Tải bản đầy đủ (.pdf) (99 trang)

NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG (Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (657.93 KB, 99 trang )

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ CÔNG TUẤN

NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI
VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – năm 2021


VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ CÔNG TUẤN

NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI
VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG

Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số: 8.38.01.05

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS HỒ SỸ SƠN

HÀ NỘI – năm 2021



LỜI CAM ĐOAN

Tơi xin cam đoan đây là cơng trình nghiên cứu khoa học của tôi. Các số
liệu dùng sử dụng phân tích trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng đã công bố
công khai đúng qui định. Các kết quả nghiên cứu trong luận văn là trung thực,
khách quan, phù hợp với thực tiễn và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
luận văn nào khác.
Tác giả luận văn

Lê Công Tuấn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
CHƯƠNG 1. NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU
KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA
GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ ...................................................................................6
1.1. Khái niệm, bản chất, các mối liên hệ và ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên
nhân và điều kiện của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông
đường bộ......................................................................................................................6
1.2. Cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội vi phạm quy
định về tham gia giáo thống đường bộ ......................................................................16
1.3. Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ...................................................................................18
CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA
TÌNH HÌNH TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ..................................25
2.1. Khái quát tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ ở
thành phố Đà Nẵng....................................................................................................25

2.2. Thực tiễn nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội vi phạm quy định về
tham gia giao thông đường bộ tại thành phố Đà Nẵng .............................................32
CHƯƠNG 3. CÁC GIẢI PHÁP KHẮC PHỤC NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU
KIỆN CỦA TÌNH HÌNH TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA
GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG ......58
3.1. Tăng cường nhận thức lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.................................................58
3.2. Các giải pháp khắc phục những hạn chế, khiếm khuyết trong giáo dục của
gia đình và nhà trường ..............................................................................................62
3.3. Các giải pháp khắc phục những hạn chế, yếu kém, vi phạm trong công tác
tổ chức - quản lý Nhà nước, xã hội trong lĩnh vực giao thông đường bộ .................64


3.4. Giải pháp khắc phục nguyên nhân và điều kiện thuộc về yếu tố nạn nhân. ......74
KẾT LUẬN ..............................................................................................................76
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
ATGT

: An tồn giao thơng

ATKT

: An tồn kỹ thuật

ATGTĐB


: An tồn giao thơng đường bộ

BLHS

: Bộ luật hình sự năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017

CSGT

: Cảnh sát giao thông

CSTT

: Cảnh sát trật tự

CSĐT

: Cảnh sát điều tra

ĐKPTGTĐB

: Điều khiển phương tiện giao thông đường bộ

ĐKPT

: Điều khiển phương tiện

GTVT

: Giao thông vận tải


GTĐB

: Giao thông đường bộ

LGTĐB

: Luật giao thông đường bộ năm 2008

PTGT

: Phương tiện giao thông

PTGTĐB

: Phương tiện giao thông đường bộ

TAND

: Tồ án nhân dân

THTP

: Tình hình tội phạm

TNGT

: Tai nạn giao thông

TTGT


: Thanh tra giao thông

TTATGT

: Trật tự an tồn giao thơng

TTKS

: Tuần tra kiểm sốt

VKS

: Viện kiểm sát

VPQĐ về TGGTĐB

: Vi phạm quy định về tham gia giao thơng đường bộ

XPVPHC

: Xử phạt vi phạm hành chính


DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1. Tương quan số vụ TNGT, TNGT nghiêm trọng, số vụ TNGT khởi
tố, điều tra, truy tố, xét xử từ năm 2016 – 2020 ........................................................27
Biểu đồ 2.2. Số vụ án phân theo hoạt động kinh doanh, vận tải và không kinh
doanh vận tải .............................................................................................................47



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Thành phố Đà Nẵng nằm ở khu vực miền Trung của đất nước, giáp với ba di
sản văn hóa thế giới là cố đô Huế (tỉnh Thừa Thiên Huế), phố cổ Hội An và thánh
địa Mỹ Sơn (tỉnh Quảng Nam). Với diện tích 1.284,4 km2 và dân số khoảng
1.230.000 người, Đà Nẵng gồm 8 đơn vị hành chính cấp huyện đó là 6 quận (Liên
Chiểu, Thanh Khê, Hải Châu, Sơn Trà, Ngũ Hành Sơn, Cẩm Lệ) và 2 huyện (Hịa
Vang và Hồng Sa), ngoại trừ quận Cẩm Lệ, huyện Hòa Vang, các quận khác đều
giáp biển Đơng. Đây cịn là đầu mối giao thông lớn nhất khu vực miền Trung - Tây
Nguyên về đường sắt Bắc-Nam, đường thủy, đường bộ (quốc lộ 1A, 14B), sở hữu
cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng. Cùng với đó, cảng Tiên Sa là cửa ngõ ra biển
quan trọng của Tây Nguyên, Lào, Campuchia, Thái Lan, Myanma và là điểm đầu cuối của tuyến Hành lang kinh tế Đông - Tây (EWEC) và các quốc gia ASEAN.
Trong những năm qua, nhờ tập trung đầu tư cơ sở hạ tầng, kết cấu giao thông
đường bộ theo hướng đồng bộ, có trọng tâm, trọng điểm mà Đà Nẵng đã có 2.440
tuyến đường với tổng chiều dài 1.463,63 km và 74 cây cầu với 181 nút đèn tín hiệu
giao thơng. Kinh tế - xã hội phát triển kéo theo lượng phương tiện cơ giới gia tăng
nhanh. Thống kê mới nhất của Phịng CSGT Cơng an Đà Nẵng cho thấy thành phố
đang có 966.752 xe mơ tơ, gắn máy và 96.600 xe ô tô cá nhân. Tuy nhiên, chính
điều này cũng làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp, trong đó có tình hình tai nạn
giao thơng (TNGT) và tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường
bộ (VPQĐ về TGGTĐB).
Đơn cử, trong giai đoạn 2016 - 2020, Tòa án Nhân dân hai cấp tại Đà Nẵng
đã xử sơ thẩm 270 vụ VPQĐ về TGGTĐB với 276 bị cáo, tức trung bình mỗi năm
có 54 vụ với 55,2 bị cáo đã bị xét xử về tội danh nói trên. So với tổng số các vụ
phạm tội và số bị cáo đã bị xét xử trên địa bàn, số vụ phạm tội VPQĐ về TGGTĐB
chiếm 4,43% và số bị cáo chiếm 4,53%.
Con số thống kê cũng cho thấy, trong số 295 vụ phạm tội VPQĐ về
TGGTĐB được khởi tố, điều tra chỉ có 270 vụ được xét xử (chiếm 91,52%), số còn
1



lại đã đình chỉ điều tra. Mặt khác việc áp dụng pháp luật trong xử lý vi phạm và tội
phạm ở lĩnh vực này chưa nghiêm, chưa triệt để, còn nặng về xử phạt hành chính và
thỏa thuận bồi thường dân sự, một số vụ không được tiến hành khởi tố, điều tra để
truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật, ý thức của đại bộ phận
quần chúng Nhân dân vẫn còn xem nhẹ các hành vi vi phạm luật giao thông đường
bộ, tư tưởng “trọng tình hơn trọng lý” nên việc áp dụng pháp luật cịn nhiều vướng
mắc. Điều này ảnh hưởng khơng nhỏ đến yêu cầu xử lý đúng người, đúng tội, đúng
pháp luật và tất nhiên ảnh hưởng không nhỏ đến công tác phòng ngừa, đấu tranh
chống tội VPQĐ về TGGTĐB trên địa bàn Đà Nẵng, và thực tế tình hình tội này
đang diễn biến phức tạp.
Ngoài hạn chế trong xử lý về hình sự đối với tội này như đã nói ở trên, cịn
có cả những ngun nhân và điều kiện khác, như hạn chế của pháp luật, hạn chế
trong nhận thức nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm (THTP) nói chung
và của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB nói riêng, cần được nghiên cứu khắc phục.
Trong khi đó, về mặt lý luận, nguyên nhân và điều kiện của THTP mới chỉ
được đề cập nghiên cứu đối với tội khác, hoặc đối với THTP nói chung trên địa bàn
thành phố Đà Nẵng. Nói cách khác, cho đến nay, chưa có cơng trình nào đề cập một
cách tồn diện, chun sâu về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về
TGGTĐB trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
Thực tế này đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu làm rõ hơn, từ đó, đề xuất hệ
thống các giải pháp nhằm khắc phục một cách có hiệu quả, tiến tới kiềm chế, kéo
giảm và dần loại bỏ THTP này ra khỏi địa bàn. Do đó, học viên lựa chọn đề tài
“Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB trên địa bàn thành
phố Đà Nẵng” để làm luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ ngành Luật học.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Về mặt lý luận, vấn đề nguyên nhân và điều kiện của THTP (nói chung),
nguyên nhân và điều kiện của THTP (cụ thể) ngày càng thu hút được nhiều nhà
khoa học quan tâm, nghiên cứu.
Có thể nêu ra một số cơng trình đã được công bố như như Đề tài cấp Bộ

2


“Nguyên nhân và điều kiện của THTP ở nước ta hiện nay” của PGS TS Hồ Sỹ Sơn,
Học viện Khoa học Xã hội, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam làm chủ
nhiệm, Hà Nội, năm 2018.
Đề tài cấp Bộ “Tình hình tai nạn giao thơng đường bộ ở Việt Nam - Thực
trạng, nguyên nhân và giải pháp của lực lượng CSGT” do tác giả Đại tá Trần Đào,
nguyên Cục trưởng Cục CSGT ĐB-ĐS, Bộ Công an, làm chủ nhiệm, Hà Nội, năm
1997
Luận án Tiến sỹ luật học “Phòng ngừa các tội xâm phạm TTATGT đường bộ
của lực lượng CSND” của tác giả Vũ Văn Thiết, năm 2007.
Ngoài ra, cịn có một số cơng trình ở trình độ Thạc sỹ Luật học có đề cập
nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của THTP như: “Tội VPQĐ về TGGTĐB
trên địa bàn quận Cẩm Lệ - thành phố Đà Nẵng: Tình hình, ngun nhân và giải
pháp phịng ngừa”, Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam của tác giả Hồ Quốc Hải,
năm 2020
“Tội VPQĐ về TGGTĐB trên địa bàn huyện Hòa Vang - thành phố Đà
Nẵng: Tình hình, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa”, Học viện Khoa học Xã
hội Việt Nam của tác giả Đặng Ngọc Thủy, năm 2018.
Có thể thấy, các cơng trình trên đây hoặc chỉ mới nghiên cứu nguyên nhân
của tình hình vi phạm ATGT đường bộ nói chung hay nghiên cứu tình hình tội
VPQĐ về TGGTĐB trên phạm vi cả nước hoặc ở một số địa phương nào đó của
thành phố Đà Nẵng thơng qua cách tiếp cận đi từ THTP rồi tới nguyên nhân và điều
kiện tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB mà chưa tìm hiểu một cách tổng thể nguyên
nhân và điều kiện tình hình tội này trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Qua phân tích những vấn đề lý luận, thực tiễn nguyên nhân và điều kiện của
tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB trên địa bàn thành phố Đà Nẵng, Luận văn đề

xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những nguyên nhân và điều kiện đó, tiến tới
kiềm chế, kéo giảm và dần loại bỏ THTP này ra khỏi địa bàn thành phố Đà Nẵng.
3


3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, đề tài phải thực hiện một số nhiệm vụ sau:
- Phân tích, làm rõ vấn đề lý luận về các nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội VPQĐ về TGGTĐB
- Phân tích, đánh giá thực tiễn nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
VPQĐ về TGGTĐB trên địa bàn thành phố Đà Nẵng
- Đề xuất các giải pháp khắc phục nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
VPQĐ về TGGTĐB trên địa bàn thành phố Đà Nẵng trong thời gian tới
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các quan điểm khoa học được nêu ra
trong tội phạm học; thực tiễn tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB và thực tiễn nguyên
nhân và điều kiện của tình hình tội này trên địa bàn thành phố Đà Nẵng; thực tiễn
xử lý vi phạm pháp luật và tội phạm trong lĩnh vực giao thông đường bộ tại thành
phố Đà Nẵng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về nội dung: luận văn nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình
tội VPQĐ về TGGTĐB dưới góc độ tội phạm học và phòng ngừa tội phạm trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng
- Về không gian: thành phố Đà Nẵng
- Thời gian: giai đoạn từ năm 2016 đến năm 2020
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Sử dụng phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh; các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách của Nhà nước về phòng ngừa tội phạm, về cải cách tư pháp, về quyền

con người…
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Học viên sử dụng các phương pháp như thống kê, phân tích, tổng hợp, so
4


sánh, nghiên cứu tài liệu, nghiên cứu án điển hình, phỏng vấn và tham khảo ý kiến
chuyên gia…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của Luận văn góp phần bổ sung và làm rõ hơn cơ sở lý
luận về nguyên nhân và điều kiện của THTP nói chung, cũng như nguyên nhân và
điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB, qua đó, có thể làm tài liệu cho học
viên, sinh viên và những ai muốn nghiên cứu một cách có hệ thống, chuyên sâu về
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB nhằm phịng ngừa
có hiệu quả.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn là một trong những nguồn tài liệu tham
khảo cho việc hoạch định chính sách phịng ngừa tội VPQĐ về TGGTĐB trên địa
bàn thành phố Đà Nẵng.
Luận văn còn được dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng
dạy về hoạt động phòng ngừa tội phạm nói chung và phịng ngừa tội VPQĐ về
TGGTĐB nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, phần nội
dung của luận văn được kết cấu thành 03 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình
tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.
Chương 2: Thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Đà Nẵng.

Chương 3: Các giải pháp khắc phục nguyên nhân và điều kiện của tình hình
tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trên địa bàn thành phố Đà
Nẵng.

5


CHƯƠNG 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN
CỦA TÌNH HÌNH TỘI VI PHẠM QUY ĐỊNH VỀ THAM GIA GIAO
THÔNG ĐƯỜNG BỘ
1.1. Khái niệm, bản chất, các mối liên hệ và ý nghĩa của việc nghiên cứu
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội vi phạm quy định về tham gia giao
thông đường bộ
1.1.1. Khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ
Theo phép biện chứng duy vật của chú nghĩa Mác - Lênin, nguyên nhân là
phạm trù chỉ sự tác động qua lại giữa các mặt trong một sự vật, một hiện tượng hoặc
giữa các sự vật, các hiện tượng với nhau gây ra sự biến đổi nhất định gọi là kết quả
[11, tr.308]. Như vậy, về bản chất, nguyên nhân không phải là hiện tượng, sự vật
nào đó, mà nguyên nhân chỉ có thể là sự tác động qua lại giữa các mặt trong một sự
vật, một hiện tượng hoặc giữa các sự vật, các hiện tượng với nhau để sinh ra kết
quả.
Điều kiện là những yếu tố đóng vai trị xúc tác, tuy không sản sinh ra kết
quả, song tạo thuận lợi, hỗ trợ, thúc đẩy sự tương tác sinh ra kết quả [11, tr.308].
Như vậy, về bản chất, điều kiện là những sự kiện, tình huống, hồn cảnh nhất định
có vai trị thúc đẩy q trình từ ngun nhân gây ra kết quả.
Trên cơ sở nguyên lý chung đó, việc nhận thức nguyên nhân và điều kiện
trong lĩnh vực xã hội (vốn gắn với yếu tố con người) có điểm đặc thù là “sự tác
động” đó được tiến hành (thực hiện) thơng qua đầu óc con người. Ngun nhân và

điều kiện của tình hình tội phạm được nhận thức gắn với cơ chế tâm lý của của họ
như: nhu cầu, khả năng đáp ứng nhu cầu, định hướng giá trị, lựa chọn phương thức
thỏa mãn nhu cầu…. Tuy nhiên, hiện nay, trong tội phạm học có khá nhiều quan
điểm khác nhau về cái gọi là nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm.
Chẳng hạn, có quan điểm cho rằng, trong cơ chế hành vi phạm tội, kết quả chính là
6


hành vi phạm tội; cịn ngun nhân chỉ có thể là sự tác động qua lại, không phải là
sự tác động trực tiếp (S-R) mà là sự tác động gián tiếp thơng qua đầu óc con người,
tâm lí học gọi là kích thích phương tiện (X). Vì thế, cơng thức của sự tác động này
phải là kích thích khách thể (S), kích thích phương tiện (X), trả lời các kích thích
(R) [11, tr.309]. Tổng hợp nguyên nhân của từng hành vi phạm tội cho thấy nguyên
nhân của tình hình tội phạm. Quan điểm này, thiết nghĩ chưa đi đến tận cùng vấn đề
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm. Vấn đề là ở chỗ, tội phạm cụ thể
là do con người thực hiện (dù chủ thể của tội phạm là pháp nhân thương mại thì
thực hiện tội phạm vẫn là cá nhân), mà con người sinh ra ai cũng như nhau, không
phải là người phạm tội. Thêm nữa, có người phạm tội lại có người khơng phạm tội,
có người phạm tội này lại có người phạm tội khác…Như vậy, đối với người phạm
tội, chắc chắn phải có cái gì đó tác động đến họ làm sản sinh ra ở họ “tiềm năng
phạm tội”. Cái gì đó chắc chắn khơng phải là sự tác động mà có tên gọi: hoặc là
hiện tượng tiêu cực, hoặc là yếu tố tiêu cực hoặc là nhân tố tiêu cực hoặc là tình tiết
tiêu cực…Những cái gì tiêu cực đó tác động lẫn nhau và tác động đến con người
trong quá trình sống của họ, làm hình thành ở họ “động cơ phạm tội” hoặc “tiềm
năng phạm tội đặc điểm nhân thân tiêu cực”…Những thứ đó thúc đẩy con người
thực hiện tội phạm cụ thể khi xuất hiện tình huống phạm tội cụ thể. Từ những phân
tích khái qt đó, học viên chia sẽ quan điểm cho rằng “Nguyên nhân của THTP là
những hiện tượng xã hội tiêu cực ở trong mối liên hệ tương tác hai mức độ sinh ra
và tái sản xuất ra THTP như là hậu quả tất yếu của mình [39, tr.87].
Trong lĩnh vực phịng, chống tội phạm, sự phân biệt nguyên nhân và điều

kiện của tình hình tội phạm cũng chỉ mang tính chất tương đối. Cho nên, để kìm
hãm, làm giảm thiểu, dần loại bỏ tình hình tội phạm cần phải khắc phục, dần xóa bỏ
khơng chỉ ngun nhân mà cịn cả điều kiện của tình hình tội phạm, tại vì cả nguyên
nhân và điều kiện của THTP trong một tổng thể tác động mới làm phát sinh ra kết
quả là THTP.
Vận dụng lý thuyết về nguyên nhân và điều kiện của triết học Mác-Lênin,
các quan điểm khoa học được nêu ra trong tội phạm học và những lập luận, phân
7


tích trên đây vào nghiên cứu cụ thể tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB, có thể xác
định: Nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB là những hiện
tượng xã hội tiêu cực, trong sự tác động qua lại lẫn nhau và tác động với con người
hình thành ở họ đặc điểm nhân thân tiêu cực (hay tính động cơ phạm tội hoặc tiềm
năng phạm tội) để rồi trong sự tác động với tình huống phạm tội VPQĐ về
TGGTĐB, làm phát sinh tội này trên thực tế.
1.1.2. Bản chất của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội vi phạm
quy định về tham gia giao thơng đường bộ
Bởi tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB là hiện tượng xã hội có nguồn gốc và
bản chất xã hội, nên “những cái làm phát sinh ra nó”, tức nguyên nhân và điều kiện
của tình hình tội này cũng có nguồn gốc và bản chất xã hội. Cũng bởi tình hình tội
VPQĐ về TGGTĐB là hiện tượng xã hội tiêu cực, nguy hiểm cho xã hội, có hại cho
xã hội và “nằm trong hệ thống các mâu thuẫn xã hội”, nên nguyên nhân và điều
kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB cũng là hiện tượng xã hội tiêu cực, nguy
hiểm cho xã hội, có hại cho xã hội và nằm trong hệ thống các mâu thuẫn xã hội. Vì
vậy, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB, chẳng những
có mối liên hệ chặt chẽ với chính bản thân tình hình tội này, mà cịn có mối liên hệ
với những hiện tượng xã hội khác thuộc nội dung nghiên cứu của tội phạm học như
nhân thân người phạm tội, dự báo tình hình tội phạm, phịng ngừa tình hình tội
phạm và với những mâu thuẫn xã hội.

1.1.3. Các mối liên hệ của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội vi
phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
1.1.3.1. Mối liên hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội vi phạm
quy định về tham gia giao đường bộ với tình hình tội này
Mối liên hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về
TGGTĐB với chính bản thân tình hình tội này khơng chỉ được quyết định bởi
chúng mà còn những vấn đề thuộc đối tượng nghiên cứu của tội phạm học, những
hiện tượng xã hội tiêu cực khác, có sự thay đổi về mặt lịch sử, có tính chất nguy
hiểm cho xã hội và cịn có mối liên hệ tác động qua lại với các hiện tượng xã hội
8


khác…mà cịn bởi:
Thứ nhất, chính tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB là “sản phẩm” “hệ quả”
hay là “cái phản ánh” của ngun nhân và điều kiện của nó, cịn ngun nhân và
điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB là cái quyết định của chính tình hình
tội VPQĐ về TGGTĐB. Chính vì vậy, ngun nhân và điều kiện của tình hình tội
VPQĐ về TGGTĐB có mối quan hệ tác động qua lại với tình hình tội VPQĐ về
TGTGTĐB và ngược lại (đây là mối hệ tác động qua lại hai chiều).
Thứ hai, tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB là cơ sở để nhận thức nguyên
nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB, cịn ngun nhân và điều
kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB cho phép nhận thức một cách đúng đắn
và tồn diện về tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB. Phân tích về THTP thì sẽ biết
được các chỉ số về lượng và chất của THTP tức thực trạng cơ cấu và tính chất của
THTP, qua đó có thể làm rõ được nguyên nhân và điều kiện tình hình tội VPQĐ về
TGGTĐB.
Mối quan hệ giữa tình hình tội VPQQĐ về TGGTĐB với nguyên nhân và
điều kiện của nó thể hiện rõ nét thơng qua phịng ngừa tình hình tội này. Thể hiện ở
chỗ, muốn dần kiềm chế, giảm thiểu, dần xóa bỏ tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB,
cần phải thơng qua các hoạt động phịng và chống để hạn chế, khắc phục, dần loại

bỏ nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tình hình tội này. Đó cũng là nội dung
của phịng ngừa tình hình tội phạm.
1.1.3.2. Mối liên hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đuờng bộ với nhân thân người phạm tội này.
Mối liên hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm với nhân
thân người phạm tội thể hiện ở chỗ không thể nhận thức được nguyên nhân và điều
kiện của tình hình tội phạm nếu thiếu việc cân nhắc bản chất, các đặc điểm và quá
trình hình thành nhân thân tiêu cực của người phạm tội. Bởi tội VPQĐ về TGGTĐB
là do con người cụ thể thực hiện. Nên trong cơ chế hành vi phạm tội ln có nhân
thân người phạm tội với những đặc điểm tâm sinh lý-xã hội tiêu cực của cá nhân
trong sự tác động với các hiện tượng xã hội tiêu cực khác làm phát sinh tội cụ thể
9


mà tổng hợp các tội đó là tình hình tội phạm. Những đặc điểm nhân thân người
phạm tội, nhất là các đặc điểm tâm lý - đạo đức của họ vốn được quyết định bởi nhu
cầu, lợi ích, nhận thức nhu cầu và định hướng giá trị của cá nhân (người phạm tội)
giữ vai trị quan trọng trong sự hình thành động cơ và trong sự lựa chọn phương án
hành vi phạm tội trong những tình huống phạm tội cụ thể, cho phép nhận diện
nguyên nhân và điều kiện của tội cụ thể. Mối liên hệ giữa nguyên nhân và điều kiện
của tình hình tội phạm và nhân thân người phạm tội còn được thể hiện ở mối quan
hệ của chúng với phịng ngừa tình hình tội phạm.
Trong cơ chế hành vi phạm tội có cả những đặc điểm chủ quan của người
phạm tội. Vì vậy, để nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện phát sinh tội phạm đòi
hỏi phải nghiên cứu nhân thân người phạm tội. Liên quan đến vấn đề này không thể
không đồng ý với quan điểm cho rằng:"Việc phân tích các nguyên nhân và điều
kiện của THTP và của tội phạm đã chỉ ra rằng không thể nhận thức, hiểu biết được
các nguyên nhân và điều kiện đó nếu thiếu việc cân nhắc nhân thân người phạm tội,
bản chất, các đặc điểm và quá trình hình thành nó [39, tr.126]; "Nhân thân người
phạm tội là một bộ phận cấu thành tất yếu và rất quan trọng của cơ chế hành vi

phạm tội, cịn các hồn cảnh của sự hình thành các đặc điểm tâm lí - xã hội tiêu cực
của cá nhân xuất hiện trước các đặc điểm của cá nhân nằm trong mỗi quan hệ nhân
quả với THTP" [39, tr.126].
Như vậy, càng làm rõ bao nhiêu được nhân thân người phạm tội VPQĐ về
TGGTĐB thì càng hiểu rõ được bấy nhiêu nguyên nhân và điều kiện tình hình tội
tội VPQĐ về TGGTĐB. Người có khả năng phạm tội cao là nhân thân của họ có
nhiều đặc điểm xấu. Thực tiễn cho thấy rằng những người thực hiện hành vi phạm
tội VPQĐ về TGGTĐB là những người có thái độ coi thường pháp luật, tài sản, tính
mạng, sức khỏe của người khác…
1.1.3.3. Mối liên hệ giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội vi phạm
quy định về tham gia giao thông đường bộ với phịng ngừa tình hình tội này.
Mối liên hệ đó, trước hết thể hiện ở sự cần thiết phải dự báo tình hình tội
phạm thơng qua dự báo các ngun nhân và điều kiện làm phát sinh ra nó mà phịng
10


ngừa hướng vào khắc phục, hạn chế, dần xóa bỏ. Sự dự báo về tình hình tội phạm,
xét về thực chất là dự báo về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm và
khả năng phịng ngừa nó trong tương lai. Kết quả dự báo về diễn biến trong tương
lai của những hiện tượng xã hội tiêu cực cho phép xác định các hướng hạn chế,
khắc phục, dần loại bỏ những hiện tượng xã hội tiêu cực đó. Ở nghĩa này, chính
ngun nhân và điều kiện của tình hình tội phạm là một trong cơ sở của dự báo tình
hình tội phạm. Trong mối liên hệ với phịng ngừa tình hình tội phạm, dự báo tình
hình tội phạm, đến lượt mình tạo ra những điều kiện cần thiết để khắc phục, hạn
chế, ngăn ngừa sự xuất hiện của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm ra
khỏi đời sống xã hội trong tương lai.
Phịng ngừa tình hình tội VPQQĐ về TGGTĐB phải được tiến hành theo
nguyên tắc, cơ sở và cơ chế nhất định. Việc xác định các yếu tố thuộc cơ chế phòng
ngừa như nội dung phòng ngừa, chủ thể phòng ngừa, các biện pháp phòng
ngừa…phải xuất phát từ những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ

về TGGTĐB đã được nhận thức một cách thấu đáo, toàn diện, được lập luận về mặt
khoa học.
Mối liên hệ giữa nhưng bộ phận trên đây cịn gắn với phạm trù tình hình tội
VPQĐ về TGGTĐB, thể hiện ở chỗ, tình hình tội này là đối tượng phòng ngừa;
muốn phòng ngừa được phải nhận thức được nội dung phòng ngừa là khắc phục,
hạn chế, dần loại bỏ nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm ra khỏi đời
sống xã hội.
Khi nghiên cứu mối liên hệ giữa nguyên nhân và điều kiện tình tội VPQĐ về
TGGTĐB để xác định được đâu là địa bàn trọng yếu, trọng điểm, lĩnh vực nào yêu
tố nào tác động dẫn đến tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB diễn biến phức tạp….trên
cơ sở đó các chủ thể phịng ngừa đề ra giải pháp căn cơ, chủ yếu, tập trung nguồn
lực vào đâu để cho phịng ngừa tình hình tội phạm đạt hiệu quả, kiểm sốt, kìm hãm
hạn chế đến mức thấp nhất và dần loại bỏ tội phạm.
Phòng ngừa THTP là hoạt động đồng bộ của các cơ quan bảo vệ pháp luật,
các cơ quan Nhà nước và các tổ chức xã hội xử dụng các biện pháp khác nhau nhằm
11


kìm hãm, kiểm sốt, hạn chế hướng đến thủ tiêu nguyên nhân và điều kiện tình hình
tội phạm. Bản chất của phòng ngừa THTP là áp dụng các biện pháp nhằm hạn chế,
kiểm soát những yếu tố là nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm.
Từ những điều phân tích, khái qt trên đây có thể thấy, ngun nhân và điều
kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB có mối quan hệ tác động qua lại với tình
hình tội VPQĐ về TGGTĐB, với nhân thân người phạm tội VPQĐ về TGGTĐB và
với phịng ngừa tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB. Để nghiên cứu nguyên nhân và
điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB cần nghiên cứu một cách thấu đáo
tất cả những vấn đề nêu trên, đặc biệt là mối liên hệ giữa chúng với nhau.
1.1.3.4. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình
tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ.
Kết quả nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về

TGGTĐB có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn, thể hiện:
Thứ nhất, kết quả nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
VPQĐ về TGGTĐB góp phần hồn thiện “khung lý luận” của nguyên nhân và điều
kiện của tình hình tội phạm; nâng cao nhận thức đầy đủ và chuẩn xác những vấn đề
lý luận về khái niệm, bản chất, các mối liên hệ, cơ chế tác động, phân loại nguyên
nhân và điều kiện của tình hình tội phạm.
Thứ hai, kết quả nghiên cứu lý luận, nhất là phân loại nguyên nhân và điều
kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB cho phép nhận diện một cách có cơ sở
khoa học và thực tiễn thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội này trên
một địa bàn nhất định trong khoảng thời gian nhất định.
Thứ ba, kết quả nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm
đặt ra những yêu cầu đối với những vấn đề cần nghiên cứu phục vụ cho phịng ngừa
tình hình tội phạm như: nhân thân người người phạm tội, khía cạnh nạn nhân học
trong tội phạm học, dự báo tình hình tội phạm và chính bản thân phịng ngừa tình
hình tội phạm.
Như vậy, việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
VPQĐ về TGGTĐB, xét đến cùng là cơ sở để xây dựng và tổ chức thực hiện các
12


biện pháp phịng ngừa tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB một cách khoa học và hiệu
quả. Vấn đề là ở chỗ, chỉ trên cơ sở phân tích làm rõ nguyên nhân và điều kiện của
tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB mới xây dựng được hệ thống các biện pháp phòng
ngừa tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB một cách tồn diện. Phịng ngừa tình hình
tội phạm, xét đến cùng là hệ thống nhiều mức độ và các biện pháp mang tính chất
Nhà nước - xã hội nhằm khắc phục các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm hoặc
làm vô hiệu hóa (làm yếu; hạn chế) chúng và bằng cách làm giảm và dần dần loại
bỏ THTP [39, tr.154]. Phòng ngừa tình hình tội phạm là nhằm khắc phục những
yếu kém, tồn tại, hạn chế các nguyên nhân và điều kiện của tội phạm. Đó là bản
chất của phịng ngừa.

Từ trên cơ sở phân tích nguyên nhân và điều kiện để giúp cho các chủ thể
liên quan cơng tác phịng ngừa nhận thức được đâu là yếu tố chính, đâu là nguyên
nhân đâu là điều kiện tác động của tình hình tội phạm. Liên quan đến vấn đề này,
học viên chia sẻ với quan điểm cho rằng, "Ta thử giả thiết, nếu tội phạm học không
nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của THTP thì lúc này, đối tượng nghiên cứu
của tội phạm học chỉ là mức độ, cơ cấu, diễn biến của THTP, bởi tội phạm học
khơng thể có những cơ sở lý luận đề ra các biện pháp phòng chống và phòng ngừa
tội phạm [38, tr.92]. Theo suy nghĩ của chúng tơi, để có được hệ thống các biện
pháp phòng ngừa bao gồm các biện pháp phòng ngừa tội phạm và các biện pháp
đấu tranh chống tội phạm, cần thiết phải làm rõ những nguyên nhân và điều kiện
dẫn tới THTP ở nuớc ta trong những năm gần đây. Từ phân tích làm rõ đâu là
nguyên nhân cơ bản, đâu là nguyên nhân chủ yếu chủ yếu phát sinh THTP khi đó
mới có hoạch định chính sách phịng ngừa hữu hiệu, như: Hoạch định nguồn lực ở
địa bàn nào, địa phương nào; tập trung giải quyết vào những vấn đề gì…. nhằm đấu
tranh, phịng ngừa có hiệu quả với tinh hình tội phạm.
Có nhiều ngun nhân và điều kiện khác nhau làm phát sinh tội VPQĐ về
TGGTĐB, như do nạn nhân có lỗi (yếu tố nạn nhân), do tình huống tiêu cực thuận
lợi, do ảnh hưởng tiêu cực từ mơi trường sống, địa ngun nhân tình hình tội phạm,
do yếu tố thời thiết, do môi trường giáo dục, môi trường cộng đồng, yếu tố lợi ích
13


kinh tế, …. Khi các yếu tố này kết hợp với nhau trong cùng một thời điểm, tác
động qua lại lẫn nhau, khi đó phát sinh tội phạm.
Trong nhiều yếu tố làm phát sinh nguyên nhân và điều kiện tình hình tội
VPQT về TGGTĐB thì chỉ có một số yếu tố là nguyên nhân cơ bản, chủ yếu làm
phát sinh tội phạm chứ không phải yếu tố nào cũng tiềm ẩn khả năng như nhau làm
phát sinh tội phạm. Ví dụ: nguyên nhân do yếu tố tồn tại bất cập hạn chế yếu kém
trong công tác quản lý nhà nước về lĩnh vực TTATGT, như: Hạ tầng giao thông
xống cấp, đường xá bất cập, tiêu cực trong thực thi pháp luật về đảm bảo

TTATGT…; nguyên nhân do tồn tại, yếu kém của nền kinh tế - xã hội, như: nạn
thất nghiệp, đói nghèo nhiều.., yếu tố do tiêu cực của người phạm tội.
Như vậy, để có những giải pháp căn cơ giúp cho cơ quan chức năng, chính
quyền địa phương hoạch định được chính sách, tập trung nguồn lực, đề ra giải pháp
nhằm hạn chế, kiểm sốt được tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB thì phải xác định
được nguyên nhân cơ bản, nguyên nhân chủ yếu của tình hình tội VPQĐ về
TGGTĐB, khi xác định được rồi mới có những giải pháp cơ bản mới chọn được địa
bàn, chọn đối tượng phịng ngừa đúng, khơng tràng lan, dàng trãi… Ví dụ: Cơng tác
tun truyền, ngồi tun truyền rộng rãi thì cần tập trung vào đối tượng nào; tập
trung và nâng cao hiệu quả công tác TTKS xử lý VPHC về TTATGT vào hành vi
nào là nguyên nhân dẫn đến TNGT và tội VPQĐ về TGGTĐB; khẩn trương khắc
phục các điểm đen, các điểm tiềm ẩn TNGT; về kinh doanh vận tải: cần có giải
pháp nâng cao chất lượng và cơng tác quản lý hoạt động kinh doanh vận tải khoa
học và đúng quy định của pháp luật; hạ tầng giao thông đường bộ: phải đề ra
phương án, phân bổ, cân đối ngân sách để hoàn thiện kết cấu hạ tầng giao thơng
đường bộ……có như thế mới phần nào làm giảm được TNGT và cũng là giải pháp
cơ bản phòng ngừa tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB.
Nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của THTP phải gắn với địa bàn cụ thể
với tính cách là “xã hội thu nhỏ”, ở đó có các q trình kinh tế-xã hội, vắn hóa-giáo
dục, tổ chức-quản lý nhà nước…diễn ra hàng giờ, hàng ngày, hàng tháng. Việc
nghiên cứu những hiện tượng xã hội tiêu cực tại địa bàn đó có khả năng làm phát
14


sinh tội VPQĐ về TGGTĐB giúp cho địa phương có cơ sở hoạch định các chính
sách phát triển kinh tế - xã hội một cách phù hợp trong công tác phịng ngừa tội
VPQĐ về TGGTĐB, từ đó các cơ quan chức năng có cơ sở đề ra các giải pháp phù
hợp, tập trung vào đâu, lĩnh vực nào, địa bàn nào là trọng yếu, trọng điểm để có giải
pháp phịng chống tội phạm có hiệu quả, giảm thiếu các tiêu cực xã hội là nguyên
nhân làm phát sinh tình hình tội phạm.

Chính sách phát triển kinh tế-xã hội của địa phương có ảnh hưởng rất lớn đến
tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB. Nếu địa phương nào kinh tế - xã hội phát triển,
cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ đảm bảo, đời sống người dân được cải thiện,
cuộc sống khá giả, có việc làm ổn định, mức sống cao…thì có điều kiện sử dụng
các loại PTGT an tồn hơn và tất yếu người dân sẽ ý thức cao khi tham gia giao
thơng. Từ đó tình hình TNGT sẽ được đảm bảo và tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB
được kiểm sốt tốt hơn.
Vì vậy, để góp phần tích cực trong cơng tác phịng ngừa tình hình tội phạm
nói chung và tình hình tội VPQT về TGGTĐB nói riêng cần phải xác định những
tồn tại yếu kém trong phát triển kinh tế - xã hội. Tại sao làm rỏ vấn đề này, vì lĩnh
vực kinh tế - xã hội là gần như ảnh đến tất cả các yếu tố khác trong một vùng, một
địa phương, một tỉnh nói rộng ra là của một đất nước. Nó là nguyên nhân chủ yếu,
cơ bản phát phát sinh nguyên nhân điều kiện tội VPQĐ về TGGTĐB. Từ đó giúp
cho các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở địa phương hoạch định chính sách, tập
trung nguồn lực cho cơng tác phịng ngừa, giảm thiểu và kiểm sốt ngun nhân
tình hình tội phạm. Đề ra chính sách kinh tế, chính sách xã hội phù hợp, nâng cao
đời sống người dân, tạo công ăn việc làm, tạo việc làm ổn định, nâng lương cho
người lao động, tăng các phúc lợi xã hội cho người lao động, xó đói giảm nghèo,
cảm hóa người lầm lỗi, các chính sách an sinh xã hội cho những người nhóm yếu….
tạo các sân chơi văn hóa nghệ thuật lành mạnh, thể dục thể thao, các điểm sinh hoạt
cộng đồng, xây dựng các phong trào phòng chống tội phạm như: “4 phòng – 4 tự”;
tổ dân phố khơng có tội phạm, khơng tệ nạn xã hội; gia đình văn hóa, khu phố văn
hóa; diễn đàn “tuổi trẻ sống đẹp”….
15


1.2. Cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội vi
phạm quy định về tham gia giáo thống đường bộ
Các hiện tượng xã hội tiêu cực nếu đứng riêng rẽ, tự bản thân chúng không
làm phát sinh tình hình tội phạm mà phải tác động qua lại với nhau. Tại đây xuất

hiện nhu cầu nghiên cứu cơ chế tác động của chúng.
Cơ chế được hiểu là chỉnh thể, là hệ thống tổng thể cơ chế tác động tương tác
của nhiều yếu tố khác nhau. Vì vậy, nghiên cứu cơ chế tác động của nguyên nhân và
điều kiện tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB là nghiên cứu sự tác động qua lại lẫn
nhau của tất cả những hiện tượng xã hội (yếu tố) tiêu cực tạo ra “kết quả” là THTP.
Nói về tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB là nói về tình hình một tội phạm
cụ thể gồm tổng thể các trường hợp phạm tội này đã xảy ra và tất cả những người
thực hiện chúng trong một không gian, thời gian nhất định. Như vậy, để xem xét cơ
chế tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB,
cần bắt đầu từ cơ chế hành vi phạm tội vốn được biết đến là sự tác động giữa cá
nhân có đặc điểm nhân thân tiêu cực (hay là tiềm năng phạm tội hay tính động cơ
phạm tội) với tình huống phạm tội, làm phát sinh hành vi phạm tội cụ thể. Cơ chế
hành vi phạm tội VPQĐ về TGGTĐB, vì vậy bao hàm cả cơ chế bên trong lẫn cả cơ
chế bên ngồi (xã hội). Vậy thì, đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội từ
đâu mà có? Phải chăng nó mang tính bẩm sinh, di truyền? Câu trả lời là không phải
bẩm sinh, di truyền bởi đặc điểm nhân thân tiêu cực được hình thành ở cá nhân
trong q trình con người đó sống trong những mơi trường, điều kiện, hồn cảnh
khơng thuận lợi, có nhiều hiện tượng xã hội tiêu cưc…Vì vậy, theo học viên trước
khi có hành vi phạm tội VPQĐ về TGGTĐB xảy ra trên thực tế, đã có sự tác động
của những hiện tượng xã hội tiêu cực đến cá nhân con người làm hình thành ở cá
nhân đó nhân thân xấu. Tổng thể những hiện tượng xã hội tiêu cực tác động với
nhau trong một tổng thể tạo ra “sản phẩm” là tình hình tội phạm. Những lập luận
vừa được nêu ra học viên dùng để khẳng định về cơ chế tác động của nguyên nhân
và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB. Tội phạm học Việt Nam dần
thừa nhận rằng, đối với tình hình tội phạm nói chung, bao hàm trong nó các cơ chế
16


tác đơng, đó là cơ chế bên trong, cơ chế xã hội, cơ chế nhóm và cơ chế một tội cụ
thể. Trong luận văn này, học viên không đi phân tích sâu cơ chế xã hội và cơ chế

nhóm của sự tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm mà tập
trung vào cơ chế bên trong và cơ chế của tình hình tội cụ thể, nói ở đây là tình tội
VPQĐ về TGGTĐB. Tất nhiên, cũng cần lưu ý rằng, trong cơ chế tác động của
nguyên nhân và điều kiện của tình hình một tội cụ thể có cả những hiện tượng xã
hội tiêu cực chung “ở tầm xã hội” và “ở tầm lĩnh vực nhất định” gắn với những mâu
thuẫn xã hội ở tầm xã hội và ở tầm lĩnh vực cụ thể.
Cơ chế bên trong gồm các tương tác của nhiều yếu tố khác nhau gắn với cá
nhân (con người) như nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu cá nhân được thỏa
mãn, nhận thức về văn hóa, về lối sống, về xã hội, hành vi đối với xã hội của cá
nhân đó…Như vậy, cơ chế bên trong của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB nguyên
nhân và điều kiện của tình hình tội VPQĐ về TGGTĐB gắn với sự lệch lạc trong
nhận thức về nhu cầu, về định hướng giá trị, về lựa chọn phương thức đáp ứng nhu
cầu. Bên cạnh đó là khả năng của cá nhân và của xã hội trong việc làm thõa mãn
nhu cầu của họ. Vì vậy, khi đánh giá, xem xét nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội VPQĐ về TGGĐB thì phải đi từ những xuất phát đó, có thể từ mơi trường
gia đình, xã hội (yếu tố tiêu cực) nơi cá nhan đó sinh sống, các tệ nạn xã hội, kinh tế
- xã hội khó khăn phân hóa giàu nghèo... Những hiện tượng xã hội tiêu cực này tác
động với nhau hoặc tác động với những hiện tiện tiêu cực khác dần dần tạo cho cá
nhân đó những nhận thức lệch chuẩn, tiêu cực (nhân thân), khi gặp tình huống hay
hồn cảnh thuận lợi (điều kiện) thì xuất hiện tính động cơ phạm tội VPQĐ về
TGGTĐB và hành vi phạm tội cụ thể hóa hành vi phạm tội đó.
Bởi các trường hợp phạm tội cụ thể là rất đa dạng, nên khi nghiên cứu, phân
tích cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện của tội cụ thể phải nghiên cứu
nhiều dạng nguyên nhân và điều kiện tội phạm khác nhau, bởi vì nhân thân của
người phạm tội cũng có những đặc điểm khác nhau, như: các đặc điểm tâm sinh lý,
đặc điểm về kinh tế - văn hóa-xã hội, thời gian, điạ điểm... rồi nghiên cứu khía cạnh
nạn nhân trong các tình huống dẫn đến tội phạm của cá nhân thực hiện hành vi
17



phạm tội.
Các đặc điểm về thể chất của người bị hại (nạn nhân), của vật thể và các đối
tượng tác động khác, các tình huống phạm tội...cũng nằm trong cơ chế tác động của
nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội mVPQĐ về TGGTĐB. Những tình
huống phạm tội có thể do chính người phạm tội tạo ra trước đó, cũng có thể do hoạt
động các hoạt động trái đạo đức, trái pháp luật của những người khác tạo ra. Những
hạn chế, thiếu sót, vi phạm... trong các hoạt động của các cơ quan, tổ chức cũng có
thể được xếp vào tình huống phạm tội. Tình huống phạm tội cũng có thể do thiên tai
tạo ra. Trong số những tình huống phạm tội có thể kể đến thái độ thiếu thận trọng,
vơ ý, q tự tin về an tồn cá nhân và tài sản của nạn nhân; trạng thái thể lực, tâm lý
hay sự tham gia của nạn nhân vào các hoạt động bất hợp pháp...Với tính cách là tình
huống phạm tội, khía cạnh nạn nhân chỉ có trong cơ chế hành vi phạm tội của một
số tội cụ thể, trong đó có tội VPQĐ về TGGTĐB.
1.3. Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội vi phạm quy
định về tham gia giao thông đường bộ
Tội VPQĐ về TGGTĐB phát sinh bởi tổng thể các nguyên nhân và điều kiện
chứ không do một nguyên nhân và điều kiện nào đó nhất định. Bởi vậy, nhu cầu đặt
ra là phải tiến hành phân loại chúng để trên cơ sở đó xây dựng các biện pháp phịng
ngừa có hiệu quả. Về nguyên tắc, có bao nhiêu nguyên nhân và điều kiện thì có bấy
nhiêu cách phân loại và có bao nhiêu cách phân loại thì có bấy nhiệu loại và tương
ứng có bấy nhiêu biện pháp phịng ngừa. Trong tội phạm học, các nhà khoa học dựa
vào các căn cứ khác nhau đưa ra các cách phân loại khác nhau:
1.3.1. Phân loại căn cứ vào phạm vi và mức độ tác động của nguyên nhân
và điều kiện của tình hình tội phạm
Căn cứ vào phạm vi và mức độ tác động của nguyên nhân và điều kiện của
tình hình tội phạm có thể phân loại, theo mức độ nói chung, mức độ nhóm tội phạm,
tội phạm cụ thể. Cách phân loại này dựa vào mối liên hệ giữa cái chung, cái riêng,
cái đơn nhất của nguyên nhân và điều kiện của THTP . Mức độ khái quát cao nhất
là khái niệm nguyên nhân và điều kiện của THTP nói chung và cụ thể nhất là khái
18



×