Tải bản đầy đủ (.pdf) (79 trang)

Luận văn công chứng hợp đồng ủy quyền theo pháp luật việt nam hiện nay từ thực tiễn thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (448.45 KB, 79 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN MINH TÂM

CÔNG CHỨNG HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

HÀ NỘI, năm 2021


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN MINH TÂM

CÔNG CHỨNG HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN
THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM HIỆN NAY
TỪ THỰC TIỄN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Ngành : Luật kinh tế
Mã số : 8.38.01.07

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. LÊ THỊ BÍCH THỌ

HÀ NỘI, năm 2021




MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, trong nền kinh tế thị trường, những giao dịch dân sự, thương mại
diễn ra rất phổ biến, tuy nhiên không phải lúc nào những chủ thể cũng có thể trực
tiếp tham gia mà việc thực hiện các giao dịch này sẽ thông qua đại diện theo ủy
quyền. Hợp đồng uỷ quyền được coi là căn cứ pháp lý cho việc thực hiện các giao
dịch do người đại diện theo ủy quyền thực hiện nhân danh người ủy quyền. Pháp
luật quy định về các văn bản ủy quyền chính là cơng cụ thúc đẩy sự phát triển của
các giao dịch dân sự.
Theo báo cáo tổng kết của công tác công chứng, chứng thực tại Uỷ ban nhân
dân và các tổ chức hành nghề công chứng trong cả nước, nhất là ở những tỉnh,
thành phố lớn cho thấy, việc công chứng, chứng thực văn bản uỷ quyền ngày càng
tăng. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, việc soạn thảo, công chứng, chứng thực văn bản
ủy quyền cũng như việc thực hiện văn bản uỷ quyền đã phát sinh một số vấn đề bất
cập như căn cứ uỷ quyền, hình thức uỷ quyền, quyền và nghĩa vụ của các bên khi
tham gia giao kết hợp đồng ủy quyền,... Đây là những nguyên nhân dẫn đến việc
tranh chấp hợp đồng ủy quyền, gây khó khăn trong việc áp dụng pháp luật cũng như
việc giải quyết tranh chấp.
Để góp phần hồn thiện những quy định của pháp luật về các văn bản ủy
quyền và khắc phục những bất cập trong hoạt động công chứng các văn bản ủy
quyền thì việc nghiên cứu làm sáng tỏ những quy định của pháp luật cũng như thực
tiễn hoạt động công chứng các văn bản ủy quyền là rất quan trọng. Qua việc nghiên
cứu những quy định của pháp luật và thực tiễn áp dụng đề ra những giải pháp góp
phần hoàn thiện những quy định của pháp luật liên quan đến công chứng văn bản ủy
quyền.
Việc nghiên cứu làm sáng tỏ khái niệm, những quy định của pháp luật về công
chứng hợp đồng ủy quyền cũng như thực tiễn áp dụng là một việc làm cần thiết, có
ý nghĩa khơng chỉ trong nghiên cứu mà cả thực tiễn áp dụng nhất là trong giai đoạn

hiện nay. Vì vậy, tác giả đã chọn đề tài: “Công chứng hợp đồng ủy quyền theo


pháp luật Việt Nam hiện nay từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn
Thạc sĩ Luật kinh tế.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở nước ta, đến nay đã có nhiều cơng trình khoa học nghiên cứu những quy
định của pháp luật về những hợp đồng dân sự thông dụng. Năm 2008, tác giả
Nguyễn Thị Lan Hương bảo vệ thành công luận văn Thạc sĩ Luật Dân sự với đề tài:
“Hợp đồng uỷ quyền theo pháp luật Việt Nam”.
Ngồi ra, quy định về cơng chứng văn bản ủy quyền còn được đề cập trong
một số bài viết được đăng trên các tạp chí chuyên ngành như: Tạp chí Nhà nước
Pháp luật, Tạp chí Luật học, Tạp chí Toà án nhân dân, ... Tuy nhiên, những bài viết
này mới chỉ đề cập một cách khái quát, mang tính chất tham khảo hoặc nêu ra một
số những bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Đến nay, vẫn chưa có cơng
trình khoa học nghiên cứu một cách hệ thống, toàn diện về các văn bản uỷ quyền.
Trong thời gian trước đây, cũng có một số tác giả nghiên cứu về các vấn đề
khác nhưng có liên quan đến hợp đồng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam như:
Luận văn thạc sĩ: “Quan hệ đại diện theo ủy quyền trong hoạt động thương
mại”, của Đinh Thị Thanh Thủy, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2004;
Luận văn thạc sĩ: :“Hợp đồng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam”, của
Nguyễn Thị Lan Hương, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2008;
Luận văn thạc sĩ:“Hợp đồng ủy quyền theo pháp luật Việt Nam”, của Nguyễn
Thị Nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2017;
Ngồi ra, có khá nhiều bài viết đề cập đến hợp đồng ủy quyền được đăng trên
các Báo, Tạp chí pháp luật như bài viết: “Đại diện theo uỷ quyền – Từ pháp luật nội
dung đến Tố tụng dân sự” của ThS. Nguyễn Minh Hằng, Giảng viên Học viện Tư
pháp đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp năm 2005, “Trao đổi một số vấn đề về
văn bản ủy quyền” của Nguyễn Văn Phi, đăng trên Trang web Viện kiểm sát nhân
dân thành phố Cần Thơ năm 2018, “Một số vấn đề ủy quyền tham gia tố tụng trong

các vụ án dân sự” của Trương Vũ Linh đăng trên Tạp chí Tịa án nhân dân điện tử
năm 2021, “Rủi ro cao khi vay tài sản bằng hình thức ký hợp đồng ủy quyền” của
Hoài Trọng đăng trên Trang web Sở Tư pháp Bình Thuận năm 2021,... Tất cả các


cơng trình nghiên cứu cũng như các bài viết nêu trên đều đề cập đến các khía cạnh
khác nhau của hợp đồng ủy quyền. Tuy nhiên, những bài viết này mới chỉ đề cập
một cách khái quát, mang tính chất tham khảo hoặc nêu ra một số những bất cập,
vướng mắc trong thực tiễn áp dụng. Đến nay, vẫn chưa có cơng trình khoa học
nghiên cứu một cách hệ thống, tồn diện về hợp đồng uỷ quyền.
Tuy nhiên, dưới góc độ chuyên ngành Luật kinh tế thì đến nay chưa có cơng
trình nào nghiên cứu chun sâu về “Cơng chứng hợp đồng ủy quyền theo pháp
luật Việt nam hiện nay từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí Minh”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm rõ quy định của pháp luật về hợp đồng ủy quyền và
kiến nghị giải pháp thực tiễn nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng ủy
quyền trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
Để hồn thành mục tiêu nêu trên luận văn có nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa cơ sở khoa học, thực tiễn về hợp đồng ủy quyền.
- Đánh giá tình hình thực hiện cơng chứng hợp đồng ủy quyền theo pháp luật
Việt Nam trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề xuất các giải pháp để hồn thiện thực hiện cơng chứng hợp đồng ủy
quyền.
- Phân tích, chỉ ra điểm hợp lý và chưa hợp lý của việc công chứng hợp đồng
ủy quyền trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay;
- Kiến nghị định hướng và giải pháp cơ bản hoàn thiện pháp luật Việt Nam về
công chứng hợp đồng ủy quyền trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Ủy quyền là một trong những giao dịch dân sự thông dụng, được hình thành

rất sớm có vai trị, ý nghĩa quan trọng trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội như
Dân sự, Hành chính, Tố tụng, Kinh tế, ... Trong khuôn khổ luận văn thạc sĩ Luật
kinh tế, tác giả không đi sâu nghiên cứu một cách đầy đủ, trọn vẹn những quy định
của pháp luật Việt Nam về uỷ quyền. Đề tài, chủ yếu tập trung nghiên cứu những
quy định của pháp luật về các văn bản uỷ quyền trong lĩnh vực dân sự, đồng thời đề


xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn của CCV, người có trách
nhiệm cơng chứng, chứng thực hợp đồng uỷ quyền trong trong hoạt động công
chứng, chứng thực thường gặp. Mặt khác, qua việc nghiên cứu tác giả đề xuất một
số giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho mọi cá
nhân, tổ chức thực hiện hợp đồng uỷ quyền.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
- Về thời gian: năm 2020
- Về nội dung:
+ Dựa trên chế định pháp lý về hợp đồng ủy quyền trong BLDS 2015 như quy định
về quyền và nghĩa vụ của người ủy quyền, người được ủy quyền, quy định về chấm dứt
hợp đồng ủy quyền, cơ chế ủy quyền lại, kết hợp với các quy định pháp luật về cơng
chứng, chứng thực hợp đồng, và có liên hệ với chế định đại diện, đề tài nghiên cứu thực
tiễn chủ yếu trong hoạt động công chứng, chứng thực hợp đồng ủy quyền.
+ Quy trình thực hiện việc công chứng hợp đồng ủy quyền tại các tổ chức
hành nghề cơng chứng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.
+ Đề xuất một số giải pháp để hoàn thiện pháp luật về công chứng hợp đồng
ủy quyền theo pháp luật Việt Nam.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Luận văn được trình bày dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác –
Lenin về nhà nước, pháp luật và những quan điểm của Đảng, Nhà nước về công chứng
hợp đồng ủy quyền.

5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích kết hợp với bình luận được sử dụng để làm rõ quy định
của pháp luật hiện hành về công chứng hợp đồng ủy quyền; Phương pháp tổng hợp
nhằm khái quát hóa thực trạng áp dụng pháp luật về công chứng hợp đồng ủy
quyền, qua đó đề xuất kiến nghị hồn thiện pháp luật; Phương pháp tổng kết thực
tiễn nhằm vận dụng nhuần nhuyễn giữa kiến thức quy định của pháp luật và thực


tiễn áp dụng pháp luật để làm sáng tỏ những vấn đề nghiên cứu về công chứng hợp
đồng ủy quyền.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn luận văn
Luận văn là cơng trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách toàn diện về
các văn bản uỷ quyền theo pháp luật Việt Nam. Luận văn phân tích, đánh giá những
quy định của pháp luật hiện hành cũng như thực tiễn áp dụng tại các tổ chức hành
nghề công chứng mà cụ thể là tại Thành phố Hồ Chí Minh. Qua đó, đề xuất một số
giải pháp nhằm hồn thiện những quy định của pháp luật về văn bản ủy quyền.
Những đóng góp của luận văn có giá trị khơng chỉ giúp cho hoạt động công chứng,
chứng thực văn bản ủy quyền mà còn trong nghiên cứu khoa học; những kiến nghị,
đề xuất của luận văn là cơ sở để ban hành những văn bản pháp luật có liên quan.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mục lục, mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung chính của luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về hợp đồng ủy quyền
Chương 2: Công chứng hợp đồng ủy quyền từ thực tiễn Thành phố Hồ Chí
Minh.
Chương 3: Kiến nghị hồn thiện pháp luật công chứng hợp đồng ủy quyền và
nâng cao hiệu quả thực hiện tại thành phố Hồ Chí Minh.


Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG ỦY QUYỀN
1.1. Khái quát về đại diện theo ủy quyền
1.1.1. Một số cách thức ủy quyền
1.1.1.1. Ủy quyền trong tố tụng dân sự
Để giải quyết một vụ án dân sự cần có sự tham gia của các đương sự với tư
cách tham gia tố tụng khác nhau. Đương sự hoặc người đại diện của đương sự tham
gia tố tụng dân sự tại Tịa án có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền, lợi
ích hợp pháp của chính người đó nhất là trong trường hợp họ là người bị hạn chế
hoặc bị mất năng lực hành vi tố tụng dân sự, cũng như việc làm rõ sự thật của vụ
việc dân sự. Trong thực tiễn có những vụ án dân sự do chính đương sự tham gia
hoặc ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng tại Tòa án. Tuy nhiên, không phải
bất kỳ vụ án dân sự nào, người tham gia tố tụng cũng có quyền ủy quyền cho người
khác. Chẳng hạn như đối với việc ly hôn, đương sự không được ủy quyền cho người
khác thay mặt mình tham gia tố tụng. Trường hợp cha, mẹ, người thân thích khác
u cầu Tịa án giải quyết ly hôn khi một bên vợ, chồng do bị bệnh tâm thần hoặc
mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình, đồng thời
là nạn nhân của bạo lực gia đình do chồng, vợ của họ gây ra làm ảnh hưởng nghiêm
trọng đến tính mạng, sức khỏe, tinh thần của họ thì cha, mẹ, người thân thích là
người đại diện (Khoản 2 Điều 51 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014).
Theo Điều 85 của BLTTDS 2015 thì người đại diện trong tố tụng dân sự bao
gồm người đại diện theo pháp luật và người đại diện theo ủy quyền. Người đại diện
có thể là cá nhân hoặc pháp nhân theo quy định của BLDS. Ngoài ra, trong khoản 4
tại điều này có quy định người đại diện theo ủy quyền theo quy định của BLDS là
người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự.
Nhận thấy rằng người đại diện theo ủy quyền tham gia tố tụng dân sự để bảo
vệ quyền, lợi ích hợp pháp cho đương sự. Căn cứ phát sinh đại diện theo ủy quyền
là dựa trên sự ủy quyền của đương sự. Khác với người đại diện theo pháp luật và
người đại diện do Tịa án chỉ định thì đương sự được đại diện là người có năng lực



hành vi tố tụng nên người đại diện theo ủy quyền chỉ được tham gia tố tụng khi
được đương sự ủy quyền thay mặt họ trong tố tụng dân sự [7].
Trong trường hợp người đại diện theo pháp luật của cơ quan, tổ chức, chủ hộ
gia đình khơng trực tiếp tham gia tố tụng mà ủy quyền cho luật sư hoặc người khác
tham gia tố tụng thì người được ủy quyền cũng là người đại diện theo pháp luật,
trường hợp này cũng đã phát sinh đại diện theo ủy quyền.
Người đại diện thực hiện hành vi nhân danh người được đại diện. Do đó, cần
phải có một giới hạn nhất định cho hành vi đó, giới hạn này cũng là phạm vi thẩm
quyền đại diện. Phạm vi thẩm quyền của người đại diện theo ủy quyền được xác
định trong chính văn bản ủy quyền. Người đại diện theo ủy quyền chỉ được phép
thực hiện hành vi pháp lý trong khuôn khổ văn bản ủy quyền theo quy định. Việc
xác lập văn bản ủy quyền và giải quyết các tranh chấp phát sinh phải tuân thủ theo
các quy định của pháp luật về hợp đồng ủy quyền.
Đại diện theo ủy quyền có hai trường hợp mà khơng được làm người đại diện
quy định tại Khoản 2 Điều 87 của BLTTDS 2015. Bên cạnh đó, trong đại diện theo
ủy quyền, pháp luật tố tụng dân sự cịn quy định “cán bộ, cơng chức trong các
ngành tịa án, kiểm sát, cơng an khơng được làm người đại diện trong tố tụng dân
sự, trừ trường hợp họ tham gia tố tụng với tư cách người đại diện cho cơ quan của
họ hoặc với tư cách là người đại diện theo pháp.
Việc chấm dứt đại diện theo ủy quyền trong tố tụng dân sự và hậu quả của
việc chấm dứt được quy định tại Điều 89 BLTTDS 2015, và cũng làm chấm dứt đại
diện ủy quyền trong các trường hợp khoản 3 Điều 140 của BLDS 2015 như sau:
Điều 140: Thời hạn đại diện:
3.Đại diện theo ủy quyền chấm dứt trong trường hợp sau đây:
a) Theo thỏa thuận;
b) Thời hạn ủy quyền đã hết;
c) Công việc được ủy quyền đã hoàn thành;
d) Người được đại diện hoặc người đại diện đơn phương chấm dứt thực hiện
việc ủy quyền;



đ) Người được đại diện, người đại diện là cá nhân chết; người được đại diện,
người đại diện là pháp nhân chấm dứt tồn tại;
e) Người đại diện khơng cịn đủ điều kiện quy định tại khoản 3 Điều 134 của
Bộ luật này;
g) Căn cứ khác làm cho việc đại diện không thể thực hiện được.
1.1.1.2. Ủy quyền trong tố tụng hình sự
Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 khơng có quy định nào đề cập đến vấn đề
ủy quyền mà trong các điều luật quy định về người bị hại (Điều 62), nguyên đơn
dân sự (Điều 63), bị đơn dân sự (Điều 64), người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến vụ án (Điều 65) có đề cập đến người đại diện hợp pháp của họ. Người đại diện
hợp pháp có thể là người đại diện theo pháp luật hoặc người đại diện theo ủy quyền.
Như vậy, những người tham gia tố tụng bao gồm: Người bị hại, nguyên đơn dân sự,
bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án trong vụ án hình sự
có quyền tự bảo vệ, nhờ người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho mình bằng
cách có thể ủy quyền thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình thơng qua người
đại diện nếu họ khơng muốn hoặc khơng có điều kiện tham gia tố tụng. Cịn đối với
những đương sự khác trong tố tụng hình sự như: Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo,
người làm chứng được coi là bắt buộc phải tự mình tham gia trực tiếp vào các hoạt
động tố tụng, không được ủy quyền cho người khác [8].
1.1.1.3. Ủy quyền trong tố tụng hành chính
Về người đại diện trong tố tụng hành chính, kể từ ngày 01/7/2016 (ngày Luật
Tố tụng hành chính có hiệu lực) thì việc cử người đại diện trong tố tụng hành chính
trước Tịa án nhân dân phải theo đúng quy định tại Điều 60 của Luật này. Luật Tố
tụng hành chính quy định các đương sự tham gia tố tụng hành chính có quyền ủy
quyền bằng văn bản cho luật sư hoặc người khác đại diện cho mình tham gia tố tụng
để bảo vệ quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cho mình (Khoản 11 Điều 55 Luật Tố tụng
hành chính 2015). Người đại diện theo ủy quyền trong tố tụng hành chính phải là
người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, được đương sự hoặc người đại diện theo
pháp luật của đương sự ủy quyền bằng văn bản (Khoản 3 Điều 60 Luật Tố tụng

hành chính 2015), trừ những trường hợp Luật quy định khơng được làm người đại


diện. Theo quy định hiện hành, người được ủy quyền thực hiện toàn bộ các quyền,
nghĩa vụ tố tụng hành chính của người ủy quyền. Đồng thời, người được ủy quyền
không được ủy quyền lại cho người thứ 3 (Khoản 5, Điều 60 Luật Tố tụng hành
chính 2015).
Khoản 3 Điều 60 Luật Tố tụng hành chính quy định người đại diện theo ủy
quyền trong tố tụng hành chính phải là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ,
được đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật của đương sự ủy quyền bằng văn
bản. Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác khơng có tư cách pháp nhân
tham gia tố tụng hành chính thì các thành viên có thể ủy quyền cho một thành viên
hoặc người khác làm đại diện tham gia tố tụng hành chính.
Trường hợp người bị kiện là cơ quan, tổ chức hoặc người đứng đầu cơ quan,
tổ chức thì người bị kiện chỉ được ủy quyền cho cấp phó của mình đại diện. Người
được ủy quyền phải tham gia vào quá trình giải quyết tồn bộ vụ án, thực hiện đầy
đủ các quyền và nghĩa vụ của người bị kiện theo quy định của Luật này. Mục đích
của quy định này theo lý giải của các nhà lập pháp là để bên bị kiện đánh giá chính
xác, đầy đủ về quyết định hành chính, hành vi hành chính trong q trình tham gia
tố tụng tại Tịa án, từ đó quyết định việc sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc quyết định
đối thoại để giải quyết vụ án với người khởi kiện. Nếu ủy quyền cho cán bộ chuyên
môn tham gia tố tụng thì họ khơng có thẩm quyền quyết định những vấn đề trên.
Nhìn từ góc độ này thấy quy định tại Khoản 3 Điều 60 Luật tố tụng hành chính
năm 2015 là rất tích cực, thể hiện sự tiến bộ của hoạt động lập pháp. Có như vậy
mới bảo đảm thực hiện được nguyên tắc tranh tụng quy định tại Điều 18 Luật tố
tụng hành chính năm 2015. Đồng thời nâng cao trách nhiệm của cơ quan hành chính
đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính do mình ban hành hoặc thực
hiện, hướng đến xây dựng một nền hành chính “phục vụ nhân dân”.
Như vậy, trong tất cả các vụ án dân sự, kinh tế, lao động, hình sự, hành
chính, hay trong những vụ việc khiếu nại, tố cáo, đương sự đều có thể ủy quyền cho

người khác tham gia tố tụng với tư cách là người đại diện để thực hiện các quyền và
nghĩa vụ trong tố tụng, thực hiện quyền và nghĩa vụ trong khiếu nại, tố cáo thay cho


mình (Riêng trong vụ án hình sự thì bên ủy quyền chỉ giới hạn trong một số đương
sự).
1.1.2. Hợp đồng ủy quyền trong các giao dịch dân sự
Đại diện ngoài tố tụng là đại diện để xác lập thực hiện giao dịch ngồi phạm vi
tố tụng do Tịa án tiến hành. Hay nói cách khác đó chính là việc đại diện của một
chủ thể nhân danh và vì lợi ích của chủ thể khác theo quy định của pháp luật hoặc
theo ủy quyền để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự, thương mại, lao động. Có hai
hình thức đại diện gồm đại diện theo pháp luật và đại diện theo ủy quyền. Đại diện
cho pháp nhân, người mất năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành
vi dân sự, cha mẹ đối với con chưa thành viên, người giám hộ với người được giám
hộ là những trường hợp đại diện theo pháp luật còn đại diện theo ủy quyền là đại
diện được xác lập bằng hợp đồng ủy quyền theo quy định của BLDS và một số luật
chuyên ngành (Luật Thương mại, Luật lao động, Luật công chứng,…).
Thông thường, khi tham gia vào các quan hệ dân sự thì chủ thể sẽ tự mình xác
lập và thực hiện giao dịch dân sự. Nhưng có nhiều trường hợp vì những lý do khách
quan bất khả kháng hoặc những lý do chủ quan như: đau ốm, đi nước ngoài,… mà
chủ thể tham gia vào quan hệ dân sự khơng có mặt để có thể tự mình xác lập và
thực hiện giao dịch đó.
Do đó, để hỗ trợ và bảo đảm quyền lợi cho các chủ thể trong giao dịch dân sự,
pháp luật dân sự cho phép chủ thể này ủy quyền cho chủ thể khác thay mình thực
hiện các quyền và nghĩa vụ, đó chính là đại diện theo ủy quyền.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 134 BLDS 2015 thì “đại diện” được hiểu là
việc người đại diện nhân danh và vì lợi ích của người được đại diện xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự. Đồng thời, theo quy định tại khoản 1 Điều 138 BLDS 2015
thì “đại diện theo ủy quyền” phải là việc chính chủ thể có quyền tự mình trao quyền
cho chủ thể khác (đủ năng lực thực hiện) để thay mình tham gia vào các giao dịch

dân sự.
Như vậy thì đại diện theo ủy quyền tức là việc một cá nhân, pháp nhân (bên
đại diện) nhân danh và vì lợi ích của một cá nhân, pháp nhân khác (bên được đại


diện) tiến hành xác lập và thực hiện các giao dịch dân sự thông qua việc được bên
được đại diện “trao quyền” hợp pháp.
1.2. Khái quát chung về hợp đồng ủy quyền
1.2.1. Khái niệm hợp đồng uỷ quyền
Trong cuộc sống hằng ngày, không phải bất kỳ lúc nào cá nhân hoặc tổ chức
có thể và buộc phải trực tiếp thực hiện công việc cũng như các quyền và nghĩa vụ
của chính mình. Để hồn tất một cơng việc nào đó, cá nhân hoặc tổ chức có thể nhờ
hay giao lại cho người khác làm thay với danh nghĩa của chính mình. Đây chính là
việc ủy quyền. Nói cách khác, ủy quyền là việc một người giao cho người khác
nhân danh mình thực hiện cơng việc hoặc sử dụng quyền mà mình có được một
cách hợp pháp, trong phạm vi được ủy quyền. Theo đó, văn bản ủy quyền được hiểu
là văn bản thể hiện việc một người giao cho người khác thay mặt và nhân danh
mình thực hiện cơng việc hoặc sử dụng quyền mà mình có được một cách hợp pháp.
Việc ủy quyền làm phát sinh quan hệ đại diện, theo đó, người được ủy quyền
(người đại diện) nhân danh vì lợi ích của người ủy quyền (người được đại diện) xác
lập, thực hiện giao dịch dân sự phạm vi đại diện được giao (Điều 134 và Điều 138
BLDS 2015), trường hợp pháp luật có quy định cơng việc đó khơng được ủy quyền,
phải do chính người có quyền thực hiện. Do đó, về mặt nguyên tắc khi đã ủy quyền
thì bên ủy quyền sẽ có quyền và nghĩa vụ phát sinh từ giao dịch do người được ủy
quyền (người đại diện) xác lập trong phạm vi ủy quyền.
Kế thừa quy định của BLDS năm 1995, Điều 581 BLDS năm 2005 và và Điều
562 BLDS năm 2015 cũng đưa ra định nghĩa về hợp đồng ủy quyền, theo đó: “Hợp
đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa
vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy quyền, bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao
nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.”

1.2.2. Hình thức của giao dịch ủy quyền được cơng chứng
Xét về mặt hình thức, trước đây BLDS 2005 cho phép khi xác lập quan hệ ủy
quyền, các bên được thỏa thuận và tự quyết định sử dụng hình thức lời nói hoặc
bằng văn bản (có hay khơng có cơng chứng, chứng thực), nếu pháp luật khơng quy
định việc ủy quyền phải thành văn bản . Ví dụ: Khi nhờ thực hiện các việc đơn giản


trong sinh hoạt hàng ngày thì các bên chỉ thỏa thuận miệng với nhau và người nhận
giúp đồng ý thực hiện. Đối với các cơng việc có tính quan trọng, cần đến sự bảo
đảm an toàn về mặt pháp lý cho giao dịch (như nhờ quản lý nhà đất, nhờ người khác
bán nhà, lĩnh tiền ngân hàng) thì ủy quyền thường được lập bằng văn bản và thậm
chí cịn phải được công chứng, chứng thực. Tuy nhên, BLDS 2015 không cịn quy
định hình thức ủy quyền do các bên thỏa thuận như trước đây, mà gián tiếp quy
định về việc ủy quyền phải lập bằng văn bản khi quy định: “ Thời hạn đại diện được
xác định theo văn bản ủy quyền” tại Khoản 1 Điều 140. Đồng thời, xuất phát từ quy
định tại Khoản 1 Điều 2 LCC 2014, CCV chỉ có thể chứng nhận việc ủy quyền nếu
được lập thành văn bản.
Xét về mặt bản chất, văn bản ủy quyền luôn là một mối quan hệ hợp đồng,
được hình thành trên những nguyên tắc của quá trình giao kết hợp đồng dân sự. Nói
cách khác, để phát sinh quan hệ ủy quyền và được cơng chứng thì các bên trong
quan hệ này (bên ủy quyền và bên được ủy quyền) phải có thỏa thuận và thống nhất
ý chí với nhau về tất cả nội dung của ủy quyền. Ý chí đơn phương của một bên
khơng thể làm phát sinh quan hệ ủy quyền, để từ đó, ràng buộc quyền và nghĩa vụ
của bên kia phải thực hiện công việc. Do đó, ủy quyền phải là quan hệ hợp đồng và
chưa bao giờ là hành vi pháp lý đơn phương. Chính vì vậy, khi đề cập đến ủy quyền
dưới hình thức văn bản, BLDS đã đề cập đến ủy quyền được lập thành hợp đồng ủy
quyền.
Xuất phát từ tính thông dụng của ủy quyền trong đời sống. BLDS 2015 đã
dành một mục (Mục 13) của chương XVI, bao gồm 8 điều luật, từ điều 562 đến
Điều 569 được quy định về hợp đồng ủy quyền. Theo đó, “Hợp đồng ủy quyền là sự

thảo thuận giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện cơng
việc nhân danh bên ủy quyền, bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thỏa thuận
hoặc pháp luật có quy định”. Tương đồng, với quy định về hình thức ủy quyền bằng
văn bản dưới dạng hợp đồng của BLDS, LCC 2014 cũng đã quy định việc công
chứng đối với “Hợp đồng ủy quyền” tại Điều 55.
Tuy nhiên, bên cạnh hình thức ủy quyền bằng văn bản dưới dạng “Hợp đồng
ủy quyền”, thì trong thực tiễn cuộc sống, hình thức ủy quyền bằng văn băn khác,


dưới dạng “Giấy ủy quyền” cũng được sử dụng khá phổ biến. Mặc dù thuật ngữ
“Giấy ủy quyền” không được đề cập trong BLDS, nhưng đã được pháp luật trực
tiếp hoặc gián tiếp nói đến thơng qua việc đề cập về một hình thức khác của văn bản
ủy quyền (với tên gọi không phải là “Hợp đồng ủy quyền” ).
Trong lĩnh vực cơng chứng, việc cơng chứng hình thức ủy quyền bằng văn bản
dưới dạng “Giấy ủy quyền” không phải là vấn đề mới. Trước đây, việc chứng nhận
“Giấy ủy quyền” được quy định tại Điều 48 Nghị định 75/2000/NĐ-CP ngày
08/12/2000 của Chính phủ về Cơng chứng, chứng thực:
“1. Việc uỷ quyền có thù lao, có nghĩa vụ bồi thường của bên được uỷ quyền
hoặc để chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng bất động sản phải được lập thành hợp
đồng.
2. Việc uỷ quyền không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì
khơng phải lập thành Hợp đồng uỷ quyền mà có thể được lập thành Giấy uỷ quyền
và chỉ cần người uỷ quyền ký vào Giấy uỷ quyền”.
Sau này, nội dung chứng nhận đối với loại “Giấy ủy quyền” được gián tiếp đề
cập đến khi Khoản 1 Điều 18 Nghị định 04/2013/NĐ-CP ngày 07/01/2013 của
Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của LCC 2006 quy
định: “Việc ủy quyền có thù lao, có nghĩa vụ bồi thường của bên được ủy quyền
hoặc để chuyển quyền sở hữu, quyền sử dụng bất động sản phải được lập thành hợp
đồng ủy quyền”.
Mặc dù hình thức ủy quyền bằng văn bản dưới dạng “Giấy ủy quyền” được

trực tiếp hay gián tiếp đề cập, nhưng hiện nay chưa có bất kỳ quy định nào xác định
nội hàm hay bản chất pháp lý của loại văn bản này để phân biệt với loại văn bản ủy
quyền dưới dạng: “Hợp đồng ủy quyền”. Theo cách quy định của các điều luật có
liên quan, có thể thấy rằng pháp luật phân biệt hai dạng của văn bản ủy quyền ở yếu
tố: Đối với “Giấy ủy quyền” thì chỉ cần người ủy quyền ký vào giấy (văn bản) là đủ
không buộc hai bên phải cùng ký vào văn bản. Nói cách khác, nếu cả hai bên (bên
ủy quyền và bên được ủy quyền) cùng ký vào văn bản ủy quyền thì được xác định
là “Hợp đồng ủy quyền, nếu chỉ có bên ủy quyền ký vào văn bản thì được xác định
là “Giấy ủy quyền”.


Chính vì vậy, đã có sự nhầm lẫn khi cho rằng “Giấy ủy quyền” là một dạng
của hành vi pháp lý đơn phương, khơng cần phải có sự thỏa thuận của các bên.
Thực chất, như đã nêu, ủy quyền chưa bao giờ là hành vi pháp lý đơn phương (đến
nay, chưa có bất kỳ quy định nào xác định “giấy ủy quyền” thuộc về dạng hành vi
pháp lý đơn phương. Quan hệ ủy quyền chỉ được xác lập khi có sự thống nhất ý chí
của bên ủy quyền và bên được ủy quyền, thiếu đi ý chí một bên thì quan hệ ủy
quyền vẫn chưa được xác lập và nội dung ủy quyền khơng có giá trị pháp lý rằng
buộc trách nhiệm các bên phải thực thi.
Ví dụ: Ơng A ủy quyền cho ông B đi lĩnh tiền lương hưu thay cho mình và
được lập dưới hình thức “Giấy ủy quyền”, đã được công chứng. Cho dù giấy này
thể hiện đầy đủ các nội dung thông tin về bên được ủy quyền, về công việc ủy
quyền, thậm chỉ bên ủy quyền tự trình bày và cam kết việc ủy quyền đã được trao
đổi và thống nhất trước bên được ủy quyền thì cho dù văn bản ủy quyền này đã
được công chứng nhưng vẫn chưa đủ để phát sinh hiệu lực pháp lý ràng buộc trách
nhiệm pháp lý đối với bên được ủy quyền phải thực hiện. Bên ủy quyền không thể
khởi kiện buộc bên thực hiện công việc, bồi thường thiệt hại (nếu có) khi bên được
ủy quyền khơng thực hiện cơng việc (do việc ủy quyền chưa có cơ sở thiện có sự
đồng thuận của bên được ủy quyền).
Thông thường, sự đồng ý của người ủy quyền được thể hiện ra bên ngồi bằng

chính hành vi tự nguyện thực hiện những công việc được ủy quyền của họ. Trong
thực tế, văn bản ủy quyền dưới dạng: “Giấy ủy quyền” chỉ phát sinh hiệu lực pháp
lý kể từ thời điểm bên được ủy quyền bắt đầu thực hiện công việc ủy quyền.
Như vậy, có thể thấy rằng, cho dù tên gọi “Hợp đồng ủy quyền” hay “Giấy ủy
quyền” thì bản chất, chúng đề thuộc về chế định hợp đồng dân sự (không phải là
hành vi pháp lý đơn phương).
Đến nay, các quy định trên về công chứng đối với hình thức “Giấy ủy quyền”
trong Nghị định số 75/2000/NĐ-CP và Nghị định số 04/2013/NĐ-CP đã hết hiệu
lực, đồng thời, LCC 2014 lại khơng đề cập đến hình thức ủy quyền bằng văn bản
dưới dạng “Giấy ủy quyền”. Tuy nhiên, vấn đề về “Giấy ủy quyền” lại được pháp
luật về chứng thực đề cập đến, nhưng dưới hình thức chứng thực chữ ký bên ủy


quyền (mà khơng phải chứng thực dưới hình thức hợp đồng, giao dịch). Nhưng cho
dù tên gọi của loại văn bản ủy quyền là gì đi chăng nữa, chúng đều là quan hệ hợp
đồng, do đó, khi CCV chứng nhận vẫn phải tuân thủ các nguyên tắc, quy định của
pháp luật dân sự về hợp đồng nói chung và về dạng hợp đồng ủy quyền nói riêng để
thực hiện cơng chứng. Tuy nhiên, để đảm bảo an toàn cho các bên tham gia giao
dịch, cơ quan chức năng nên hướng dẫn các bên lập hợp đồng ủy quyền để đảm bảo
chặt chẽ, tránh rủi ro pháp lý về sau.
1.3. Giao kết hợp đồng ủy quyền
1.3.1. Hình thức của hợp đồng ủy quyền
Hình thức là yếu tố pháp lý quan trọng của hợp đồng nói chung, có mối quan
hệ với bản chất, nội dung, giá trị hiệu lực, thời điểm có hiệu lực của hợp đồng và là
phương tiện để diễn đạt ý chí của các bên cũng như để chứng minh sự tồn tại của
hợp đồng. Hình thức của hợp đồng có ý nghĩa và vai trị rất quan trọng, đó là “Sự an
tồn về mặt pháp lý trong quan hệ hợp đồng cũng như để bảo toàn chứng cứ và bảo
vệ trật tự pháp luật, lợi ích xã hội, có những trường hợp hợp đồng giao kết phải tuân
theo những hình thức pháp luật quy định, nếu khơng các bên tham gia giao kết sẽ
phải gánh chịu những hậu quả bất lợi” [12, tr.23, tr 38]

BLDS năm 1995 quy định hình thức hợp đồng ủy quyền bắt buộc phải lập
thành văn bản, trong trường hợp các bên có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định
thì hợp đồng ủy quyền phải công chứng, chứng thực. Đây là một quy định cứng, bắt
buộc các chủ thể khi tham gia vào quan hệ đại diện theo ủy quyền đều phải lập
thành văn bản dù cho cơng việc được ủy quyền có đơn giản hay phức tạp. Điều này
dẫn đến một bất cập trên thực tế đó là: Theo quy định tại BLDS năm 1995 thì với
những hợp đồng ủy quyền khơng được lập thành văn bản sẽ bị coi là vô hiệu vì
khơng tn thủ quy định về hình thức của hợp đồng.
Khắc phục bất cập của quy định trên, BLDS năm 2005 khơng quy định cụ thể
hình thức của hợp đồng ủy quyền. Thay vào đó, hình thức của hợp đồng ủy quyền
được áp dụng theo quy định tại Điều 401 về hình thức của hợp đồng dân sự nói
chung. Đến BLDS 2015 vẫn giữ nguyên hình thức của hợp đồng uỷ quyền cụ thể
như sau:


Điều 116 BLDS năm 2015 quy định: “Giao dịch dân sự là hợp đồng hoặc
hành vi pháp lý đơn phương làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ
dân sự”
Điều 119 BLDS năm 2015 quy định: “Giao dịch dân sự được thể hiện bằng
lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.Giao dịch dân sự thông qua phương
tiện điện tử dưới hình thức thơng điệp dữ liệu theo quy định của pháp luật về giao
dịch điện tử được coi là giao dịch bằng văn bản. Trường hợp luật quy định giao
dịch dân sự phải được thể hiện bằng văn bản có cơng chứng, chứng thực, đăng ký
thì phải tn theo quy định đó”.
Điều 562, BLDS năm 2015 quy định: “Hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận
giữa các bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân
danh bên ủy quyền, bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp
luật có quy định.”
Hình thức của hợp đồng ủy quyền được áp dụng theo quy định chung về hình
thức của hợp đồng dân sự. Hợp đồng ủy quyền có thể được thể hiện bằng hình thức

như lời nói, bằng văn bản hoặc hành vi cụ thể khi pháp luật khơng quy định loại hợp
đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định; trong trường hợp pháp
luật quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có cơng chứng hoặc chứng
thực, đăng ký thì phải tuân theo quy về hình thức. Tương ứng với từng loại việc thì
hợp đồng ủy quyền có thể được thể hiện bằng dưới hình thức khác nhau. Việc xác
định hình thức của hợp đồng ủy quyền căn cứ vào quy định của pháp luật, công việc
ủy quyền và những giao dịch mà người được ủy quyền xác lập với người thứ ba.
Theo quy định hiện hành, việc ủy quyền có thể bằng lời nói, có thể bằng văn
bản. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, việc ủy quyền này phải được
lập thành văn bản thì mới có giá trị. Hiện nay, các trường hợp ủy quyền phải lập
thành văn bản nằm rải rác ở các văn bản quy phạm pháp luật khác nhau, cụ thể như
sau:
1. Chủ thể trong quan hệ dân sự có sự tham gia của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ
chức khác khơng có tư cách pháp nhân (Khoản 1 Điều 101 BLDS 2015).


Trường hợp hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác khơng có tư cách pháp nhân
tham gia quan hệ dân sự thì các thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác
khơng có tư cách pháp nhân là chủ thể tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự
hoặc ủy quyền cho người đại diện tham gia xác lập, thực hiện giao dịch dân sự.
Việc ủy quyền phải được lập thành văn bản, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Khi
có sự thay đổi người đại diện thì phải thơng báo cho bên tham gia quan hệ dân sự
biết.
Trường hợp thành viên của hộ gia đình, tổ hợp tác, tổ chức khác khơng có tư
cách pháp nhân tham gia quan hệ dân sự không được các thành viên khác ủy quyền
làm người đại diện thì thành viên đó là chủ thể của quan hệ dân sự do mình xác lập,
thực hiện.
2. Thỏa thuận về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo (Khoản 2, Điều 96 Luật
hơn nhân gia đình 2014)
Thỏa thuận về việc mang thai hộ phải được lập thành văn bản có cơng chứng.

Trong trường hợp vợ chồng bên nhờ mang thai hộ ủy quyền cho nhau hoặc vợ
chồng bên mang thai hộ ủy quyền cho nhau về việc thỏa thuận thì việc ủy quyền
phải lập thành văn bản có cơng chứng. Việc ủy quyền cho người thứ ba khơng có
giá trị pháp lý.
Trong trường hợp thỏa thuận về mang thai hộ giữa bên mang thai hộ và bên
nhờ mang thai hộ được lập cùng với thỏa thuận giữa họ với cơ sở y tế thực hiện việc
sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản thì thỏa thuận này phải có xác nhận của
người có thẩm quyền của cơ sở y tế này.
3. Điều tra vụ tai nạn lao động, sự cố kỹ thuật gây mất an toàn, vệ sinh lao
động, sự cố kỹ thuật gây mất an toàn, vệ sinh lao động nghiêm trọng (Khoản 1 Điều
35 Luật An toàn vệ sinh lao động 2015)
Người sử dụng lao động có trách nhiệm thành lập Đoàn điều tra tai nạn lao
động cấp cơ sở để tiến hành điều tra tai nạn lao động làm bị thương nhẹ, tai nạn lao
động làm bị thương nặng một người lao động thuộc thẩm quyền quản lý của mình,
trừ trường hợp đã được điều tra theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này hoặc


tai nạn lao động được cơ quan nhà nước có thẩm quyền điều tra theo quy định của
pháp luật chuyên ngành.
Thành phần Đoàn điều tra tai nạn lao động cấp cơ sở gồm có người sử dụng
lao động hoặc người đại diện được người sử dụng lao động ủy quyền bằng văn bản
làm Trưởng đoàn và các thành viên là đại diện Ban chấp hành cơng đồn cơ sở hoặc
đại diện tập thể người lao động khi chưa thành lập tổ chức cơng đồn cơ sở, người
làm cơng tác an tồn lao động, người làm cơng tác y tế và một số thành viên khác.
4. Người được người sử dụng lao động ủy quyền quản lý lao động yêu cầu
người lao động thực hiện cơng việc theo u cầu ngồi nơi làm việc hoặc ngoài giờ
làm việc và người lao động này bị tai nạn lao động thì người lao động được hưởng
chế độ bảo hiểm tai nạn lao động (Khoản 1 Điều 45 Luật An toàn vệ sinh lao động
2015).
5. Cá nhân uỷ quyền cho người khác làm thủ tục yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư

pháp số 1 (Khoản 3 Điều 45 Luật Lý lịch tư pháp 2009)
Trường hợp người yêu cầu cấp Phiếu lý lịch tư pháp là cha, mẹ, vợ, chồng,
con của người được cấp Phiếu lý lịch tư pháp thì khơng cần văn bản ủy quyền.
6. Chủ nợ có thể ủy quyền bằng văn bản cho người khác tham gia Hội nghị
chủ nợ và người được ủy quyền có quyền, nghĩa vụ như chủ nợ (Khoản 1 Điều 77
Luật phá sản 2014)
7. Người nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản, chủ doanh nghiệp hoặc người
đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, hợp tác xã mất khả năng thanh tốn nếu khơng
tham gia Hội nghị chủ nợ thì ủy quyền cho người khác tham gia. (Khoản 1 Điều 78
Luật phá sản 2014)
8. Người yêu cầu cấp bản sao trích lục hộ tịch, yêu cầu đăng ký các việc hộ
tịch theo quy định uỷ quyền cho người khác thực hiện thay, trừ trường hợp đăng ký
kết hôn, đăng ký lại việc kết hôn, đăng ký nhận cha, mẹ, con (Khoản 2 Điều 6 Luật
hộ tịch 2014 và Điều 2 Thông tư 15/2015/TT-BTP)
(Lưu ý: Văn bản ủy quyền phải được công chứng, chứng thực; phạm vi uỷ
quyền có thể gồm tồn bộ cơng việc theo trình tự, thủ tục đăng ký hộ tịch từ khi nộp
hồ sơ đến khi nhận kết quả đăng ký hộ tịch).


Trường hợp người được ủy quyền là ông, bà, cha, mẹ, con, vợ, chồng, anh,
chị, em ruột của người ủy quyền thì văn bản ủy quyền khơng phải cơng chứng,
chứng thực, nhưng phải có giấy tờ chứng minh mối quan hệ với người uỷ quyền)
9. Người đại diện theo pháp luật duy nhất của doanh nghiệp khi xuất cảnh
khỏi Việt Nam ủy quyền cho người khác thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình
(Khoản 3 Điều 13 Luật Doanh nghiệp 2014).
10. Chủ tịch Hội đồng thành viên vắng mặt hoặc không đủ năng lực để thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của mình ủy quyền cho một thành viên thực hiện các
quyền và nghĩa vụ của Chủ tịch Hội đồng thành viên theo nguyên tắc quy định tại
Điều lệ công ty (Khoản 4 Điều 57 Luật doanh nghiệp 2014).
11. Chủ tịch công ty (doanh nghiệp nhà nước) vắng mặt ở Việt Nam trên 30

ngày ủy quyền bằng văn bản cho người khác thực hiện một số quyền, nghĩa vụ của
Chủ tịch công ty (Khoản 7 Điều 98 Luật doanh nghiệp 2014).
12. Cổ đông ủy quyền cho người khác tham gia Đại hội đồng cổ đông (Khoản
1 Điều 140 Luật doanh nghiệp 2014)
13. Chủ tịch Hội đồng quản trị vắng mặt hoặc khơng thể thực hiện được
nhiệm vụ của mình thì ủy quyền cho một thành viên khác thực hiện các quyền và
nghĩa vụ của Chủ tịch Hội đồng quản trị theo nguyên tắc quy định tại Điều lệ công
ty (Khoản 4 Điều 152 Luật Doanh nghiệp 2014)
14. Đương sự hoặc người đại diện theo pháp luật của đương sự ủy quyền
tham gia tố tụng hành chính (Khoản 3 Điều 60, Khoản 6 Điều 205 Luật tố tụng
hành chính 2015).
15. Đương sự ủy quyền cho người khác tham gia tố tụng dân sự, trừ trường
hợp ly hôn (Điều 86 BLTTDS 2015).
16. Người Việt Nam định cư ở nước ngồi khơng thuộc đối tượng được mua
nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở Việt Nam được nhận thừa kế thì ủy quyền
cho người khác thuộc diện được nhận thừa kế quyền sử dụng đất nộp hồ sơ về việc
nhận thừa kế tại cơ quan đăng ký đất đai để cập nhật vào sổ địa chính (Khoản 4
Điều 186 Luật đất đai 2013).


17. Người nhận thừa kế là Người Việt Nam định cư ở nước ngồi khơng thuộc
đối tượng được mua nhà ở gắn liền với quyền sử dụng đất ở Việt Nam ủy quyền cho
người trông nom hoặc tạm sử dụng đất và thực hiện nghĩa vụ theo quy định của
pháp luật về đất đai và quy định khác của pháp luật có liên quan (Khoản 5 Điều 186
Luật đất đai 2013).
1.3.2. Chủ thể giao kết hợp đồng uỷ quyền
Hợp đồng nói chung là sự thỏa thuận giữa các bên về việc phát sinh, thay đổi
hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ. Chủ thể là một trong những điều kiện quan trọng
để xác định hiệu lực của hợp đồng. Tùy từng loại hợp đồng mà điều kiện về chủ thể
tham gia giao kết hợp đồng là khác nhau nhưng tất cả đều phải đáp ứng điều kiện cơ

bản.
Điều 562 BLDS 2015 quy định Hợp đồng ủy quyền là sự thỏa thuận giữa các
bên, theo đó bên được ủy quyền có nghĩa vụ thực hiện công việc nhân danh bên ủy
quyền, bên ủy quyền chỉ phải trả thù lao nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy
định.
Trên cơ sở hợp đồng ủy quyền, người được ủy quyền đại diện cho người ủy
quyền thực hiện các hành vi pháp lí trong phạm vi thẩm quyền. Vì vậy, đại diện
theo ủy quyền có hai mối quan hệ pháp lí cùng tồn tại.
– Quan hệ giữa người ủy quyền và người được ủy quyền. Người được ủy
quyền có nghĩa vụ thực hiện các hành vi pháp lí trong phạm vi ủy quyền.
– Quan hệ giữa người được ủy quyền với bên thứ ba của giao dịch. Người
được ủy quyền với tư cách của người đã ủy quyền giao kết hoặc thực hiện các giao
dịch dân sự với người thứ ba. Người được ủy quyền có những quyền và nghĩa vụ
nhất định với người thứ ba của giao dịch.
Hợp đồng ủy quyền cũng giống như những hợp đồng dân sự khác, khi tham
gia giao kết các chủ thể phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân
sự. Vì vậy, khi tham gia giao kết hợp đồng thì người ủy quyền và người được ủy
quyền phải có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự.
Đối với cá nhân, để tham gia vào giao dịch dân sự nói chung cần phải có đủ cả
năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. Năng lực pháp luật dân sự là


khả năng của cá nhân đó có quyền dân sự và có nghĩa vụ dân sự. Năng lực hành vi
dân sự là khả năng của cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền và
nghĩa vụ dân sự đó; Cá nhân có đầy đủ năng lực hành vi dân sự hay không phụ
thuộc vào độ tuổi và những đặc điểm về thể chất, tinh thần của từng cá nhân đó.
Bên cạnh đó, khi tham gia vào các quan hệ dân sự ngồi cá nhân cịn có pháp
nhân. Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện theo quy
định tại Điều 74 BLDS 2015: được thành lập theo quy định của BLDS, luật khác có
liên quan, có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của BLDS, có tài sản độc lập

với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình và nhân
danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập.
1.3.2.1. Bên ủy quyền
Bên ủy quyền là bên có nhu cầu thực hiện một hoặc một số cơng việc hay có
nhu cầu tham gia vào các giao dịch nhưng không tự mình thực hiện cơng việc đó
hoặc thấy rằng nếu tự thực hiện thì hiệu quả cơng việc khơng cao nên ủy quyền cho
chủ thể khác phù hợp thay mình thực hiện công việc này.
Nếu bên ủy quyền là cá nhân thì phải có năng lực hành vi dân sự; Nếu là
pháp nhân thì phải đáp ứng các điều kiện về mặt tổ chức và người trực tiếp giao kết
hợp đồng dân sự phải là người đại diện theo pháp luật của pháp nhân, hoặc là người
đã được người đại diện theo pháp luật của pháp nhân ủy quyền và trong trường hợp
này người đại diện theo pháp luật của pháp nhân chỉ được ủy quyền các công việc
thuộc phạm vi thẩm quyền đại diện theo quy định của pháp luật.
Người uỷ quyền phải có đủ quyền năng pháp lý đối với công việc mà họ
muốn hoặc dự định giao cho người được uỷ quyền thực hiện. Quyền năng này phát
sinh do những đặc điểm nhân thân riêng biệt của cá nhân người uỷ quyền (ví dụ:
quyền tác giả đối với tác phẩm) hoặc những quyết định, xác nhận, công nhận của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền, cá nhân, tổ chức có liên quan. Trong một cơng việc
cụ thể, pháp luật khơng quy định người ủy quyền có thể ủy quyền cho bao nhiêu
người. Do đó, người ủy quyền có thể ủy quyền cho một hoặc nhiều người thực hiện
công việc ủy quyền. Ví dụ: A có thể cùng ủy quyền cho B và C làm đại diện tại Tòa
án. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định thì người ủy quyền chỉ có thể ủy


quyền cho một người đó là trường hợp người được ủy quyền khi thực hiện hành vi
sẽ triệt tiêu quyền của người ủy quyền. Ví dụ: X ủy quyền cho Y ký hợp đồng bán
nhà với Z, khi Y đã ký hợp đồng nhân danh X thì X khơng thể ủy quyền cho người
khác bán căn nhà của mình.
Như vậy, bên uỷ quyền là một chủ thể của hợp đồng uỷ quyền có thể là cá
nhân, pháp nhân và chủ thể khác. Khi tham gia giao kết hợp đồng ủy quyền nếu bên

ủy quyền là cá nhân thì phải có năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân sự và
năng lực giao kết, nếu là pháp nhân và chủ thể khác thì việc ủy quyền phải trong
phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình và có quyền thực hiện những cơng việc mà
mình ủy quyền.
1.3.2.2. Bên được ủy quyền
Đối với người được ủy quyền thì năng lực pháp luật và năng lực hành vi dân
sự là điều kiện bắt buộc để một người có thể là một bên trong hợp đồng ủy quyền.
Người được ủy quyển bị chi phối bởi phạm vi và nội dung công việc ủy quyền; do
đó, khi thực hiện cơng việc ủy quyền, người được ủy quyền không được vượt quá
giới hạn ủy quyền. Để thực hiện công việc được ủy quyền, người được ủy quyền
cần sự giúp đỡ của người khác.
Người được uỷ quyền phải có đủ khả năng thực hiện cơng việc (như là kỹ
năng, kinh nghiệm nghề nghiệp, thuận tiện về vị trí địa lý, có chứng chỉ hoạt động
đối với một số ngành, nghề bắt buộc,…) mà người uỷ quyền giao cho và họ phải tự
nguyện đảm nhận việc được uỷ quyền đó.
1.3.3. Đối tượng của hợp đồng ủy quyền
Theo quy định tại Điều 585 BLDS 1995, Điều 581 BLDS 2005 và Điều 562
BLDS 2015, thì đối tượng của ủy quyền là công việc mà bên được ủy quyền thực
hiện (làm thay) cho bên ủy quyền theo thỏa thuận giữa hai bên. Cơng việc ủy quyền
có đặc điểm như sau:
Cơng việc ủy quyền phải trong khuôn khổ và phải phù hợp với các quy định
của pháp luật. Không phải người nào cũng có quyền ủy quyền cho người khác thực
hiện các quyền và nghĩa vụ của mình nếu như cơng việc ủy quyền đó vi phạm pháp
luật hoặc làm ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của người khác.


Ví dụ: Sau khi ly hơn, Tịa án đã giao cho người chồng trực tiếp nuôi con
(chưa đến tuổi thành niên) nhưng do điều kiện phải đi công tác dài hạn ở nước
ngoài nên người chồng đã ủy quyền cho bố mẹ đẻ của mình ni người con đó.
Việc ủy quyền này khơng thể thực hiện được vì theo Luật Hơn nhân và gia đình

năm 2014 nếu người ni con khơng đủ điều kiện trực tiếp trơng nom, chăm sóc,
ni dưỡng, giáo dục con thì có quyền u cầu Tịa án quyết định việc thay đổi
người trực tiếp nuôi con (Điều 84 Luật Hơn nhân và gia đình năm 2014).
Cơng việc ủy quyền phải trên cơ sở của sự tự nguyện thỏa thuận của bên ủy
quyền và bên được ủy quyền. Về bản chất quan hệ ủy quyền là quan hệ hợp đồng
dân sự, vì vậy nó được xác lập trên cơ sở của sự tự nguyện thỏa thuận của hai bên là
bên ủy quyền và bên được ủy quyền. Do đó, trong trường hợp này chỉ có bên ủy
quyền đứng ra lập giấy ủy quyền thì chính bản thân họ đã phải trao đổi, thỏa thuận
để biết và phải biết rõ họ ủy quyền cho ai và người được ủy quyền đã đồng ý thực
hiện công việc mà họ được giao. Ngược lại, người được ủy quyền khi thực hiện
công việc ủy quyền cũng phải biết rõ được ai giao cho họ thực hiện cơng việc đó và
việc họ thực hiện nội dung của giấy ủy quyền đã minh chứng cho việc họ đồng ý
nhận thực hiện công việc do người ủy quyền giao cho.
Sự tự nguyện của các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật về ủy quyền
phải được thể hiện trong trạng thái không có sự ép buộc, đe dọa hoặc dối trá nào.
Để xác định được điều đó thì CCV ngồi sự nhạy cảm, kinh nghiệm nghề nghiệp
cịn phải cố gắng tìm ra những điều trung thực ẩn sau những yêu cầu công chứng
của đương sự. Tuy nhiên, một khi người yêu cầu công chứng đã cố ý gian dối trong
thể hiện ý chí của họ thì việc họ lừa dối và khơng trung thực với CCV vẫn có thể
xảy ra. Việc xác định ý chí tự nguyện của các chủ thể phải được CCV đặc biệt chú ý
trong trường hợp người công chứng ủy quyền là người cao tuổi hoặc những người
bị khó khăn trong việc thể hiện ý chí do bị khuyết tật như câm, điếc,…
1.3.4. Thời hạn của hợp đồng ủy quyền
Điều 563 BLDS 2015 xác định: “Thời hạn ủy quyền do các bên thỏa thuận
hoặc do pháp luật quy định; nếu khơng có thỏa thuận hoặc pháp luật khơng có quy
định thì hợp đồng ủy quyền có hiệu lực 01 năm, kể từ ngày xác lập việc ủy quyền.”


×