Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Hợp đồng mang thai hộ theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 89 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ PHƯỢNG

HỢP ĐỒNG MANG THAI HỘ THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2019


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

NGUYỄN THỊ PHƯỢNG

HỢP ĐỒNG MANG THAI HỘ THEO QUY ĐỊNH
CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN HÀNH

Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự
Mã số: 8380101.04

Người hướng dẫn khoa học: TS. NGUYỄN MẠNH THẮNG

Hà Nội – 2019


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tơi. Các kết


quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và
trung thực. Tơi đã hồn thành tất cả các mơn học và đã thanh toán tất cả các
nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tơi có thể bảo
vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

NGUYỄN THỊ PHƯỢNG


MỤC LỤC
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
MỞ ĐẦU....................................................................................................... 1
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG MANG THAI
HỘ VÌ MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO ................................................................. 9
1.1. Khái niệm, đặc điểm và đối tượng của hợp đồng mang thai hợ vì mục đích
nhân đạo ........................................................................................................ 9
1.1.1. Khái niệm ............................................................................................. 9
1.1.2. Đặc điểm của hợp đồng mang thai hợ vì mực đích nhân đạo theo quy định
của pháp luật Việt Nam..................................................................................12
1.1.3. Đối tượng của hợp đồng mang thai hộ ...................................................19
1.2. Giao kết hợp đồng mang thai hộ .............................................................20
1.2.1. Chủ thể trong giao kết hợp đồng mang thai hộ .......................................20
1.2.2. Trình tự giao kết hợp đờng mang thai hợ vì mục đích nhân đạo ..............26
1.2.3. Thời điểm giao kết hợp đờng mang thai hợ vì mục đích nhân đạo...........28
1.2.4. Kết quả của việc giao kết hợp đồng mang thai hợ ..................................29

1.3. Điều kiện có hiệu lực của hợp đờng mang thai hợ vì mục đích nhân đạo....31
1.4. Vơ hiệu hợp đờng mang thai hợ vì mục đích nhân đạo ..............................32
1.5. Thực hiện hợp đờng mang thai hợ vì mục đích nhân đạo...........................36
1.5.1. Ngun tắc cơ bản trong q trình thực hiện hợp đồng...........................36
1.5.2. Nội dung của việc thực hiện hợp đồng mang thai hộ ..............................36
1.6. Tranh chấp và giải quyết tranh chấp hợp đờng mang thai hợ vì mục đích
nhân đạo .......................................................................................................37
1.6.1. Tranh chấp hợp đờng mang thai hợ .......................................................37
1.6.2. Giải quyết tranh chấp hợp đồng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo......38
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ HỢP ĐỒNG
MANG THAI HỘ VÌ MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO .........................................41


2.1. Phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về hợp đờng mang thai hợ vì
mục đích nhân đạo hiện nay. ..........................................................................41
2.1.1. Hình thức của hợp đờng mang thai hợ vì mục đích nhân đạo theo quy định
của pháp luật Việt Nam hiện hành ..................................................................41
2.1.2. Nội dung của hợp đờng mang thai hợ vì mục đích nhân đạo theo quy định
của pháp luật Việt Nam hiện hành ..................................................................43
2.2. Đánh giá ưu điểm, nhược điểm về hợp đồng mang thai hợ dưới hình thức
thỏa thuận mang thai hợ vì mục đích nhân đạo và tầm quan trọng của hợp đồng
mang thai hộ trong thực tế đời sống................................................................57
2.1.1. Những ưu điểm của hợp đờng mang thai hợ vì mục đích nhân đạo hiện
nay

...................................................................................................57

2.1.2. Nhược điểm của hợp đồng mang thai hộ theo quy định của pháp luật Việt
Nam hiện hành. .............................................................................................60
2.1.3. Tầm quan trọng của hợp đồng mang thai hộ trong quan hệ pháp luật mang

thai hợ vì mục đích nhân đạo..........................................................................65
CHƯƠNG III: KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HỢP
ĐỒNG MANG THAI HỘ VÌ MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO .............................68
3.1. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về mặt hình thức của hợp đờng mang
thai hợ vì mục đích nhân đạo theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành 68
3.2. Kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về mặt nợi dung của hợp đờng mang
thai hợ vì mục đích nhân đạo theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành 70
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................75
PHỤ LỤC .....................................................................................................78


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng:
Kết quả nghiên cứu trong luận văn này là hoàn toàn trung thực, chưa được
sử dụng và cơng bố trong bất kỳ cơng trình nào khác.
Mọi việc giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này đã được cám ơn và các
thơng tin trích dẫn trong luận văn đều được ghi rõ nguồn gốc.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan của mình./.

Hà Nội, Ngày 30 tháng 09 năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Thị Phượng


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

HNGĐ

Hơn nhân và Gia đình


MTH

Mang thai hộ

BV

Bệnh viện

KHKT

Khoa học kỹ thuật

IVF

In Vitro Fertilisation - Phương pháp
thụ tinh trong ống nghiệm

TTTON

Thụ tinh trong ống nghiệm

TP.HCM

Thành phố Hờ Chí Minh

WHO

Tổ chức Y tế Thế giới


THS

Thạc sĩ

BS

Bác sỹ


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Như chúng ta đã biết, trong giao dịch dân sự hay bất cứ giao dịch nào có
sự thoả thuận của các bên thì hợp đờng chính là căn cứ pháp lý cơ bản, là nền
tảng quan trọng nhất của quá trình thỏa thuận. Hợp đồng không chỉ là nơi thể
hiện mong muốn, nguyện vọng của các bên tham gia giao dịch, hợp đồng còn là
căn cứ để giải quyết những tranh chấp phát sinh nếu một trong các bên vi phạm
nghĩa vụ của mình trong quá trình trực hiện thỏa thuận.
Kể từ khi xuất hiện sơ khai cho đến nay, tùy vào nhu cầu, đặc điểm, đối
tượng, hay loại giao dịch... mà hợp đờng thay đổi và thể hiện ở nhiều hình thức
và nội dung khác nhau sao cho phù hợp với nhu cầu thiết lập thỏa thuận của con
người.
Trong đó, có một loại hợp đồng mới phát sinh gần đây mà tôi cho rằng
khá đặc biệt, tuy không mấy phổ biến nhưng lại mang mợt ý nghĩa nhân văn sâu
sắc và tính nhân đạo to lớn, đó là “hợp đồng mang thai hợ vì mục đích nhân
đạo”.
Mong muốn có con là mợt mong muốn hồn tồn chính đáng của vợ
chờng, nhưng do một số trường hợp đặc biệt mà người vợ không thể tự mình
mang thai và sinh con chính vì thế họ đã cậy nhờ tới mang thai hộ.
Trên thực tế, trước khi pháp luật của nước ta quy định về vấn đề này thì
việc mang thai hợ vẫn diễn ra ngồi đời sống xã hợi, tuy nhiên đến năm 2014,

khi Luật HNGĐ mới được ban hành thay thế cho luật trước đây thì vấn đề này
mới được ghi nhận. Đây cũng được xem là một bước phát triển của pháp luật khi
ghi nhận và điều chỉnh một vấn đề xã hội tương đối đặc biệt và phức tạp nhưng
lại phù hợp với thực tiễn đời sống xã hội.
Kể từ khi ra đời, các quy định về vấn đề mang thai hộ đã nhận được nhiều
sự quan tâm từ dư luận cũng như từ phía các nhà nghiên cứu pháp luật. Sau khi
1


ban hành những quy định quan trọng và cơ bản về mang thai hợ trong Luật
HNGĐ 2014, Chính phủ cịn giải thích rõ hơn các quy định này tại Nghị định
10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
và điều kiện mang thai hợ vì mục đích nhân đạo. Mục đích ban hành nghị định
nhằm giải thích về các quy định của pháp luật về việc sinh con bằng kỹ thuật thụ
tinh trong ống nghiệm và hơn hết nghị định góp phần làm rõ các quy định về
mang thai hợ vì mục đích nhân đạo và điều kiện để mang thai hợ vì mục đích
nhân đạo. Tại đây, nghị định ban hành kèm theo 07 loại biểu mẫu là các mẫu
công văn, biên bản, đơn, cam kết, báo cáo, thỏa thuận… có liên quan đến quá
trình tiến hành việc thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện để mang thai hợ vì
mục đích nhân đạo. Đáng chú ý là tại nghị định này, Chính phủ đã ban hành mợt
dạng thỏa thuận quan trọng, có yếu tố quyết định đến quyền và lợi ích của các
bên trong quan hệ mang thai hộ đó là “thỏa thuận mang thai hợ vì mục đích
nhân đạo”, đây được xem như một hợp đồng soạn sẵn chứa đựng đầy đủ các
thông tin chủ thể, ghi nhận các quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ
mang thai hộ. Thỏa thuận này cũng là nơi thể hiện ý chí chủ chể của đôi bên về
các vấn đề liên quan đến quá trình thiết lập và thực hiện quan hệ pháp luật mang
thai hợ.
Do “mang thai hợ vì mục đích nhân đạo” còn là một vấn đề mới mẻ, nên
các vấn đề liên quan đến mang thai hộ hiện nay không nhiều, bên cạnh đó các
quy định về “hợp đồng” cũng còn gặp khá nhiều vướng mắc. Bởi lẽ, mang thai

hộ vốn dĩ là một vấn đề dân sự nhạy cảm và phức tạp, ngoài việc áp dụng đúng
các quy định của pháp luật thì việc thiết lập mợt hợp đờng dân sự chặt chẽ, đúng
pháp luật giữa đôi bên cũng chính là căn cứ pháp lý để bảo vệ các bên trong
quan hệ này. Tuy nhiên, hiện tại “thỏa thuận mang thai hợ vì mục đích nhân
đạo” ban hành kèm theo Nghị định 10/2015/NĐ-CP thì theo ý kiến tác giả vẫn
chưa đáp ứng được những yêu cầu cần thiết để trở thành mợt hợp đờng mang
thai hợ tiêu biểu. Chính vì thế, tác giả xin phép lựa chọn đề tài “Hợp đồng mang
thai hộ theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành” làm đề tài nghiên

2


cứu cho luận văn thạc sĩ của mình để đưa ra những dẫn chứng nhằm làm rõ hơn
quan điểm trên.
1. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mới chỉ được pháp luật ghi nhận vào Luật HNGĐ năm 2014 nên vấn đề
mang thai hộ vẫn còn nhiều mới mẻ. Dù cũng đã có nhận được sự quan tâm từ
các nhà làm luật, cũng như các luật gia nghiên cứu, tuy nhiên tất cả cũng mới
chỉ dừng lại ở việc nghiên cứu về những vấn đề chung về mang thai hộ, chứ
chưa có bất cứ một nghiên cứu nào tập trung nghiên cứu về vấn đề “hợp đờng”
trong lĩnh vực này.
Qua tìm hiểu, tác giả nhận thấy đề tài về hợp đồng mang thai hợ là đề tài
có tính lý luận đờng thời tính áp dụng trong thực tiễn khá cao nhưng các cơng
trình nghiên cứu lại khơng nhiều hầu như chỉ tập trung nguyên cứu về tổng thể
các quy định về mang thai hộ chứ chưa đề cập sâu vào vấn đề hợp đờng. Khi
nhắc đến các cơng trình nghiên cứu chung về mang thai hộ, nổi bật có thể kể đến
một số cuốn sách chuyên khảo, luận văn và các bài viết phân tích khá chuyên
sâu về vấn đề này như sau:
Đầu tiên, phải kể đến cuốn sách chuyên khảo của tác giả Trương Hờng
Quang “Tìm hiểu quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm

và mang thai hợ vì mục đích nhân đạo” được Nhà xuất bản chính trị Quốc gia –
Sự thật xuất bản năm 2015. Nợi dung cuốn sách được thể hiện dưới hình thức
hỏi – đáp pháp luật, mà nội dung các câu hỏi và câu trả lời đều xoay quanh vấn
đề sinh con bằng kỹ thuật TTTON và mang thai hộ để người đọc dễ dàng nắm
bắt. Ngồi ra, cuốn sách cịn bao gờm 7 biểu mẫu được trình bày ở phần Phụ lục
là các đơn, bản cam kết, thỏa thuận mẫu... được sử dụng trong lĩnh vực nêu trên.
Năm 2016, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia – Sự thật tiếp tục xuất bản
cuốn sách “Quy định pháp luật về thụ tinh nhân tạo và mang thai hộ” nhằm cung
cấp cho người đọc các văn bản pháp luật có nợi dung liên quan đến nội dung
trên. Cuốn sách đã tập hợp hóa các quy định pháp luật về thụ tinh trong ống
3


nghiệm và mang thai hợ có trong Luật HNGĐ 2014, Nghị định chính phủ số
10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm
và điều kiện mang thai hợ vì mục đích nhân đạo. Sau nghị định ban hành, Bộ Y
Tế đã ban hành Thông tư số 57/2015/TT-BYT ngày 30-12-2015 quy định chi
tiết một số điều của Nghị định số 10/2015/NĐ-CP. Cuốn sách nhằm cung cấp
cho người đọc những nội dung của những văn bản pháp luật trên. Ngoài ra, cuốn
sách cũng cung cấp những quy định pháp luật về chế độ bảo hiểm xã hội cho lao
động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ.
Thứ hai, luận văn thạc sĩ của tác giả Bùi Quỳnh Hoa mang tên “Một số
vấn đề lý luận và thực tiễn về mang thai hộ”. Luận văn được viết và bảo vệ năm
2014, cũng chính là thời điểm lần đầu tiên vấn đề “mang thai hợ vì mục đích
nhân đạo” được pháp luật cơng nhận. Trong luận văn của mình, tác giả đã nêu ra
gần như đầy đủ về các vấn đề lý luận về mang thai hộ bao gồm các quyền, nghĩa
vụ của các bên trong quan hệ mang thai hộ, điều kiện mang thai hộ, các vấn đề
xoay quanh đến mang thai hộ trong đó có thỏa thuận mang thai hộ. Tuy nhiên,
luận văn cũng mới dừng lại ở việc giới thiệu về thỏa thuận mang thai hộ như
một tiểu mục nhỏ chứ chưa trực tiếp đi sâu vào vấn đề này.

Năm 2015, tác giả Phạm Thị Hương Giang, cũng đã nghiên cứu và bảo vệ
thành công luận văn thạc sĩ “Mang thai hộ trong luật hơn nhân gia đình 2014”.
Cũng như hầu hết các cơng trình nghiên cứu về mang thai hợ cùng thời điểm,
luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề lý luận và thực tiễn về mang thai hộ và
cụ thể là vấn đề mang thai hộ được quy định trong Luật HNGĐ 2014. Đồng thời
đưa ra các kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật đối vấn đề này. Nhìn chung, đối
với mợt cơng trình nghiên cứu khái qt về lý luận và thực tiễn của vấn đề mang
thai hợ vì mục đích nhân đạo thì cả hai luận văn đều là những cơng trình nghiên
cứu khá chun sâu từ cả hai tác giả, có tính lý luận và thực tiễn cao trong đời
sống xã hội về vấn đề mang thai hợ.
Thứ ba, về cơng trình nghiên cứu khoa học, có thể kể đến 2 cơng trình
nghiên cứu mang tên “Mang thai hộ – sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp
4


luật ở Việt Nam hiện nay” năm 2013 của Trường Đại học Luật Hà Nợi và cơng
trình nghiên cứu “Vấn đề mang thai hộ theo quy định của pháp luật Việt Nam
hiện hành” năm 2015 của Trường Đại học Kiểm Sát Hà Nợi… đây là những
cơng trình khoa học nghiên cứu tiêu biểu phân tích các vấn đề mang thai hợ vì
mục đích nhân đạo dưới góc đợ pháp lý có đầy đủ cả lý luận lẫn thực tiễn.
Ngoài ra, vấn đề về mang thai hộ còn thu hút được khá nhiều tác
giả,chuyên gia đưa ra những ý kiến, tham luận, các bài báo, cũng như các góp ý
đăng trên các tạp chí chun ngành về pháp luật như cơng trình nghiên cứu” của
tác giả Nguyễn Thị Hương – Khoa luật dân sự, Trường Đại học Luật thành phố
Hờ Chí Minh đăng trên báo Pháp luật Thành phố Hờ Chí Minh ngày 13/02/2001
- “Một số vấn đề pháp lý về mang thai hộ”. Bài viết đã đề cập đến nhiều khía
cạnh pháp lý của việc mang thai hợ, từ những phân tích về việc xác định cha mẹ
cho con, hay việc thỏa thuận về điều kiện mang thai cũng như điều kiện của các
bên trong quan hệ mang thai hộ... đây cũng là mợt trong những cơng trình
nghiên cứu từ khá lâu, đi trước, nắm bắt được những nhu cầu của xã hợi về lĩnh

vực này, nhìn thấy sự cần thiết phải thể chế hóa “mang thai hợ vì mục đích nhân
đạo” vào pháp luật. Sau khi mang thai hợ được thể chế hóa vào pháp luật Tác
giả Nguyễn Thị Lan cũng có một bài viết khá sâu sắc với nội dung “Mang thai
hộ và những vấn đề phát sinh” đăng trên Tạp chí Luật học số 04/2015 phân tích
những vấn đề còn vướng mắc liên quan đến pháp luật về mang thai hộ và đưa ra
những kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này… Tiếp theo đó,
TS. Nguyễn Văn Cừ cũng đã có bài viết đăng trên tạp chí Luật học số 06/2016
“Pháp luật về mang thai hộ ở Việt Nam” giới thiệu một cách tổng quát hầu hết
các vấn đề liên quan đến mang thai hợ tại Việt Nam; Trên Tạp chí Kiểm sát số
04/2016, tác giả Nguyễn Văn Lâm cũng có nêu quan điểm của mình về vấn đề
mang thai hợ vì mục đích nhân đạo với bài viết “Bàn về mang thai hộ theo quy
định của pháp luật Việt Nam”; Gần đây nhất vào tháng 10/2018, TS. Nguyễn
Hải an và Ths. Lê Thị Thu Thủy cũng có bài viết đăng trên hai kỳ của Tạp chí
Tòa án nhân dân điện tử về “Quyền và nghĩa vụ của các bên trong quá trình

5


mang thai hộ” và “Về điều kiện của việc mang thai hộ đối với người mang thai
hộ và một số vấn đề về quyền và nghĩa vụ của các bên trong q trình mang thai
hợ” phân tích mợt cách đầy đủ chi tiết tất cả các vấn đề liên quan đến mang thai
hợ vì mục đích nhân đạo. Bên cạnh đó, còn có rất nhiều bài viết chuyên sâu khác
được đăng trên các báo, tạp chí chuyên ngành về pháp luật. Việc có khá nhiều
bài viết liên quan đến mang thai hộ chứng tỏ sức hút không hề nhỏ của vấn đề
này đối với các nhà luật học, các nhà nghiên cứu, cũng như sự quan tâm từ phía
dư luận.
Ở các cơng trình nghiên cứu trên, tập thể các tác giả đều tập trung nghiên
cứu một cách cơ bản, sâu sắc, có hệ thống cơ sở lý luận, cơ sở thực tiễn, khái
niệm bản chất của việc mang thai hộ, đồng thời đưa ra định hướng xây dựng
pháp luật ở Việt Nam. Tuy nhiên, các cơng trình nghiên cứu trên đều tập trung

nghiên cứu ở khía cạnh vấn đề pháp lý và phân tích cụ thể các quy định của
pháp luật đề khái niệm, đặc điểm, những bất cập, vướng mắc của quy định mang
thai hộ theo quy định của pháp luật hiện hành, chứ chưa có cơng trình nào tập
trung nghiên cứu thỏa thuận mang thai hộ của các bên. Hay nói cách khác, “hợp
đờng mang thai hợ vì mục đích nhân đạo” vẫn cịn là vấn đề bỏ ngỏ và theo ý
kiến tác giả cần thiết phải có một đề tài nghiên cứu tập trung làm rõ vấn đề này.
2. Mục đích nghiên cứu của đề tài
- Làm rõ một số vấn đề lý luận về mang thai hợ vì mục đích nhân đạo và
đi sâu làm rõ hợp đồng mang thai hộ.
- Nêu ra thực trạng của việc xác lập và thực hiện hợp đồng mang thai hợ
vì mục đích nhân đạo ngồi đời sống thực tế.
- Nêu, phân tích, nhận xét đánh giá những quy định của pháp luật Việt
Nam về vấn đề hợp đồng thai hợ vì mục đích nhân đạo.
- Đưa ra kiến nghị, đề xuất, hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt
Nam về vấn đề hợp đờng mang thai hợ vì mục đích nhân đạo.
6


3. Đối tượng và Phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu: Một số vấn đề lý luận và các quy định của pháp luật Việt
Nam về vấn đề hợp đồng mang thai hợ vì mục đích nhân đạo.
Phạm vi nghiên cứu: Tác giả tập trung nghiên cứu trong phạm vi pháp
luật của Việt Nam, thực tiễn diễn ra trong đời sống thực tế của xã hội nước ta
hiện nay về vấn đề hợp đờng mang thai hợ vì mục đích nhân đạo.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
Từ những lý luận trên cơ sở luật pháp và thực tiễn cuộc sống của hợp
đồng mang thai hộ ở nước ta hiện nay, đưa ra những kiến nghị nhằm hoàn thiện
pháp luật về vấn đề hợp đồng mang thai hộ.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận của đề tài là phương pháp nghiên cứu khoa học duy vật

biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa khoa học Mac – Lê Nin, và hệ
thống quan điểm lý luận của Đảng Cợng Sản Việt Nam, tư tưởng Hờ Chí Minh
về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Để đạt được những mục đích nghiên cứu đã đề ra, trong quá trình nghiên
cứu đề tài, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu cơ bản sau:
- Phương pháp bình luận khi sử dụng trong chương 1 khi nghiên cứu vấn
đề chung về khái niệm, ý nghĩa của việc xác lập và thực hiện hợp đồng mang
thai hộ, những yếu tố ảnh hưởng tới việc xác lập và thực hiện hợp đồng mang
thai hộ.
- Phương pháp liệt kê, nêu ví dụ ở chương 2 khi đưa ra những trường hợp
xảy ra trong quá trình xác lập và thực hiện hợp đờng mang thai hợ diễn ra ngồi
thực tế c̣c sống, những vướng mắc từ quyền và nghĩa vụ của đôi bên trong
việc mối quan hệ của người mang thai hộ và người nhờ mang thai.

7


- Phương pháp phân tích, đánh giá tổng hợp... được sử dụng ở chương 3 khi
xem xét, đánh giá những quy định của Pháp luật Việt Nam hiện hành về vấn đề
xác lập và thực hiện hợp đồng mang thai hợ, từ đó đưa ra kiến nghị về hồn
thiện pháp luật trong lĩnh vực này
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Nêu và làm rõ những vấn đề lý luận hợp đồng mang thai hộ.
- Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật hiện hành của việc xác
lập thỏa thuận mang thai hộ trên cơ sở hợp đồng.
- Việc áp dụng các quy định của pháp luật, thể hiện trong hợp đồng mang
thai hộ vào thực tế cuộc sống hiện nay, những thành tự đạt được và những hạn
chế bất cập.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn đó, nêu ra phương hướng hoàn thiện các
quy định của pháp luật về hợp đồng mang thai hợ.

7. Cơ cấu của luận văn
Ngồi mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, tác giả bố trí luận
văn thành 3 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về hợp đờng mang thai hộ vì mục đích nhân
đạo
Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về hợp đờng mang thai hộ vì mục
đích nhân đạo
Chương 3: Kiến nghị nhằm hồn thiện pháp luật về hợp đờng mang thai hộ
vì mục đích nhân đạo

8


CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG MANG THAI HỘ
VÌ MỤC ĐÍCH NHÂN ĐẠO

1.1. Khái niệm, đặc điểm và đối tượng của hợp đồng mang thai hộ vì
mục đích nhân đạo
1.1.1. Khái niệm
Hợp đờng có những tên gọi khác nhau như thỏa thuận, khế ước, giao kèo,
thỏa ước... dù rất gần gũi thiết yếu và quen thuộc với mọi người, nhưng khi hỏi
nó là gì thì khơng phải ai cũng có thể định nghĩa được.
Tại cuốn từ điển pháp luật nổi tiếng của Hoa Kỳ, có đưa ra 2 định nghĩa
khác nhau về hợp đồng.
Định nghĩa thứ nhất: “Hợp đồng là sự thỏa thuận giữa hai hoặc nhiều
người, mà tạo lập nên một nghĩa vụ, làm hoặc không làm một việc cụ thể”
Định nghĩa thứ hai: “Hợp đồng là một sự hứa hẹn hoặc tập hợp sự hứa
hẹn mà đối với việc vi phạm nó, pháp luật đưa ra một chế tài, hoặc đối với việc
thực hiện nó, pháp luật, trong đó một số phương diện, thừa nhận như là một
trách nhiệm” [22].

Tại Bộ luật dân sự Queébec (Canada) 1994 cũng định nghĩa: “Hợp đồng
là một sự thỏa thuận các ý chí mà bởi nó hoặc mợt số người tự ràng ḅc mình
với mợt hoặc mợt số người khác để thực hiện một cam kết” (Điều 1378).
Theo Bộ luật dân sự Pháp 1804, “Hợp đồng là sự thỏa thuận mà theo đó
một hoặc nhiều người cam kết với một hoặc nhiều nguời khác chuyển giao một
vật, làm hoặc không làm một việc nào đó” (Điều 1101).
Bộ luật dân sự Nga cho rằng: “Hợp đồng được thừa nhận như một thỏa
thuận đuợc giao kết bởi hai hoặc nhiều người về việc phát sinh, thay đổi hoặc
chấm dứt các quyền và nghĩa vụ dân sự (Điều 420 khoản 1).
9


Theo Điều 385 Bộ luật dân sự Việt Nam 2015: “Hợp đồng là sự thỏa
thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ
dân sự”.
Qua các khảo sát trên ta thấy rằng, định nghĩa hợp đồng đều thể hiện ở 2
vấn đề lớn. Thứ nhất: sự trao đổi và thống nhất giữa các ý chí hay sự thỏa thuận.
Thứ hai, việc tạo lập nên hợp đồng là tạo lập nên một hậu quả pháp lý”[3, tr10 11].
Như vậy, dựa trên các định nghĩa mà tác giả có nêu ra ở trên, thì có thể
tổng kết rằng: “Hợp đờng là thỏa thuận ý chí của các bên khi tham gia quan hệ
dân sự”. Yếu tố thỏa thuận chính là yếu tố quyết định tạo nên hợp đồng. Thỏa
thuận là sự bàn bạc, tham luận, cân nhắc, trao đổi đi đến thống nhất ý chí của đôi
bên, kết hợp với các nhóm quyền và nghĩa vụ khi bàn bạc, thỏa thuận này sau đó
được gọi chung là hợp đờng.
Mang thai hợ vì mục đích nhân đạo là việc mợt người phụ nữ tự ngụn,
khơng vì mục đích thương mại, giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ
không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng các biện pháp hỗ trợ sinh
sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh
trong ống nghiệm sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai
để người này mang thai và sinh con [19, tr9]. Cặp vợ chờng có nhu cầu mang

thai hợ cung cấp nỗn và tinh trùng, chính là cha mẹ sinh học thật sự của đứa
trẻ, được gọi là “vợ chồng nhờ mang thai hộ”. Cặp vợ chồng có người vợ là
người nhận mang thai hộ gọi là “vợ chồng người mang thai hộ” [21].
Từ hai khái niệm trên, ta có thể định nghĩa về hợp đờng mang thai hợ như
sau: Hợp đồng mang thai hộ là một văn bản chứa đựng sự thỏa thuận, thống
nhất ý chí của bên nhờ mang thai hộ là cặp vợ chồng vô sinh với bên mang thai
hộ là người phụ nữ tự nguyện mang thai vì mục đích nhân đạo, nhằm thực hiện
các quyền và nghĩa vụ với nhau trong quan hệ pháp luật về mang thai hộ. Hợp
đồng mang thai hộ theo quy định của pháp luật Việt Nam là biên bản thỏa thuận
10


việc mang thai hộ vì mục đích nhân đạo được tạo nên từ ý chí của bên nhờ mang
thai hộ với bên mang thai hộ một cách tự nguyện, thiện chí và dựa trên các quy
định của pháp luật.
Trong mang thai hộ, trước khi các chủ thể tiến hành hoạt đợng mang thai
hợ thì việc đầu tiên đó là các bên phải thỏa thuận với nhau những nội dung trong
suốt q trình mang thai hợ. Nói nơm na, đó chính là sự bàn thảo để tạo nên một
hợp đồng dân sự mang tên hợp đồng mang thai hộ.
Thực chất, hợp đồng mang thai hộ đầu tiên trên thế giới đã xuất hiện vào
năm 1979 tại Hoa Kỳ, khi bác sỹ M.Levin đã thấu hiểu nguyện vọng của một
cặp vợ chồng khơng thể có con vì người vợ khơng thể mang thai. Ơng đã có ý
tưởng, cậy nhờ mợt người phụ nữ khác mang thai hộ người mẹ, mà phôi thai vẫn
lấy từ trứng và tinh trùng của cặp vợ chồng. Bước đầu thực hiện ý tưởng này,
ông đã vấp phải khá nhiều vấn đề về pháp lý khi chưa có một văn bản pháp luật
nào cụ thể quy định rõ về trường hợp này. Phải mất khá lâu vị bác sỹ, cùng với
các nhà luật sư cũng như các nhà nghiên cứu mới có thể tìm hiểu hết và lập ra
mợt “hợp đờng” kín kẽ đảm bảo mối quan hệ cũng như quyền lợi của các bên
tham gia quan hệ pháp luật khá nhạy cảm này. Đây cũng được coi là ‘Hợp đồng
mang thai hộ” hợp pháp đầu tiên trên thế giới [4, tr14].

Khác với các nước trên thế giới, ở Việt Nam, hợp đồng mang thai hộ
không được thể hiện dưới tên gọi “hợp đồng” mà thể hiện ở một tên gọi khác có
ý nghĩa tương tự là “thỏa thuận mang thai hợ vì mục đích nhân đạo ”. Tuy có
khác nhau về cách đọc cách viết nhưng nội dung của thỏa thuận mang thai hộ
cũng chứa đựng các thông tin chủ thể, các quyền và nghĩa vụ của các bên tham
gia quan hệ mang thai hộ, các thông tin thương lượng của đơi bên trong quá
trình hỗ trợ mang thai, giao nhận con và các thỏa thuận khác…Thỏa thuận mang
thai hợ cũng chính là căn cứ xác lập có tồn tại sự việc mang thai hộ, phân định
rõ trách nhiệm cũng như quyền lợi của các bên trong quan hệ mang thai hộ.
Đồng thời cũng là căn cứ để giải quyết các tranh chấp phát sinh trong quan hệ
này.
11


Dựa trên sự tương đồng về nội dung cũng như nhiệm vụ của “Thỏa thuận
mang thai hợ vì mục đích nhân đạo” và “Hợp đồng mang thai hộ”. Để đảm bảo
sự thống nhất về nội dung nghiên cứu, cũng như tính xun suốt trong quá trình
thực hiện đề tài này. Kể từ đây, tác giả xin phép nghiên cứu về “Thoả thuận
mang thai hợ vì mục đích nhân đạo” dưới góc đợ của mợt “Hợp đờng mang thai
hợ vì mục đích nhân đạo” và phân tích nó dưới cái nhìn của một hợp đồng mang
thai hộ theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành. Cụm từ “Hợp đồng
mang thai hợ vì mục đích nhân đạo” cũng xin được ngắn gọi lại là “hợp đồng
mang thai hộ”.
1.1.2. Đặc điểm của hợp đờng mang thai hợ vì mực đích nhân đạo theo
quy định của pháp luật Việt Nam
Thứ nhất, hợp đồng mang thai hộ là hợp đồng song vụ
Pháp luật Việt Nam từ trước tới nay, tỏ ra đồng nhất trong việc phân loại
hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ là phân loại đầu tiên được nhắc đến trong
bộ luật dân sự [3, tr190].
Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau

[10, tr186].
Có nghĩa là, hợp đồng song vụ là sự ràng buộc của hai bên, hay song
phương, khi các bên tự ràng ḅc mình mợt cách qua lại, mỗi bên đối với bên
kia, để nghĩa vụ của một bên, ứng với nghĩa vụ của bên kia [3, tr190].
Trong hợp đồng mang thai hộ, quyền và nghĩa vụ của các bên được thể
hiện đối xứng với nhau ở các mặt sau đây:
“Người mang thai hộ, chồng của người mang thai hộ có quyền, nghĩa vụ
như cha mẹ trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản và chăm sóc, nuôi dưỡng con
cho đến thời điểm giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ; phải giao đứa trẻ cho
bên nhờ mang thai hộ. Người mang thai hộ phải tuân thủ quy định về thăm
khám, các quy trình sàng lọc để phát hiện, điều trị các bất thường, dị tật của bào
12


thai theo quy định của Bộ Y tế. Người mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản
theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội cho đến thời điểm
giao đứa trẻ cho bên nhờ mang thai hộ. Trong trường hợp kể từ ngày sinh đến
thời điểm giao đứa trẻ mà thời gian hưởng chế đợ thai sản chưa đủ 60 ngày thì
người mang thai hộ vẫn được hưởng chế độ thai sản cho đến khi đủ 60 ngày.
Trong trường hợp vì lý do tính mạng, sức khỏe của mình hoặc sự phát triển của
thai nhi, người mang thai hộ có quyền quyết định về số lượng bào thai, việc tiếp
tục hay không tiếp tục mang thai phù hợp với quy định của pháp luật về chăm
sóc sức khỏe sinh sản và sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Trong trường
hợp bên nhờ mang thai hợ từ chối nhận con thì bên mang thai hộ có quyền yêu
cầu Tòa án buộc bên nhờ mang thai hộ nhận con” [12, tr67].
Tương xứng với các quyền và nghĩa vụ của bên mang thai hộ, bên nhờ mang
thai hộ cũng có các quyền và nghĩa vụ như sau:
“Bên nhờ mang thai hộ có nghĩa vụ chi trả các chi phí thực tế để bảo đảm
việc chăm sóc sức khỏe sinh sản theo quy định của Bộ Y tế. Quyền, nghĩa vụ
của bên nhờ mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đối với con phát sinh kể từ thời

điểm con được sinh ra. Người mẹ nhờ mang thai hộ được hưởng chế độ thai sản
theo quy định của pháp luật về lao động và bảo hiểm xã hội từ thời điểm nhận
con cho đến khi con đủ 06 tháng tuổi. Bên nhờ mang thai hộ không được từ chối
nhận con. Trong trường hợp bên nhờ mang thai hộ chậm nhận con hoặc vi phạm
nghĩa vụ về ni dưỡng, chăm sóc con thì phải có nghĩa vụ cấp dưỡng cho con
theo quy định của Luật này và bị xử lý theo quy định của pháp luật có liên quan;
nếu gây thiệt hại cho bên mang thai hộ thì phải bời thường. Trong trường hợp
bên nhờ mang thai hợ chết thì con được hưởng thừa kế theo quy định của pháp
luật đối với di sản của bên nhờ mang thai hộ. Trong trường hợp bên mang thai
hộ từ chối giao con thì bên nhờ mang thai hợ có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên
mang thai hộ giao con.”[12, tr68]
Mang thai hộ theo quy định của pháp luật Việt Nam là mang thai hợ vì
mục đích nhân đạo, khơng vì bất cứ lợi ích kinh tế, hay vật chất nào khác. Tuy
13


nhiên, điều đó khơng làm ảnh hưởng đến tính chất song vụ của hợp đồng này.
Bởi lẽ, nghĩa vụ của đôi bên khi tham gia vào quan hệ mang thai hộ không chỉ
dừng lại ở nghĩa vụ kinh tế, nghĩa vụ vật chất. Mà đối với hợp đồng mang thai
hộ, nghĩa vụ của đôi bên còn thể hiện tương xứng với nhau và với đứa trẻ.
Như vậy, có thể thấy trong hợp đồng mang thai hộ, song song với quyền
lợi của bên này, chính là trách nhiệm của bên kia. Tờn tại sự đối xứng về quyền
và lợi ích của các bên trong quan hệ mang thai hộ. Sự đối xứng này không phải
là sự đối xứng tuyệt đối, nhưng nó sự cân bằng về lợi ích của các bên. Sự cân
bằng này cũng tạo nên tính chất song vụ trong hợp đồng mang thai hộ.
Thứ hai, hợp đồng mang thai hộ là một thỏa thuận dân sự đặc biệt.
Khác với những dạng hợp đồng dân sự thông thường khác, khi đối tượng
hướng đến của các hợp đồng này hầu hết là những lợi ích vật chất liên quan đến
tài sản hoặc những giá trị vật chất phục vụ cho đời sống con người. Cịn hợp
đờng mang thai hợ vì mục đích nhân đạo thì khác, điểm đặc biệt của loại hợp

đồng này được thể hiện ở chỗ đối tượng mà các bên tham gia thỏa thuận hướng
tới ở đây chính là đứa trẻ được sinh ra nhờ phương pháp mang thai hộ. Xác định
được đối tượng hướng tới của hợp đờng này là con người hơn thế lại cịn là một
đứa trẻ đòi hỏi pháp luật phải đưa ra rất nhiều biện pháp phịng tránh những bất
lợi có thể xảy đến đối với đối tượng đặc biệt này, phải có những quy phạm pháp
luật đảm bảo đầy đủ các quyền lợi hợp pháp đáng có của trẻ em theo quy định
của pháp luật và các điều ước quốc tế về bảo vệ quyền và lợi ích của trẻ em.
Bên cạnh đó, bằng một cách nhân văn hợp đồng mang thai hộ là sự biểu
hiện của khát khao được làm cha mẹ của bên nhờ mang thai hộ và mong muốn
được giúp đỡ của bên mang thai hộ để tạo ra đứa con cùng huyết thống cho cặp
vợ chồng vô sinh hiếm ṃn. u cầu mang thai hợ phải vì mục đích nhân đạo,
và khơng vì lợi ích vật chất hay bất kỳ lợi ích nào khác. “Mục đích nhân đạo”
chính là cái đích cuối cùng, xun suốt quá trình giao kết và thực hiện hợp đồng.

14


Thứ ba, hợp đồng mang thai hộ ở Việt Nam khơng được phép tạo lập vì
mục đích thương mại.
Khơng chỉ có ở Việt Nam mà ở đại đa số các quốc gia, thiết lập hợp đờng
mang thai hợ vì mục đích thương mại là mợt hành vi bị cấm.
Tại Australia, mang thai hộ đã được pháp điển hóa thành pháp luật và có
sự khác biệt tại các tiểu bang. Mang thai hộ được thừa nhận hợp pháp tại
Queenland kể từ ngày 01/06/2010, tuy nhiên, mang thai hợ vì mục đích thương
mại là hoàn toàn bị cấm ở quốc gia này. Tương tự như vậy, tại 2 bang New
South Wales và Australia Capital Teritory, các hợp đồng mang thai hộ phải đáp
ứng được các điều kiện về đợ tuổi thích hợp và từng mang thai sinh con theo đạo
luật số 34, đạo luật mang thai hộ và đạo luật mang thai hợ sửa đổi, luật số 31 về
mang thai hợ vì mục đích nhân đạo. Trong đạo luật mang thai hợ 2010 của
Australia tại thỏa thuận mang thai hộ của các bên chủ thể có điều khoản, "đứa

trẻ ra đời là con của người nhờ mang thai hộ, chuyển giao quyền nuôi duỡng,
giám hộ cho người nhờ mang thai hộ từ sau khi sinh đến suốt đời còn lại của đứa
trẻ". Luật này cũng quy định, cặp vợ chồng mang thai hộ cũng là bố mẹ hợp
pháp của đứa trẻ từ lúc bắt đầu mang thai đến khi chuyển giao đứa trẻ. Trong
quá trình mang thai, tính mạng đứa trẻ do người phụ nữ mang thai hộ quyết
định. Nếu có bất kỳ tranh chấp nào, thì Tồ Vị thành niên sẽ là tòa có thẩm
quyền giải quyết. Những quy định này, tương đối giống với các quy định về
mang thai hộ ở Việt Nam hiện nay.
Tại Ukraine, mang thai hộ đuợc công nhận hợp pháp kể từ năm 2002, việc
ban hành và thực thi pháp luật mang thai hộ có ý nghĩa to lớn trong việc góp
phần hỗ trợ đầy đủ quyền sinh sản của cá nhân.
Hunggari, Hà Lan, Bỉ, Canada, Nam Phi, Anh, Hy Lạp... cũng là một
trong những quốc gia tiêu biểu cho phép mang thai hộ nhưng phải vì mục đích
nhân đạo. Nghiêm cấm việc mang thai hợ vì mục đích thương mại. Kể cả pháp
luật về mang thai hợ vì mục đích nhân đạo cũng quy định rất chặt chẽ, bao gồm
15


cả các thỏa thuận mang thai hộ hay còn gọi là hợp đờng cũng khơng được phép
thể hiện mục đích thương mại, hay bất kỳ mục đích vật chất nào khác [9, tr2329].
Quay trở lại với các quy định của pháp luật Việt Nam. Ở nước ta, pháp
luật nghiêm cấm hành vi tổ chức mang thai hợ vì mục đích thương mại. Để bảo
vệ chế độ hôn nhân và gia đình pháp luật cấm thực hiện sinh con bằng kỹ thuật
hỗ trợ sinh sản vì mục đích thương mại, mang thai hợ vì mục đích thương mại
[12, tr14]. Bên cạnh đó, pháp luật còn quy định cả chế tài xử phạt đối với hành
vi “tổ chức mang thai hợ vì mục đích thương mại” với nợi dung như sau “Người
nào tổ chức mang thai hợ vì mục đích thương mại, thì bị phạt tiền từ 50.000.000
đờng đến 200.000.000 đờng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt
tù từ 03 tháng đến 02 năm. Bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm khi thuộc một trong
các trường hợp: Đối với 02 người trở lên; Phạm tội 02 lần trở lên; Lợi dụng

danh nghĩa của cơ quan, tổ chức; Tái phạm nguy hiểm. Ngồi ra, người phạm tợi
cịn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đờng đến 50.000.000 đồng, cấm đảm
nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05
năm” [11, tr142].
Sở dĩ pháp luật nghiêm cấm hành vi mang thai hợ vì mục đích thương
mại, cũng như trong hợp đờng mang thai hợ khơng được phép quy định về lợi
ích kinh tế hay lợi ích vật chất khác bởi vì: không thể xem đứa trẻ như một món
hàng trao tay, cũng như không thể xem việc mang thai hộ hay thỏa thuận mang
thai hộ chỉ là một hợp đồng “thuê tử cung” đơn thuần. Nếu pháp luật cho phép
mang thai hợ vì mục đích thương mại, thì khơng khác nào nhà nước đang tạo
điều kiện cho dịch vụ "đẻ thuê" trở nên phát triển, điều đó không chỉ gây ảnh
hưởng xấu đến văn hóa, đạo đức và thuần phong mỹ tục mà còn là điều kiện
thuận lợi để tội phạm buôn bán người có cơ hội hoạt động, gây ra hậu quả khôn
lường cho xã hội. Vậy nên, nghiêm cấm mang thai hợ vì mục đích thương mại là
việc làm cần thiết để nhà nước kiểm soát được tình trạng mang thai hộ diễn ra

16


trên thực tế, cũng như có những chế tài răn đe đối với những trường hợp cố tình
vi phạm.
Thứ tư, hợp đồng mang thai hộ luôn phải đảm bảo các nguyên tắc chung
trong giao kết hợp đồng dân sự
Về bản chất, hợp đồng mang thai hộ là hợp đồng dân sự, chính vì thế, như
bao hợp đờng dân sự khác, hợp đồng mang thai hộ phải tuân thủ đầy đủ các
nguyên tắc của một hợp đồng dân sự thông thường bao gờm: Ngun tắc bình
đẳng; Ngun tắc thiện chí trung thực; Nguyên tắc chịu trách nhiệm dân sự;
Nguyên tắc tôn trọng đạo đức, truyền thống tốt đẹp; Nguyên tắc tôn trọng lợi ích
của Nhà nước, lợi ích cơng cợng, quyền, lợi ích hợp pháp của người khác;
Nguyên tắc tuân thủ pháp luật; Nguyên tắc hoà giải; … Ngoài ra còn có một

nguyên tắc hết sức quan trọng mà cả hai bên cần phải nắm rõ đó là nguyên tắc
tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự. Tất cả các quyền dân sự của cá nhân, pháp nhân,
chủ thể khác được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Khi quyền dân sự của
mợt chủ thể bị xâm phạm thì chủ thể đó có quyền tự bảo vệ theo quy định của
Bộ luật này hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền: Cơng nhận quyền dân
sự của mình; Ḅc chấm dứt hành vi vi phạm; Ḅc xin lỗi, cải chính công khai;
Buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự; Buộc bồi thường thiệt hại…
Trong thực tế đời sống, mang thai hộ đã tồn tại từ lâu, kể từ khi phương
pháp thụ tinh trong ống nghiệm được áp dụng thành công. Duới tên gọi “đẻ
mướn” mang thai hộ chỉ được hiểu đơn thuần là việc một người phụ nữ mang
nặng đẻ đau hộ nguời phụ nữ khác. Sự việc này vẫn xảy ra ngồi thực tế mà
khơng có bất cứ điều khoản hay chế tài nào bảo vệ nếu có tranh chấp xảy ra.
Nhận thấy sự cần thiết của việc cần có một bộ các quy tắc xử sự chung điều
chỉnh về vấn đề này nên pháp luật đã cho ra đời chế định về mang thai hộ nhằm
đảm bảo cho các quyền dân sự của các chủ thể trong quan hệ này được đảm bảo.
Việc nắm rõ các nguyên tắc trong hợp đồng nhằm đảm bảo cho hợp đồng mang
thai hộ được thiết lập đúng trình tự pháp luật, đúng các quyền và nghĩa vụ. Tôn
trọng đạo đức và pháp luật, phát huy được truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta và
17


bảo đảm ý nghĩa nhân văn to lớn của quan hệ mang thai hợ vì mục đích nhân
đạo.
Thứ năm, hợp đờng mang thai hộ vì mục đích nhân đạo là một hợp đờng
trọng hình thức.
Luật Hơn nhân và Gia đình 2014 quy định “Thỏa thuận về việc mang thai
hộ phải được lập thành văn bản có cơng chứng. Trong trường hợp vợ chồng bên
nhờ mang thai hộ ủy quyền cho nhau hoặc vợ chồng bên mang thai hộ ủy quyền
cho nhau về việc thỏa thuận thì việc ủy quyền phải lập thành văn bản có cơng
chứng. Việc ủy quyền cho người thứ ba khơng có giá trị pháp lý.

Trong trường hợp thỏa thuận về mang thai hộ giữa bên mang thai hộ và
bên nhờ mang thai hộ được lập cùng với thỏa thuận giữa họ với cơ sở y tế thực
hiện việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì thỏa thuận này phải có xác
nhận của người có thẩm quyền của cơ sở y tế này”[12, tr66].
Pháp luật khơng chỉ quy định về hình thức của thỏa thuận mang thai hộ
mà còn định hướng xây dựng các nợi dung chính của thỏa thuận này. Bởi lẽ
mang thai hợ là mợt quan hệ có tính chất phức tạp, dễ phát sinh tranh chấp, đối
tượng của hợp đồng lại vơ cùng đặc biệt. Chính vì thế, thỏa thuận mang thai hộ
phải được lập thành văn bản với những nội dung cụ thể.
Bên cạnh đó, văn bản thỏa thuận bắt buộc phải được công chứng, chứng
thực tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Bởi lẽ, khi văn bản này được cơng
chứng hoặc chứng thực thì đờng nghĩa với việc nhà nước đã thể hiện ý chí chấp
nhận và bảo vệ thỏa thuận này, đảm bảo cho việc thực hiện thỏa thuận này của
các bên. Đó cũng chính là cơ sở pháp lý quan trọng làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ của các bên, trong đó có quyền của người nhờ mang thai hộ được mặc
nhiên công nhận là bố mẹ của đứa trẻ khi đăng ký khai sinh và các giấy tờ hộ
tịch khác, tránh những tranh chấp không cần thiết.

18


×