Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

dan ca xu nghe

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (412.45 KB, 21 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span>Làn điệu dân ca xứ nghệ Qui trình tập hát 1/ Kiểm tra bài cũ gọi 1 vài em lên hát 2/ Giới thiệu bài hát mới. 3/ Ghi lời ca lên bảng, nếu chép sẵn rồi thì treo lên. 4/ Mở đĩa cho HS nghe bài hát mẫu 5/ Đọc lời ca 6/ Khởi động giọng 7/ Tập hát từng câu, theo kiểu móc xích. 8/ Hát cả bài 9/ Chia theo dãy hát theo đàn. 10/ Củng cố kiểm tra. các làn điệu dân ca Một số làn điệu dan ca nghệ tĩnh. Hát giặm Tiếng giặm có nghĩa là ghép vào, điền vào, đan vào một chỗ thiếu....xuất hiện ở Nghệ Tĩnh cách đây khoảng ba , bốn trăm năm. Về nội dung, có nhiều bài hát giặm rất tình tứ, cũng có nhiều bài có tính chất chống giai cấp phong kiến. Về hình thức, phần nhiều các bài hát dặm đều gồm những câu năm chữ và cước vận, tức vần ở cuối câu: cứ hai câu cuối mỗi đoạn lại lấy một ý, điệp cả về ý, lẫn lời: vd: Tôi lấy chân khoả lại Tôi lấy bàn khoả lại hay: Thấy những lời kêu trách Nghe những lời kêu trách . Bài hát có bao nhiêu đoạn thì có bấy nhiêu lần điệp lại như vậy, nghe đọc thì thấy vướng, nhưng khi hát, nólàm nổi ý của câu hát, của cả bài. Hát giặm cũng có ba lối trình diễn: nam nữ đối đáp, có lối vài ba người hát kể lên một gia thoại, hay một sự việc vừa xảy ra, lại có lối kể một sự tích gì có tình tiết nội dung, và hình thức đều được trau chuốt. Hát giặm Nghệ Tĩnh không hoàn toàn do dân sáng tác, có khi do một số nho sĩ sáng tác, được nhân dân ưa thích và phổ biến rộng rãi VD: Trai: Tiết thanh nhàn thong thả Muốn thăm hỏi vài câu Cuốc thánh thót kêu sầu Gió phảng phất mùa sâu Nhớ trong sách đã lâu: Chuyện "Tư mã phượng cầu" Thương thì mũi tìm trâu Trâu đâu tìm chạc mũi Gái: Trời mở rộng phong quang.

<span class='text_page_counter'>(2)</span> Giã ơn trời mở rộng phong quang Em đánh tiếng đua sang Đêm tàn canh vò võ Tay em cầm con bấc đỏ Mong bỏ đĩa dầu đầy Mời bạn ở lại đây Đôi ta giở lời rày Tình đó với nghĩa đây Trai: Giống như đọi nác đầy Bưng nhẩn nhẩn trên tay Không khuy sơ một hột Gió nỏ triềng một hột. Công đôi ta thề thốt Kể đã mấy niên rồi Lòng đã quyết lứa đôi Ngãi đã quyết thề bồi Nhất ngôn nói hẳn lời Đừng bốn chốn ba nơi Đừng trăn gió chào mời Trăng nhiều trăng rạng rỡ Trăn nhiều đèn rạng rỡ.

<span class='text_page_counter'>(3)</span> Gái: Em đã có chồng rồi Em đã có lứa rồi Vung úp đã vừa nồi Đũa ghép đã thành đôi Bạn đừng có ỡm ờ với tôi! Tôi lấy chân khoả lại Tôi lấy bàn khoả lại Trai: Têm một quả trầu không Bỏ vô hộp con rồng Đi băng nội băng đồng Qua năm bảy khúc sông Qua chín mười đỗi đồng Nghe tin em đã có chồng Anh quăng lắc vô bụi Bạn gạt tùa vô bụi. Anh thương em một tháng hai kỳ Dồn đi tính lại, cũng như mười ngày Năm rộn mà chầy Có hai mươi bốn miện (Miện = kỳ) Xuân qua rồi hè /đến Thu đã muộn, đông rồi Nhớ bạn cũ chưa nguôi, Sang lập xuân vũ thuỷ Đêm em nằm em nghĩ Nghĩ kinh trập, xuân phân, Lòng tưởng sự ái ân Sang thanh minh, cốc vũ Đêm dêm nằm nỏ ngủ Nhớ bạn mãi thường thường Tiết lập hạ nhớ thương Bước sang tuần tiểu mãn Trông ra ngoài chán chán Tiết mang hiện lại gần Người đập đất, gánh phân Để mùa màng gặt hái Anh thương em mãi mãi Sang hạ chí tiết hè Em nghe tiếng sầu ve Em buồn trong gia sự Bạn buồn trong gia sự *** Tiết tiểu thử, đại thử Trời nắng sốt lắm thay!.

<span class='text_page_counter'>(4)</span> Ra ngồi tựa cột cây Anh với em than thở Bạn với mình than thở *** Tiết lập thu, xử thử Ai diều sáo mặc ai Vàng lác đác giếng tây Ta thương người bạn cộ (Cộ = cũ) Nhớ mãi người bạn cộ *** Vừa đến tiết bạch lộ Bầy chim trắng bay sang Cây heo hắt lá vàng Sang thu phân hàn lộ. *** Đêm em nằm, em chộ (chộ = thấy) Tiết sương giáng lại kề Trông bạn cũ ta về Sang lập đông giá rét Tiết tiểu tuyết, đại tuyết Trời giá rét lắm thay Sang đông chí cấy cày Dạ bồi hồi nhớ bạn Tiết tiểu hàn chưa dạn Đã bước sang đại hàn Dạ tưởng nhớ người ngoan Vừa năm cùng tháng tận Vừa cuối mùa cuối tận. *** Phận lại ngồi trách phận Phận nỏ giám trách phận Anh thương em từ tháng giêng đến tháng chạp Hát ví Nghệ Tĩnh:. Hát Ví Nghệ Tĩnh là những loại dân ca xuất hiện trong nghề nông và nghề thủ công. Có nhiều điệu hát ví như: hát phường vải, hát phường cấy, hát đò đưa, hát phường buôn.... Tron những điệu hát này, hát phường vải và hát phường cấy có tổ chức và phổ biến hơn cả. Hát phường vải: Những câu hát phường vải là những câu biểu lộ tâm tình của hai bên trai gái, hoặc là những ước mơ về yêu đương, hoặc là những lời oán trách kẻ chia rẽ tình duyên, và bao giờ cũng lạc quan, tin tưởng. Hat phường vải gồm có bốn giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất: hát dạo, hát mừng, hát chào và há hỏi. Giai đoạn thứ hai: hát đố và hát đối. Giai đoạn thứ ba: hát mời và hát xe kết. Giai đoạn thứ tư: hát tiễn. Giai đoạn 1:.

<span class='text_page_counter'>(5)</span> Hát dạo Bấy lâu thức nhắp mơ màng Bên rèm tiếng gió, đầu giường bóng trăng * Bấy lâu nghe hết tiếng nàng Bên anh nức tiếng đồn vang đã lừng Nghe tin anh cũng vội mừng Vậy nên chẳng quản suối rừng anh sang * Bấy lâu anh mức chi nhà Để em dệt gấm thêu hoa thêm sầu * Đồn rằng cá uốn thân vây Đồn em hay hát, hát hay anh tìm * Chốn này vui vẻ, tưng bừng Hạc nghe tiếng phượng xa chừng tới nơi * Đêm khuya trời tạnh sương im Tai nghe tiếng nhạc, chàng Kim tới gần.. * Dừng xa, khoan kéo, ơi phường! Hình như có khách viễn phương tới nhà * Đi qua nghe tiếng em reo, Nghe xa em kéo, muốn đeo em về. * Đi ngang trước cửa nàng Kiều, Dừng chân đứng lại, dặt dìu đôi câu * Đi ngang thấy búp hoa đa`o.

<span class='text_page_counter'>(6)</span> Muốn vào mà bẻ, sợ bờ rào lắm gai * Đồn đây là chốn Đao` Nguyên Trăng thanh gió mát, cắm thuyền dạo chơi * Lạ lùng anh mới tới đây, Thấy hoa liền hái, biết cây ai trồng * Đến đây vàng cũng như son Ai ai thời cũng như con một nhà *. Hát mừng, hát chào Khi nháy mắt, khi nhện sa Khi chuột rích trong nhà Khi khách kêu ngoài ngõ Tay em đưa go đủng đỉnh Tay em chìa khoá động đào Bước năm lần cửa, ra chào bạn quen * Mừng rằng bạn đến chơi nhà Cam lòng thục nữ gọi là trao tay *. Hát hỏi Em có chồng rồi, em nói rằng chưa Tội riêng em đó, nỏ lừa được anh * Em chưa có chồng, em mới đến đây Chồng rồi chiếu trải, màn vây ở nhà Giai đoạn 2: *. Hát đố và hát đối Anh về chẻ lạt bó tro Rán sành ra mỡ, em cho làm chồng. Em về đục núi lòn qua, Vắt cổ chày ra nước, thì ta làm chồng * Trai thanh xuân ngồi hàng thuốc bắc, Gái đông sàng cảm bệnh lầu tây Hai ta tình nặng nghĩa dày, Đối ra đáp được, lúc này tính sao? * - Đến đây hỏi khác tương phùng a.Chim chi một cánh bay cùng nước non? -Tương phùng nhắn với tương tri, Lá buồm một cánh bay đi khắp trời * - Lá gì không nhánh, không ngành? Lá gì chỉ có tay mình trao tay?.

<span class='text_page_counter'>(7)</span> - Lá thư không nhánh, không ngành, Lá thư chỉ có tay mình trao tay. * - Nghe tin anh hoc có tài Cha thầy Mạnh Tử là ai rứa chàng? - Thầy Mạnh, cụ Mạnh sinh ra Đù mẹ con hát, tổ cha thằng bày! * - Người Kim Mã cưỡi co ngựa vàng Đất Phù Long rồng nổi, thì chàng đối chi? - Người Thanh Thuỷ gặp khách nước trong Hoành sơn ngang núi, đã thoả lòng em chưa? *. Nghe anh bôn tẩu bấy lâu Nghệ An có mấy chiếc cầu hỡi anh? - Nghệ An có ba mươi sáu chiếc cầu Phồn hoa đi lại bốn cầu mà thôi Cầu danh, cầu lợi, cầu tài Cầu cho đây đó làm hai giao hoà * Nhớ em nhất nhật một ngày Đêm tơ tưởng dạ, làng rày nhớ trông - Chờ em nửa tháng ni rồi Ôm đờn bán nguyệt, dựa ngồi cung trăng * - Nghe tin anh giỏi, anh tài Đào tiên một cõi Thiên Thai ai trồng? - Thiên thai là của nàng Kiều Riêng chàng Kim Trọng sớm chiều vào ra * Anh mãi tìm những giây phút dịu êm Giữa khoảng trống mênh mông,buồn tẻ Rồi một chiều, lẫn trong làn gió nhẹ Anh nghe tiếng em cười,bắt gặp mắt em * Nghe tin em đau đầu, sổ mũi..

<span class='text_page_counter'>(8)</span> Anh băng rừng bẻ lá về xông. Ước gì em vợ, anh chồng Đổ mồ hôi anh quạt, cơn nắng nồng anh che. Địa danh trong tục ngữ Nghệ Tĩnh. a . Địa danh có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp: "Topos" (vị trí) và "omoma" / "onyma" (tên, gọi). Trong ngôn ngữ học, ngành địa danh học (Toponymic) và nhân danh học (Athronymic thuộc bộ môn khoa học có tên là danh xưng học (onomasiologie). Trên lý thuyết, danh xưng học còn có một ngành khoa học nữa là vật danh học (nghiên cứu tên riêng của các thiên thể, nhãn hiệu sản phẩm, biển hiệu…). Tất cả các tên gọi địa lý được đánh dấu, ghi nhận bằng cá địa danh và những nhà nghiên cứu tên gọi đó là các nhà địa danh học. Trong tác phẩm Địa danh học là gì, A.V. Xuperanxkaja đã định nghĩa: "Địa danh là một chuyên ngành của ngôn ngữ học nghiên cứu các tên gọi địa lý, giải thích sự cấu tạo, lịch sử xuất hiện của chúng và phân tích ý nghĩa ban đầu của các từ cấu tạo nên địa danh" (7, tr.3). ở Việt Nam, các quyển t điển giải thích cũng đã lý giải nội dung của thuật ngữ này và hơn thế đã xuất hiện những côn trình nghiên cứu về địa danh của Lê Trung Hoa, Nguyễn Kiên Trường, Trần Văn Dũng, Pha Xuân Đạm … Trong bài viết này, chúng tôi muốn tìm hiểu sự tồn tại của địa danh trong tục ngữ Nghệ Tĩnh.. Tư liệu khảo sát là "Từ điển thành ngữ, tục ngữ Nghệ Tĩnh". ở đấy, chúng tôi đã thống kê được tất cả 1.894 mục từ: 998 thành ngữ và 896 tục ngữ. Hai đơn vị này được quan tâm, nghiên cứu trong ngôn ngữ học, văn hoá dân gian, văn hoá học… Dĩ nhiên, do cách tiếp cận mà mỗi ngành học, người nghiên cứu hai đơn vị này theo những cách khác nhau. Theo quan sát của chúng tôi, xét về độ dài thì bao giờ tục ngữ cũng dài hơn thành ngữ và sự tồn tại của địa danh trong tục ngữ nhiều hơn hẳn thành ngữ. Có lẽ lý do này được giải thích bằng những đặc trưng, nội dung, kết cấu của từng đơn vị. Xin đơn cử tục ngữ dài nhất và rất nhiều địa.

<span class='text_page_counter'>(9)</span> danh (36 âm tiết): lắm ló Xuân Viên, lắm tiền Hội Thống, lắm nống Do Nha, lắm cà Lộc Châu, lắm dâu Cẩm Mỹ, lắm bị Kẻ Găng, lắm măng Kẻ Cừa, lắm bừa Trung Sơn, lắm cơn Yên Xứ. Tất cả các địa danh này đều thuộc Nghi Xuân, Hà Tĩnh.Có lẽ đây là tục ngữ dài nhấ không chỉ trong phương ngữ Nghệ Tĩnh mà còn với cả tục ngữ tiếng Việt nói chung. b. Chúng tôi xin dẫn ra một số tục ngữ tồn tại các địa danh trong tục ngữ (được xếp theo trậ tự trong từ điển). Ai muốn ăn bún ăn lòng thì sang Thổ Hậu lấy chồng mà ăn, ai về Hà Tĩnh thì về mặc áo lụa Hạ uống nước chè Hương Sơn, ai về Thạch Hà mà coi bắc nồi lên bếp xách oi ra đồng ăn cơm độn ngô mà nói chuyện thủ đô Hà Nội, bánh đa chợ Cày bánh tày chợ Voi, bánh đúc cháo kê là nghề làng Trại đánh nhau mãi mãi là nghề làng Vinh làm thợ làm đình là cha con ông Phó Hoạch, bao giờ Đại Huệ mang tơi rú Đụn đội nón thì trời mới mưa, bao giờ mống Mắt mống Mê thuyền câu thuyền lái chèo về cho mau, bao giờ ngàn Hống mang tơi rú Thàn đội mạo thì trời hẳn mưa, bao la ngàn Hống mây mờ giăng giăng, bạo ăn Trường Lại bạo cã Trường Phong, bún Phương Giai mai Thắng Lợi, bút Cấm Chỉ sĩ Thiên Lộc, bụt Chùa Già m Chùa Dọc, bưởi Phúc Trạch cam bù Hương Sơn hồng vuông Thạch Hà, cá Bàu Nậy chè Khe Yên, cá Cửa Nhượng khoai Mục Bài, cá rô Bàu Nón nước tương Nam Đàn, cá sông Giăng măng chợ Cồn, cau Lường Trù Hiếu, cầu rú Hống mống Tả Ao, chè chợ Lù cá mu chợ Huyện, chè rú Mả cá đồng Sâu, chợ Cày chân dép chân giày, chợ Eo nuôi rể chợ Huyện kể du, chớp Cửa Lò rệt bò mà chạy, chớp cửa Rào dỡ rào mà nấu, chớp mũi Đao dỡ rào mà nấu chớp mũi Lội cổi áo ra phơi, Cửa Hội khó vào Cửa Trào khó ra, dân chợ Cày vắt mỏ trày lấy nác, đất làng Trù du Dao Tác, đầu gối Lèn chân đạp Câu, đầu năm gặp nạn cháy nhà cuối năm anh bạn Thạch Hà tới chơi, đền Cờn đền Quả Bạch Mã Chiều Trưng, đỉa Nậy Na ma X ải, Đinh Lự tốt nếp đẹp ngài, Đồng Tháp cậy thế lắm quan đem về mà nộp chợ Giàn cho vui Đồng Môn dệt vải Cổ Đạm vắt nồi chợ Bộng vắt bình vôi Xuân Liệu bắt nạm cáy hôi, ga Tr Nha gáy tiếng hay trự chó Văn Cử sủa tiếng hư ăn, gái Tràng Lưu sưu làng Mật, gan Kẻ Sọt rọt Kẻ Sừng, Hoành Sơn mây bá Bàn Độ lấp mào thế nào cũng mưa, Hội thống lắm tiền Xuâ Viên lắm ló Tiên Điền lắm quan, Kẻ Cài reo Kẻ Treo khóc Kẻ Sóc reo, Kẻ Giặm đục đá nấu vôi, Kẻ Treo mổ mèo lấy cá, Kẻ Vọt mổ rọt thiên hạ, Kẻ Vùn dáy khun hàng xứ, khe Đá Hà lắm nác, khe Đá Bạc lắm rều, khoai chợ Lù bù chợ Huyện, khoai La Mạc lạc Cao Điềm tiền Hạnh Lâm mâm Văn Chấn mấn Cát Ngạn, lạc Đồng Chợ vợ Kim Chuỳ, mây rú Hôống dựng lên cao dê ra ăn trự (trữ) thế nào cũng mưa, mẹo Tràng Lưu mưu làng Hốt, mống Tả Ao trở trào không kịp, mưa Cẩm Nang kiếm đàng mà chạy mưa Kẻ Nại đứng lại mà coi, mưa bên Quát lấy quạt mà che mưa Kẻ E lấy bè mà chở, nghênh ngang chợ Gát bát ngát chợ Cày, nhú Thanh Chương tương Nam Đàn, rộc Mỹ Tú lắm cá lèn Trung Phường lắm đá, đất chợ Động lắm nồi đất Văn Tập lắm vôi, rú Bờng, rú Mã, rú Bơn ba rú họp lại bằng một chin rú Hồng, Đọ đội mũ rú Vọng ấp mái thì trời mưa, rú Hôống đeo đai rú Cài đội mạo, siêng làng Trác nhác làng Sau, lắm cau làng Nồi bạo ngồi Đồng Cạn lắm bạn làng Chùa lắm vua Đồng Địch sổ làng Lạch lau lách cũng khô, sổ cầu Bùng lấy thùng đựng nác, sổ quàng Rông hướng Đôn thì bão, Thanh cậy thế Nghệ cậy thần, Tiên Điền, Tiên Bào sinh anh hào thông thái Đan Tràng Đan Hải sinh khảng khái nhiều người, trai Cát Ngạn gái Đô Lương, trai Đông Thái gá Yên Hồ, trai Đông Phái gái Phượng Lịch … Rõ ràng, tục ngữ là câu, là thông điệp nghệ thuật nên chúng chứa đựng rất nhiều thông tin về nhiều kiểu loại khác nhau, trong đó là sự xuất hiện rất nhiều các địa danh. Trong cuộc đời, ai mà chẳng đi qua, chẳng sống và gắn với những địa danh khác nhau. Địa danh trong tụ ngữ hay đúng ra chúng tồn tại trong tục ngữ hẳn có lý do riêng. Có thể là những địa danh gắ.

<span class='text_page_counter'>(10)</span> với kinh nghiệm sản xuất, gắn với dự báo thời tiết, gắn với đặc sản, nghề nghiệp… hoặc những nét riêng về sự học hành, đỗ đạt … và ngay cả những thói xấu nữa. "Bà rú Lông đi ôn rú Trà" liên quan đến hai địa danh thuộc huyện Thanh Chương, Nghệ An. Rú Trà thuộc xã Thanh Phong, rú Lông thuộc xã Thanh Hương. Tục ngữ này sử dụng cách nói nhân hoá để c một hiện tượng khí hậu ở địa phương. Về mùa gió Lào gió thường thổi chiều từ rú Lông gây nên những cơn lốc nhỏ thổi xuống rú Trà làm cho nhà cửa đổ sập, mùa màng hư hại. Khi xẩy ra hiện tượng này, dân địa phương quan niệm là bà thần rú Lông đi thăm ông thần rú Trà. Bà rú Lông đi ông rú Trà Ngã nghiêng cây cối cửa nhà vẹo xiên ( Đồng dao) "Mây rú Hôống dựng lên cao dê ra ăn trự thế nào cũng mưa". Dê ra ăn trự: dê vốn là loại động vật ăn cỏ rất nhạy cảm với thời tiết, hễ cảm thấy sắp mưa thì thế nào chúng cũng ă gắng dự trữ khi mưa dài ngày. Kinh nghiệm của người dân địa phương, thấy núi Hồng mây dựng lên cao theo sườn núi, dê đã quá bữa rồi mà vẫn gắng ăn thì thế nào trời cũng mưa. "Mống rú Vạc lạc cạc dọn lụt": nghĩa là mống rú Bạc là dấu hiệu trời sắp mưa lụt… Tương t như thế, kiểu như: sổ làng Lạch lau lách cũng khô, sổ cầu Bùng lấy thùng đựng nác, sổ quàn Rông hướng Đông thì bão, … Muốn xem xét, xác định văn hoá Việt Nam phải được đặt trong bối cảnh Đông Nam á Đơn vị quan trọng của cư dân văn hoá lúa nước là làng, Nước là làng nâng cao và làng là nước thu nhỏ. Hàng loạt tác giả cũng đã biết nhiều về làng. Làng ở khu vực Nghệ Tĩnh cũng thế. Trên thực tế, có những làng nổi tiếng về những mặt, nghề nghiệp khác nhau. Ví dụ như làng Quỳnh Đôi, Quỳnh Lưu nổi tiếng về học hành, khoa bảng, làng Nho Lâm, Diễn Châu n tiếng về nghề rèn, làng Vạn Phần, Diễn Châu nổi tiếng về nghề nước mắm,… lại cả những nghề khác như đan võng, dệt vải, dệt chiếu, cách phản ánh của nghệ sĩ dân gian trong tục ng cũng rất Nghệ: "Bạo ăn Trường Lại bạo cãi Trường Phong". Trường Lại và Trường Phong là hai làng thuộc xã Kỳ Thịnh, Kỳ Anh rất nổi tiếng ăn khoẻ và hay lý sự. "Siêng làng Trác nhá làng Sau lắm rau làng Nồi bạo ngồi Đồng Cạn lắm bạn làng Chùa lắm vua Đồng Địch". Các làng vừa nêu và với những nét riêng đều thuộc xã Xuân Viên, huyện Nghi Xuân. "Tiên Điền Tiên Bào sinh anh hào thông thái Đan Tràng, Đan Hải sinh khảng khái nhiều ngài". Các làng Tiên Điền, Tiên Bào thuộc huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh và Đan Tràng, Đan H thuộc huyện Nghi Lộc, Nghệ An. Nhiều danh nhân hào kiệt xuất hiện tại đây. "Hội Thống lắm tiền Xuân Viên lắm ló Tiên Điền lắm quan" Hội Thống nay là xã Xuân Hội; Xuân Viên Tiên Điền là những làng nổi tiếng của huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh ngày xưa. Dân Hội Thống thì giàu nhờ nghề biển và buôn bán, lắm tiền; dân Xuân Viên thì giàu về lúa gạo và Tiên Điề là đất văn vật nhiều người học hành đỗ đạt nên lắm quan. "Kẻ" là tên nôm tương đương với làng, vùng "Kẻ Giặm đục đá nấu vôi miệng thì thổi lửa tay lôi rành rành". Câu tục ngữ này phản ánh sự vất vả của nghề nấu vôi của người dân vùng xung quanh lèn Hai Vai (Kẻ Giặm) huyện Diễn Châu, Nghệ An. "Kẻ Vọt mổ rọt thiên hạ". Kẻ Vọt là tên nôm của làng Bình Lãn Hạ nay thuộc phường Bắc Hồng, thị xã Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh. Tương truyền dân Treo Vọt xư thuộc loại ngược ngạo, đầu trộm, đuôi cướp. "Kẻ Vùn dáy (dạy) khun hàng xứ. KẻVùn là tên nôm của làng Yên Điểm, nay thuộc xã Thịnh Lộc, Can Lộc, Hà Tĩnh. Gọi Kẻ Vùn vì nơi đây cát biển Vun (Vùn) lên một giải cát cao hàng chục mét và dài hàng chục ki-lô-mét kéo từ đầ làng giáp Cương Gián, Nghi Xuân đến cuối làng xã Thạch Kim, Thạch Hà. Dải cát này chắn biển như một cái đê bao, dân nơi đây gọi là Truông Vùn. Dân Kẻ Vùn sống bán ngư bán nông, nghèo nên hay tha phương cầu thực vì thế mà khôn hơn xứ khác..

<span class='text_page_counter'>(11)</span> Mỗi khu vực, vùng nổi tiếng về sản phẩm, nét riêng và khu vực Nghệ Tĩnh cũng như thế. "Nhút Thanh Chương tương Nam Đàn" là hai sản phẩm nổi tiếng thuộc hai huyện của tỉnh Nghệ An. Nhút Thanh Chương cũng ngọt Kể chẳng mấy đồng tiền Xơ mít chất đầy hiên Bằm một khi tám nống Bằm một lần mười nống Vè Nghệ Tĩnh "Cá sông Giăng măng chợ Cồn": sông Giăng và chợ Cồn đều thuộc huyện Thanh Chương, Nghệ An. Cá sông Giăng, măng chợ Cồn Thanh Liên, Nhân Lạc, chợ Đồn lắm khoai. Hát phường vải "Bưởi Phúc Trạch cam bù Hương Sơn hồng vuông Thạch Hà" là những đặc sản thuộc các huyện Hà Tĩnh. Hoặc như: Cá bàu Nậy chè khe Yên, cá Cửa Nhượng khoai Mục Bài, cá rô Bàu Nón nước tương Nam Đàn, cau Lường trù Hiếu", … Liên quan đến điều vừa nêu trong tư liệu của chúng tôi có tồn tại 3 tục ngữ có số lượn âm tiết và cấu trúc giống nhau: Trai Đông Thái gái Yên Hồ, trai Đông Phái gái Phượng Lịch và trai Cát Ngạn gái Đô Lương. Hai tục ngữ "Trai Đông Thái gái Yên Hồ" và "Trai Đông Phái gái Phượng Lịch" nghĩa gần như nhau và chỉ khác nhau về địa danh. Đông Thái thuộc x Châu Phong, Yên Hồ thuộc xã Đức Diên, huyện Đức Thọ, Hà Tĩnh. Trai Đông Thái nổi tiến thanh lịch, tài giỏi, gái Yên Hồ xinh đẹp, giỏi giang. Trai gái hai làng thường kết duyên Tấn Tần với nhau. Trai tài - gái sắc, anh hùng - thuyền quyên nổi tiếng cả một vùng đất văn vật xưa nay. Câu này thường được dùng như một hoán dụ để thể hiện niềm tự hào của người dân xứ này về đất nước và con người quê mình: Trai Đồng Thái gái Yên Hồ Gặp nhau ta nổi cơ đồ cũng nên Ca dao Còn "Trai Đông Phái gái Phượng Lịch" nghĩa cũng như trên nhưng hai địa danh này lạ thuộc huyện Diễn Châu, Nghệ An. "Trai Cát Ngạn, gái Đô Lương" là nghĩa hoàn toàn trái với hai tục ngữ vừa nêu. Cát Ngạn nay là xã Cát Văn, huyện Thanh Chương và Đô Lương là một huyện thuộc tỉnh Nghệ An. Trai Cát Ngạn gái Đô Lương nổi tiếng buôn bán táo tợn, đanh đá. Gái này là gái Đô Lương Gái buôn nái tấm gái lường vải con Gái này là gái chả non Gái lường chợ Điếm, gái buôn chợ Dừa Ca dao Em là con gái Đô Lương Anh trai Cát Ngạn chung đường bán mua Lộ lời khi được khi thua Ngọt bùi nỏ thiếu, chanh chua ai bằng Ca dao Nghệ Tĩnh là một khu vực được coi là địa linh nhân kiệt và điều này đã được phản ánh.

<span class='text_page_counter'>(12)</span> từ nhiều phương diện khác nhau. Hàng loạt địa danh đã minh chứng cho điều này. Và chính tục ngữ cũng đã tàng trữ một số địa danh phản ánh rõ điều đó. Kiểu như: Thanh cậy thế Ngh cậy thần, đền Cờn đền Quả Bạch Mã Chiêu Trưng, Cửa Hội khó vào Cửa Trào khó ra. "Cửa Hội khó vào, cửa Trào khó ra", theo Bùi Dương Lịch, Cửa Hội chính tên là Hội Thống. Cửa Hội (Hội Hải) ở giáp hai huyện Nghi Xuân và Chân Phúc. Nước sông Lam chảy ra cửa này, do các sông khác đổ vào, nguồn xa, đường dài. Nước triều mặn dâng lên rất gần. Đảo Song Ngư đứng sừng sững ở cửa biển, thuyền ra vào gặp nhau khó khăn. Vì thế ngạn ngữ có câu: Cửa Hội khó vào, Cửa Trào khó ra (Cửa Trào tức là lạch Trào ở Thanh Hoá, cũn gọi là Cửa Hội Trào. Cửa này sâu hẹp, quanh co, vì thế dân địa phương quen gọi là cửa dễ vào - khó ra. Lê Thánh Tông tuần thú phương Nam có thơ vịnh cửa Đan Nhai (là tên khác củ Cửa Hội, ngày nay ở địa phương còn có những địa danh như Đan Hoàng, Đan Hải, Đan Phổ…) Lịch sử vùng đất Nghệ Tĩnh với tên gọi "phên dậu", "thắng địa", "đất đứng chân" của bao anh hùng hào kiệt. Chẳng hạn như, ngay ở Nghệ An cũng đã có đến hàng trăm vị thần được thờ tại các làng, trong đó có 8 vị thần sau đây được thờ phổ biến hơn cả: 1. Cao Sơn Cao Các; 2. Tứ Vị Thánh Nương; 3. Đại Mộc Tôn Thần; 4. Liễu Hạnh Công Chúa; 5. Bạch Y Công Chúa; 6. Đế Thích Đại Phan; 7. Uy Minh Vương Lý Nhật Quang và 8. Sát Hải Đại Vương Hoàng Tá Thốn. Đặc biệt có hai nhân thần được thờ cúng khắp nơi, đó là Lý Nhật Quang và Hoàng Tá Thốn. Hippolyte Le Breton đã viết: "ở An Tĩnh có câu phương ngôn rất nổi tiếng: "Thanh cậy thế, Nghệ cậy thần", nghĩa là: "Tỉnh Thanh Hoá dựa vào ân huệ của vua, đất Nghệ Tĩnh được thần phù hộ". Nếu cho đến ngày nay, Thanh Hoá là đất được hưởng của triều Nguyễn. Nhưng Nghệ Tĩnh không ganh tị về chuyện đó vì Nghệ Tĩnh lại là đất được lựa chọn của những vị thần bảo hộ. Và các vị thần ấy đều được thờ cúng một cách trang trọng vô chừng. Nghệ An lấy làm hãnh diện có bốn trong số những ngôi đền đẹp nhất ở An Nam: "Đền Cờn, đền Quả, Bạch Mã Chiêu Trưng" (4, tr.29). Qua nhận xét vừa nêu, chúng ta có thể hiểu được tục ngữ "Thanh cậy thế Nghệ cậy thần". Thanh Hoá là nơi sinh nhiều vị vua chúa. Thời Lê Sơ tồn tại 99 năm (1428 - 1527), m đầu là Lê Thái Tổ (Lê Lợi) và có 11 vị vua. Thời Lê Trung Hưng (1533 - 1788), tồn tại 255 năm, trải 17 đời vua. Triều Nguyễn trải qua 9 đời chúa, 13 đời vua. Riêng Vương triều Nguyễn trải 143 năm (1802 - 1945), mở đầu là Nguyễn Thế Tổ, tức Gia Long (Phước ánh). "Đền Cờn, đền Quả, Bạch Mã Chiêu Trưng" là các địa danh liên quan đến 4 ngôi đền ở Ngh Tĩnh. Đền Cần tức đền Cờn. Về ngôi đền này, Phan Huy Chú đã viết rất cụ thể" "Đền Cần H còn gọi là đền Cờn ở huyện Quỳnh Lưu. Chuyện kể ngày xưa có ba mẹ con công chúa Nam Tống bị chết chìm; xác trôi vào đây nhưng thây hãy còn tươi tắn như khi đang sống, người đ phương lấy làm lạ nên họ lo chôn cất và lập mộ đàng hoàng. Về sau, khi Trần Thánh Tông cầm quân đi dẹp Chiêm Thành có trú quân ở cửa biển này, đêm nằm vua mộng thấy một người đàn bà nói rằng: Thiếp là con gái của nhà Triệu, vì sóng gió mà phiêu bạt vào đây, đã được thượng đế phong làm thần biển, nay nghe Bệ Hạ đi dẹp phương Nam, thiếp xin được đ theo phù hộ để Bệ Hạ lập nên công lớn. Sáng hôm sau vua hỏi các bô lão địa phương mới bi.

<span class='text_page_counter'>(13)</span> ra sự tích ấy, đến lúc nhà vua tiếp tục đi thì thấy sóng yên biển lặng, vua xuống chiếu lập đề thờ và cúng tế. Đền này ngày càng nổi tiếng và linh thiêng, tên đền là Thánh Nương và được phong là Thượng Đẳng Thần. Chuyện này thấy chép trong linh ưng truyện. Ông Phan Chánh An có làm thơ: Hương hoả thiên thu âm tục Tống Phong ba nhất mộng mặc phò Trần. Tạm dịch: Hương hoả ngàn thu nhờ cháu Tống Ba đào giấc mộng giúp vua Trần (3, tr.183) Đền Cờn hiện ở xã Quỳnh Phương, Quỳnh Lưu. Lễ hội đền này diễn ra hàng năm từ 1 đến 21 tháng Giêng âm lịch. Phần hội diễn ra trong suốt 7 ngày, có đốt pháo bông, đua thuyền, và chủ yếu là "chạy ói". Đền Quả Sơn thường gọi là đền Mượu thờ Uy Minh Vương Lý Nhật Quang, hoàng tử thứ tám của vua Lý Thái Tổ, tri châu Nghệ An (1039 - 1055). Đền này đã từ lâu được xây dựng dưới chân núi Quả, tại làng Miếu Đường (thường gọi là làng Mượu, xã Bạch Đường, huyện Nam Đường tỉnh Nghệ An, nay thuộc xã Bồi Sơn, huyện Đô Lương. Lễ hội hai năm mở một lần, diễn ra trong 3 ngày từ 19 đến 21 tháng giêng âm lịch. Trong đó có lễ yết cáo, l rước ngược (có cả trên bộ và dưới sông), diễn ra cảnh xuất quân của Lý Nhật Quang và lễ rước xuôi… Hiện tại trên đất Nghệ có trên 30 điểm lập đền thờ Lý Nhật Quang và đều coi ông là Thành Hoàng. Nhưng đáng kể nhất là đền Cả (còn gọi là đền Lớn hoặc Tam Toà đại vương) tại làng ích Hậu, Can Lộc, Hà Tĩnh. Tại vùng đất Tây Nam Hồng Lĩnh, ông cùng ha vương hầu nhà Lý là Lý Đạo Thành, Lý Thái Giai đã giúp dân khai hoang lập nên nhiều làng trong đó có làng kẻ Nhật (đến đời Lê đổi tên là ích Hậu). Vì thế dân địa phương thời chung c ba ông và gọi là Tam Toà đại vương. Sang đời Trần, công việc khẩn hoang vùng này lại đượ hai vương hầu nhà Trần là Trần Quang Khải và Trần Khánh Dư tiếp tục. Sau khi mất, hai ôn này cũng được hợp tự trong đền Cả. Trong thời gian 16 năm (1039 - 1055) dưới hai triều Thái Tông và Thánh Tông, Lý Nhật Quang đã cống hiến đoạn đời đẹp nhất cho việc bảo vệ, xây dựng nước nhà, giữ vững b cõi, ban bố được chính lệnh, thu phục được nhân tâm, thực hiện chính sách huệ dân, khuyến thiện, trừng ác, khai mở đất đai… "Lúc đấy, ở Chiêm Thành các bộ lạc thường phản nhau, chúa Chiêm Thành sai sứ sang cầu viện, Vương đem thuỷ binh đến thẳng cửa biển Thi Nại, đóng ở dưới núi Tam Toà. Các bộ lạc Chiêm nghe tin, đều đến hàng phục và xin theo mệnh lệnh chúa Chiêm Thành. Vương bèn đem quân về. Người Chiêm Thành tưởng nhớ ơn đức lậ đền thờ ở dưới chân núi Tam Toà. Sau Vương dời phủ lỵ Nghệ An đến địa phận xã Bạch Đường, rồi mất. Người địa phương tưởng nhớ lập đền thờ" (6, tr.189). Đền Bạch Mã ở xã Võ Liệt, Thanh Chương, Nghệ An. Đền Bạch Mã thờ tướng quân Phan Đà, một vị tướng trẻ nổi tiếng thao lược của nghĩa quân Lam Sơn, từng lập nhiều chiến tích oanh liệt, được Bình Định Vương Lê Lợi rất yêu mến. Ông người cao lớn, hùng dũng, dung mạo rất đẹp. Lê Lợi ban cho ông một chiến mã màu trắng (bạch mã), một bộ giáp trắng Lúc ra trận, trông ông kiêu hùng như Mã Siêu thời Tam Quốc. Ông vì mê hát bội mà bị giặc Minh phục kích rồi tử trận. Sau khi mất Lê Thái Tổ cho lập đền thờ tại nơi ông mất, tục gọi đền Bạch Liêu. Đền Chiêu Trưng thờ Lê Khôi. Ông là cháu ruột, con người anh trai của Lê Lợi và là một võ tướng từng lập nhiều chiến công trong nghĩa quân Lam Sơn. Quân công hiển hách nhất của.

<span class='text_page_counter'>(14)</span> ông là cùng với đại tướng quân Lê Vấn chỉ huy 3000 thiết đội quân phối hợp với cánh quân Lê Sát tiến công quân Minh ở đồn Xương Giang tháng 10 năm Đinh Mùi (11/1427) bắt sống bọn Thôi Tụ, Hoàng Phúc và ba vạn quân giặc. Năm Thuận Thiện thứ hai (1429), Lê Thái T xét công bình ngô, ông được xếp hạng công thần, được phong tước Đinh Thượng Hầu. Năm sau, ông cùng Tư Mã Lê Liệt đem quân vào trấn thủ Thuận Hoá. Thời Lê Thánh Tông ông được phong hàm Tư mã tham tri chính sự, thời Lê Nhân Tông thăng tiếp chức Khâm sai tiết chế thuỷ bộ chủ doanh, thượng tướng quân nhập nội thiếu uý Tư Mã. Năm Thái Hoà thứ tư (1446), ông vâng mệnh làm tướng trong đội quân đi đánh Chiêm Thành do Bình Chương Lê Thụ làm tiết chế. Ông cùng Lê Thụ chỉ huy quân đội vây thành Chà Bàn bắt sống Vua Chiêm là Bí Cai giải về triều. Khi qua cửa Nam Giới, ông lâm trọng bệnh rồi mất tại đây. Vua Nhân Tông nghe tin bãi triều ba ngày, rồi sai quân đến cửa Nam Giới tổ chức điếu tang trọng thể v xây lăng mộ cho ông ở phía Tây chân núi Long Ngâm, nay thuộc xã Thạch Kim, Thạch Hà, Hà Tĩnh. Nhân dân địa phương cảm công đức của ông đã lập đền thờ ông tại đây. Tục gọi là đền Chiêu Trưng đại vương; lại còn có tên gọi là đền Võ Mục, tức là gọi theo tên thuỵ của ông. Thực tế, khảo sát các địa danh từ hai phương diện đồng đại và lịch đại thì chúng ta sẽ "bóc dỡ", khám phá ra nhiều thông tin khác nhau, ẩn chứa nhiều tầng văn hoá. Địa danh tồn tại trong tự nhiên và xã hội, nó là đơn vị tương đương với từ, địa danh là từ. Hơn thế, địa danh còn có mặt trong các tác phẩm văn chương ở các thể loại khác nhau, thậm chí có tác phẩm văn chương, thơ ca có tiêu đề là địa danh. Trở lên, chúng tôi chỉ sơ điểm đôi nét về sự tồn tạ địa danh trong tục ngữ Nghệ Tĩnh. Để kết thúc, chúng tôi xin mượn lời của A.V.Xuperanxkaja: "Địa danh như đài kỷ niệm ngôn ngữ độc đáo và bảo giữ những thông ti về văn hoá (từ được sử dụng với tư cách là cơ sở tên gọi, căn cứ vào cách gọi tên, mối quan hệ của tên gọi với giá trị lịch sử - văn hoá của đối tượng). Tất cả điều đó được "gói lại" trên cơ sở các danh từ riêng và khả năng cấu tạo chúng. ở nhiều địa danh cũng giống các tượng đ kiến trúc bất hủ, mặt vật chất, đặc thù của mình - là vật chất ngôn ngữ để từ đó xây dựng nên tên gọi. Khái niệm không gian danh từ riêng được thay đổi từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác và từ dân tộc này đến dân tộc kia" (7, tr.16) Về một câu ca dao của xứ Nghệ Đường vô Xứ Nghệ quanh quanh Non xanh nước biếc như tranh họa đồ Ai vô xứ Nghệ... thì vô!. Đây là câu ca dao lý thú và lạ. Lạ vì thông thường có một khổ thơ - ca dao gồm 4 câu: 6-8-6-8. Bài này lại có 3 câu, câu kết lại là câu lục, thoạt nghe có vẻ cụt ngủn. Và, "ai vô... th vô", thoạt nghe có vẻ như là một lời không được ngọt ngào, thiết tha, tao nhã cho lắm (!).. Ai quen biết nhiều người xứ Nghệ và có đôi tai thẩm âm tốt thì có thể suy ngay rằng b ca dao này là của chính người Nghệ tạo tác ra.. Chữ đầu "đường" chứ không còn là "đàng", chứng tỏ nó không phải là của thế kỷ XVI XVII nữa, muộn nhất đã là của thế kỷ XVIII. Động từ "vô" chứ không phải là "vào" thì chắc chắn là của người miền Trung, xứ Nghệ rồi..

<span class='text_page_counter'>(15)</span> Hiệu quả âm thanh cụt ngủn ấy đã gây ra một thoáng bất ngờ, lý thú, đích thực xuất lộ một "cá tính xứ Nghệ" mà phải ở lâu, ở gần người Nghệ, gần con gái xứ Nghệ mới thấm, mớ ngấm được cái nồng nàn, ấm áp, sâu lắng của "cá tính xứ Nghệ", thô mà tinh, lý đấy nhưng tình đầy.. "Non xanh nước biếc": cảnh quan xứ Nghệ đẹp như tranh "sơn thuỷ", tranh "thuỷ mạc quốc họa của Á Đông. Thêm đó là cái "biếc" trữ tình của xứ Nghệ, của miền Trung, hỏi cớ sao biển nước, sông nước miền Trung, xứ Nghệ "xanh màu xanh ngọc bích", con gái xứ Ngh rất chi là biếc (!). "Đường vô xứ Nghệ quanh quanh", con đường thiên lý từ Bắc qua Trung rồi vào Nam xưa, không đi thẳng như ket chì mà cứ "quanh quanh" như người đi, như khách bộ hành ngwòi Việt cứ "loanh quanh" như thế (!). Chào quý anh chị và quý bạn, Hôm nay Khánh Quyên xin mạn phép gửi vào trang LLĐLR vài câu hát thuộc làn điệu dân ca xứ Nghệ để mọi người hiểu thêm về nét văn hóa của một miền quê chịu thương , chịu khó ,dung dị… quanh năm suốt tháng cần cù, lam lũ làm ăn, vật lộn với bao khó khăn vất vả mà chẳng bao giờ có được những ngày hết lo lắng vì Thiên địch và Nhân tai luôn là mối đe dọa triền miên… Tuy gian khổ nhưng con người xứ Nghệ luôn tìm thấy niềm an ủi , niềm lạc quan trong những câu hát ví von vừa chân quê, mộc mạc vừa giàu chất trữ tình, thiết tha,sâu lắng… Cũng từ đấy chúng ta hiểu được không riêng gì dân ca xứ Nghệ mà dân ca của mọi vùng miền trên lãnh thổ Việt Nam đều bắt nguồn từ lao động, từ đời sống thực.Thông qua những câu hát của người xưa truyền lại, chúng ta lại “gặp gỡ” những lời tâm tình thủ thỉ của bao thế hệ cha anh đã đúc kết từ bao đời nay… Cảm ơn quý vị sẽ vui lòng thưởng thức. Trân trọng !.

<span class='text_page_counter'>(16)</span> mời bạn thưởng thức ca khúc Hát Giao Duyên Một số làn điệu dân ca Nghệ Tĩnh 1. Hát giặm Tiếng giặm có nghĩa là ghép vào, điền vào, đan vào một chỗ thiếu…. xuất hiện ở Nghệ Tĩnh cách đây khoảng ba , bốn trăm năm. Về nội dung, có nhiều bài hát giặm rất tình tứ, cũng có nhiều bài có tính chất chống giai cấp phong kiến. Về hình thức, phần nhiều các bài hát dặm đều gồm những câu năm chữ và cước vận, tức vần ở cuối câu: cứ hai câu cuối mỗi đoạn lại lấy một ý, điệp cả về ý, lẫn lời: Ví dụ: Tôi lấy chân khoả lại Tôi lấy bàn khoả lại hay: Thấy những lời kêu trách Nghe những lời kêu trách Bài hát có bao nhiêu đoạn thì có bấy nhiêu lần điệp lại như vậy, nghe đọc thì thấy vướng, nhưng khi hát, nólàm nổi ý của câu hát, của cả bài. Hát giặm cũng có ba lối trình diễn: nam nữ đối đáp, có lối vài ba người hát kể lên một giai thoại, hay một sự việc vừa xảy ra, lại có lối kể một sự tích gì có tình tiết nội dung, và hình thức đều được trau chuốt. Hát giặm Nghệ Tĩnh không hoàn toàn do dân sáng tác, có khi do một số nho sĩ sáng tác, được nhân dân ưa thích và phổ biến rộng rãi. Ví dụ: Trai: Tiết thanh nhàn thong thả Muốn thăm hỏi vài câu Cuốc thánh thót kêu sầu Gió phảng phất mùa sâu Nhớ trong sách đã lâu: Chuyện “Tư mã phượng cầu” Thương thì mũi tìm trâu Trâu đâu tìm chạc mũi Gái: Trời mở rộng phong quang Giã ơn trời mở rộng phong quang Em đánh tiếng đua sang Đêm tàn canh vò võ Tay em cầm con bấc đỏ Mong bỏ đĩa dầu đầy Mời bạn ở lại đây Đôi ta giở lời rày Tình đó với nghĩa đây.

<span class='text_page_counter'>(17)</span> Trai: Giống như đọi nác đầy Bưng nhẩn nhẩn trên tay Không khuy sơ một hột Gió nỏ triềng một hột Công đôi ta thề thốt Kể đã mấy niên rồi Lòng đã quyết lứa đôi Ngãi đã quyết thề bồi Nhất ngôn nói hẳn lời Đừng bốn chốn ba nơi Đừng trăn gió chào mời Trăng nhiều trăng rạng rỡ Trăn nhiều đèn rạng rỡ Gái: Em đã có chồng rồi Em đã có lứa rồi Vung úp đã vừa nồi Đũa ghép đã thành đôi Bạn đừng có ỡm ờ với tôi! Tôi lấy chân khoả lại Tôi lấy bàn khoả lại Trai: Têm một quả trầu không Bỏ vô hộp con rồng Đi băng nội băng đồng Qua năm bảy khúc sông Qua chín mười đỗi đồng Nghe tin em đã có chồng Anh quăng lắc vô bụi Bạn gạt tùa vô bụi. Anh thương em một tháng hai kỳ Dồn đi tính lại, cũng như mười ngày Năm rộn mà chầy Có hai mươi bốn miện (Miện = kỳ) Xuân qua rồi hè /đến Thu đã muộn, đông rồi Nhớ bạn cũ chưa nguôi, Sang lập xuân vũ thuỷ Đêm em nằm em nghĩ Nghĩ kinh trập, xuân phân, Lòng tưởng sự ái ân Sang thanh minh, cốc vũ Đêm dêm nằm nỏ ngủ Nhớ bạn mãi thường thường Tiết lập hạ nhớ thương Bước sang tuần tiểu mãn.

<span class='text_page_counter'>(18)</span> Trông ra ngoài chán chán Tiết mang hiện lại gần Người đập đất, gánh phân Để mùa màng gặt hái Anh thương em mãi mãi Sang hạ chí tiết hè Em nghe tiếng sầu ve Em buồn trong gia sự Bạn buồn trong gia sự *** Tiết tiểu thử, đại thử Trời nắng sốt lắm thay! Ra ngồi tựa cột cây Anh với em than thở Bạn với mình than thở *** Tiết lập thu, xử thử Ai diều sáo mặc ai Vàng lác đác giếng tây Ta thương người bạn cộ (Cộ = cũ) Nhớ mãi người bạn cộ *** Vừa đến tiết bạch lộ Bầy chim trắng bay sang Cây heo hắt lá vàng Sang thu phân hàn lộ. *** Đêm em nằm, em chộ (chộ = thấy) Tiết sương giáng lại kề Trông bạn cũ ta về Sang lập đông giá rét Tiết tiểu tuyết, đại tuyết Trời giá rét lắm thay Sang đông chí cấy cày Dạ bồi hồi nhớ bạn Tiết tiểu hàn chưa dạn Đã bước sang đại hàn Dạ tưởng nhớ người ngoan Vừa năm cùng tháng tận Vừa cuối mùa cuối tận. ***.

<span class='text_page_counter'>(19)</span> Phận lại ngồi trách phận Phận nỏ giám trách phận Anh thương em từ tháng giêng đến tháng chạp 2. Hát ví Nghệ Tĩnh: Hát Ví Nghệ Tĩnh là những loại dân ca xuất hiện trong nghề nông và nghề thủ công. Có nhiều điệu hát ví như: Hát phường vải, Hát phường cấy, Hát đò đưa, Hát phường buôn…. Trong những điệu hát này, Hát phường vải và Hát phường cấy có tổ chức và phổ biến hơn cả. * Hát phường vải: Những câu hát phường vải là những câu biểu lộ tâm tình của hai bên trai gái, hoặc là những ước mơ về yêu đương, hoặc là những lời oán trách kẻ chia rẽ tình duyên, và bao giờ cũng lạc quan, tin tưởng. Hat phường vải gồm có bốn giai đoạn: Giai đoạn thứ nhất: hát dạo, hát mừng, hát chào và hát hỏi. Giai đoạn thứ hai: hát đố và hát đối. Giai đoạn thứ ba: hát mời và hát xe kết. Giai đoạn thứ tư: hát tiễn. Giai đoạn 1: Hát dạo Bấy lâu thức nhắp mơ màng Bên rèm tiếng gió, đầu giường bóng trăng Bấy lâu nghe hết tiếng nàng Bên anh nức tiếng đồn vang đã lừng Nghe tin anh cũng vội mừng Vậy nên chẳng quản suối rừng anh sang Bấy lâu anh mức chi nhà Để em dệt gấm thêu hoa thêm sầu Đồn rằng cá uốn thân vây Đồn em hay hát, hát hay anh tìm Chốn này vui vẻ, tưng bừng Hạc nghe tiếng phượng xa chừng tới nơi Đêm khuya trời tạnh sương im Tai nghe tiếng nhạc, chàng Kim tới gần. Dừng xa, khoan kéo, ơi phường! Hình như có khách viễn phương tới nhà Đi qua nghe tiếng em reo, Nghe xa em kéo, muốn đeo em về. Đi ngang trước cửa nàng Kiều, Dừng chân đứng lại, dặt dìu đôi câu.

<span class='text_page_counter'>(20)</span> Đi ngang thấy búp hoa đào Muốn vào mà bẻ, sợ bờ rào lắm gai Đồn đây là chốn Đào Nguyên Trăng thanh gió mát, cắm thuyền dạo chơi Lạ lùng anh mới tới đây, Thấy hoa liền hái, biết cây ai trồng Đến đây vàng cũng như son Ai ai thời cũng như con một nhà Hát mừng, hát chào: Khi nháy mắt, khi nhện sa Khi chuột rích trong nhà Khi khách kêu ngoài ngõ Tay em đưa go đủng đỉnh Tay em chìa khoá động đào Bước năm lần cửa, ra chào bạn quen Mừng rằng bạn đến chơi nhà Cam lòng thục nữ gọi là trao tay Hát hỏi: Em có chồng rồi, em nói rằng chưa Tội riêng em đó, nỏ lừa được anh Em chưa có chồng, em mới đến đây Chồng rồi chiếu trải, màn vây ở nhà Giai đoạn 2: Hát đố và hát đối: Anh về chẻ lạt bó tro Rán sành ra mỡ, em cho làm chồng. Em về đục núi lòn qua, Vắt cổ chày ra nước, thì ta làm chồng Trai thanh xuân ngồi hàng thuốc bắc, Gái đông sàng cảm bệnh lầu tây Hai ta tình nặng nghĩa dày, Đối ra đáp được, lúc này tính sao? Đến đây hỏi khác tương phùng Chim chi một cánh bay cùng nước non? Tương phùng nhắn với tương tri, Lá buồm một cánh bay đi khắp trời Lá gì không nhánh, không ngành? Lá gì chỉ có tay mình trao tay?.

<span class='text_page_counter'>(21)</span> Lá thư không nhánh, không ngành, Lá thư chỉ có tay mình trao tay. Nghe tin anh hoc có tài Cha thầy Mạnh Tử là ai rứa chàng? Thầy Mạnh, cụ Mạnh sinh ra Đù mẹ con hát, tổ cha thằng bày! Người Kim Mã cưỡi co ngựa vàng Đất Phù Long rồng nổi, thì chàng đối chi? Người Thanh Thuỷ gặp khách nước trong Hoành sơn ngang núi, đã thoả lòng em chưa? Nghe anh bôn tẩu bấy lâu Nghệ An có mấy chiếc cầu hỡi anh? Nghệ An có ba mươi sáu chiếc cầu Phồn hoa đi lại bốn cầu mà thôi Cầu danh, cầu lợi, cầu tài Cầu cho đây đó làm hai giao hoà Nhớ em nhất nhật một ngày Đêm tơ tưởng dạ, làng rày nhớ trông Chờ em nửa tháng ni rồi Ôm đờn bán nguyệt, dựa ngồi cung trăng Nghe tin anh giỏi, anh tài Đào tiên một cõi Thiên Thai ai trồng? Thiên thai là của nàng Kiều Riêng chàng Kim Trọng sớm chiều vào ra ….

<span class='text_page_counter'>(22)</span>

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×