Tải bản đầy đủ (.doc) (64 trang)

TUYỂN TẬP NỘI DUNG TỰ HỌC TỰ BỒI DƯỠNG GIÁO VIÊN BÀI THU HOẠCH BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN GVPT 11 – 1 ĐẾN GVPT 15 – 1 THÔNG TƯ 172019TTBGDĐT.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (462.68 KB, 64 trang )

TƯ LIỆU GIÁO DỤC HỌC.
-------------------------------

TUYỂN TẬP
NỘI DUNG TỰ HỌC TỰ BỒI DƯỠNG GIÁO VIÊN
BÀI THU HOẠCH BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN
GVPT 11 – 1 ĐẾN GVPT 15 – 1
THÔNG TƯ 17/2019/TT-BGDĐT.

Giáo dục phổ thông.


ĐẶT VẤN ĐỀ
Giáo viên là một trong những nhân tổ quan trọng
quyết định chất lượng giáo dục và đào tạo nguồn nhân
lực cho đất nước. Do vậy, Đảng, Nhà nước ta đặc biệt
quan lâm đến công tác xây dựng và phát triển đội ngũ
giáo viên. Một trong những nội dung được chú trong
trong công tác này là bồi dưỡng thường xuyên (BDTX)
chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên.
BDTX chuyên môn, nghiệp vụ cho giáo viên là một
trong những mơ hình nhằm phát triển nghề nghiệp lìên
tục cho giáo viên và được xem là mơ hình có ưu thế giúp
số đơng giáo viên được tiếp cận với các chương trình
phát triển nghề nghiệp.
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã xây dựng chương trinh
BDTX giáo viên và quy chế BDTX giáo viên theo tĩnh
thần đổi mới nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả của
công tác BDTX giáo viên trong thời gian tới. Theo đó,
các nội dung BDTX chun mơn, nghiệp vụ cho giáo



viên đã đựợc xác định, cụ thể là:
Ngày 01/11/2019, Bộ Giáo dục và Đào tạo ra Thông tư
17/2019/TT-BGDĐT về việc ban hành Chương trình bồi dưỡng
thường xuyên giáo viên cơ sở giáo dục phổ thơng.
Theo đó, ban hành Chương trình bồi dưỡng thường xuyên giáo
viên cơ sở giáo dục phổ thơng gồm 03 Chương trình bồi dưỡng:
Chương trình bồi dưỡng 01, Chương trình bồi dưỡng 02,
Chương trình bồi dưỡng 03.
Các Chương trình bồi dưỡng nói trên cụ thể là: Chương trình bồi
dưỡng cập nhật kiến thức, kỹ năng chuyên ngành đáp ứng yêu
cầu thực hiện nhiệm vụ năm học đối với các cấp học của giáo
dục phổ thơng Chương trình bồi dưỡng cập nhật kiến thức, kỹ
năng chuyên ngành thực hiện nhiệm vụ phát triển giáo dục trung
học phổ thông theo từng thời kỳ của mỗi địa phương; Chương
trình bồi dưỡng phát triển năng lực nghề nghiệp theo yêu cầu vị
trí việc làm. Mỗi Chương trình bồi dưỡng thường xun phải
bảo đảm thời lượng khoảng 01 tuần/năm học, tương đương 40
tiết/năm học. Giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông tự chọn các mô
đun cần bồi dưỡng phù hợp với nhu cầu phát triển phẩm chất,
năng lực nghề nghiệp của cá nhân trong năm.


Thơng tư có hiệu lực từ ngày 22/12/2019.

Trân trọng giới thiệu cùng quý vị thầy cô giáo, các
bậc phụ huynh và các bạn đọc cùng tham khảo tài liệu:

TUYỂN TẬP
NỘI DUNG TỰ HỌC TỰ BỒI DƯỠNG GIÁO VIÊN

BÀI THU HOẠCH BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN
GVPT 11 – 1 ĐẾN GVPT 15 – 1
THÔNG TƯ 17/2019/TT-BGDĐT
Trân trọng cảm ơn!


TÀI LIỆU GỒM
1. Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên
Module GVPT 11: Tạo dựng mối quan hệ hợp tác với
cha mẹ học sinh và các bên liên quan trong hoạt động
dạy học và giáo dục học sinh trong các cơ sở giáo dục
phổ thông.
2. Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên Module
GVPT 12: Phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã
hội để dạy học cho học sinh trong cơ sở giáo dục phổ
thông.
3. Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên Module
GVPT 13: Phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã
hội để thực hiện giáo dục đạo đức, lối sống cho học
sinh trong các cơ sở giáo dục phổ thông
4. Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên Module
GVPT 14: Nâng cao năng lực sử dụng ngoại ngữ


hoặc tiếng dân tộc đối với giáo viên trong các cơ sở
giáo dục phổ thông
5.Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên Module GVPT
15: Ứng dụng công nghệ thông tin, khai thác và sử
dụng thiết bị công nghệ trong dạy học và giáo dục
học sinh trong các giáo dục phổ thông



TUYỂN TẬP
NỘI DUNG TỰ HỌC TỰ BỒI DƯỠNG GIÁO VIÊN: BÀI
THU HOẠCH BỒI DƯỠNG THƯỜNG XUYÊN

GVPT 11 – 1 ĐẾN GVPT 15 – 1
THÔNG TƯ 17/2019/TT-BGDĐT.
1. Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên Module
GVPT 11: Tạo dựng mối quan hệ hợp tác với cha mẹ
học sinh và các bên liên quan trong hoạt động dạy học
và giáo dục học sinh trong các cơ sở giáo dục phổ
thơng
1. Lợi ích của việc xây dựng mối liên hệ giữa Phụ huynh,
Nhà trường và Cộng đồng:
- Cha mẹ thường xuyên nắm bắt được tình hình học tập, rèn
luyện ở trường, lớp của con; trên cơ sở đó hỗ trợ con em phát
huy các điểm tốt hoặc kịp thời ngăn chặn, điều chỉnh, sửa chữa
các điểm hạn chế trong học tập và rèn luyện.


- Thầy cơ giáo có thêm hiểu biết về học sinh, nhất là các em có
hồn cảnh khó khăn, từ đó có phương pháp giáo dục phù hợp,
tồn diện và có định hướng đúng để quan tâm giúp đỡ được
nhiều hơn đối với từng em trong từng hoàn cảnh khác nhau.
- Cộng đồng nhận thấy vai trò trách nhiệm của mình, tích cực hỗ
trợ tạo mơi trường thuận lợi cho nhà trường, gia đình giúp đỡ các
em học tập và rèn luyện.
2. Nội dung và phương pháp xây dựng, duy trì mối liên hệ
giữa Phụ huynh, Nhà trường, Cộng đồng:

2.1. Mối liên hệ giữa Phụ huynh và Nhà trường
2.1.1. Đối với Phụ huynh:
- Thiết lập và duy trì mối liên hệ với Giáo viên chủ nhiệm, Giáo
viên bộ môn qua gặp gỡ trực tiếp, gọi điện thoại, xem sổ liên lạc
hay các kỳ họp Phụ huynh.
- Thường xuyên nắm bắt tình hình học tập, rèn luyện của con ở
trường, lớp đồng thời cung cấp thông tin (diễn biến tâm tư, tình
cảm) của con cho Giáo viên chủ nhiệm.


- Tham gia đầy đủ các cuộc họp Phụ huynh, các hoạt động khác
theo yêu cầu của trường, lớp.
- Nắm bắt thông tin và luôn giữ liên lạc với ban Phụ huynh, cán
sự lớp và bạn bè thân thiết của con.
2.1.2. Đối với Nhà trường:
- Thông tin cho Phụ huynh biết về các hoạt động giáo dục của
Nhà trường.
- Giám sát Giáo viên, Học sinh trong việc dạy và học; cử Giáo
viên hỗ trợ học sinh có hồn cảnh khó khăn.
- Đinh hướng nội dung các kỳ họp Phụ huynh, cần có nhiều nội
dung trao đổi khác như: phương pháp giáo dục con, cách thức
giao tiếp với con...
- Huy đông cộng đồng hỗ trợ để học sinh có “3 đủ - 1 có” ( đủ
ăn, đủ mặc, đủ sách vở và có góc học tập).
- Tơ chức các buổi truyền thông đến cha mẹ học sinh về nội
dung giáo dục (có sự hỗ trợ của cộng đồng).


2.2. Mối liên hệ giữa Phụ huynh và Cộng đồng
2.2.1. Đối với Phụ huynh:

- Tạo điều kiện tốt nhất cho con được tham gia các hoạt động
cộng đồng.
- Các gia đình cùng trong địa bàn dân cư thường xuyên trao đổi,
phản ánh các thông tin về giáo dục con em thông qua các cuộc
họp, sinh hoạt CLB...
2.2.2. Đối với Cộng đồng:
- Thường xuyên cung cấp thông tin về giáo dục Học sinh cho gia
đình thơng qua họp tổ dân phố, sinh hoạt CLB, loa truyền thanh
của phường xã.
- Tổ chức các hoạt động sinh hoạt Cộng đồng phù hợp với từng
lứa tuổi.
- Nắm bắt tình hình Học sinh bỏ học, hỗ trợ gia đình giáo dục
học sinh chưa ngoan, biểu dương khen thưởng Học sinh có thành
tích trong học tâp, rèn luyện.


- Các tổ chức xã hội (Hội phụ nữ, Nông dân, Đồn TN, Hội
khuyến học…) phối hợp phân cơng giúp đỡ Học sinh khuyết tật,
hoặc có hồn cảnh khó khăn (tư vấn kiến thức nuôi dạy con, hỗ
trợ vật chất, tinh thần...).
- Thành lập và đẩy mạnh Quỹ khuyến học, Chi hội khuyến
học…
2.3 Mối liên hệ giữa Phụ huynh và Phụ huynh:
- Chia sẻ kinh nghiệm giáo dục con trực tiếp thơng qua mối liên
hệ làng xóm, sinh hoạt CLB, họp phụ huynh, gọi điện thoại...
- Nội dung trao đổi:
+ Cách mua và sử dụng sách giáo khoa và tài liệu tham khảo.
+ Chọn lớp, chọn trường, chọn nghề, chọn bạn...
+ Cách hướng dẫn con học tập hiệu quả.
+ Chăm sóc, ni dưỡng để con có sức khỏe.

+ Cách quản lý, giám sát, hỗ trợ giúp con học tập tốt.


* Kinh nghiệm cho chúng ta thấy: Để thiết lập, duy trì và tăng
cường mối liên hệ của Gia đình, Nhà trường, Cộng đồng được
tốt thì vai trị của Gia đình là vơ cùng quan trọng. Các bậc cha
mẹ cần chủ động xây dựng mối liên hệ và thường xuyên duy trì
các mối liên lạc thì việc hỗ trợ con học tập và rèn luyện mới đạt
hiệu quả.
3. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC KẾT HỢP GIỮA 3 MÔI
TRƯỜNG TRONG VIỆC GIÁO DỤC HỌC SINH
3.1. Sự phối hợp giữa các nhân tố gia đình - nhà trường - xã
hội trong việc giáo dục đạo đức học sinh:
Có 3 nhân tố chính trong việc giáo dục đạo đức học sinh đó là:
gia đình, nhà trường và xã hội. Mỗi nhân tố đều mang 1 vai trị
riêng nhất định:
+ Gia đình: là tế bào của xã hội, là nền tảng của mỗi quốc gia và
là chỗ dựa vững chắc về mặt tinh thần, đồng thời cũng là kim chỉ
nam để tránh những nhận thức lệch lạc từ phía học sinh.
+ Nhà trường: là môi trường giáo dục chuyên nghiệp, không chỉ
phát triển về kiến thức mà còn phải truyền tải cho học sinh


những giá trị chuẩn mực của xã hội để các em trở thành những
con người trí thức thật sự cố đời sống tinh thần phong phú bên
cạnh cuộc sống gia đình.
+ Xã hội: là mơi trường thực tế, giúp học sinh hoàn thiện một số
kĩ năng cuộc sống, chi phối một phần rất lớn trong suy nghĩ và
hành động của học sinh.
Vì vậy, sự phối hợp của 3 nhân tố trên là việc làm hết sức cần

thiết để nâng cao chất lượng giáo dục nhân cách ở học sinh.
Giống như chiếc kiềng 3 chân, đơn giản, vững chắc và không thể
thiếu bất kì chân nào.
* Ví dụ 1: (thiếu yếu tố gia đình) Việc chấp hành trật tự an tồn
giao thơng học đường.
Đã có sự kết hợp khá tốt giữa nhà trường và xã hội trong việc
thực hiện an toàn giao thông học đường. Học sinh được học luật
giao thông từ cấp 1 và được liên tục cập nhật, bổ sung thông tin.
Xã hội bảo vệ học sinh bằng những luật như đội mũ bảo hiểm và
không được đi xe phân khối lớn. Việc thi hành pháp luật cũng đã
được tiến hành gắt gao với sự kết hợp của nhà trường và xã hội.
Tuy nhiên, khơng ít phụ huynh vẫn cho con đến trường bằng xe


phân khối lớn, bất chấp và lách luật bằng cách gửi xe ở những
bãi xe xung quanh trường. Đây là ví dụ điển hình cho việc gia
đình khơng phối hợp với nhà trường và xã hội.
* Ví dụ 2: (nhà trường) Việc rèn luyện kĩ năng sống cho học
sinh.
Đôi khi các bậc cha mẹ rất muốn cho con mình được bồi dưỡng
thêm những khả năng giao tiếp cuộc sống để khi bước vào đời
khơng phải ngỡ ngàng, thiệt thịi. Xã hội cũng đã tạo rất nhiều
điều kiện cho các em học sinh có thể tham gia như tạo các nhà
văn hố, các tổ chức đồn đội của phường. Tuy nhiên, với lịch
học dày đặc, học ngày học đêm, học thêm chủ nhật như hiện nay
thì việc bồi dưỡng kĩ năng sống dường như là bất khả thi.
* Ví dụ 3: (xã hội) Nhu cầu của học sinh.
Trong khi gia đình và nhà trường cố gắng hướng học sinh đến
một tâm hồn trong sáng, cao đẹp, sống hết mình vì mọi người thì
xã hội vơ hình lại nhấn mạnh đến bằng cấp, địa vị, quyền lực,

tiện nghi, sự giàu có. Điều này gây ảnh hưởng rất lớn đến những
quan niệm sống của học sinh mà đơi khi cả gia đình và nhà
trường cũng không thể uốn nắn lại được.


Nói chung, bất kì sự khơng phối hợp hay phối hợp thiếu nhịp
nhàng nào giữa 3 nhân tố sẽ gây cản trở rất lớn cho quá trình
giáo dục đạo đức học sinh.
3.2. Những bất cập cần được giải quyết trong việc giáo dục
đạo đức học sinh.
Trong tình hình hiện nay, sự phối hợp giữa 3 nhân tố đã ít nhiều
vấp phải những cản trở nhất định do chính bất cập của nhân tố
đó tạo ra.
* Đối với gia đình:
+ Một số gia đình khơng hề quan tâm hoặc quan tâm HS khơng
đúng cách. Thả lỏng hồn tồn hay cách giáo dục muốn con
thành công hơn thành nhân đều dẫn đến kết quả không tốt.
+ Cách khắc phục: các bậc phụ huynh cần dành ra nhiều thời
gian hơn cho việc dạy con nên người, không nên chỉ chạy theo
các giá trị hiện thực như học vấn hay tiền bạc mà còn phải chỉ
cho con thấy những giá trị của tâm hồn.
* Đối với nhà trường:


+ Hiện nay, khi một học sinh có biểu hiện sai trái về đạo đức thì
xã hội phê phán rằng bộ mơn GDCD đã khơng hồn thành trách
nhiệm của mình. Nhưng ít ai nghĩ được rằng, vấn đề chính cần
giải quyết lại nằm trong nội dung chương trình. Cuốn sách được
xem là chuẩn mực của VN hiện nay thì lại đặt nặng, nhồi nhét
quá nhiều về những lý thuyết sáo rỗng xa rời thực tế.

Chương trình phổ thơng chỉ chú trọng đến những bài học tư
tưởng chính trị lớn lao mà lại vơ tình bỏ qn những điều rất đời
thường, biết sống và biết tôn trọng người khác những giá trị đạo
đức của một con người. Trong nhà trường môn GDCD chỉ được
coi là thứ yếu.
+ Cách khắc phục: Không có bất kì phương pháp nào hay hơn là
phải thay đổi phương pháp giáo dục của mơn GDCD. Chương
trình phải thật sự có ích cho HS, là một hành trang đầy đủ để học
sinh có thể tự tin bước vào cuộc đời. Đừng để xảy ra tình trạng
100% HS trả lời bài thi em sẽ nhặt rác lên khi thấy hay em sẽ
dẫn cụ già qua đường nhưng rác thì đầy sân trường và đâu đó lại
có chiếc áo trắng vơ tâm băng nhanh sang đường bỏ lại cụ già
chống ngợp giữa dòng xe giờ tan tầm.


* Đối với xã hội:
+ Thế hệ sau khơng có một khn mẫu đạo đức để noi theo. Làm
sao có thể áp dụng bài học an tồn giao thơng vào thực tế khi
một đứa trẻ thường xuyên thấy ba mẹ vượt đèn đỏ ? Và phải giáo
dục đạo đức cho học sinh thế nào khi có những kẻ sai phạm rành
rành nhưng vẫn thốt tội? Chính vì tiếp nhận q nhiều thông tin
tiêu cực nên học sinh sẽ bị hoang mang trong việc định hình
nhân cách, hay tệ hơn là sẽ có những định hướng lệch lạc.
+ Cách khắc phục: Muốn giáo dục một ai đó, trước tiên phải giáo
dục được chính mình. Thế hệ trước ln phải có ý thức rằng
mình là một tấm gương để thế hệ trẻ noi theo. Làm được như thế
xem như đã thành công một phần khơng nhỏ trên con đường
giáo

dục


nhân

cách

cho

HS.

Tóm lại, thế hệ trẻ là tương lai của đất nước nên giáo dục đạo
đức cho giới trẻ là cách chúng ta đào tạo ra những công dân tốt
cho tổ quốc, là cách đầu tư tốt nhất cho tương lai của một đất
nước. Giáo dục thế hệ trẻ ngay từ trong gia đình và trên ghế nhà
trường luôn là điểm khởi đầu để một xã hội chuyển mình phát
triển bền vững./.


4. Một số giải pháp nhằm làm tốt công tác giáo dục đạo đức
cho Học sinh.
4.1. Nhà trường chủ động phối hợp với gia đình và xã hội.
Gia đình, nhà trường và xã hội luôn được coi là "tam giác" giáo
dục quan trọng đối với mỗi đứa trẻ. Tầm quan trọng của mỗi lực
lượng cũng như mối quan hệ giữa ba lực lượng này trong việc
giáo dục học sinh thì ai cũng hiểu nhưng vẫn có khoảng cách lớn
giữa nói và làm. Vấn đề mấu chốt ở đây là làm như thế nào?
Trên thực tế, lâu nay, sự phối hợp giữa gia đình, nhà trường
trong việc giáo dục học sinh khơng cịn chặt chẽ như những năm
trước. Sự lỏng lẻo của mối quan hệ này bắt nguồn từ nhiều
nguyên nhân, song do cả hai phía giáo viên và cha mẹ học sinh.
Chuyện cha mẹ học sinh chỉ gặp gỡ giáo viên trong hai buổi họp

phụ huynh, thậm chí khơng trị chuyện với cô giáo của con,
không phải hiếm. Giáo viên đến thăm nhà học sinh lại càng hiếm
hơn. Điều này ảnh hưởng không nhỏ tới việc giáo dục đạo đức
cho các em. Muốn “hướng thiện” cho trẻ thì trước hết cha mẹ
phải xem con mình ra khỏi nhà có giống như ở nhà hay khơng.
Có những học sinh ở nhà rất ngoan nhưng đó chỉ là sự giả tạo để


che mắt bố mẹ, đến trường các em là con người hồn tồn khác.
Nhiều cha mẹ giật mình khi nhà trường thơng báo tình trạng của
con mình. Ngược lại, giáo viên muốn giáo dục học sinh thì phải
tìm hiểu hồn cảnh gia đình các em để chia sẻ và có biện pháp
thích hợp với từng đối tượng. Có một học sinh trộm tiền của bạn,
cô giáo điều tra ra, bắt học sinh đó phải tra lại số tiền và cơ còn
quyết tâm trừng trị đến cùng để học sinh này khơng tái phạm
nhưng cơ khơng biết rằng học sinh đó trộm tiền để cho em gái
mình đóng tiền học vì cha mẹ hai em đã mất. Để đi đến giải pháp
hiểu học sinh thì mới giáo dục được, trước hết, nhà trường cần
chủ động gặp phụ huynh bằng việc tổ chức gặp mặt tại trường
thông qua các buổi họp định kì hoặc đột xuất. Cũng có thể tổ
chức các hoạt động khác để tăng cường sự có mặt của phụ
huynh. Đối với giáo viên, cần khuyến khích, và có những quy
định ràng buộc để giáo viên phải đến gặp phụ huynh như khen
thưởng cho giáo viên giúp đỡ học sinh nghèo, giáo dục học sinh
cá biệt phải có biên bản làm việc tại nhà với phụ huynh, tổ chức
hoạt động “Một ngày xuống bản”…
Đối với những tác động tiêu cực của xã hội, ngồi những biện
pháp phối hợp với chính quyền, đoàn thể ở địa phương, nhà



trường cần tăng cường công tác giáo dục pháp luật, giáo dục kĩ
năng sống, giá trị sống cho học sinh. Tăng cường các buổi nói
chuyện chun đề về giới tính, về sức khỏe vị thành niên, về
“cạm bẫy xã hội” để học sinh có đủ kiến thức phịng tránh các tệ
nạn xã hội. Bên cạnh việc giáo dục bằng tuyên truyền, nhà
trường cũng cần tổ chức các hoạt động để hướng các em biết quý
trọng con người, có ý thức giữ gìn bản sắc văn hóa và các giá trị
truyền thống dân tộc. Phải cho các em thấy được, bản sắc văn
hóa và các giá trị truyền thống là gốc rễ của mỗi con người, đứt
gốc rễ ấy, con người không thể tồn tại. Khi các em đã ý thức
được mối hiểm họa từ những luồng văn hóa đen thì không cần
dùng biện pháp, trẻ cũng sẽ tránh được.
4.2. Gia đình, nhà trường phải ln tự kiểm điểm mình.
Là thầy cô giáo, ai cũng mong muốn giáo dục trẻ nên người, với
các biện pháp đa dạng và phong phú; song các biện pháp cần bảo
đảm tính sư phạm, khơng vi phạm nhân cách trẻ. Các thầy cô
đều trải qua lớp nghiệp vụ sư phạm, khi đã công tác đều được
trau dồi thêm kiến thức, tham gia các lớp bồi dưỡng về giải
quyết tình huống sư phạm, các biện pháp giáo dục tích cực…
Song trong q trình giáo dục, cũng có những trường hợp cá biệt


khi thầy cơ có cách giáo dục bột phát “khơng giống ai, khơng ai
dạy, khơng ai đồng tình”; họ thực hiện và thấy được hiệu quả tức
thì nên áp dụng như một kinh nghiệm. Ví dụ: phạt học sinh chép
lại 20 lần một bài sử dài 4 trang giấy; bắt học sinh đứng một
chân trong vòng tròn trong suốt một giờ học, cho cả lớp lên tát
một học sinh vì hỗn với cô… Những biện pháp như vậy chỉ làm
cho học sinh thêm tủi, thêm hận, có thể có những học sinh vì
ngoan ngỗn mà gắng chịu nhưng chắc chắn các em sẽ in hằn

dấu ấn không tốt suốt cả cuộc đời. Một vài trường hợp học sinh
phản ứng bằng cách sừng sộ khiến cô giáo phải cầu cứu bảo vệ.
Nhìn những khuyết điểm như thế, mỗi thầy cơ nên kiểm điểm lại
bản thân mình. Trẻ mắc lỗi nhưng ln sửa dễ hơn so với người
lớn vì vậy thầy cơ cần bình tĩnh để giáo dục các em đi đúng
hướng.
Về phía gia đình, cần xem xét kĩ trước khi kết luận về giáo dục,
có nhiều phụ huynh cho rằng con mình ngoan, tại biện pháp của
thầy cơ nên mới thế. Thậm chí căn cứ vào một vài sự việc để kết
luận tồn bộ hệ thống giáo dục. Có một người bà kể rằng đứa
cháu hơn 3 tuổi kêu nội làm trị, bé làm cơ giáo; cơ giáo đút cháo
cho trị ăn, trị giả đị khơng ăn, cơ giáo tát vào má, lấy muỗng


cạy miệng và đòi dắt trò vào nhà vệ sinh cho ma cắn. Câu
chuyện được kể lại cho bố mẹ cháu bé và nhanh chóng được lan
truyền ra khu dân cư rồi họ cùng nhau kết luận, “Giáo dục
hỏng”. Đây chỉ là lỗi của một bộ phận chứ không phải là bản
chất

của

ngành

giáo

dục.

Một câu chuyện khác, một bà mẹ sinh ra ba đứa con cách nhau
vài tuổi, đứa nào cũng biếng ăn. Bà mẹ phải bồng bế đi khắp

xóm để dỗ bé, nhưng khi đưa các bé vào trường học một thời
gian, thì: “Con tơi đã tự giác ăn vì khơng cơ nào có thể bồng đi
khắp nơi…”, bà khoe. Vậy lỗi khơng chăm sóc các bé đúng cách
là tại ai? Hai học sinh nam, nữ ở một trường THCS, yêu nhau và
ôm nhau trong trường, bị thầy cô nhắc nhở; sáng hơm sau, phụ
huynh lên trường làm khó thầy cơ. Vậy tại ai?
Tuy nhiên, nhà trường không thể trông chờ phụ huynh tự kiểm
điểm mình được, muốn vậy phải gặp gỡ phụ huynh để phân tích.
4.3. Thầy cơ cần phải là tấm gương cho học sinh noi theo,
phải kiên trì, nhẫn nại.
Trẻ con thường hay bắt chước và cũng luôn coi thầy cô là thần
tượng cho nên thầy cô giáo đặc biệt là thầy cô chủ nhiệm phải là


tấm gương sáng, mẫu mực từ lời ăn tiếng nói, tác phong làm việc
cho đến trình độ chun mơn; quan hệ với học trò phải như là
một người bạn lớn, vừa gần gũi, vừa đáng tin cậy; kiên trì trong
giáo dục học sinh theo kiểu mưa dầm thấm lâu; giáo dục đạo đức
phải trở thành thói quen của mình. Sau cha mẹ, thầy cô là người
gần gũi với học sinh hơn ai hết nên hiểu các em và nắm rõ hồn
cảnh để có định hướng đúng trong dạy dỗ mới là then chốt của
thành công trong giáo dục.
“Trẻ em như búp trên cành”, “con người sinh ra vốn là thiện”.
Tác động của gai đình, nhà trường, xã hội sẽ tạo nên những nhân
cách khác nhau. Ngành giáo dục chúng ta đang gánh vác vai trò
lớn mà xã hội gửi gắm đó là đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân
tài vì vậy mỗi nhà trường cần xây dựng môi trường giáo dục tốt,
cần kết hợp ba yếu tố - rộng lớn là xã hội và nhà trường, nhỏ là
gia đình và lớp học - để học sinh được học tập và rèn luyện trở
thành những cơng dân có đức, có tài.



2. Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên Module GVPT
12: Phối hợp giữa nhà trường, gia đình và xã hội để
dạy học cho học sinh trong cơ sở giáo dục phổ thông
I. THỰC TRẠNG
Hiện nay, đất nước ta đang cố gắng phấn đấu vươn lên cùng với
các nước trên thế giới. Nhiệm vụ của ngành giáo dục đóng vai
trị hết sức quan trọng là đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu xã hội.
Như vậy, để nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng
nhân tài góp phần ổn định và phát triển đất nước thì tơi thiết nghĩ
trách nhiệm này không chỉ của riêng ai mà trách nhiệm thuộc về
Đảng, Nhà nước, Nhà trường, Gia đình và toàn xã hội.
Giáo dục toàn diện cho học sinh là một nhiệm vụ đặc biệt quan
trọng của mọi nhà trường. Nhưng đạo đức, lễ giáo trong mỗi
người, đặc biệt là thế hệ học sinh người chủ tương lai của đất


nước là vơ cùng quan trọng. Bác từng nói “Có tài mà khơng có
đức là người vơ dụng”.
Tuy nhiên trong thực tế quan sát vẫn còn một số hành vi mà học
sinh chưa thể biểu hiện thật tốt về đạo đức trong văn hoá ứng xử
học đường, kỹ năng sống và trải nghiệm sáng tạo để học sinh có
thể vận dụng và ứng phó tốt với các tình huống căng thẳng xảy
ra trong thực tiễn hoạt động và cuộc sống thường ngày.
Vẫn cịn một ít học sinh trả lời với người lớn tuổi thiếu dạ, thưa;
biết cho mình, ít quan tâm đến người khác; thiếu chào hỏi người
lớn tuổi; trong xưng hơ; trong bàn ăn; trong ứng xử vẫn cịn
những thái độ và hành động thiếu đạo đức.

II. NGUYÊN NHÂN
Nhà trường có dạy lồng ghép và dạy chuyên đề về các hành vi
đạo đức của học sinh. Phê bình chỉ rõ những hành vi sai trái để
học sinh điều chỉnh. Nhưng trong thực tế còn học sinh thể hiện
thiếu đạo đức, những nguyên nhân sau đâu ảnh hưởng đến đạo
đức học sinh:


×