Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Thu tim hieu Tri thuc VN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (102.1 KB, 8 trang )

<span class='text_page_counter'>(1)</span><div class='page_container' data-page=1>

<b>Thử tìm hiểu tầng lớp trí thức Việt Nam</b>



<b>CHU HẢO</b>
<b> I. Trí thức và tầng lớp trí thức</b>


Ở nước ta hiện nay có một số khá đơng người được xã hội, hoặc tự mình, coi là trí
thức. Nhưng "thế nào là một trí thức ?" thì hình như chưa bao giờ được cắt nghĩa một
cách rõ ràng. Có thể đã có nhiều cá nhân trí thức, nhưng những con người đơn lẻ ấy đã
quy tụ lại (chủ yếu là thông qua diễn đàn, dư luận) thành một giai tầng của xã hội như
là tầng lớp trí thức chưa? Đặc điểm, tính cách của trí thức Việt Nam là gì? Vai trị và
trách nhiệm của trí thức trước vận mệnh của dân tộc ta trong thời đại mới - thời đại
kinh tế tri thức, thời đại hội nhập toàn cầu, là như thế nào?


Mỗi câu hỏi trên đây đều đặt ra một vấn đề thảo luận rất nghiêm túc và lý thú, có ý
nghĩa quan trọng đối với việc huy động sức mạnh của khối đại đoàn kết tồn dân trong
q trình đổi mới - hội nhập - phát triển. Để đi đến đồng thuận chắc cần phải có thời
gian. Ở đây chúng tơi chỉ xin đặt vấn đề và gợi mở, mong các bạn đọc cùng chia sẻ.
<b> Ai là trí thức</b>?


Đã từ lâu, ở nước ta tồn tại một khái niệm đơn giản: Những người lao động trí óc là
trí thức, chỉ cốt để phân biệt với những người lao động chân tay như công nhân và nông
dân. Một quan niệm bớt đơn giản hơn một chút thì cho rằng hễ có trình độ học vấn từ
cấp cao đẳng, đại học trở lên là trí thức. Trong tác phẩm <i>Sửa đổi lề lối làm việc</i> viết
năm 1947 Hồ Chủ tịch đã dùng định nghĩa này. Theo chỗ tôi hiểu thì Người đã cố tình
giải thích khái niệm này (cũng như một số khái niệm khác) một cách hết sức đơn giản,
dễ hiểu, thích hợp với trình độ dân trí của nước ta thời đó. Ngày nay, chúng ta không
nên quá câu nệ vào việc giữ nguyên định nghĩa này của Bác Hồ.


Thật ra ngay từ khi từ "tầng lớp trí thức" (<i>intelligentsia</i>) xuất hiện lần đầu tiên ở Nga
vào nửa đầu thế kỷ 19, và sau đó là từ "người trí thức" (<i>intellectuel</i>) xuất hiện ở Pháp
sau công xã Paris (1871), đã mang một ý nghĩa khá rõ ràng : đó là những người khơng


chỉ có học vấn hay trình độ chun mơn cao, mà hơn hết phải là những người quan tâm
và có chính kiến trước những vấn đề chính trị - xã hội nóng bỏng của thời cuộc. Cũng
trong tinh thần cách mạng ấy Karl Marx đã coi trí thức là những người có đủ tri thức để
quan tâm và có chính kiến riêng đối với các vấn đề của xã hội nên họ phải là những
người : "<i>phê bình khơng nhân nhượng những gì đang hiện hữu, khơng nhân nhượng với</i>
<i>nghĩa rằng họ khơng lùi bước trước kết luận của chính quyền hoặc trước xung đột với</i>
<i>chính quyền, bất cứ chính quyền nào</i>". Cần phải hiểu rằng ở đây Marx chỉ muốn nhấn
mạnh trách nhiệm xã hội của người trí thức. "<i>Những gì đang hiện hữu</i>" là những bất cập
của các chính sách xã hội hiện hành, chứ khơng thể là những chính sách hợp lý, tiến bộ.
Người trí thức có năng lực phê phán và có tầm nhìn xa nên thường hay tỏ sự bất bình
trước sự trì trệ và bất hợp lý một cách công khai và thẳng thắn.


Với những hiểu biết trên đây, chúng ta có thể suy ra rằng tầng lớp trí thức của xã hội
có thiên chức sau :


1. <b>Tiếp thu và truyền bá tri thức khoa học & công nghệ hoặc văn hóa &</b>
<b>nghệ thuật ;</b>


2. <b>Sáng tạo các giá trị mới của tri thức khoa học & công nghệ hoặc văn hóa</b>
<b>& nghệ thuật ;</b>


3. <b>Đề xuất, phản biện một cách độc lập các chủ trương chính sách và biện</b>
<b>pháp giải quyết các vấn đề của xã hội ;</b>


</div>
<span class='text_page_counter'>(2)</span><div class='page_container' data-page=2>

Trong đó, hai điểm đầu tiên là chung cho những người lao động trí óc. Còn hai điểm
sau chủ yếu là riêng cho tầng lớp trí thức.


Quan niệm về trí thức trên đây là phổ quát đến với các xã hội văn minh cận, hiện
đại. Riêng ở nước ta, từ khi có lịch sử thành văn cho đến Cách mạng Tháng Tám năm
1945, quan niệm này có lẽ chỉ thích hợp trong một giai đoạn phát triển ngắn ngủi, từ


đầu đến giữa thế kỷ 20, khi xuất hiện tình huống giới trí thức mới (dùng chữ quốc ngữ)
có cơ hội trở thành một tầng lớp xã hội khá độc lập với chính quyền về hoạt động nghề
nghiệp và chính kiến. Ngồi giai đoạn này, chúng tôi e rằng chưa bao giờ ở nước ta thực
sự có một tầng lớp trí thức như cách hiểu thông thường của thế giới.


Thường ở ta, trí thức được gán một cách khơng đúng cho những người gọi là "có
học", chỉ xuất hiện ở xã hội Việt Nam ở buổi đầu công nguyên từ khi nhà Hán du nhập
Nho giáo vào Việt Nam với mục đích giáo hóa và đào tạo quan lại bản xứ. Sau khi giành
được độc lập vào năm 939, các triều đại phong kiến ngày càng tôn sùng Nho giáo ; và
đến đời nhà Trần (thế kỷ 13) thì Nho giáo đã được coi là hệ tư tưởng chính thống cho
đến hết các triều Nguyễn (đầu thế kỷ 20). Suốt gần một nghìn năm ấy chỉ có một thứ
được dạy và được học (một cách có hệ thống) là Nho giáo (khác với sự chuyên biệt hạn
hẹp của Phật giáo và Đạo giáo). Các Nho sĩ sau khi đỗ đạt sẽ được bổ nhiệm làm các
quan lớn, nhỏ trong hệ thống cai trị của Nhà nước phong kiến. Các Nho sĩ thi trượt thì
trở lại làng quê vừa dạy "chữ thánh hiền" như một kế sinh nhai, vừa "dùi mài kinh sử"
đợi kỳ thi sau, đợi được đi làm quan để "cả họ được nhờ" !


Cái cơ hội "đổi đời" dường như duy nhất ấy đã tạo ra, một mặt là cái mà chúng ta
vẫn thường tự ca ngợi là truyền thống hiếu học của dân ta, mặt khác, quan trọng hơn
đã tạo nên sự lệ thuộc đến nô dịch của những người "có học" vào Nhà nước phong kiến.
Và do đó, có thể nói rằng dưới các triều đại phong kiến ở nước ta chưa bao giờ tồn tại
một tầng lớp trí thức theo cách hiểu đúng đắn của từ này. Các sĩ phu là những người
"có học" có danh tiếng của các thời đại phong kiến, do vậy hầu hết cũng chỉ là các
"quan văn" mang sứ mệnh "phị chính thống" mà thơi -- họ khơng hẳn là người trí thức,
hoặc tầng lớp trí thức, như cách hiểu thơng thường.


Đến giữa thế kỷ 19 cùng với sự suy đồi của triều Nguyễn, sự xâm lược của thực dân
Pháp và bước đầu tiếp cận với nền văn minh công nghiệp phương tây, tầng lớp Nho sĩ ở
nước ta đã phân hóa sâu sắc và xuất hiện những nhóm sĩ phu tiến bộ có đầu óc canh
tân -- tiền thân của nhóm trí thức đầu tiên của nước ta nửa đầu thế kỷ 20. Những nhân


vật điển hình có thể kể đến là Vũ Tông Phan (1800-1851, cùng với Hội Hướng thiện) ;
Nguyễn Trường Tộ (1828-1871) ; Nguyễn Lộ Trạch (1852-1895) ; Nguyễn Tư Giản
(1823-1890) ; Phạm Phú Thứ (1820- 1883) v.v... Đó chính là những sĩ phu có đầu óc
canh tân đầu tiên trong lịch sử nước ta, đặt nền móng cho cuộc vận động giải phóng
dân tộc vào cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 dù là theo đường lối bạo lực, như các phong
trào Cần Vương (Phan Đình Phùng, 1844-1895), và Đơng Du (Phan Bội Châu,
1867-1940) ; hay chủ trương tiến hành một cuộc cách mạng văn hóa - giáo dục như phong
trào Duy Tân (Phan Châu Trinh, 1872-1920), và Đông Kinh nghĩa thục (Lương Văn Can,
1854-1927).


</div>
<span class='text_page_counter'>(3)</span><div class='page_container' data-page=3>

Hoàn cảnh lịch sử đã tạo ra cho một số người điều kiện có chỗ đứng khá độc lập với
chính quyền, có thể sống bằng nghề lao động trí óc của mình chứ khơng nhất thiết phải
ra "làm quan", và tiếng nói của họ càng ngày càng có uy tín trong xã hội. Họ phần đông
là người hành nghề tự do như bác sĩ, kỹ sư, luật sư, thầy giáo, nhà báo, nhà văn, hoạ
sĩ, nhạc sĩ, và nghệ sĩ... Những phần tử ưu tú trong số đó chính là tầng lớp trí thức mới,
và nhiều người đã đóng vai trị nịng cốt trong các tổ chức văn hóa hoạt động cơng
khai. Đó là các hội, chẳng hạn Trí Tri, Khai trí Tiến đức, Truyền bá Quốc ngữ và Tự lực
Văn đồn v.v... Là các báo hoặc tạp chí, chẳng hạn Đông Dương, Nam Phong, Tiếng
Dân, Tri Tân, Thanh Nghị, Khoa học v.v... Tình trạng này đã tiếp diễn cho đến năm
1945 khi Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã quy tụ được tầng
lớp trí thức ấy tham gia vào chính quyền cách mạng non trẻ của mình. Những nhân vật
tiêu biểu như Huỳnh Thúc Kháng, Nguyễn Văn Tố, Phạm Khắc H, Vũ Đình Hịe...
(xuất thân từ các sĩ phu Nho học); Tạ Quang Bửu, Trần Đăng Khoa, Tôn Thất Tùng,
Trần Đại Nghĩa, Nguyễn Xiển, Hồ Đắc Di, Nguyễn Văn Huyên.... (xuất thân từ tầng lớp
trí thức "Tây học") đã và sẽ ln là tấm guơng mẫu mực về phẩm tính cao quý của
người tri thức.


Tiếc rằng từ đầu những năm 50 của đầu thế kỷ trước, ngay khi còn trong thời kỳ
kháng chiến chống Pháp, tầng lớp trí thức của chúng ta với những nhân cách văn hoá
đẹp đẽ ấy, lại rơi vào một thời kỳ phát triển đặc biệt mà chắc còn cần phải tốn nhiều


thời gian và công sức để nghiên cứu một cách nghiêm túc sự tồn tại và vai trò của họ
trong xã hội. Thời kỳ phát triển đặc biệt này có thể phân kỳ thành ba giai đoạn
1945-1950 là thời kỳ cách mạng và kháng chiến nhưng hết sức "lãng mạn" của tầng lớp trí
thức yêu nước, 1950-1965 là thời kỳ du nhập một cách hoàn chỉnh ý thức hệ đấu tranh
giai cấp và phương pháp tư tưởng Maoist vào Việt Nam, qua các phong trào chính huấn
tư tưởng, cải cách ruộng đất, chỉnh đốn tổ chức, phê phán Nhân văn Giai phẩm và
chống "xét lại"; 1965-1975 là thời chiến mọi nhu cầu tinh thần và các giá trị văn hóa
đều hướng vào mục tiêu giải phóng Miền Nam và thống nhất đất nước ; 1976-1986 là
thời kỳ quan liêu bao cấp, đặc biệt là về mặt tư tưởng ; 1986 cho đến nay là thời kỳ đổi
mới và hội nhập quốc tế. Mỗi giai đoạn trên đây đều có hồn cảnh chính trị kinh tế
-xã hội khá đặc biệt đối với sinh hoạt tinh thần - tư tưởng của tầng lớp có học.


Sau giai đoạn giao thời 1945-1950, có lẽ tầng lớp trí thức trước cách mạng đã không
tồn tại nữa. Từ năm 1950 trở đi tầng lớp có học ngày càng đơng ; các cá nhân trí thức
thì lúc nào cũng tồn tại, có lúc hết sức hiếm hoi như giai đoạn 1950-1965 ; nhưng tầng
lớp trí thức thì khơng tồn tại, ít nhất là cho đến trước đổi mới (1986). Từ năm 1986 đến
nay tầng lớp có học có bằng cấp cao ngày càng đơng nhưng phẩm tính trí thức thì chỉ
thấy ở những cá nhân lẻ tẻ. Những cá nhân này ngày càng đơng cùng với q trình mở
rộng dân chủ trong sinh hoạt xã hội, nhưng điều kiện để cho họ tự liên kết lại thành
một tầng lớp có vị trí xác định trong xã hội dân sự thì chưa đủ.


Cần phải có những nghiên cứu nghiêm chỉnh về tầng lớp "có học" từ sau Cách mạng
tháng Tám cho đến nay để có được bức tranh hồn chỉnh về trí thức Việt Nam từ khi có
độc lập dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Muốn vậy ngoài việc
thống kê đầy đủ sự biến động về số lượng và tính chất hoạt động của những người có
học vấn nói chung, cần phải nghiên cứu hồ sơ của những trí thức tiêu biểu qua từng
thời kỳ. Hồ sơ của những người như : Nguyễn Văn Tố, Nguyễn Văn Huyên, Tạ Quang
Bửu, Trần Đại Nghĩa, Hồ Đắc Di, Nguyễn Đình Thi... cũng như của Phan Khơi, Trần Đức
Thảo, Trương Tửu, Nguyễn Mạnh Tường... sẽ nói lên được rất nhiều điều đáng quan
tâm.



</div>
<span class='text_page_counter'>(4)</span><div class='page_container' data-page=4>

<b> II. Phẩm tính "trí thức" Việt Nam</b>


Đã là trí thức thì ở nước nào cũng vậy, thời đại nào cũng vậy, đều có tính cách chung
là : Tôn thờ lý tưởng Chân - Thiện - Mỹ ; Độc lập tư duy ; Hoài nghi lành mạnh ; và Tự
do sáng tạo. Tuy nhiên, mỗi dân tộc đều có tính cách riêng, tầng lớp trí thức của mỗi
dân tộc cũng có bản sắc riêng. Chúng ta thường nghe nói : trí thức Trung Hoa thâm
thúy (thâm nho), trí thức Nhật khiêm tốn (đến khách khí), trí thức Nga sâu sắc đơn
hậu, trí thức Mỹ thực dụng, trí thức Anh lạnh lùng tỉnh táo, trí thức Pháp hào hoa phong
nhã, v.v... Vậy trí thức Việt Nam có đặc điểm gì ? Chúng ta đã từng nghe nói đến tính
cách "phị chính thống" ; và tính cách "quan văn", tựu chung lại là tính "thích được
chính quyền sử dụng". Có nhiều người nói là tính cách "tuỳ thời", nghe có vẻ dễ chịu
hơn chữ "cơ hội" hay là "hèn" mà một số bạn đồng nghiệp của chúng ta khơng ngại
ngần khẳng định. Ngun cớ gì mà phải "hèn" ? Đã "hèn" làm sao có nhân cách ? Thiếu
nhân cách liệu có xứng đáng là trí thức ? Nhiều ý kiến cho rằng bi kịch của giới "trí
thức" Việt Nam chính là ở chỗ này !


Nhưng như vậy có lẽ chưa được cơng bằng cho lắm ! Bởi lẽ, cịn có một thực tế khác
nữa cần phải xem xét. Đó là tính cách uyển chuyển, kết hợp "hành" và "tàng" của sĩ
phu - trí thức nước nhà. Điều kiện cho phép thì bung ra hoạt động ; lúc khó khăn thì
tạm ẩn dật chờ thời, có khi "tàng" ngay trong lịng cường quyền với tâm trạng "cấp lưu,
dũng thối" (trước dịng nước xiết, can đảm thoái lui). Thế nhưng ranh giới giữa thái độ
đúng đắn này với cái sự hèn thật là mong manh ; chỉ "tự mình, mình biết cho mình" chứ
khó lịng mà phán xét từ phía ngồi. Vậy thực sự trí thức Việt Nam có phẩm tính gì ?
Phẩm tính cao quý nhất của người trí thức là Tơn thờ lý tưởng Chân - Thiện - Mỹ,
khơng bị gị bó bởi ý thức hệ, dũng cảm đấu tranh cho lẽ phải, không khuất phục trước
uy quyền và khơng bị tha hóa bởi danh lợi. Nếu trong một xã hội có nhiều người có học
vấn cao đồng thời có những phẩm tính như vậy lại liên kết được với nhau (chủ yếu bằng
diễn đàn và giao lưu tư tưởng chứ khơng phải bằng các hội đồn) thành một tầng lớp,
thì đấy là một xã hội dân sự lành mạnh, có nhiều tiềm năng phát triển.



Tạm gác sang một bên khái niệm "tầng lớp trí thức" như cần được làm rõ ở mục I.,
chúng ta hãy xem xét tầng lớp những người "có học" trong giai đoạn hiện nay phù hợp
với đối tượng điều chỉnh của NQTW7 khóa 10, mà từ những năm 60 thế kỷ trước được
Đảng và Nhà nước coi là "tầng lớp trí thức xã hội chủ nghĩa". Trước Cách mạng tháng
Tám, tầng lớp "có học", như được xã hội đương thời cơng nhận, có thể bao gồm những
người có học vấn từ trung học, thậm chí tiểu học, trở lên. Ngày nay, những người có
bằng cấp từ đại học, cao đẳng trở lên, được coi là tầng lớp "trí thức". Con số này vào
khoảng 2,6 triệu. Trong đó có bằng Tiến sĩ khoảng 16 nghìn, Thạc sĩ 20 nghìn, Giáo sư
khoảng 1, 2 nghìn và Phó Giáo sư khoảng 7 nghìn. Lực lượng này nằm đơng nhất là
trong các cơ quan quản lý của Đảng và Nhà nước, sau đó là ở các trường học, bệnh
viện, các lực lượng quân đội an ninh, và doanh nghiệp. Lực lượng này cũng được tập
hợp trong một số Hội hoặc Liên hiệp hội như : Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật
Việt Nam, Liên hiệp các Hội Văn hóa và Nghệ thuật Việt Nam, Hội Nhà báo Việt Nam...
<b> Những nét đặc trưng của "tầng lớp trí thức XHCN" này là gì?</b>


Ngồi những đặc tính được Đảng và Nhà nước và phần nào là xã hội thừa nhận là ưu
điểm, là tích cực như: Yêu Tổ quốc và chủ nghĩa xã hội ; Trung thành với Đảng và Nhân
dân; Cần cù, thông minh, sáng tạo ; Khơng ngại khó khăn gian khổ... thì những tiêu
cực không thể phủ nhận được là hết sức điển hình. Đó là:


</div>
<span class='text_page_counter'>(5)</span><div class='page_container' data-page=5>

3. Ưa thành tích và chấp nhận sự giả dối một cách dễ dàng.
4. Thiếu tinh thần hợp tác và ít lịng vị tha.


Tất cả những mặt tiêu cực điển hình của tầng lớp có học nói trên đều xuất phát từ
một nguyên nhân chính là sự mất dân chủ trong sinh hoạt tư tưởng, trước hết trong nội
bộ Đảng, rồi từ đó trong tồn xã hội. Sự mất dân chủ này đã bắt đầu từ đầu những
năm 50 của thế kỷ trước, sau chiến dịch Biên giới, khi ý thức hệ đấu tranh giai cấp và
phương pháp tư tưởng Mao Trạch Đông, tràn vào Việt Nam theo con đường chính thống,
được một bộ phận chủ chốt của Đảng tiếp thu và áp dụng một cách rốt ráo cho đến tận


trước Đại hội VI.


Những năm đầu của thời kỳ đổi mới, phát huy dân chủ và tự do tư tưởng đã được
Đảng đề xướng (qua chủ trương "cởi trói" của Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh) và được
tồn dân hân hoan đón nhận, nhất là tầng lớp "có học", đặc biệt là giới văn nghệ sĩ
"được cởi trói". Nhưng tiếc rằng chỉ ít năm sau đó khơng khí dân chủ trong sinh hoạt tư
tưởng dần dần bị loãng hẳn đi cho đến trước Đại hội 10. Khi Đảng chủ trương lấy ý kiến
của quần chúng đóng góp cho văn kiện Đại hội 10, bầu khơng khí dân chủ lại đuợc thổi
vào một luồng sinh khí mới từ nhân dân. Tiếc rằng ngay sau Đại hội 10 cho đến nay,
càng ngày càng có những biểu hiện đáng lo ngại về thực chất của nền dân chủ của
chúng ta. Điều này được thể hiện khá rõ trong việc quản lý các hoạt động báo chí và
xuất bản gần đây.


Báo chí và xuất bản là mặt tiền, là thước đo của mỗi nền dân chủ. Chúng ta muốn
xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ và văn minh thì trước hết phải xây dựng được
một nền báo chí và xuất bản dân chủ và cơng bằng. Sách và báo chí cịn là vật mang,
là phương tiện trường tồn của các nền văn hóa. Chúng ta muốn có một nền văn hóa
tiên tiến, thấm đượm bản sắc dân tộc thì một lần nữa, trước hết phải xây dựng được
một nền báo chí và xuất bản tiên tiến và nhân bản. Những nhiệm vụ nặng nề ấy không
phải của riêng ai mà của tất cả: Nhà nước, cộng đồng người viết và cộng đồng người
đọc.


<b> III. Quan điểm, định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng tầng lớp trí</b>
<b>thức ở Việt Nam</b>


<b> 1. Các bài học lịch sử</b>


Khẩu hiệu "<i><b>Trí, phú, địa hào đào tận gốc, trốc tận rễ</b></i>", nghe nói có từ thời Xơ
Viết Nghệ Tĩnh, nhưng hình như khơng có văn bản nào chứng tỏ đó là chủ trương chính
thức của Đảng Cộng sản. Tuy nhiên sau Cách mạng tháng Tám, nhất là sau Đại hội lần


thứ 2, nói chung khẩu hiệu này đã được thực hiện ở các mức độ khác nhau, trừ một số
trường hợp được chính phủ Cụ Hồ trọng dụng, nâng đỡ ngay từ đầu hoặc có hồn cảnh
đặc biệt mà cách mạng khơng thể bỏ qua. Cùng với thắng lợi của cuộc cách mạng dân
tộc dân chủ nhân dân chúng ta đã trả giá đến tận ngày nay cho thái độ kỳ thị của cách
mạng đối với các tầng lớp trí thức, cơng thương gia và địa chủ.


</div>
<span class='text_page_counter'>(6)</span><div class='page_container' data-page=6>

kỳ Xô Viết cũ. Họ chỉ ra rằng nhà nước Xô Viết cũ đã thực hiện chính sách "cào bằng giá
trị" và "đồng nhất xã hội" để khơng cịn tồn tại tầng lớp tinh hoa - tầng lớp trí thức
khơng đáng tin cậy dưới con mắt của tầng lớp lãnh đạo. Một số nhỏ cá nhân trí thức
tiêu biểu đã chỉ được sử dụng như những bông hoa làm cảnh cho chế độ mà thôi !
Tình trạng này khơng khác mấy so với các biến cố đã xảy ra ở Trung Quốc đối với
tầng lớp trí thức, nhất là trong cuộc cách mạng văn hóa hồi những năm 60 và cuộc vận
động dân chủ hồi cuối những năm 80. Tầng lớp trí thức ở các nước xã hội chủ nghĩa cũ
ở Đông Âu cũng như vậy, cũng hầu như tan rã sau những biến cố thăng trầm.


Câu hỏi được đặt ra là: Vì sao tất cả các nước theo xã hội chủ nghĩa dưới sự lãnh đạo
của các Đảng Cộng sản đều có một kết cục như nhau đối với tầng lớp trí thức như vậy ?
Câu trả lời có thể là : Vì trong tất cả các nước ấy đã khơng thực sự có tự do ngơn luận
và tự do tư tưởng. Tình trạng đó đã bắt đầu từ khi Lenin áp dụng nguyên tắc Tập trung
Dân chủ trong Đảng Cộng sản Nga trước và sau Cách mạng tháng 10 và trở thành
truyền thống của các Đảng Cộng sản. Thay vì Dân chủ Tập trung, tức là trước hết phải
thực hành Dân chủ, tôn trọng các ý kiến khác nhau kể cả khi tuân theo nguyên tắc :
thiểu số phục tùng đa số, cấp dưói phục tùng cấp trên v.v... các Đảng Cộng sản đã áp
dụng nguyên tắc Tập trung là chủ yếu, Dân chủ chỉ là thêm vào. Sau khi nắm chính
quyền, nguyên tắc Tập trung Dân chủ sai lầm này lại được áp dụng trong tồn bộ máy
Nhà nước và các đồn thể chính trị - xã hội.


Cơ chế mất dân chủ này đã xiết chặt cái "vịng kim cơ" mất lập trường giai cấp và
chệch hướng XHCN lên toàn bộ sinh hoạt tinh thần - tư tưởng trong nội bộ Đảng và
toàn xã hội ở tất cả các nước đã áp dụng mơ hình chủ nghĩa theo kiểu Xơ Viết.



Cơ chế mất dân chủ với cái "vịng kim cơ" ấy đã kìm hãm sự phát triển của đất nước
ta đặc biệt từ khi giải phóng miền Nam : Đất nước đã thống nhất, nhưng lòng dân vẫn
chưa quy tụ về một mối, khối đại đoàn kết dân tộc không được như chúng ta mong
muốn, nhiều khi khơng có sự đồng thuận xã hội trong những vấn đề quan trọng của đất
nước.


<b> 2. Quan điểm và định hướng</b>


Trong quan điểm và định hướng nhất thiết chúng ta phải khẳng định rằng : Cần phải
tạo điều kiện thuận lợi cho tầng lớp trí thức thực thụ được hình thành và phát triển như
Nghị quyết của Trung ương Đảng về Xây dựng đội ngũ trí thức đã nêu rõ. Muốn vậy,
điều cốt lõi là phải thực hành nghiêm chỉnh chế độ dân chủ trong sinh hoạt tư tưởng.
Phát huy dân chủ phải được đặt trên nền tảng mục đích chung của dân tộc là xây
dựng một quốc gia "Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh".
Mục đích chung ấy là quyền lợi của dân tộc, phải được đặt lên trên hết, trên mọi chủ
thuyết, mọi ý thức hệ và mọi lợi ích của các nhóm xã hội khác nhau.


Dân chủ không phải là sản phẩm chỉ của phương Tây (dù là Hy Lạp cổ đại hay Tây
Âu và Bắc Mỹ hiện đại) mà là sản phẩm của cả nhân loại, trong đó có phương Đơng.
Phật giáo hết sức đề cao Đối thoại và Khoan dung, là cốt lõi sâu xa của Dân chủ. Dân
chủ là một chế độ, trong đó mọi cơng dân thực có quyền được nhận xét, phê phán và
chất vấn trực tiếp các cấp lãnh đạo (ở nước ta là của Đảng và của Nhà nước). Đúng như
lời của Nelson Mandela nói : "<i>Bất cứ ai muốn phát biểu có thể được nói. Đó là Dân chủ</i>
<i>trong hình thức thuần t nhất. Có thể khơng tránh khỏi tình trạng dẳng cấp giữa vị trí</i>
<i>quan trọng của người này với người kia, nhưng dù là lãnh tụ hay dân thường, tướng tá</i>
<i>hay thày thuốc, buôn bán hay nông dân, đại chủ hay tá điền, người nào cũng được</i>
<i>nói... chính đó là nền tảng của Dân chủ : Tất cả mọi người đều được tự do phát biểu ý</i>
<i>kiến của mình và tất cả đều bình đẳng như là cơng dân</i>".



</div>
<span class='text_page_counter'>(7)</span><div class='page_container' data-page=7>

đã nói : "<i>Về cơng thức Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ, chúng ta</i>
<i>cũng đã từng đưa ra từ rất lâu, ngày nay cũng vẫn được nhắc lại như cũ. Nếu không</i>
<i>làm rõ nội hàm của những mối quan hệ đó thì vẫn lâm vào tình trạng nói một đằng làm</i>
<i>một nẻo. Chúng ta tiếp tục lúng túng và khó tránh khỏi sẽ lại phạm vào những sai lầm</i>
<i>trong việc đảm bảo quyền làm chủ thực sự của nhân dân, trong khi thường xun nói</i>
<i>đến cơng thức kể trên như một cách để nói, chứ khơng phải nói để làm, nói vậy mà</i>
<i>khơng phải vậy. Thực chất nội dung của cơng thức đó chính là đảm bảo quyền Dân chủ</i>
<i>trong Đảng, xây dựng được Nhà nước pháp quyền vững mạnh, phát huy quyền tự do</i>
<i>Dân chủ của công dân đã được quy định trong Hiến pháp của Nhà nước CHXHCN Việt</i>
<i>Nam</i>".


Rút kinh nghiệm từ những bài học lịch sử, căn cứ vào những quan điểm và định
hướng kể trên, để nâng cao chất lượng thực hành Dân chủ đối với đội ngũ trí thức (hay
là “có học” như nói ở trên) cần thiết phải có các giải pháp sau đây :


2.1. Trước hết phải thực hành Dân chủ ở trong nội bộ Đảng.


Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, trên thực tế Đảng lãnh đạo và chi phối
toàn bộ hoạt động của xã hội. Nếu trong Đảng mà khơng thực sự có Dân chủ thì ngồi
xã hội khơng thể có Dân chủ.


Trước hết trong Đảng phải thực sự tôn trọng nguyên tắc Dân chủ Tập trung chứ
không phải Tập trung Dân chủ. Đại hội đại biểu của Đảng là cơ quan quyền lực cao
nhất, sau đó đến Ban chấp hành Trung ương, rồi mới tới Bộ Chính trị. Nguyên tắc này
lâu nay bị vi phạm, thường là Bộ Chính trị có quyền hạn tuyệt đối khơng những trong
nội bộ Đảng, mà còn đối với mọi vấn đề quan trọng nhất của Nhà nước mà lẽ ra phải là
trách nhiệm của Quốc hội.


Trong nội bộ Đảng, mọi Đảng viên nên đều phải được phát biểu và bảo vệ chính kiến
của mình song song với ngun tắc thiểu số phục tùng đa số, cần phải tôn trọng và tạo


mọi điều kiện để ý kiến của thiểu số được thảo luận một cách cơng khai và bình đẳng.
Cơ chế dân chủ trực tiếp cần phải được phát huy tối đa trong các cuộc bầu cử vào
các cơ quan lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Việc bổ nhiệm đảng viên vào các vị trí
lãnh đạo trong hệ thống Nhà nước phải được tiến hành một cách dân chủ hơn. Không
áp đặt tiêu chuẩn cấp uỷ Đảng vào tiêu chuẩn lãnh đạo các cấp nhà nước. Một vị trí
lãnh đạo nhà nước có thể tiến cử hai Đảng viên có ý kiến khác nhau về chủ trương về
cách thực hiện để Quốc hội hoặc Hội đồng Nhà nước lựa chọn, v.v....


Chỉ trong những điều kiện tối thiểu như trên thì tầng lớp trí thực thực thụ của nước
ta mới có thể tự hình thành và phát triển một cách lành mạnh được.


2.2. Phải từng bước xây dựng một xã hội dân sự lành mạnh.


Trong điều kiện chế độ chính trị có một Đảng lãnh đạo, những khiếm khuyết do chế
độ toàn trị gây ra có thể được khắc phục, điều chỉnh một cách hữu hiệu bằng xã hội dân
sự. Xã hội dân sự lành mạnh là đối trọng, chứ không phải là đối lập với Nhà nước. Sự
đồng thuận xã hội được giải quyết chủ yếu thông qua xã hội dân sự.


Trước mắt phải xây dựng được một Luật về Hội. Các hội nghề nghiệp và quần chúng
là thành phần quan trọng nhất của xã hội dân sự. Quyền tự do thành lập Hội được ghi
trong Hiến pháp phải được thể hiện đầy đủ trong Luật về Hội.


Chỉ trong một xã hôi dân sự lành mạnh như vậy tầng lớp trí thức mới phát huy được
phẩm tính trí thức của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.


</div>
<span class='text_page_counter'>(8)</span><div class='page_container' data-page=8>

Tự do ngơn luận là quyền được bình đẳng phát biểu cơng khai ý kiến của mỗi cơng
dân. Đó là cốt lõi của Dân chủ, khơng có tự do ngơn luận thì khơng thể dân chủ.


Báo chí và xuất bản sách là cơng cụ chủ yếu để thực hiện tự do ngôn luận. Luật về
Báo chí và Xuất bản cần được cải thiện hơn nữa, hướng tới chấp nhận nền báo chí và


xuất bản tư nhân và mỗi cá nhân tự chịu trách nhiệm về các ấn phẩm của mình.


Khơng có tự do ngơn luận thì những người “có học” chỉ có thể là những người là
những người lao động trí óc (thậm chí rất giỏi ) nhưng khơng thể trở thành một tầng lớp
trí thức mà các xã hội văn minh coi là tinh hoa.
<i>Hà Nội, tháng 6.2010</i>
<b>Tài liệu tham khảo</b>


1. Hồ Chí Minh, Sửa đổi lề lối làm việc, 1947.


2. N.M Voskpesenskaia và N.B Davletshina, Chế độ Dân chủ - Nhà nước và xã hội(Phạm Nguyên
Trường dịch), NXB Tri thức, Hà Nội 2009.


3. Nhiều tác giả (Nga), Về Trí thức Nga, (La Thành và Phạm Nguyên Trường dịch), NXB Tri thức,
Hà Nội 2009.


4. Việt Phương, Dân chủ, Tài liệu tham khảo cá nhân, Hà Nội, 9 - 2008.


5. Trần Hữu Dũng, Dân chủ và phát triển, Thời đại mới, Số 10 tháng 3 năm 2007.


6. Võ Văn Kiệt, Đóng góp ý kiến vào báo cáo tổng kết lý luận và thực tiễn hai mươi năm đổi mới,
2006


Nguồn: ĐHNT


<b>---GS.TS CHU HẢO</b>


- Sinh năm 1940 tại tỉnh Bắc Giang.



- Trở về Việt Nam sau 5 năm học phổ thông ở trường Dục Tài, Quế Lâm, Trung Quốc, ông học tiếp lớp
10 trường Chu Văn An


- Năm 1960 ông sang Liên Xô, học trường Đại học Bách khoa Kiev. Ông tốt nghiệp năm 1965 rồi ở lại
trường làm tiếp Phó tiến sĩ. Ơng có một thời gian làm việc tại Viện Nghiên cứu năng lượng nguyên tử
Nga


- Khi về nước ông là một trong những cán bộ đầu tiên xây dựng Viện Vật lý Việt Nam, tiền thân của
Viện Khoa học Việt Nam


- Năm 1976-1979, ông giảng dạy tại trường Đại học Bách khoa Hà Nội


- Năm 1979, ông sang Pháp tu nghiệp và được Pháp đề nghị ở lại làm luận án tiến sĩ quốc gia Pháp và
ơng ở lại đến năm 1985. Ơng được phong Giáo sư năm 1983.


- Năm 1985, ông về nước tham gia xây dựng Viện Vật lý kỹ thuật tại Đại học Bách khoa Hà Nội.
- Năm 1985, Viện nghiên cứu công nghệ quốc gia được thành lập và ông là Viện trưởng.


- Năm 1989, Viện chuyển về Bộ khoa học công nghệ trở thành Viện nghiên cứu ứng dụng cơng nghệ
và ơng là Viện phó.


- Năm 1995, ơng làm Chánh văn phịng Chương trình quốc gia phát triển CNTT


- Đầu năm 1996, ông được bổ nhiệm Thứ trưởng Bộ Khoa học công nghệ; giám đốc dự án Khu cơng
nghệ cao Láng - Hịa Lạc


- Năm 2005, ông xin nghỉ hưu trước thời hạn.


- Từ đó đến nay, ông là giám đốc NXB Tri thức, với hy vọng mang lại cho người Việt một tủ sách tri
thức của tinh hoa thế giới. “Đó là một cơng trình văn hóa, 35 tỉ là 2 km đường hoặc 1 mố cầu thôi. Tại


sao không thể?”.


- Từ năm 1996 đến nay, ông là chủ tịch Hội hữu nghị Việt Pháp. Năm 2005, ông được trao tặng Huân
chương Quốc công của Pháp - là huân chương quốc gia của Pháp nhờ công nỗ lực ủng hộ việc phát
triển quan hệ hợp tác Pháp-Việt không chỉ trong lĩnh vực khoa học công nghệ.


</div>

<!--links-->

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×