữu, thập nữ viết vô”, coi thường
thân phận của người phụ nữ, xem họ thân phận họ như những hạt mưa rơi.
Từ phương Tây, chủ nghĩa hiện sinh theo gót chân quân xâm lược Pháp đến
Việt Nam vào những năm đầu thế kỷ XX, hiện diện trên thi đàn như thơ say của
Vũ Hồng Chương, thơ mới, phản ánh tình yêu hiện đại của các thi sĩ tiền chiến,
đặc biệt là thơ Xuân Diệu. Ở miền Nam, dưới thời tạm chiếm, chủ nghĩa hiện
sinh đã trở thành mốt sống của thanh niên đô thị. Tư tưởng hiện sinh phản ánh
trong hàng loạt các tác phẩm văn học, điển hình là các tác phẩm của Duyên
Anh, Nguyễn Thị Hoàng, Thanh Tâm Tuyền, v.v... đã nói lên tinh thần lo âu,
tuyệt vọng, nổi loạn, phản kháng của tầng lớp thanh niên “sống giữa hai làn
đạn”.Trên một khía cạnh nào đó có thể nói chủ nghĩa hiện sinh ở miền nam Việt
Nam trước giải phóng đã góp tiếng nói phản kháng sự xâm lược của Mỹ như
phong trào “dậy mà đi” phản ánh sự dấn thân của tuổi trẻ trong cơng cuộc giải
phóng đất nước.

Sau công cuộc đổi mới do Đảng Cộng Sản Việt Nam khởi xướng, với phương
châm “cởi trói cho văn học nghệ thuật”, chủ nghĩa hiện sinh có cơ hội thể hiện
nguyên hình trên diễn đàn văn học với các gương mặt tiêu biểu như: Nguyễn


Quang Lập (Một nửa đời đen - trắng, Đời cát), Nguyễn Minh Châu (Phiên chợ
Giát), Phạm Thị Hoài (Thiên sứ, Mê lộ, Man nương), Dương Thu Hương (Bên
kia bờ ảo vọng, Những thiên đường mù), Bảo Ninh (Nỗi buồn chiến tranh),
Nguyễn Huy Thiệp (Phẩm tiết, Vàng lửa, Tướng về hưu, Thương nhớ đồng
ơi...), Chu Lai (Ăn mày dĩ vãng), Dương Hướng (Bến không chồng), Nguyễn
Thị Ngọc Tư (Cánh đồng bất tận), Đỗ Hồng Diệu (Bóng đè, Vu quy...), v.v...
Các tác phẩm văn học này đã góp thêm tiếng nói đa dạng cho việc đổi mới của
văn học nước nhà, phản ánh một góc buồn tủi, cơ đơn của cuộc sống, phơi bày
thế giới nội tâm giằng xé của con người trong một thời đại đầy lo âu, mâu thuẫn
và biến động từng ngày của khoa học công nghệ. Thực ra chủ nghĩa hiện sinh
trong văn học là sự nối tiếp của chủ nghĩa hiện thực phê phán nhưng với tinh
thần tự nhiên, “vô tư”, thẳng thắn và cay nhiệt hơn, nếu khơng nói là đơi khi có
ác ý muốn “hạ bệ những thần tượng”, đưa thần tượng (Idol) và những lý tưởng
chính trị - xã hội trở về cuộc sống đời thường, đúng như nghĩa câu cách ngôn
mà Karl Marx u thích “Khơng có gì thuộc về con người mà xa lạ đối với tôi”.
III.CÁC TRƯỜNG PHÁI HIỆN SINH
Hiện sinh hữu thần
Kier kegaard
- Có tính chất xây dựng
- Tin tưởng vào Thiên Chúa giáo

Hiện sinh vô thần
Niet zsche
- Đã phá truyền thống và cả tôn giáo
- Chứa đựng nhiều phủ định tính đến

mức đơi khi được gọi là hư vơ chủ
nghĩa
- Đại diện: Jaspers ( Triết học về hiện - Đại diện: J. Sartre ( hiện sinh chủ
sinh) và Marcel ( Tân phái So crate)
nghĩa) M. Heidegger ( triết học hiện
hữu)
Những ý tưởng hiện sinh không phải bắt đầu từ các triết gia như Sartre hay
Heidegger mà lại khởi nguồn từ hai ông tổ đối nghịch nhau về thế giới quan:
Nietzsche vô thần và Soren Kierkegaard hữu thần. Trong Zarathustra đã nói
như thế, Nietzsche tuyên bố “Chúa đã chết. Chúa chết vì lịng thương xót con
người" . Bản thân những nhà hiện sinh như Sartre, Camus và Beauvoir cũng đều
là những nhà vô thần, phủ nhận sự tồn tại của Chúa. Nhưng lý do tại sao họ lại
phủ nhận sự tồn tại của Chúa? Chúng ta sẽ bàn trong một bài viết khác. Còn ở
đây, với lời tuyên bố hùng hồn của Nietzsche, liệu Chúa đã thực sự Chết hay
là...may mắn thay, chúng ta vẫn còn một người ngược dòng quan niệm của
Nietzsche: Søren Kierkegaard (1813- 1855) - ông tổ của chủ nghĩa hiện sinh đã
biến Kito giáo thành một trong những nguyên tắc tư tưởng cốt lõi của mình.


B. TÁC GIA TIÊU BIỂU
I. TÁC GIẢ JEAN PAUL SARTRE
Jean Paul Sartre tên thực là Jean-Paul Charles Aymard Sartre (21/6/1905 –
15/4/1980). Là con của ông Jean-Baptiste Sartre, một vị sĩ quan Hải Quân và bà
Anne là người gốc Đức miền Alsace.Cha ông qua đời khi ông mới mười lăm
tháng tuổi, mẹ đưa về ở với ông bà ngoại ở ngoại ơ Paris, chín năm sau thì mẹ
ơng tái giá. Học hết bậc trung học, ông vào trường cao đẳng Sư phạm Paris, tốt
nghiệp bằng triết học hạng tối ưu năm 1929. Ông được bổ nhiệm đi dạy triết
học tại trường trung học các tỉnh rồi về Paris. Ông đi du lịch nhiều nước châu
Âu và vùng Cận Đông.
Từ năm 1933 đến năm 1934, ông thôi nghề dạy học và chuyên viết văn và

nghiên cứu triết học. Ông sang Đức và học thêm triết với các triết gia Đức lão
thành như Husserl và Heidegeer. Tác phẩm nổi tiếng đầu tiên là tiểu thuyết
Buồn nôn (1938) và tuyển tập truyện ngắn Bức tường (1939)được đánh giá là
những cuốn sách tiêu biểu cho dòng văn học phi lý, giúp Sartre trở thành một
trong những nhà văn hóa lớn nhất của nước Pháp thời kì này.
Thế chiến thứ II bùng nổ năm 1939. Sartre nhập ngũ với chức danh binh
nhì và bị phát xít Đức bắt làm tù binh. Trong tù ông soạn kịch để các bạn tù
trình diễn cho nhau xem. Năm 1941, sau khi được thả ông tham gia phong trào
kháng chiến và viết cho tờ báo bí mật. Trong những năm Pháp bị chiếm đóng,
ơng đã cho trình diễn hai vở kịch đặc sắc: Những con ruồi với nội dung phê
phán chế độ phát xít hà khắc và vở Khơng lối thốt viết về số phận cơ đơn của
con người.
Sau chiến tranh, ơng viết văn và làm báo. Ơng cưới vợ, cô Ximono de
Boovoa, sau này cũng là một nhà văn hiện sinh. Ơng sáng lập tạp chí Thời hiện
đạinăm 1945 và từ đó cùng với nhà văn khác như Albert Camus, Meclo
Poongty gây dựng phong trào hiện sinh ở Pháp.
Từ năm 1945 đến năm 1949, ông đã viết nhiều tác phẩm lớn như: Những
con đường tự do, tiểu thuyết gồm có ba phần: tuổi lí tính, triển hạn, cái chết
trong tâm hồn ; những vở kịch: Chết không mai táng, Những bàn tay bẩn, Ác
quỷ hay thiên thần,…


Năm 1943, ông viết một tác phẩm thuần túy triết học: Thực thể và hư vơ.
Ơng quan niệm lí thuyết hiện sinh thể hiện những giá trị nhân văn mới của thời
đại trong bài thuyết trình vào ngày 29/11/1945:L’existentialisme est un
humanisme (Chủ nghĩa hiện sinh là chủ nghĩa nhân đạo) – cuốn sách khiến chủ
nghĩa hiện sinh nhanh chóng trở nên nổi tiếng. Những tác phẩm văn học đã cụ
thể hóa nhận thức triết lí hiện sinh của ơng.
Ơng được biết đến cùng với người bạn đời (cũng là học trị) của mình là
Simone de Beauvoir, văn chương và triết học đặc sắc của hai người có tác động

qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau.
Về chính trị, ơng đứng về phía tả và những lực lượng tiến bộ. Năm 1964
Sartre đượcViện Hàn lâm Thụy Điểnquyết định trao giải Nobel nhưng ông từ
chối nhận giải vì khơng muốn mình biến thành một thiết chế xã hội ảnh hưởng
đến công việc hoạt động chính trị cấp tiến.
Tóm lại, ơng là nhà văn,là một trong những nhân vật nòng cốt trong hệ
thống triết học của chủ nghĩa hiện sinh, cũng là một trong những nhân vật có
ảnh hưởng lớn trong nền triết học Pháp thế kỷ XX và chủ nghĩa Marx. Các tác
phẩm phong phú cùng những hoạt động sôi nổi trong cuộc đời ông đã có một
tác động sâu rộng trong đời sống xã hội Pháp thập niên 1950 – 1960, khiến ông
trở thành thần tượng của thanh niên Pháp một thời.
II. TÁC PHẨM “BUỒN NƠN”
1. Giới thiệu
Tác phẩm La Nausée (Buồn nơn, 1938) là một trong những tác phẩm đáng
chú ý nhất của Jean Paul Sartre. Tác phẩm được viết dưới hình thức một cuốn
nhật kí của nhân vật chính trong truyện tên Antoine Roquentin: “Điều tốt nhất
là ghi lại những biến cố trong từng ngày một. Tạo giữ một cuốn nhật kí để nhìn
thấy rõ ở đấy. Đừng để vượt thốt những sắc thái, những sự kiện nhỏ nhặt,
ngay cả khi chúng khơng có vẻ gì cả, và nhất là xếp hạng chúng”. Roquentin là
một thanh niên trí thức đơn độc chẳng hề bị ràng buộc bởi bạn bè, gia đình và
ngay cả với cơng việc. Chàng sống một mình, hồn tồn một mình, ngoại trừ
chàng có biết đến bà chủ quán “Rendez-vous des Cheminots” (Nơi hẹn các nhân
viên đường sắt) Francoise, anh chàng Tự Học ở thư viện thành phố,…Trong
truyện này, điều chủ yếu không phải là cốt truyện hành động của nhân vật mà là
những phản ứng của Roquentin trước mọi hiện tượng của cuộc sống.


Câu chuyện có vẻ như là một chuỗi tự sự tiêu cực và buồn chán, chứa đựng
đầy nỗi ngờ vực và trĩu nặng suy tư về tồn tại, hư vô.Mặc dù có một số ý kiến
cho rằng nó chỉ là một trị chơi triết học ngụy trang dưới hình thức tiểu thuyết,

nhưng sức lơi cuốn và hấp dẫn của nó là khơng thể phủ nhận.
2. Tóm tắt
Dựa trên ba phần mà tác giả đã chia một cách có dụng ý, có thể tóm tắt tác
phẩm như sau:
Phần 1: Lời thưa trước của người xuất bản (trang 9)
Đây là lời dẫn dắt cho tồn bộ nội dung phía sau. Người xuất bản nhấn
mạnh những tập vở này đã được tìm thấy trong các giấy tờ của Antone
Roquentin (nhân vật chính trong tác phẩm). Người xuất bản cũng chỉ ra những
trang viết này được viết vào khoảng đầu tháng Giêng, 1932 sau khi Antone
Roquentin đi du lịch ở Trung Âu, Băc Phi và Viễn Đông và đã đến định cư tại
Bouville 3 năm để hồn thành cơng trình nghiên cứu lịch sử về hầu tước De
Rollebon.
Phần 2: Tờ rời không ngày tháng (trang 12 – 15)
Roquentin muốn ghi lại những biến cố từng ngày một. Anh cảm thấy
mình đã sợ hãi nhưng khơng biết mình sợ gì. Anh khơng nghĩ là mình điên
nhưng lại nghĩ đó là một cơn khủng hoảng thống qua của bệnh điên khi anh
khơng dám ném hịn sỏi trên mặt biển như lũ trẻ.
Phần 3: Nhật kí (trang 17 - 438)
Nhật kí ghi chép các sự kiện và tâm trạng của Roquentin trong 22 ngày.
Antone Roquentin giới thiệu mình là một người sống một mình, hồn tồn
một mình, chẳng bao giờ nói với ai, khơng cho gì và cũng khơng nhận gì. Hàng
ngày, ơng ăn ở các qn quen và làm việc tại thư viện và nếu muốn thì ngủ với
một cơ chủ qn cà phê Francois ở gần đó.
Cơng việc của ơng ở Bouville là để tìm kiếm các tư liệu về bá tước De
Rollebon – một người có bộ mặt xấu xí nhưng lại được rất nhiều cơ gái u
thích. Nhưng sau khi làm đến chương VII thì ơng lại từ bỏ, bởi vì “tơi mà đã
khơng có đủ sức giữ lại q khứ của tơi, thì tơi có thể nào hy vọng cứu vớt q
khứ của người khác”.



Trong những lần vào thư viên để tìm kiếm tư liệu viết đề tài nghiên cứu
chàng quen với Ogier.P, thường được gọi là “chàng Tự Học” - ơng này có tính
kỉ luật cao, đã và dành hàng trăm giờ đọc tại thư viện tất cả các đầu sách theo
chữ cái ABC. Ơng thường nói với Roquentin và tâm sự với chàng rằng ơng là cả
một xã hội.
Có một thời gian ông yêu và sống cùng một cô gái Anh tên là Anny, nhưng
giữa họ xảy ra cãi vã và chàng bỏ đi luôn, sau bốn năm gặp lại, lúc Anny ghé
qua Paris, và muốn gặp lại chàng, nhưng chàng cảm thấy nàng đã già và tình
cảm cũng phai nhạt, những khoảnh khắc tuyệt vời khơng cịn nữa. Anny tiếp tục
đi du lịch với một người đàn ông Đức, đang chung sống với nàng.
Trong suốt thời gian này, có một thứ ln theo và ám ảnh Roquentin đó
chính là những cơn Buồn Nơn. Nó xuất hiện ở bất cứ đâu trong suy nghĩ của
ơng và càng ngày nó càng trở nên mạnh mẽ: Buồn Nơn khi sắp ném hịn cuội,
Buồn Nơn với dự án nghiên cứu của mình, với chàngTự Học, những kỉ niệm
của ông về Anny, ngay cả bàn tay của mình và vẻ đẹp của thiên nhiên,… ơng
quyết định từ bỏ tất cả để đi đến Ba Lê khi nhận ra mình đang sống thừa giống
Anny.
Những ngày cuối cùng ở Bouville, ông đã bắt đầu quan tâm tới mọi người
xung quanh, đặc biệt là khi chứng kiến chàng Tự Học bị đánh. Và chính bản
nhạc với những giai điệu nối tiếp nhau trong quán Rendez-vous des Cheminots
đã kết thúc cuốn nhật kí với sự tự chấp nhận bản thân, nhận ra ý nghĩa thực của
cuộc sống, và sự thay đổi trong suy nghĩ theo hướng tích cực của Roquentin.
III. NHÂN VẬT TIÊU BIỂU
1. HƯ VÔ VÀ SỰ LÝ GIẢI HƯ VÔ QUA NHÂN VẬT ROQUENTIN.
NGUỒN GỐC CẢM GIÁC CÔ ĐƠN CỦA NHÂN VẬT ROQUENTIN
1.1 Định nghĩa “hư vô”:
Theo quan niệm triết học, “hư vơ” có nghĩa là “khơng, chẳng có gì hết, thiệt
như giả, giả như thiệt, thấy đó rồi mất đó”, cịn trong tác phẩm, để định nghĩa
đầy đủ được từ này cần phải nắm được hoàn cảnh xuất hiện của nó.
Nhưng với Roquentin, “hư vơ” cịn là một sự bắt đầu của mọi vật, mọi thứ

“xuất lộ ra từ hư vô, dần dà trưởng thành, rồi bừng nở”.


Như vậy, chúng ta có thể hình dung rằng, “hư vơ” là một thế giới khơng nhìn
thấy, ở đó mn lồi được sinh ra, dưới mn hình vạn trạng, mỗi lồi hiện hữu,
tồn tại và mục đích cuối cùng cũng là trở về với nơi sinh ra nó – cõi hư vô, cũng
giống như quan niệm của con người “cát bụi lại trở về với cát bụi”.
1.2 Sự lý giải hư vô qua nhân vật Roquentin:
 Hư vô nằm sau tồn tại: Thông qua nhân vật Roquentin, chúng tôi
hiểu rằng, hư vô nằm sau tồn tại nghĩa là đằng sau sự hiện hữu của
mơn lồi là cái chết, là một thế giới hư vô. Mọi thứ, kể cả con người
luôn phải đối diện với cái chết, từ hư vô lại trở về với hư vơ, chính vì
thế con người cảm thấy tuyệt vọng “Người ta cảm thấy rằng mỗi một
khoảnh khắc đều tan biến vào hư vô và không nên nhọc cơng níu giữ
nó lại”.
 Hư vơ là một dạng của tồn tại: có nghĩa là con người vẫn đang hiện
hữu ngay cả khi ở trong hư vô. Lúc này hư vơ khơng cịn là cái đáng
sợ nữa. Sartre đã phát biểu “tôi chỉ hiện hữu khi tôi sẽ không hiện hữu
nữa”, chết khơng có nghĩa là hết, mà trong thế giới hư vơ đó, con
người mới ý thức được bản chất của chính mình.
Qua nhân vật Roquentin, chúng ta ý thức được rằng, con người khi sinh ra
– lớn lên – chết đi đều nằm trong một vòng tuần hồn, ai cũng phải trải qua quy
luật đó, chính cái quy luật này khiến cho người ta cảm thấy cuộc đời thật phi lí
và con người cảm thấy tuyệt vọng, cô đơn trong cuộc sống. Con người luôn
phải đối diện với cái chết, đó là cõi hư vơ, chính vì vậy con người cảm thấy bất
lực, khơng lối thốt. Nhưng Roquentin cũng cho ta thấy được rằng, “hư vô cũng
là tồn tại”, nghĩa là con người sẽ ý thức được chặng đường làm người của mình
trong cõi hư vơ đó.
Camus là người đề cao chủ nghĩa hiện sinh phi lí, ông xem cuộc đời là phi
lí, song cái phi lí này không phải để kêu gọi con người vào cõi hư vơ, mà nó

chính là lời mời gọi con người can đảm nhận lãnh trách nhiệm ở đời. Cuộc đời
đã phi lí thì con người phải tìm cách chiến thắng nó bằng cách sống hết mình
trong sự thụ cảm phi lí đó.
Như vậy, có thể rút ra kết luận rằng, con người được sinh ra để đến cõi
chết, tất cả rồi phải chết, nhưng hành trình trở về cõi hư vơ đó khơng phải là


một hành trình đơn giản, bởi chặng đường đó có quá nhiều điều khiến con
người thấy cô đơn và sợ hãi, chính điều đó nên Camus đã khẳng định “Cuộc
đời là phi lí”. Tuy nhiên, cái cốt lõi ở đây là gì? Khi trước mắt mình là một cõi
hư vơ, là cái chết, con người sẽ thấy thật tuyệt vọng, nhưng tuyệt vọng không
phải là buông xuôi, ngược lại, con người phải can đảm, phải biết làm nên chính
mình, và khi đã trở về với hư vô, con người mới thấy rằng mình đang hiện hữu,
lúc đó con người mới thấy được lý do tồn tại của chính mình.
1.3. NGUỒN GỐC CẢM GIÁC CÔ ĐƠN CỦA NHÂN VẬT ROQUENTIN
Cảm giác sự cô đơn của Roquentin bắt nguồn từ sự tự ý thức của chính nhân
vật:
Roquentin cho rằng con người ln phải đối mặt với cảm giác cô đơn,
trống rỗng, sự vô nghĩa...nếu khi con người vượt được qua những cảm giác ấy
thì sẽ được hạnh phúc.
Roquentin ln cảm thấy mình trống rỗng, có lúc lại khơng hiểu về những
việc mình đã làm “Tôi chịu không thể hiểu tại sao lại có mặt ở Đơng Dương.
Tơi đã làm gì ở đấy? Tại sao tơi đã nói chuyện với những người kia ? Tại sao
tơi đã ăn mặc trang phục kì cục như vậy” (Trang 21). Sự trống rỗng trong cảm
nhận của Roquentin có lẽ xuất phát từ chính cuộc sống của anh ta:“Tơi, tơisống
một mình, hồn tồn một mình. Tơi chẳng bao giờ nói với ai; tơi khơng nhận gì,
cũng khơng cho gì.” (trang 23). Ta thấy rằng chính anh ta đã chọn cho mình một
cách sống thu mình và khép kín với tất cả mọi người xung quanh.Và chính cách
sống đó đã tác động đến những hành động của Roquentin với mọi người xung
quanh.

 Nguyên nhân thứ hai dẫn đến cảm giác cô đơn của nhân vật Roquentin là
do anh ta thích sự tự do, thích làm việc theo ý mình và cho rằng nếu khơng
được như vậy thì mình khơng cịn tự do nữa:
Roquentin bộc bạch rằng: “Tơi thích nhặt những hạt dẻ, những mảnh vụn
cũ kĩ, nhất là những mảnh giấy. Tơi khối chết được khi cầm nó lên, khi nắm
lấy nó trong tay , chỉ thiếu điều tơi sắp đưa nó lên miệng như những đứa trẻ
thường làm.”(trang 31), “Tơi đã khối chết vì được sờ đến đống bột mềm mát
lăn trịn dưới những ngón tay tơi thành những cục nhỏ màu xám.” (trang
32).Có vẻ như sở thích của Roquentin là những thứ quái lạ, bẩn thỉu và chính
anh ta cũng ý thức được những điều đó và anh ta cảm thấy “Đó là một nỗi kinh


tởm dịu nhẹ . “ một thứ Buồn nôn nơi bàn tay” (trang 33). Anh ta thực hiện tất
cả những sở thích đó với chỉ một mình anh ta.
Khơng những sở thích qi lạ, Roquentin cũng có những điều ghét kì quặc.
Roquentin khơng thích mặt trời. Anh ta cho rằng những ngày có ánh nắng mặt
trời là những ngày vơ nghĩa đối với anh ta, anh ta không làm được gì cả. Anh ta
cảm thấy khó chịu và chỉ giam mình trong phịng chờ màn đêm bng xuống.
Anh ta cịn ghét cả màu sắc, đặc biệt là ghét màu xanh da trời và có lần anh ta
cảm thấy Buồn Nơn vì màu sắc này.
Cùng với hư vơ, nỗi cơ đơn trong tâm trạng của con người là hai yếu tố
cốt lõi trong quan niệm triết học hiện sinh của Jean Paul Sartre. Tất cả những
vấn đề Sartređặt ra để làm sáng tỏ thân phận làm người,cụ thể là: Hữu thể là
một thảm kịch, là phi lý, là hư vô; con ngườiluôn cô đơn và cái chết luôn
hiện diện. Nhưng con người biết bất chấp cái chết để nhập cuộc tự do làm
nên lịch sử của mình bằng những dự phóng. Bên cạnh đó, chính cuộc hiện
sinh lại làm con người tha hóa vì tha nhân.
Có thể lí giải nỗi cơ độc của AntoineRoquentin bằng triết học của chủ
nghĩa Hiện sinh:Chủ nghĩa hiện sinh đề cao con người trong sự tự do cắt đứt với
mọi quan hệ xã hội. Con người trong chủ nghĩa hiện sinh là “con người hiện

sinh độc đáo”, nghĩa là con người cô độc trong xã hội. Chính vì vậy mà Antoine
ln ln thấy cơ độc, và chính chàng đã khẳng định: “Tơi cơ độc trong con
đường trắng viền quanh những khu vườn này. Cơ độcvà tựdo”.
Nhìn chung, Roquentin trong Buồn nônlà một thân phận trầm thống của xã
hội cũng như chính bản thân của tác giả. Suy cho cùng thì nỗi cơ đơn ấy cũng
khơng hẳn là tiêu cực, nó tồn tại như một nhân tố khách quan tất yếu trong bản
thân mỗi con người, trốn chạy hay đối điện, đó là cách mà mỗi người lựa chọn.
Roquentin đã bắt đầu đứng trên lập trường của một con người tự thân nhìn nhận
chính mình, trải nghiệm cảm giác cơ đơn vốn có để nhận ra mình và sự tồn tại
của mình trên đời.


2. NHÂN VẬT HẦU TƯỚC DE ROLLEBON:
2.1 Sự xuất hiện của nhân vật hầu tước de Rollebon và những chi tiết
trong tác phẩm:
Nhân vật hầu tước De Rollebon xuất hiện trong tác phẩm Buồn nôn không
chỉ là chủ thể tư duy, mà là cá thể sống có cảm xúc và hành động. Ơng chính là
người mà Antoine Roquentin vơ cùng ngưỡng mộ, vì vậy Antoine Roquentin đã
đến trọ tại một khách sạn nhỏ trong thị xã Bouville để sưu tầm tài liệu về cuộc
sống của bá tước De Rollebon, một nhà phiêu lưu ít ai biết tới của thế kỷ XVIII.
Và nhân vật này là cảm hứng để cho Antoine Roquentin viết một cuốn sách lịch
sử.
Nói về De Rollebon, trong tác phẩm chỉ đề cập đến hai điểm sau: thứ nhất,
ơng là con người xấu xí nhưng ơng lại được lịng của nhiều người phụ nữ:“Ơng
được tất cả mệnh phụ trong triều u thương, khơng phải bằng cách làm trị hề
như kiểu Voisenon, con người xấu xí như khỉ, mà bằng một áp lực kì lạ như nam
châm”; thứ hai, Tcherkoff cho rằng chính De Rollebon là kẻ đã nhận nhiệm vụ
thúc đẩy từng cá nhân các người dự mưu trong cuộc ám sát hoàng đế Paul đệ I,
nhưng Roquentin đã chối bỏ và khơng tin vào điều này, đó cũng là dấu hỏi mà
anh ta luôn băn khoăn bấy lâu. Như vậy, ta thấy sự góp mặt của viên hầu tước

De Rollebon trong Buồn nôn không được chú ý nhiều đến thân thế, hành động
hay tính cách, De Rollebon xuất hiện phản chiếu qua khối óc và những suy nghĩ
của Roquentin, dường như ông ta là một thế giới bí ẩn, mờ mịt mà Roquentin
thuộc trong đó để chiêm nghiệm, đánh giá về một con người.

2.2 Vai trò của hầu tước de Rollebon trong tác phẩm:
Con người này đã để lại trong suy nghĩ của Antoine Roquentin những trạng
thái, cung bậc tình cảm khác nhau. Ban đầu là sức hút quyến rũ “ơng có vẻ
quyến rũ tơi mãnh liệt và ngay tức khắc, căn cứ trên dòng chữ nhỏ nhắt đó, tơi
u ơng xiết bao”, sau có lúc lại tỏ ra buồn nản, chán ghét “nhưng bây giờ con
người ấy làm tơi buồn nản”, có khi cảm thấy chán ngấy như trong một cảm giác
kinh tởm, ngay cả đến giấc ngủ cũng bị ám ảnh “dường như tôi thấy khn mặt
mình hay cảm nghiệm thân thể mình, bằng một thứ cảm giác nặng nề và có tính
cách cơ thể. Nhưng cịn những người khác, như Rollebon chẳng hạn. Khn
mặt ơng có được ngủ n khi nhìn trong mắt kính hay khơng”. Và từ đó những
cơn buồn nơn bắt đầu kéo đến. Qua đó, ta có thể thấy rằng, quá trình nghiên cứu


của nhân vật Roquentin về nhân vật Rollebon là khởi đầu cho những cảm giác
khác thường trong chàng: cảm giác Buồn Nôn.
Dường như Antonie Roquentin chứa đựng những mâu thuẫn về sự hiện
sinh của vị hầu tước này, có lúc chàng coi De Rollebon là một người thú vị, tốt
bụng, đơn giản và ngây thơ , là tượng trưng cho sự biện chứng duy nhất trong
cuộc đời anh ta, song anh ta cũng cảm thấy mệt mỏi vì ơng hầu tước, ghê tởm
con người ấy: “Tôi không viết tiếp tác phẩm của mình về Rollebon nữa, thế là
hết, tơi chẳng thể nào viết được nữa”. Và cũng vì một lí do chính đáng hơn:
“Tơi mà đã khơng có sức giữ lại q khứ của tơi , thì tơi có thể nào hi vọng cứu
vớt quá khứ của người khác”.
Mặc dù đã ngừng nghiên cứu về Rollebon nhưng những hình ảnh về ông
cũng không dễ dàng mất đi trong đầu Roquentin, bởi lẽ hình ảnh đó đã hiện hữu

trong chàng từ rất lâu giống như một cá thể sống hiện hữu trong chính con
người chàng. Có thể nói sự nghiệp nghiên cứu về hầu tước Rollebon là niềm
đam mê lớn của chàng, chính vì vậy khi quyết định từ bỏ thì niềm đam mê ấy
cũng đã kết thúc. Điều đó cho ta thấy được rằng, với Roquentin, hầu tước
Rollebon là người phối ngẫu, là người cần đến ông để cảm nghiệm hiện thể của
mình. Và ở một khía cạnh nào đó, ông hầu tước chính là động lực để chàng tồn
tại, khi quyết định không viết tiếp về hầu tước, chàng dường như thấy mất
phương hướng của cuộc sống.
Rollebon chính là một hiện thể để biểu tượng ra với cuộc đời Roquentin,
chính Rollebon đã hiện thể trong Roquentin và làm cho Roquentin sống một
cuộc sống với những trải nghiệm khác nhau mà chính đơi khi bản thân chàng
cũng khơng hiểu: “Tơi chẳng cịn nhận ra tơi hiện hữu nữa, tơi đã chẳng hiện
hữu trong tơi, nhưng là trong chính ơng ta, chính vì ơng ta mà tơi ăn uống, vì
ơng ta mà tôi hô hấp, một cử chỉ của tôi đều mang chứa một ý nghĩa bên ngoài,
như thế đấy đối diện với chính tơi trong con người ơng ta… Ở bên kia mặt giấy,
tơi nhìn thấy viên hầu tước, người đã kêu đòi cử chỉ này nọ, người mà cử chỉ đó
đã nối dài, củng cố cho sự hiện hữu của ông ta. Tôi chỉ là phương tiện để ông
ta sống, ơng ta là lí do hiện hữu của tơi…”
Trong tác phẩm, viên hầu tước là một cá thể sống và đơi khi cịn chi phối
cả chủ thể, cá thể đó cũng mang những đặc điểm tâm lý và gây ra cảm giác khó
chịu- cảm giác buồn nơn cho chủ thể hiện hữu mà mỗi lần Roquentin nghĩ tới
viên hầu tước thì cảm giác Buồn Nơnđó lại càng rõ ràng hơn. Hầu tước
Rollebon trong tác phẩm đóng vai trị như là một sự thể nghiệm một cuộc sống


khác, một con người khác nữa tồn tại trong con người, bởi sự trải nghiệm là quá
trình vừa khám phá thế giới vừa khám phá bản than, khám phá ra lí do tồn tại
của con người là…khơng có lý do gì hết cũng như chính hầu tước Rollebon vậy,
khơng có một đáp án chính xác nào về cuộc đời thật của ông, cũng như Buồn
Nôn như là một biểu tượng về bản năng, về sự phi lí của việc con người tồn tại

bằng một lí do nào đấy, mà thực ra khơng có lí do nào cho sự tồn tại cả.
3. Ý NGHĨA TÁC PHẨM
Cái hay của tác phẩm có lẽ là, tác giả đã biến truyện thành một lí thuyết
sâu xa, với một hình thức trình diễn mới lạ, một trạng thái tâm linh đa dạng, tác
giả đã làm người đọc kinh ngạc về triết thuyết hiện sinh. Truyện cũng chẳng
phải tự truyện và chẳng phải là hồi kí mà là một dạng tiểu thuyết nhật kí, lần giở
những trang nhật kí của nhân vật, ta bóc trần được những lí lẽ mà ít nhiều qua
đó, ta thấy được tính nhân bản của nó, từ đó có một cái nhìn hiện sinh của một
bản thể tự tại, mà đơi lúc xảy ra trong đời làm người, vốn mang thân phận xót
xa và đau khổ.
Câu chuyện trong Buồn Nơn có vẻ như là một chuỗi tự sự tiêu cực và buồn
chán, chứa đựng đầy nỗi ngờ vực và trĩu nặng suy tư về tồn tại, hư vô.
Sartre đã dùng phương pháp hiện tượng học để chứng minh rằng đời sống
của con người thì khơng có mục đích. Nhân vật chính trong tác phẩm đã phát
hiện ra nhiều sự ghê tởm của thế giới xung quanh. Anh ta và sự cô đơn của anh
ta đã dẫn đến nhiều kinh nghiệm về buồn nơn tâm lí. Dần dần anh ta nhận thức
được rằng con người là một hiện tượng ngẫu nhiên, không có ý nghĩa và khơng
có giá trị gì cả, khơng cần thiết và khơng có cả lí do để tồn tại.
Trong sự nhập cuộc của mình, con người hiện sinh đã cố gắng đưa ra một
giải thoát cho tâm tư, bằng sự thể hiện vào trạng thái hiện sinh tuyệt đối. Nhưng
trên thực tế, con người hiện sinh vẫn chỉ là con người hữu hạn, bị giơi hạn một
các tàn nhẫn. Trong truyện, nhân vật luôn luôn buồn nôn như một thái độ phản
kháng những gì thuộc về lí tính cứng nhắc siêu hình. Nhân vật chính Roquentin
đang trên con đường khám phá lí do tơn tại của con người là khơng có lí do gì
hết. Con người là một hiện thực ngẫu nhiên, khơng có lí do tồn tại.
Điểm mấu chốt của thuyết hiện sinh là con người phải hành động, là sự dấn
thân và trải nghiệm. Con người, trước hết chỉ là hư vơ, vì vậy con người không
thể định nghĩa được. Con người phải hiện hữu, gặp gỡ, xuất hiện trong thế giới
đã, rồi mới được định nghĩa. Và con người chỉ tồn tại sau đó, chỉ tồn tại như



những gì mà nó được làm ra. Điều đó được thể hiện qua sự hành động, sự dấn
thân và sự trải nghiệm. Chính từ đây, có thể nói rằng thuyết hiện sinh định nghĩa
con người bằng hành động.
Như vậy, tác phẩm Buồn Nôn đã đưa đến cho chúng ta một triết thuyết về
hiện sinh, đây cũng là điểm thành công làm nên tên tuổi của tác phẩm. Theo đó,
triết thuyết hiện sinh cho rằng chúng ta đều là những thực thể tự do và vì vậy,
đều có trách nhiệm với mọi sự lựa chọn và hành động của bản thân mình, chúng
ta là tác gải của cuộc đời mình và kiến thiết những gì chúng ta đeo đuổi.

C. TỔNG KẾT
Chủ nghĩa hiện sinh là truy vấn triết học của một nhóm các triết gia ở cuối
thế kỷ 19, đầu thế kỷ 20. Những người mặc dù khác nhau về học thuyết nhưng
có chung niềm tin rằng tư duy triết học xuất phát từ chủ thể cá nhân con người không chỉ đơn thuần là chủ thể tư duy, mà còn là chủ thể hành động, cảm nhận,
và sống. Søren Kierkegaard thường được coi là triết gia hiện sinh đầu tiên, mặc
dù ông không sử dụng thuật ngữ "chủ nghĩa hiện sinh". Ông cho rằng mỗi con
người cá nhân - chứ không phải xã hội hay tôn giáo - chịu trách nhiệm tự mình
mang đến ý nghĩa cho cuộc sống và sống nó một cách say mê và chân thành,
hay "đích thực".Chủ nghĩa hiện sinh trở nên phổ biến vào những năm sau Chiến
tranh thế giới thứ hai và bên cạnh triết học, nó ảnh hưởng mạnh mẽ đến nhiều
lĩnh vực khác như thần học, kịch nghệ, nghệ thuật, văn học và tâm lý học.
Tại Nam Việt Nam, sau năm 1963 cùng với sự cáo chung của thuyết nhân
vị, chủ nghĩa hiện sinh du nhập vào miền Nam và có ảnh hưởng đến tầng lớp trí
thức tiểu tư sản, ở cả hai hướng hoặc duy tâm hoặc duy vật, những người "kẹt
giữa hai làn đạn". Một mặt, không thể chối cãi rằng nó dẫn đến phản ứng "nổi
loạn", "tận hưởng cuộc đời" của một bộ phận thanh niên khơng tìm thấy đường
đi trong chiến tranh. Mặt khác, nó gợi lên những suy tư, trăn trở về thân phận
con người, ý thức trách nhiệm trước tình cảnh đất nước và chọn lựa thái độ ứng
xử cũng như hành động nhập cuộc vì tha nhân. Có thể nói chủ nghĩa hiện sinh
đã đáp ứng nỗi ưu tư của con người và khao khát tự khẳng định khn mặt tinh

thần của mình trong hồn cảnh chiến tranh, địi hỏi người trí thức khơng thể
đứng "bên dòng lịch sử". Sau ngày "Đổi mới", triết học hiện sinh được du nhập
trở lại Việt Nam và hấp dẫn một bộ phận giới trung lưu, trong bối cảnh một nền
kinh tế thị trường gây phân hóa xã hội.


D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
Bách
khoa
tồn
thư
Wikipedia,
/>
Jean-Paul

Sartre

[2] Nguyễn Cơng Sự, Chủ nghĩa hiện sinh - Sự hình thành, diện mạo và ảnh
hưởng,
tạp
chí
văn
hóa
Nghệ
An,
2020.
/>[3] “Buồn nôn” (Jean Paul Satre), khoa Ngữ Văn, trường Đại học Sư phạm
Hồ Chí Minh, 2013. />



×