Tải bản đầy đủ (.docx) (28 trang)

Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn giáo và giải quyết các vấn đề tôn giáo trong cách mạng xã hội chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.21 KB, 28 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ QUỐC
DÂN
KHOA LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

BÀI TẬP LỚN
______________________________________

Học phần: Chủ nghĩa xã hội khoa học
Giảng viên: Trần Thị Thanh Hương

Sinh viên: Nguyễn Lương Liệu
Mã sinh viên: 11192734
Đề bài số: 18
Lớp học phần: Chủ nghĩa xã hội khoa học (220)_45
Lớp chuyên ngành: Toán kinh tế 61

HÀ NỘI – 2021



Mục lục


Đề bài
Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn giáo và giải quyết
các vấn đề tôn giáo trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Liên hệ
thực tiễn ở Việt Nam và trách nhiệm của sinh viên.

4



Mở đầu
Tất cả các nhà triết học trước chủ nghĩa Mác, kể cả những nhà duy vật,
đều là những người theo chủ nghĩa duy tâm trong quan niệm về đời sống xã hội,
vì họ mới dừng lại ở chỗ xác nhận một sự thật là: khác với tự nhiên – nơi mà
những lực lượng vô tri vô giác đang hoạt động, thì trong xã hội, con người lại là
một trong những thực thể có ý thức, có khả năng tự kiểm sốt các hoạt động của
riêng mình. Từ đó mà họ đều cho rằng: xã hội vận hành theo một cách riêng
của nó, hoặc theo ý chí của một thế lực siêu tự nhiên có nhân tính (như Đức
Chúa) hay khơng có nhân tính (như Ý niệm tuyệt đối), hoặc theo ý chí chủ quan
của chính lồi người. Xuất phát từ cái nhìn duy tâm đó, tơn giáo – một hình thái
ý thức xã hội, đã ra đời và vẫn có cơ sở để phát triển trong suốt chiều dài lịch
sử nhân loại, từ cuối thời kỳ công xã nguyên thuỷ cho đến tận bây giờ. Vậy đâu
là nguyên nhân cho sức sống dai dẳng của tôn giáo trong xã hội? Và trong xã
hội xã hội chủ nghĩa, liệu có cịn tồn tại tơn giáo? Chủ nghĩa Mác – Lênin có
quan điểm như thế nào về việc giải quyết vấn đề này?
Tín ngưỡng, tơn giáo là những vấn đề nhạy cảm và phức tạp. Những vấn
đề nảy sinh từ tôn giáo cần phải được xem xét, giải quyết hết sức thận trọng, cụ
thể và chuẩn xác. Việt Nam là quốc gia có nhiều tơn giáo và nhiều người tin
theo các tơn giáo. Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và công cuộc xây
dựng đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã có những chính sách và quan điểm như
thế nào đối với vấn đề này? Và sinh viên – lực lượng sẽ tiếp quản và xây dựng
đất nước tương lai sẽ có trách nhiệm như thế nào trước vấn đề này?

5


Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về tôn giáo
I. Bản chất, nguồn gốc và tính chất của tơn giáo
1. Bản chất của tôn giáo
Tôn giáo là một hiện tượng xã hội ra đời rất sớm trong lịch

sử nhân loại và tồn tại phổ biến ở hầu hết các cộng đồng người
trong lịch sử hàng ngàn năm qua.
Chủ nghĩa Mác – Lênin cho rằng tơn giáo là một hình thái ý
thức xã hội phản ánh hư ảo hiện thực khách quan. Thơng qua sự
phản ánh đó, các lực lượng tự nhiên và xã hội trở thành siêu
nhiên, thần bí,… Ph.Ăngghen cho rằng: “… tất cả mọi tôn giáo
chẳng qua chỉ là sự phản ánh hư ảo – vào trong đầu óc của con
người – của những lực lượng ở bên ngoài chi phối cuộc sống
hằng ngày của họ; chỉ là sự phản ánh trong đó những lực lượng
ở trần thế đã mang hình thức những lực lượng siêu trần thế”.
Ở một cách tiếp cận khác, tôn giáo là một thực thể xã hội
– các tôn giáo cụ thể (như Cơng giáo, Tin lành, Phật giáo,…) với
các tiêu chí cơ bản sau: có niềm tin tơn giáo (niềm tin sâu sắc
vào đấng siêu nhiên để tơn thờ); có hệ thống giáo thuyết (giáo
lý, giáo luật, lễ nghi); có hệ thống cơ sở thờ tự; có tổ chức nhân
sự, quản lý, điều hành việc đạo; có hệ thống tín đồ đơng đảo,
những người tự nguyện tin theo một tôn giáo nào đó và được
tơn giáo đó thừa nhận.
Chỉ rõ bản chất của tôn giáo, chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng
định rằng: Tôn giáo là một hiện tượng xã hội – văn hóa do con
người sáng tạo ra. Con người sáng tạo ra tơn giáo vì mục đích,
lợi ích của họ, phản ánh những ước mơ, nguyện vọng, suy nghĩ
6


của họ. Nhưng, sáng tạo ra tôn giáo, con người lại bị lệ thuộc
vào tơn giáo, tuyệt đối hóa và phục tùng tôn giáo vô điều kiện.
Chủ nghĩa Mác – Lênin cũng cho rằng, sản xuất vật chất và các
quan hệ kinh tế, xét đến cùng là nhân tố quyết định sự tồn tại
và phát triển của các hình thái kinh tế xã hội, trong đó có tơn

giáo. Do đó, mọi quan niệm về tôn giáo, các tổ chức, thiết chế
tôn giáo đều được sinh ra từ những hoạt động sản xuất, từ
những điều kiện sống nhất định trong xã hội và thay đổi theo
những thay đổi của cơ sở kinh tế.


Tơn giáo và tín ngưỡng
Tơn giáo và tín ngưỡng khơng đồng nhất, nhưng có giao

thoa nhất định. Tín ngưỡng là hệ thống những niềm tin, sự
ngưỡng mộ, cũng như cách thức thể hiện niềm tin của con
người trước các sự vật, hiện tượng, lực lượng có tính thần thánh,
linh thiêng để cầu mong sự che chở, giúp đỡ. Có nhiều loại hình
tín ngưỡng khác nhau như: tín ngưỡng Thờ cúng tổ tiên, tín
ngưỡng Thờ Mẫu,…


Tơn giáo với mê tín dị đoan
Mê tín dị đoan là niềm tin của con người vào các lực lượng

siêu nhiên, thần thánh đến mức mê muội, cuồng tín, dẫn đến
những hành vi cực đoan, sai lệch quá, trái với các giá trị văn
hóa, đạo đức, pháp luật, gây tổn hại cho cá nhân, xã hội và
cộng đồng. Đây là một hiện tượng xã hội tiêu cực, phải kiên
quyết bài trừ, nhằm lành mạnh hóa đời sống tin thần xã hội.
2. Nguồn gốc của tôn giáo

7



Trong lịch sử xã hội lồi người, tơn giáo xuất hiện từ rất
sớm. Nó hồn thiện và biến đổi cùng với sự biến đổi của những
điều kiện kinh tế – xã hội , văn hóa, chính trị. Tơn giáo ra đời bởi
nhiều nguồn gốc khác nhau nhưng cơ bản là từ các nguồn gốc
kinh tế – xã hội, nhận thức và tâm lý.


Nguồn gốc kinh tế − xã hội
Trong xã hội nguyên thủy, do trình độ lực lượng sản xuất

thấp kém, con người cảm thấy yếu đuối, lệ thuộc và bất lực
trước tự nhiên. Vì vậy họ đã gán cho tự nhiên những lực lượng
siêu nhiên có sức mạnh, quyền lực to lớn, quyết định đến cuộc
sống và họ phải tôn thờ.
Khi xã hội xuất hiện các giai cấp đối kháng, nạn áp bức bất
công của giai cấp thống trị đối với nhân dân lao động là nguồn
gốc nảy sinh tôn giáo. V.I.Lênin đã viết: “Sự bất lực của giai cấp
bị bóc lột trong cuộc đấu tranh chống bọn bóc lột tất nhiên sẽ
đẻ ra lòng tin vào một cuộc sống tốt đẹp hơn ở thế giới bên
kia”.


Nguồn gốc nhận thức
Tôn giáo bắt nguồn từ sự nhận thức hạn hẹp, mơ hồ về tự

nhiên, xã hội có liên quan đến đời sống, số phận của con người.
Con người đã gán cho nó những sức mạnh siêu nhiên, tạo ra các
biểu tượng tơn giáo. Mặt khác, trong q trình của nhận thức,
con người có thể nảy sinh những yếu tố suy diễn, tưởng tượng
xa lạ với hiện thực khách quan.



Nguồn gốc tâm lý

8


Tình cảm, cảm xúc, tâm trạng lo âu, sợ hãi, buồn chán,
tuyệt vọng đã dẫn con người đến sự khuất phục, không làm chủ
được bản thân là cơ sở tâm lý để hình thành tơn giáo. Mặt khác,
lịng biết ơn, sự tơn kính đối với những người có cơng khai phá
tự nhiên và chống lại các thế lực áp bức trong tình cảm, tâm lý
con người cũng là cơ sở để tơn giáo nảy sinh.
3. Tính chất của tơn giáo
Cũng như các hình thái ý thức xã hội khác, tơn giáo có tính
lịch sử, tính quần chúng và tính chính trị.


Tính lịch sử của tơn giáo
Tơn giáo ra đời, tồn tại và biến đổi phản ánh và phụ thuộc

vào sự vận động, phát triển của tồn tại xã hội. Tôn giáo còn tồn
tại rất lâu dài, nhưng sẽ mất đi khi con người làm chủ hoàn toàn
tự nhiên, xã hội và tư duy.



Tính quần chúng của tơn giáo
Tơn giáo phản ánh khát vọng của quần chúng bị áp bức về


một xã hội tự do, bình đẳng, bác ái (dù đó là hư ảo). Tôn giáo đã
trở thành nhu cầu tinh thần, đức tin, lối sống của một bộ phận
dân cư. Hiện nay, một bộ phận không nhỏ quần chúng nhân dân
tin theo các tơn giáo.


Tính chính trị của tơn giáo
Khi xã hội chưa có giai cấp, tơn giáo chỉ phản ánh nhận

thức hồn nhiên, ngây thơ của con người về bản thân và thế giới
9


xung quanh mình, tơn giáo chưa mang tính chính trị. Tính chính
trị của tơn giáo chỉ xuất hiện khi xã hội phân chia giai cấp, có sự
khác biệt, có sự đối kháng về lợi ích giai cấp. Trước hết, do tôn
giáo là sản phẩm của những điều kiện kinh tế – xã hội, phản
ánh lợi ích, nguyện vọng của các giai cấp khác nhau trong cuộc
đấu tranh giai cấp, đấu tranh dân tộc, nên tơn giáo mang tính
chính trị. Mặt khác, khi các giai cấp bóc lột, thống trị sử dụng
tơn giáo để phục vụ cho lợi ích giai cấp mình, chống lại các giai
cấp lao động và tiến bộ xã hội, tơn giáo mang tính chính trị tiêu
cực, phản tiến bộ.
Vì vậy, cần nhận thức rõ rằng, đa số quần chúng tín đồ đến
với tơn giáo nhằm thỏa mãn nhu cầu tinh thần, song trên thực
thế, tôn giáo đã và đang bị các thế lực chính trị – xã hội lợi dụng
thực hiện mục đích ngồi tơn giáo của họ.
II. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về giải quyết vấn đề tôn giáo
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
1. Tình hình tơn giáo trên thế giới

Theo Từ điển Bách khoa Tôn giáo thế giới năm 2001, hiện nay trên thế
giới có tới 10.000 tơn giáo khác nhau, trong đó khoảng 150 tơn giáo có hơn 1
triệu tín đồ. Những tôn giáo lớn trên thế giới hiện nay gồm có: Kitơ giáo (bao
gồm Cơng giáo, Tin Lành, Anh giáo hay Chính thống giáo) có khoảng 2 tỉ tín
đồ, chiếm 33% dân số thế giới; Hồi giáo: 1,3 tỉ đồ, chiếm 22% dân số thế giới;
Ấn Độ giáo: 900 triệu tín đồ, chiếm 15% dân số thế giới và Phật giáo: 360 triệu,
chiếm 6% dân số thế giới. Như vậy, chỉ tính các tơn giáo đã có 4,2 tỉ người tin
theo, chiếm 76% dân số thế giới.

10


Trong những năm gần đây hoạt động của các tôn giáo khá sôi động, diễn
ra theo nhiều xu hướng. Các tơn giáo đều có xu hướng mở rộng ảnh hưởng ra
tồn cầu; các tơn giáo cũng có xu hướng dân tộc hóa, bình dân hóa, mềm hóa
các giới luật lễ nghi để thích nghi, tồn tại, phát triển trong từng quốc gia dân tộc;
các tôn giáo cũng tăng các hoạt động giao lưu, thực hiện thêm các chức năng phi
tôn giáo theo hướng thế tục hóa, tích cực tham gia các hoạt động xã hội để mở
rộng ảnh hưởng làm sinh hoạt tôn giáo đa dạng, sôi động và không kém phần
phức tạp.
Đáng chú ý là gần đây, xu hướng đa thần giáo phát triển song song với xu
hướng nhất thần giáo, tuyệt đối hóa, thần bí hóa giáo chủ đang nổi lên. Đồng
thời, nhiều “hiện tượng tôn giáo lạ” ra đời, trong đó có khơng ít tổ chức tơn giáo
là tác nhân gây xung đột tôn giáo, xung đột dân tộc gay gắt trên thế giới hiện
nay.
2. Sự tồn tại của tôn giáo trong xã hội xã hội chủ nghĩa
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ
nghĩa, tơn giáo vẫn cịn tồn tại. Điều đó có nhiều nguyên nhân, trong đó có các
nguyên nhân chủ yếu sau:



Nguyên nhân nhận thức
Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ

nghĩa, vẫn còn nhiều hiện tượng tự nhiên, xã hội và con người mà khoa học
chưa lý giải được, trong khi đó trình độ dân trí lại chưa thực sự được nâng cao.
Do đó, trước những sức mạnh tự phát của giới tự nhiên và xã hội mà con người
vẫn chưa nhận thức và chế ngự được đã khiến cho một bộ phận nhân dân đi tìm
sự an ủi, che chở và lý giải chúng từ sức mạnh của thần linh.


Nguyên nhân kinh tế
11


Trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội, nền kinh tế vẫn còn tồn tại
nhiều thành phần kinh tế với những lợi ích khác nhau của các giai cấp, tầng lớp
xã hội. Trong đời sống hiện thực, sự bất bình đẳng về kinh tế, chính trị, văn hóa,
xã hội vẫn còn diễn ra, sự cách biệt khá lớn về đời sống vật chất, tinh thần giữa
các nhóm dân cư cịn tồn tại phổ biến. Do đó, những yếu tố may rủi, ngẫu nhiên
vẫn tác động mạnh mẽ đến con người, làm cho con người dễ trở nên thụ động
với tư tưởng nhờ cậy, mong cầu vào những lực lượng siêu nhiên.


Ngun nhân tâm lý
Tín ngưỡng, tơn giáo đã tồn tại lâu đời trong lịch sử nhân loại, đã trở

thành niềm tin, lối sống, phong tục tập quán, tình cảm của một số bộ phận đông
đảo quần chúng nhân dân qua nhiều thế hệ. Bởi vậy, cho dù trong tiến trình xây
dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa đã có những biến đổi

mạnh mẽ về kinh tế, chính trị – xã hội, song tơn giáo vẫn không thể biến đổi
ngay cùng với những biến đổi của kinh tế – xã hội mà nó phản ánh. Điều đó cho
thấy, trong mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, ý thức xã hội
thường có tính bảo thủ hơn so với sự biến đổi của tồn tại xã hội, trong đó ý thức
tơn giáo thường lại là yếu tố mang tính chất bền vững nhất trong đời sống tinh
thần của mỗi con người, của xã hội.


Nguyên nhân chính trị – xã hội
Xét về mặt giá trị, có những ngun tắc của tơn giáo phù hợp với chủ

nghĩa xã hội, với chủ trương, đường lối, chính sách của Nhà nước xã hội chủ
nghĩa. Đó là những giá trị đạo đức, văn hóa với tinh thần nhân đạo, hướng
thiện… đáp ứng được nhu cầu của một bộ phận quần chúng nhân dân. Chính vì
thế, trong một chừng mực nhất định, tơn giáo có sức thu hút mạnh mẽ đối với
một bộ phận quần chúng nhân dân. Mặt khác, những thế lực phản động lợi dụng

12


tôn giáo như một phương tiện để chống phá sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội.


Nguyên nhân văn hóa
Trong thực tế sinh hoạt văn hóa xã hội, sinh hoạt tín ngưỡng tôn giáo đã

đáp ứng được phần nào nhu cầu văn hóa tinh thần của cộng đồng xã hội và trong
một mức độ nhất định, có ý nghĩa giáo dục ý thức cộng đồng, phong cách, lối
sống của mỗi cá nhân trong cộng đồng. Về phương diện sinh hoạt văn hóa, tơn

giáo thường được thực hiện dưới hình thức là những nghi lễ tín ngưỡng cùng với
những lời răn theo chuẩn mực đạo đức phù hợp với quan niệm của mỗi loại tơn
giáo. Những sinh hoạt văn hóa có tính chất tín ngưỡng, tơn giáo ấy đã thu hút
một bộ phận quần chúng nhân dân xuất phát từ nhu cầu văn hóa tinh thần, tình
cảm của họ.
Trên đây là những ngun nhân cơ bản khiến tơn giáo vẫn cịn tồn tại
trong tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội và trong xã hội xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên, cũng với tiến trình đó, tơn giáo cũng có những biến đổi cùng với sự thay
đổi của những điều kiện kinh tế – xã hội, với quá trình cải tạo xã hội cũ, xây
dựng xã hội mới.
3. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về giải quyết vấn đề tôn giáo
trong cách mạng xã hội chủ nghĩa
Giải quyết vấn đề tôn giáo là một quá trình lâu dài gắn với quá trình phát
triển của cách mạng xã hội chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị,
văn hóa, giáo dục, khoa học công nghệ nhằm nâng cao đời sống vật chất, tinh
thần của nhân dân. Để giải quyết tốt vấn đề tôn giáo, cần thực hiện các vấn đề có
tính ngun tắc sau:

13




Một là, tôn trọng và đảm bảo quyền tự do tín ngưỡng và khơng tín ngưỡng của
nhân dân
Tín ngưỡng tơn giáo là niềm tin sâu sắc của quần chúng vào đấng tối cao,
đấng thiêng liêng nào đó mà họ tơn thờ, thuộc lĩnh vực ý thức tư tưởng. Do đó,
tự do tín ngưỡng và tự do khơng tín ngưỡng thuộc quyền tự do tư tưởng của
nhân dân. Quyền này nói lên rằng việc theo đạo, đổi đạo, hay bỏ đạo là thuộc
quyền tự do lựa chọn của mỗi người dân, không một cá nhân, tổ chức nào, kể cả

các chức sắc tôn giáo, tổ chức giáo hội… được quyền can thiệp vào sự lựa chọn
này. Mọi hành vi cấm đoán, ngăn cản tự do theo đạo, đổi đạo, bỏ đạo hay đe
dọa, bắt buộc người dân phải theo đạo đều xâm phạm đến quyền tự do tư tuỏng
của họ.
Tôn trọng tự do tín ngưỡng cũng chính là tơn trọng quyền con người, thể
hiện bản chất ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa. Nhà nước xã hội chủ nghĩa
không can thiệp và không cho bất cứ ai can thiệp, xâm phạm đến quyền tự do tín
ngưỡng, quyền lựa chọn theo hoặc không theo tôn giáo của nhân dân. Các tơn
giáo và hoạt động tơn giáo bình thường, các cơ sở thờ tự, các phương tiện phục
vụ nhằm thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng của người dân được Nhà nước xã hội chủ
nghĩa tơn trọng và bảo hộ.



Hai là, khắc phục dần những ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo phải gắn liền với
quá trình cải tạo xã hội cũ xây dựng xã hội mới – xã hội xã hội chủ nghĩa
Chủ nghĩa Mác – Lênin khẳng định, chỉ có thể giải phóng quần chúng
khỏi ảnh hưởng tiêu cực của tôn giáo bằng cách từng bước giải quyết nguồn gốc
tự nhiên, nguồn gốc xã hội của tơn giáo. Đó phải là kết quả của sự nghiệp cải tạo
xã hội cũ, xây dựng xã hội mới một cách toàn diện. Theo đó, giải
quyết các vấn đề tơn giáo phải sử dụng tổng hợp các giải pháp
trên tất cả các lĩnh vực nhằm xác lập được một thế giới hiện
14


thực khơng có áp bức, bất cơng, nghèo đói, dốt nát. Tuyệt đối khơng được
sử dụng mệnh lệnh hành chính cưỡng chế để tun truyền, xóa bỏ tơn giáo.


Ba là, phân biệt rõ mối quan hệ giữa hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải

quyết các vấn đề tôn giáo
Trong xã hội cơng xã ngun thủy, tín ngưỡng, tơn giáo chỉ biểu hiện
thuần túy về mặt tư tưởng. Nhưng khi xã hội xuất hiện các giai cấp thì dấu ấn
giai cấp – chính trị ít nhiều đều in rõ trong các tơn giáo. Từ đó, hai mặt chính trị
và tư tưởng thường biểu hiện và có mối quan hệ với nhau trong vấn đề tôn giáo
và bản thân mỗi tơn giáo.
Mặt chính trị phản ánh mỗi quan hệ giữa tiến bộ với phản tiến bộ, phản
ánh mâu thuẫn đối kháng về lợi ích kinh tế, chính trị giữa các giai cấp, mâu
thuẫn giữa những thế lực lợi dụng tôn giáo chống lại sự nghiệp cách mạng với
lợi ích của nhân dân lao động. Mặt tư tưởng biểu hiện sự khác nhau về niềm tin,
mức độ tin giữa những người có tín ngưỡng, tơn giáo khác nhau, phản ánh mâu
thuẫn khơng mang tính đối kháng.
Phân biệt hai mặt chính trị và tư tưởng trong giải quyết vấn đề tôn giáo
thực chất là phân biệt tính chất khác nhau của hai loại mâu thuẫn luôn tồn tại
trong bản thân tôn giáo và trong vấn đề tôn giáo. Sự phân biệt này, trong thực tế
không đơn giản, bởi lẽ, trong đời sống xã hội, hiện tượng nhiều khi phản ánh sai
lệch bản chất, mà vấn đề chính trị và tư tưởng trong tôn giáo thường đan xen vào
nhau. Mặt khác, trong xã hội có đối kháng giai cấp, tơn giáo thường bị yếu tố
chính trị chi phối rất sâu sắc, nên khó nhận biết vấn đề chính trị hay tư tưởng
thuần túy trong tôn giáo. Việc phân biệt hai mặt này là cần thiết nhằm tránh xu
hướng cực đoan trong quá trình quản lý, ứng xử những vấn đề liên quan đến tín
ngưỡng, tơn giáo.



Bốn là, phải có quan điểm lịch sử cụ thể trong giải quyết các vấn đề tôn giáo
15


Tôn giáo không phải một hiện tượng xã hội bất biến, ngược lại, nó ln

ln vận động và biến đổi không ngừng tùy thuộc vào những điều kiện kinh tế ‒
xã hội – lịch sử cụ thể. Mỗi tôn giáo đều có lịch sử hình thành, có q trình tồn
tại và phát triển nhất định. Ở những thời kì lịch sử khác nhau, vai trị, tác động
của từng tơn giáo đối với đời sống xã hội không giống nhau. Quan điểm, thái độ
của các giáo hội, giáo sĩ, giáo dân về những lĩnh vực của đời sống xã hội luôn có
sự khác biệt. Vì vậy, cần phải có quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét, đánh giá
và ứng xử đối với những vấn đề có liên quan đến tôn giáo và đối với từng tôn
giáo cụ thể.

16


Vấn đề tơn giáo ở Việt Nam
I. Tình hình tơn giáo ở Việt Nam
1. Khái qt tình hình tơn giáo ở Việt Nam
Việt Nam là quốc gia có nhiều tơn giáo và nhiều người tin theo các tôn
giáo. Hiện nay, ở nước ta có 6 tơn giáo lớn: Phật giáo, Cơng giáo, Tin Lành, Hồi
giáo, Cao Đài, Hịa Hảo với số tín đồ lên tới gần 20 triệu.
Trong những năm gần đây các tôn giáo đẩy mạnh hoạt động nhằm phát
triển tổ chức, phát huy ảnh hưởng trong đời sống tinh thần xã hội. Các giáo hội
đều tăng cường hoạt động mở rộng ảnh hưởng, thu hút tín đồ; tăng cường quan
hệ với các tổ chức tôn giáo thế giới. Các cơ sở tôn giáo được tu bổ, xây dựng
mới khang trang đẹp đẽ; các lễ hội tôn giáo diễn ra sơi động ở nhiều nơi.
Tuy nhiên tình hình tơn giáo cịn có những diễn biến phức tạp, tiềm ẩn
những nhân tố gây mất ổn định. Vẫn cịn có chức sắc, tín đồ mang tư tưởng
chống đối, cực đoan, quá khích gây tổn hại đến lợi ích dân tộc. Các hoạt động
tơn giáo vẫn cịn xen lẫn với mê tín dị đoan, còn các hiện tượng tà giáo hoạt
động làm mất trật tự an toàn xã hội.
Các thế lực thù địch vẫn luôn lợi dụng vấn đề tôn giáo để chống phá cách
mạng Việt Nam. Chúng gắn vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền” với cái gọi là “tự

do tôn giáo” để chia rẽ tôn giáo, dân tộc; tài trợ, xúi giục các phần tử xấu trong
các tôn giáo truyền đạo trái phép, lôi kéo các tôn giáo vào những hoạt động trái
pháp luật, gây mất ổn định chính trị.

17


2. Đặc điểm tơn giáo ở Việt Nam
Từ tình hình thực tế trên, ta có thể thấy được tơn giáo ở
Việt Nam có những đặc điểm sau:


Thứ nhất, Việt Nam là quốc gia có nhiều tơn giáo
Nước ta hiện nay có 13 tơn giáo đã được cơng nhận tư

cách pháp nhân và trên 40 tổ chức tôn giáo đã được cơng nhận
về mặt tổ chức hoặc đã đăng kí hoạt động với khoảng 24 triệu
tín đồ, 95.000 chức sắc, 200.000 chức việc và hơn 32.250 cơ sở
thờ tự. Các tổ chức tơn giáo có nhiều hình thức tồn tại khác
nhau, có tơn giáo du nhập từ bên ngồi vào theo dịng chảy của
lịch sử như Phật giáo, Cơng giáo, Tin Lành, Hồi giáo; có tơn giáo
nội sinh như Cao Đài, Hịa Hảo, …


Thứ hai: Tơn giáo ở Việt Nam đa dạng, đan xen, chung sống hịa
bình và khơng có xung đột, chiến tranh tôn giáo
Việt Nam là nơi giao lưu của nhiều luồng văn hóa trên thế
giới. Các tơn giáo ở Việt Nam có sự đa dạng về nguồn gốc và
truyền thống lịch sử. Mỗi tôn giáo ở Việt Nam có q trình lịch
sử tồn tại và phát triển khác nhau, nên sự gắn bó dân tộc cũng

khác nhau. Tín đồ của các tơn giáo khác nhau cùng chung sống
hịa bình trên một địa bàn, giữa họ có sự tơn trọng niềm tin của
nhau và chưa từng xảy ra xung đột, chiến tranh tơn giáo. Thực
tế cho thấy, khơng có một tôn giáo nào du nhập vào Việt Nam
mà không mang dấu ấn, không chịu ảnh hưởng của bản sắc văn
hóa Việt Nam.



Thứ ba: Tín đồ các tơn giáo Việt Nam phần lớn là nhân dân lao
động, có lịng u nước, tinh thần dân tộc
18


Tín đồ các tơn giáo Việt Nam có thành phần rất đa dạng,
chủ yếu là người lao động. Đa số tín đồ tơn giáo đều có tinh
thần u nước, chống giặc ngoại xâm, tơn trọng cơng lý, gắn bó
với dân tộc, đi theo Đảng, theo cách mạng, hăng hái tham gia
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam. Trong các giai đoạn lịch
sử, tín đồ các tơn giáo cùng với các tầng lớp nhân dân làm nên
thắng lợi to lớn, vẻ vang của dân tộc và có ước vọng sống “tốt
đời, đẹp đạo”.


Thứ tư: Hàng ngũ chức sắc các tơn giáo có vai trị, vị trí quan
trọng trong giáo hội, có uy tín, ảnh hưởng với tín đồ
Chức sắc tơn giáo là tín đồ có chức vụ, phẩm sắc trong tôn
giáo, họ tự nguyện thực hiện thường xuyên nếp sống riêng theo
giáo lý, giáo luật của tôn giáo mà mình tin theo. Về mặt tơn
giáo, chức năng của của là truyền bá, thực hành giáo lý, giáo

luật, lễ nghi, quản lý tổ chức tơn giáo, duy trì, củng cố, phát
triển tôn giáo, chuyên chăm lo đến đời sống tâm linh của tín đồ.
Trong giai đoạn hiện nay, hàng ngũ chức sắc các tôn giáo ở
Việt Nam luôn chịu sự tác động của tình hình chính trị ‒ xã hội
trong và ngồi nước, nhưng nhìn chung xu hướng tiến bộ trong
hàng ngũ chức sắc ngày càng phát triển.



Thứ năm: Các tơn giáo ở Việt Nam đều có quan hệ với các tổ
chức, cá nhân tơn giáo ở nước ngồi
Nhìn chung các tôn giáo nước ta, không chỉ các tôn giáo
ngoại nhập, mà cả các tơn giáo nội sinh đều có quan hệ với các
tổ chức, cá nhân tôn giáo ở nước ngồi hoặc các tổ chức tơn
giáo quốc tế. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước Việt
19


Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với gần 200 quốc gia và
vùng lãnh thổ trên toàn thế giới. Đây chính là điều kiện gián
tiếp củng cố và phát sinh mối quan hệ giữa các tôn giáo Việt
Nam với các tơn giáo ở các nước trên thế giới.


Thứ sáu: Tôn giáo ở Việt Nam thường bị các thế lực phản động
lợi dụng
Trong những năm trước đây cũng như giai đoạn hiện nay,
các thế lực thực dân đế quốc luôn chú ý ủng hộ, tiếp tay cho
các đối tượng phản động ở trong nước lợi dụng tôn giáo để thực
hiện âm mưu “diễn biễn hịa bình” đối với nước ta. Lợi dụng

đường lối đổi mới, mở rộng dân chủ của Đảng và Nhà nước ta,
các thế lực thù địch bên ngồi thúc đẩy các hoạt động tơn giáo,
tập hợp tín đồ, tạo thành một lực lượng để cạnh tranh ảnh
hưởng và làm đối trọng với Đảng Cộng sản, đấu tranh địi hoạt
động của tơn giáo thốt ly khỏi sự quản lý của Nhà nước; tìm
mọi cách quốc tế hóa “vấn đề tôn giáo” ở Việt Nam để vu cáo
Việt Nam vi phạm dân chủ, nhân quyền, tự do tôn giáo.
II. Chính sách tơn giáo của Đảng, Nhà nước ta hiện nay
Quan điểm, chính sách tơn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam bao
gồm những nội dung cơ bản sau:



Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu tinh thần của nhân dân, đang và sẽ tồn tại lâu
dài cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta
Đảng ta khẳng định, tín ngưỡng, tơn giáo sẽ tồn tại lâu dài cùng dân tộc
trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Sự khảng định đó mang tính khoa
học và cách mạng, hồn tồn khác với cách nhìn nhận chủ quan, tả khuynh khi
cho rằng có thể bằng các biện pháp hành chính, hay khi trình độ dân trí cao, đời
20


sống vật chất được bảo đảm là có thể làm cho tín ngưỡng, tơn giáo mất đi; hoặc
duy tâm, hữu khuynh khi nhìn nhận tín ngưỡng, tơn giáo là hiện tượng bất biến,
độc lập, thoát ly với mọi cơ sở kinh tế – xã hội, thể chế chính trị.
Vì vậy, thực hiện nhất qn chính sách tơn trọng và bảo đảm quyền tự do
tín ngưỡng, theo hoặc khơng theo một tín ngưỡng, tơn giáo nào, quyền sinh hoạt
tín ngưỡng, tơn giáo bình thường theo đúng pháp luật. Các tơn giáo hoạt động
trong khn khổ pháp luật, bình đẳng trước pháp luật.



Đảng, Nhà nước thực hiện nhất qn chính sách đại đồn kết dân tộc
Đồn kết đồng bào theo các tơn giáo khác nhau; đồn kết đồng bào theo

tơn giáo và không theo tôn giáo. Nhà nước xã hội chủ nghĩa, một mặt, nghiêm
cấm mọi hành vi chia rẽ, phân biệt đối xử với cơng dân vì lý do tín ngưỡng, tơn
giáo; mặt khác, thơng qua q trình vận đọng quần chúng nhân dân tham gia lao
dộng sản xuất, hoạt động xã hội thực tiễn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần,
nâng cao trình độ kiến thức… để tăng cường sự đồn kết vì mục tiêu “dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh”, cùng nhau xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Mọi cơng dân, khơng phân biệt tín ngưỡng, tơn
giáo, đều có quyền và nghĩa vụ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc.
Giữ gìn và phát huy những giá trị tích cực của truyền thống thờ cúng tổ
tiên, tơn vinh những người có công với Tổ quốc và nhân dân. Đồng thời, nghiêm
cấm lợi dụng tín ngưỡng, tơn giáo để hoạt động mê tín dị đoan, hoạt động trái
pháp luật và chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các
dân tộc, gây rối, xâm phạm an ninh quốc gia.


Nội dung cốt lõi của cơng tác tơn giáo là công tác vận động quần chúng
Công tác vận động quần chúng các tôn giáo nhằm động viên đồng bào nêu

cao tinh thần yêu nước, ý thức bảo vệ độc lập và thống nhất đất nước; thông qua
việc thực hiện tốt các chính sách kinh tế – xã hội, quốc phịng – an ninh, bảo
21


đảm lợi ích vật chất và tinh thần của nhân dân nói chung, trong đó có đồng bào
tơn giáo.
Đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa vùng đồng bào theo các tơn

giáo nhằm nâng cao trình độ, đời sống mọi mặt cho đồng bào, làm cho quần
chúng nhân dân nhận thức đầy đủ, đúng đắn đường lối, chính sách của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, tích cực, nghiêm túc thực hiện đường lối, chính sách,
pháp luật, trong đó có chính sách, pháp luật về tín ngưỡng, tơn giáo.


Cơng tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị
Cơng tác tơn giáo có liên quan đến nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, các

cấp, các ngành, các địa bàn, liên quan đến chính sách đối nội và đối ngoại của
Đảng, Nhà nước. Công tác tôn giáo khơng chỉ liên quan đến quần chúng tín đồ,
chức sắc các tơn giáo, mà cịn gắn liền với cơng tác đấu tranh với âm mưu, hoạt
động lợi dụng tôn giáo gây hại đến lợi ích Tổ quốc, dân tộc. Làm tốt cơng tác
tơn giáo là trách nhiệm của tồn bộ hệ thống chính trị, bao gồm hệ thống tổ chức
đảng, chính quyền, mặt trận Tổ quốc, đồn thể chính trị do Đảng lãnh đạo. Cần
củng cố và kiện toàn tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công
tác tôn giáo các cấp. Tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các tôn giáo
và đấu tranh với các hoạt động lợi dụng tôn giáo gây hại đến lợi ích Tổ quốc và
dân tộc.


Vấn đề theo đạo và truyền đạo
Mọi tín đồ có quyền tự do hành đạo tại gia đình và cơ sở thờ tự hợp pháp

theo quy định của pháp luật. Các tổ chức tôn giáo được Nhà nước thừa nhận
được hoạt động theo pháp luật và được pháp luật bảo hộ. Việc theo đạo, truyền
đạo cũng như mọi hoạt động tôn giáo khác đều phải tuân thủ Hiến pháp và pháp
luật; không được lợi dụng tôn giáo để tuyên truyền tà đạo, hoạt động mê tín dị
đoan, khơng được ép buộc người dân theo đạo. Nghiêm cấm các tổ chức truyền
22



đạo, người truyền đạo và các cách thức truyền đạo trái phép, vi phạm các quy
định của Hiến pháp và pháp luật.
III. Trách nhiệm của sinh viên
Với tư cách là một trong những chủ nhân tương lai của đất
nước, sinh viên chúng ta cần tự nhận thấy bản thân có vai trị,
trách nhiệm góp phần xây dựng khối đồn kết của dân tộc ta
trong vấn đề dân tộc, tôn giáo. Cụ thể là:


Nắm vững quan điểm và tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lênin để
có thể nhận thức đúng đắn về tôn giáo và vấn đề tôn giáo
Thông qua học phần Chủ nghĩa xã hội khoa học và các học
phần khác về chủ nghĩa Mác – Lênin được giảng dạy trong các
trường đại học, cao đẳng; chúng ta đã biết rằng tơn giáo chỉ là
một hình thái ý thức xã hội, phản ánh hiện thực khách quan,
theo quan niệm hoang đường, ảo tưởng phù hợp với tâm lí,
hành vi của con người. Và để giải quyết các vấn đề tôn giáo,
chúng ta không thể dùng phương pháp bạo lực, đàn áp các tơn
giáo mà phải tìm cách thay đổi tồn tại xã hội bằng cách xây
dựng đổi mới xã hội.
Đồng thời, chúng ta cần phải phân biệt rõ tôn giáo và mê
tín dị đoan, tránh bị dụ dỗ, tin theo những hành động sai trái
gây tổn hại đến bản thân và lợi ích xã hội.



Hiểu đúng và thực hiện tốt về quan điểm, chính sách của Đảng
và Nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề tôn giáo

Nhà nước ta coi công tác tôn giáo là trách nhiệm của cả hệ
thống chính trị, chủ trương chính sách đại đồn kết dân tộc, tơn
trọng quyền tự do tín ngưỡng của nhân dân,… Hiểu rõ những
23


điều này và áp dụng vào trong đời sống thực tiễn, sinh viên
chúng ta cần phải sống hịa đồng, khơng phân biệt vùng miền,
dân tộc, tôn giáo với các bạn cùng trang lứa cũng như mọi
người xung quanh, nhằm giúp vững mạnh khối đồn kết dân
tộc.


Đấu tranh phịng chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề tôn
giáo chống phá cách mạng Việt Nam
Vấn đề tôn giáo là một trong những lĩnh vực trọng yếu mà các thế lực thù
địch lợi dụng để chống phá cách mạng, cùng với việc lợi dụng trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, tư tưởng nhằm chuyển hóa xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam: xóa
bỏ vai trị lãnh đạo của Đảng với toàn xã hội.
Nhận thức đúng cuộc đấu tranh chống lại các thế lực thù
địch lợi dụng các vấn đề tôn giáo chống phá cách mạng Việt
Nam là cuộc đấu tranh phức tạp, quyết liệt và lâu dài. Các thế
lực thù địch vô cùng thủ đoạn, gian xảo, mà hiện nay chúng
đang nhắm tới các trường đại học, cao đẳng, trung cấp chuyên
nghiệp; lợi dụng, lừa gạt học sinh, sinh viên – những người năng
động, sáng tạo, mong muốn cống hiến cho đất nước nhưng
chưa có nhiều trải nghiệm. Do đó chúng ta cần phải tích cực
cảnh giác, tích cực đấu tranh với những hành động sai trái của
các thành phần biến chất.




Tuyên truyền nâng cao nhận thức của người dân về chính sách
tơn giáo của Nhà nước nhằm tăng cường khối đại đoàn kết dân
tộc

24


Nhiều bộ phận người dân chưa hiểu rõ về chính sách tôn
giáo của Nhà nước ta, dễ bị các thế lực bên ngồi lợi dụng kích
động, gây chia rẽ khối đại đồn kết dân tộc. Chúng ta, những
người có kiến thức và hiểu rõ vấn đề, cần có trách nhiệm tuyên
truyền, giải thích với người dân về những chính sách đó.


Tích cực học tập nâng cao trình độ, rèn luyện phẩm chất và bản
lĩnh; đồng thời quan tâm, nắm rõ tình hình thời thế của đất
nước cũng như thế giới về nhiều mặt đời sống – xã hội
Như đã nói ở trên, giải quyết các vấn đề tôn giáo chỉ có thể
bằng cách xây dựng và đổi mới xã hội. Xây dựng và phát triển
đất nước ngày càng giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
là trách nhiệm của sinh viên chúng ta – những chủ nhân tương
lai của đất nước. Chỉ có học tập và rèn luyện chăm chỉ mới có
thể giúp chúng ta làm chủ bản thân, phát triển đất nước.

25



×